Chúng tôibàng hoàng và xúc động nhận được tin một bậc Tiền bối
vừa bỏ chúng tôi ở lại với thế giới Ta-bà này.
Kính phục một học giảuyên bác, tiếc thương một chúng sinh tràn
đầy từ bi, chúng tôi những chúng sinh còn vướng mắc trong thế
giới này
xin chân thànhchắp tayhồi hướng công đức nhỏ nhoi mà chúng tôi
nghĩ rằng đã gom góp được để đưa tiễn một vị Thầy vừa bước lênbờ bên kia của Giác ngộ.
Hoang Phong Nguyễn Đức Tiến, Tâm Diệu và Ban Biên Tập Thư Viện Hoa Sen
Cư sĩ Sunanda Phạm Kim Khánh (1921-2011)
Chúng tôi nhận được tin Bác Phạm Kim Khánh vừa từ trần vào ngày 27 tháng 2, 2011, tại thành phố Seattle, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ, hưởng thọ 91 tuổi. Xin chép lại đây bản tiểu sử của Bác. Nguyện cầu Bác đạt đượcđạo quảgiác ngộgiải thoát.
*
Cư sĩ Sunanda Phạm Kim Khánh sanh ngày 10 tháng 1 năm 1921 tại Bến Tre, trong một gia đìnhvọng tộclâu đời ở Bà Rịa. Ông Nội là Hương cả, văn hay chữ đẹp. Thân phụ ông là Đốc phủ sứ Phạm Kim Chi, thân mẫu là cụ bà Lâm Thị Tỵ. Cư sĩ Phạm Kim Khánh là người con thứ 7 trong gia đình có 5 trai 3 gái. Cư sĩmồ côi mẹ khi ông mới được 4 tuổi. Ở tuổi 45 đầy quyền
thế nhưng không tục huyền, cụ ông dành trọn thì giờrảnh rang lo giáo huấn con cái rất nghiêm, và tham gia các công việc bảo tồnvăn hóahọc thuật nước nhà. Khi tùng sự tại Hà Tịnh, cụ ông có duyên được người cháu
ba đời của văn hào Nguyễn Du là tiến sĩ Nguyễn Mai tặng cho bản sao quyển Kim Túy Tình Từ. Cụ dày côngnghiên cứu, phiên chú và xuất bản năm
1917 (về sau, được Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa tái bản năm 1972
tại Sài Gòn).
Cư sĩ Phạm Kim Khánh từng học qua các trường tiểu học ở Mỏ Cày, trung học Chasseloup Laubat ở Sài Gòn, và trường Providence ở Huế, tới cấp bậc
Tú tài. Ông tinh thông không những Pháp vănmà cả Anh văn và có nhiều hiểu biết về những danh từ Pàli. Cái học của ông là cái học của hàng học
giả, tự nghiên cứu, tìm tòi, bồi đấp lấy, thâm hậu và vững vàng. Mặc dù
chịu nhiều ảnh hưởngThiên chúa giáo, ông cũng biết đến đạo Phật qua tạp chí Niết Bàn của hội Thông Thiên Học và tạp chí Từ Bi Âm của hội Nam
Kỳ Nghiên CứuPhật Học, do cụ thân sinh mua dài hạn cho đọc.
Vào thời thanh niên, trong những năm 1948-1955, ông làm Trưởng phòng Phim-ảnh (ciné-photo) tại Cao Ủy Phủ Xứ Cam Bốt (Haut Commissariat du Cambodge). Nhờ thế ông có nhiều dịp -- gần như hằng đêm -- cho chuyên viên đem xe phát điện và chiếu bóng đến các sân chùa, chiếu phim cho công chúng xem. Ông từng gặp và có cảm tình với chư TăngNam tông vì các
ngài hiền lành; nhưng vì còn có nhiều định kiến về tinh thầnphục vụxã
hội nên lúc ban đầu, ông không thích Phật giáo. Ông thường thắc mắc tại
sao các vị sư không sản xuất mà lại đi khất thực, chỉ có tiêu thụ mà không thấy sản xuất, đóng góp cho xã hội.
Về sau, ông mới biết rằng Phật giáo gồm bốn hạng gọi là tứ chúng. Hàng xuất gia gồm tỳ khưu và tỳ khưu ni, và hàng cư sĩ là thiện nam và tín nữ. Hàng cư sĩ có phận sự cung cấp phần vật chất cho hàng xuất gia. Ngược lại, hàng xuất giacung cấp về phần tinh thần đến hàng tại giacư sĩ. Ông chưa có duyên đi vào đạo mặc dầu nhạc phụ (Đốc phủ sứ Lê Thành Long, từng là phó Hội trưởng Hội Thông Thiên Học) từng giảng đạo Phật cho ông nghe, như về Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, v.v. Ông chỉ vâng vâng dạ dạ cho vui lòng nhạc phụ, chứ không chú ý lắm.
