KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 1)
Pháp Sư Tịnh Không
Mười năm về trước, ở các quốc gia trên toàn thế giới, chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
Lần này chúng tôi quyết định giảng
lại do gần đây mở quyển kinh này ra, có rất nhiều khai thị mới lạ. Đại đức xưa
thường nói: “cảnh giới tu tập mỗi năm không như nhau”, chúng tôi nghĩ phải đem
những chỗ ngộ mới nêu ra để cùng chia sẻ với các đồng tu.
Khởi giảng lần này, chúng tôi đặt trọng tâm ở “hành” và “chứng” dành cho phần
lớn các đồng tu đã trải qua thời gian tu tập lâu dài, đều là lão tu, đều biết
nhiều bộ kinh, và đều có “giáo, lý, hành, quả” mà nhà Phật gọi là “Giáo Kinh,
Lý Kinh, Hành Kinh, Quả Kinh”. Văn tự của bộ kinh thuộc về “Giáo”. Lý luận đạo
lý trong văn tự đã miêu thuật gọi là “Lý”. Nội dung dạy chúng ta làm thế nào để
tu học, làm thế nào đem kinh luận thực tiễn áp dụng trong đời sống gọi là
“Hành”. Hành giả tu hành đạt cảnh giới, đem cảnh giới của chính mình đối chiếu
lại với kinh, ấn chứng xem những gì kinh điển dạy có giống với cuộc sống thường
ngày hay không, từ cách nghĩ, cách nhìn đối với vũ trụ nhân sinh cho đến rất
nhiều cách thức ứng xử với người, với vật, với việc, đó gọi là “Chứng”.
Trong kinh có “giáo, lý, hành, quả”, chúng ta học tập có “tín, giải, hành,
chứng”. Năm xưa khi giới thiệu bộ kinh này, mục tiêu của chúng tôi nghiêng nặng
về “tín, giải”, hy vọng các vị đồng tu sau khi nghe có thể sinh khởi tín tâm,
lý giải nghĩa thú. Còn lần này chúng tôi đặt trọng tâm vào “hành, chứng”. Làm
thế nào để áp dụng mỗi chữ mỗi câu trong kinh vào ngay trong đời sống, công
việc thường ngày, trong qua lại đối nhân xử thế, tiếp xúc mọi vật, học tập, như
vậy sẽ rất có ý nghĩa, rất có lợi ích. Cho nên lần này giảng nói có vài điểm
không giống trước.
Đối với “giáo, lý”, chúng ta có thể tỉnh lược mà chuyên sâu nghiên cứu “hành
pháp”. Chúng tôi đã giảng bộ kinh này trên phương diện giáo lý rất nhiều lần,
có thu âm, ghi hình và phát hành rộng rãi. Lần này, chúng tôi sẽ tỉnh lược phần
huyền nghĩa mà trực tiếp đi vào kinh văn, khởi giảng từ kinh văn. Tuy nhiên khi
giảng kinh văn, chúng tôi không thể tỉnh lược đề mục, vẫn phải xem qua đề mục
trước của quyển kinh.
Bổn hội tập của lão cư sĩ Hạ là tổng hợp của bổn dịch đời Tống và bổn dịch đời
Hán, sự hội tập này rất hoàn mỹ, hàm nhiếp đầy đủ viên mãn ý nghĩa của mười hai
loại bản dịch kinh Vô Lượng Thọ. Không chỉ riêng mười hai loại bản dịch của
kinh Vô Lượng Thọ, mà tất cả pháp Thế Tôn nói trong bốn mươi chín năm đều không
rời khỏi đề kinh này. Đề kinh không khác gì cương lĩnh, đều bao hàm trong cương
lĩnh. Thế Tôn nói pháp cũng vậy, mười phương ba đời tất cả Chư Phật Như Lai vì
tất cả chúng sanh nói vô lượng vô biên pháp môn cũng không rời khỏi đề kinh
này. Cho nên đề kinh thực chất là tổng cương lĩnh của Phật pháp đại viên mãn.
Chúng ta từ đề kinh xây dựng tín tâm mà thể hội “tín, giải, hành, chứng” viên
mãn.
ĐỀ KINH “PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG
GIÁC KINH”
Vì để dễ dàng giới thiệu, chúng tôi phân thành tám đoạn nhỏ.
Thứ nhất là chữ “Phật”
Chữ “Phật” là dịch âm từ tiếng Phạn Ấn Độ. Phật giáo truyền đến Trung Quốc vào
triều nhà Hán. Thông qua đãi ngộ của quốc gia, cuộc phiên dịch với quy mô lớn
được tiến hành một cách gian nan và tâm huyết. Tuy nhiên văn tự Trung Quốc thời
đó có thể nói không nhiều, nhiều ý nghĩa trong kinh điển mà văn tự Trung Quốc
không đủ để diễn đạt. Thế là bất đắc dĩ các vị tiền nhân phải tạo chữ. Vì để
phiên dịch kinh Phật nên đã tạo ra rất nhiều chữ mới, chữ “Phật” cũng vì đó mà
ra đời.