Năm 1959, cư sĩ được nhạc phụ cho biết thị xã Bà Rịa sẽ có tổ chức tiếp đónĐại đức Nàrada Mahà Thera từ Tích Lan sang hoằng pháp. Sau đó, cả gia đình bên vợ đều quy y với Ngài Nàrada, ngoại trừ cư sĩ. Tuy nhiên, về sau, khi nghe trọn 12 thời pháp tại chùa Kỳ Viên, Quận 3, Sài Gòn, ông hiểu được và thấm thía, nên tháng 9 năm đó, cư sĩ Phạm Kim Khánh xin
quy y Tam Bảo và được Ngài Nàrada ban pháp danh là Sunanda (Thiện Duyên).
Từ khi quy y Tam Bảo, cư sĩ dành trọn thì giờhọc hỏigiáo lý, có khi bỏ
cả giờ ăn trưa, nghĩ trưa, để đến chùa Kỳ Viêntham vấn Ngài Nàrada. Khoảng đời bận rộn nhất là những năm dài làm chủ biên cùng lúc cho chín tờ đặc san tại Sài Gòn, như Thế GiớiTự Do, Hương Quê, v.v. nhưng ông vẫn nỗ lựckiên trìsáng tác và dịch thuật nhiều tác phẩmPhật giáonổi tiếng.
Nổi tiếng nhất có lẽ là quyển "Đức Phật và Phật Pháp" (The Buddha and His Teachings, nguyên tác Anh ngữ của Ngài Nàrada), được xuất bản tại Sài Gòn bằng hai thứ tiếng Anh và Việt. Bản Việt ngữ do cư sĩ Phạm Kim Khánh chuyển dịch, với 4.000 quyển đầu tiên được in ra vào năm 1970, và sau đó một năm, được tái bản thêm 4.000 quyển. Từ đó đến nay, quyển này đã được in lại rất nhiều lần, trong nước cũng như tại hải ngoại, và được
xem như là một trong những tài liệucăn bản quan trọng trong các khóa Phật học. Năm 1998, cư sĩ đã hiệu đính lại bản dịch đó, dựa theo ấn bản Anh ngữ cuối cùng của Đại đức Nàrada, trước khi Ngài viên tịch.
Cư sĩ Phạm Kim Khánh là người có công lớn trong ban xây dựng và quản trị
Thích Ca Phật Đài ở Vũng Tàu với nhiệm vụ Tổng Thơ Ký Ban Quản Trị. Ông
cũng là Tổng Thơ Ký Tổng Hội Phật Giáo Nguyên ThủyViệt Namcho đến năm
1975.
Từ khi sang định cư tại Hoa Kỳ, ông tiếp tục các công tác hoằng pháp, đóng góp nhiều Phật sự. Ông là một trong 12 vị cư sĩ đầu tiên đứng ra thành lập chùa Cổ Lâm tại Seattle, Hoa Kỳ. Đặc biệt nhất, ông thành lậpTrung Tâm Nàrada vào tháng 9 năm 1987, để ấn tống và phát hành băng và sách Phật giáo. Trung tâmhoạt độngđều đặn, tháng trước cuộn băng, tháng sau quyển sách, cho đến tháng 9 năm 1997 thì ngưng vì bà phối ngẫu, cộng tác viên trung thành của ông, trở bệnh nặng.
Tuy tuổi đời chồng chất, trông ông không hề mỏi mệt với sở nguyệnhộ trì
và hoằng dương chánh pháp. Tánh hài hước u mặc nhạy bén vẫn cứ như xưa.
Mỗi tháng ông tổ chức họp mặt các đạo hữu để cùng nhau hành thiền, trao
đổikinh nghiệm, học hỏigiáo pháp. Mỗi ngày, ngoài giờ hành thiền, ông
vẫn đều đặn dịch thuật và trước tác. Ông có nguyện vọng thực hiện một cuốn sách với nhiều hình ảnh về Phật Giáo Miến Điện, tương tự như cuốn Hành Hương Xứ Phật.
Được hỏi về tương lai Phật Giáo cho người Việt Nam hải ngoại, ông mong mỏi được thấy hai phần -- vật chất như chùa chiền, và tinh thần như giáo
pháp -- phải được quân bình. Giới trẻ chịu ảnh hưởng tân học hầu như thích nghe giáo pháp, muốn biết Đức Phật là ai và Đức Phật dạy những gì,
hơn là chỉ tụng kinhtu phước như những người có tuổi. Phật Pháp rất thích hợp với khoa học nên ông mong rằng người Phật tử cần được nghe giáo pháp nhiều hơn nữa. Ở các nước Tây Phương, phần lớn người theo Phật
giáo là hạng trí thức; họ tìm hiểu và chỉ chấp nhận khi đã hiểu. Trong Phật giáo không có đức tinmù quáng. Người Phật tử không bị bắt buộc phải tin điều gì nếu mình không hiểu như thế.
Sau đây là những gì ông đã thực hiện được:
A. Sáng Tác
1. Đóng góp phần lớn hình ảnh cho hai quyển: a) Indochine Profonde -- Illustrations photographiques. J.P. Dannaud, do Cao ủy Phủ Đông Dương xuất bản năm 1954; và b) Cambodge. J.P. Dannaud, Société Asiatique d'Éditions, Saigon, 1959.
2. Phật Giáo, Một Sự NghiệpTinh Thần Của Người Việt Nam. Phỏng viết theo một thời Pháp của Ngài Nàrada, 1961
3. Tứ Diệu Đế. Phỏng viết theo những thời Pháp của Ngài Nàrada, 1964.
4. Thánh TíchThích Ca Phật Đài. 1972
5. Ba Pháp Tu Học Của Người Cư Sĩ. 1987
6. Lịch SửTruyền BáPhật Giáo Nguyên Thủy Tại Việt Nam (viết chung với Bác Sĩ Nguyễn Tối Thiện). 1990
7. Nàrada Mahà Thera. 1992
8. Tam Quy Ngũ Giới. 1992
9. Con Đường Cũ Xa Xưa. 1993
10. Ba Đặc Tướng Của Đời Sống (viết trong thập niên 1990)
11. Ngụ Ngôn Và Tích Chuyện Trong Phật Giáo. 1996
12. Hành Hương Xứ Phật. 1997
13. Nhiều bài nghị luận đăng trong Tạp chí Đường Sáng, Chùa Cổ Lâm, Hoa Kỳ, và những bài viết ngắn rải rác đó đây.
B. Dịch Thuật
1. Hạnh PhúcGia Đình. Tác giả: Nàrada Mahà Thera. In lần thứ nhất tại Việt Nam, 1962. Tái bản nhiều lần tại Việt Nam, Pháp và Hoa kỳ.
2. Sống Trong Hiện Tại. Tác giả: Ananda Pereira. 1963. In lần thứ nhất tại Việt Nam và tái bản tại Hoa Kỳ.
3. Phần Giản Dị Trong Phật Giáo. Tác giả: Kassapa Thera. 1964. Tái bản tại Hoa Kỳ (1992).
4. Lý Nhân Quả. Tác giả: Nàrada Mahà Thera. 1965.
5. Thoát Đến Thực Tế. Tác giả: Ananda Pereira. 1967. Tái bản tại Hoa Kỳ (1991).
6. Suy Niệm Về Hiện Tượng Chết. Tác giả: V.F. Gunaratna. In tại Việt Nam (trong thập niên 1960). Tái bản tại Hoa Kỳ (1997).
7. Nhẹ Gánh Lo Âu. Tác giả: Sri Dhammananda. 1968. Tái bản nhiều lần tại Hoa Kỳ.
8. Phật GiáoVấn Đáp. Tác giả: Francis Story. 1969.
9. Đức Phật Và Phật Pháp. Tác giả: Nàrada Mahà Thera. In tại Việt Nam, 1970. Tái bản nhiều lần tại Việt Nam, Pháp, và Hoa Kỳ.
10. Kinh Pháp Cú. Tác giả: Nàrada Mahà Thera. 1971. Tái bản tại Hoa Kỳ.
11. Vòng Luân Hồi. Tác giả: Tỳ Khưu Khantipalo, 1971. Tái bản tại Hoa Kỳ (1994).
12. Thập Nhị Nhân Duyên. Tác giả: Piyadassi Mahà Thera. 1972.
13. Một Buổi Thuyết Trình Về Tứ Diệu Đế. Tác Giả: V.F. Gunaratna. 1973
14. Thực Hành Thiền Định. Tác giả: Phra Acharn Plien Panyapatipo. 1991
15. Giác Minh. Tác giả: Ngài Acharn Chah. 1992.
16. Hương Vị Giải Thoát. Tác giả: Ngài Acharn Chah (dịch trong đầu thập niên 1990).
17. Tự Quán Chiếu. Tác giả: Tan Achahn Kor Khao Suan Luan. 1992
18. Tiếng Vọng Từ Chân Tâm. Tác giả: Acharn Mahà Boowa.1992
19. Bài Học Nhân Một Đám Táng. Tác giả: Phra Acharn Mahà Boowa. 1994
Gần đây trên các báo chí Hoa Kỳ và trên cộng đồng mạng có đề cập đến nhiều về từ ngữ WOKE và có nhiều độc giả hỏi về ý nghĩa của từ này. Chúng tôi cũng không biết rõ về ý nghĩa và xuất xứ của từ này, nên có cuộc trò chuyện với AI (trí thông minh nhân tạo) như sau:
Theo Biên niên sử Urangkhathat (Phrathat Phanom), bảo tháp cất giữ 9 xá lợi xương bàn chân của Đức Phật. Khách du lịch đã tụ tập trên lối đi dạo ven sông ở Nong Khai để xem bảo tháp trong khi những người khác đi thuyền để quan sát cận cảnh. Mực nước sông rút dần cho thấy cấu trúc cổ xưa đang bị xói mòn do dòng chảy của sông Mekong, đang bào mòn lớp đá bên ngoài của tháp.
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai. Không phải đức Phật bằng xương bằng thịt đã đến hai lục địa đó lúc Ngài còn tại thế. Nhưng đó là một câu chuyện vô cùng thú vị về một hiện tượng lịch sử đã được sử sách nói đến cách nay cả ngàn năm.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.