Phật là người, cho nên bên cạnh chữ này thêm vào một nhân đứng, âm là Phật, đó
là văn tự mới tạo. Chữ Phật thực tế là lược xưng của chữ “Phật Đà Da”. Người
Trung Quốc thích đơn giản nên tỉnh lược âm đuôi, chỉ gọi riêng một chữ “Phật”,
ý nghĩa là giác ngộ bao hàm “tự giác”, “giác tha”, và “giác hạnh viên mãn”.
Hành giả học Phật phải học giác ngộ, giác mà không mê liền thành Phật. Bản thân
tôi hai mươi sáu tuổi bắt đầu học Phật, tiếp xúc Phật pháp đến nay hơn bảy mươi
tuổi. Không thể nói hoàn toàn không giác ngộ, mà là chút ít, hay nói cách khác,
đối với thế gian cùng xuất thế gian pháp không quá mê hoặc. Không mê chính là
không bị xoay chuyển. Người thông thường, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu
trần sẽ khởi tâm động niệm, sinh tham sân si mạn, xem thấy đẹp, dễ nhìn, thích
nghe, thích nhìn, đó chính là mê. Người giác ngộ đẹp xấu đều như nhau, tâm
thanh tịnh là bình đẳng, vì sao đều như nhau? “Phàm hễ có tướng, đều là hư
vọng”, đẹp mắt là hư vọng, không đẹp mắt vẫn là hư vọng, cho nên bình đẳng, tâm
sẽ không bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, đó chính là giác ngộ.
Người học Phật mỗi giờ mỗi phút phải phản tỉnh, kiểm điểm chính mình chân thật
có giác ngộ hay không? giác ngộ đến mức độ nào? Nếu nghe người khác tán thán
thì sanh tâm hoan hỉ, nghe người khác hủy báng trong lòng liền khó chịu, như
vậy vẫn là phàm phu, vẫn phải sinh tử luân hồi trong sáu cõi. Công phu chính ở
tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, không luận thế pháp hay Phật pháp đều rõ ràng
tường tận, thông suốt thấu đáo, như như bất động, vậy mới gọi là học
Phật.
Vào cửa Phật, bài khóa đầu tiên chính là tiếp xúc “Tam quy y”, được giảng giải
rõ ràng tường tận, nhưng rốt cuộc chúng ta có quy hay không? Quy là quay đầu,
chúng ta có quay đầu hay không? có nương tựa hay không? Nếu quy y trên hình
thức, làm một nghi thức nhưng thực tế không quay đầu, không nương tựa, quy y
như vậy là giả, “hữu danh vô thực”. Quy y Phật là giác không mê, quy y pháp là
chánh không tà, quy y tăng là tịnh không nhiễm, ba điều này chúng ta đã làm
được hay chưa? “Tam tự quy y” luôn được viết trên đề kinh, thế mới thấy được sự
viên mãn của đề kinh. Sau khi tự giác mới có thể giác tha.
Giác tha thực tế tương đối không dễ dàng, nhưng vì sao phải “giác tha”? Một số
vị đồng tu quan niệm mình chăm chỉ tu hành nhưng không đi giác tha, giáo hóa
chúng sanh, độ người, họ đợi khi thành Phật rồi mới độ. Nếu có ý niệm này chắc
chắn sẽ không thể thành Phật, vì sao? Tự giác phá phiền não chướng, giác tha
phá sở tri chướng. Phá phiền não chướng thành được chánh giác, cảnh giới đó là
địa vị của A La Hán, Bích Chi Phật, trong Viên Giáo gọi là Bồ Tát Thất Tín vị,
Viên Giáo là Thất Tín trở xuống, trong Biệt Giáo gọi là Bồ Tát Tam Hiền, chưa
đăng địa. Nếu không phát tâm giúp đỡ người khác sẽ không thể phá được sở tri
chướng. Cho nên nếu muốn thành Phật nhất định phải phát tâm tự độ độ người,
toàn tâm toàn lực giúp đỡ người khác học Phật, biết được bao nhiêu thì giúp
người khác bấy nhiêu, nhất định không bỏn pháp, công đức lợi ích này liền được
thù thắng, liền phá hai chướng. Sau khi đã phá hai chướng trở thành bồ tát, là
Pháp Thân Đại Sĩ mà kinh Hoa Nghiêm đã nói, thì hành giả không những siêu việt
sáu cõi mà siêu việt cả mười pháp giới, chứng được Pháp Giới Nhất Chân. Hay nói
cách khác là trải qua đời sống của Pháp Thân Đại Sĩ Pháp Giới Nhất Chân.
Tuy nhiên như thế vẫn chưa đạt đến cảnh giới tối thượng, chúng ta vẫn phải
không ngừng “tự độ độ người”, cần phải phá hết vô minh chính là vọng tưởng.
Đoạn được trong sạch vắng lặng, chúng ta liền giác mãn, thành tựu Phật quả cứu
cánh viên mãn, “Phật” đây chính là chỉ đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca Mâu
Ni đích thực đã chứng được quả Phật cứu cánh viên mãn. Kinh này do ngài nói,
chỉ có quả Phật cứu cánh viên mãn mới có năng lực tuyên dương đại pháp cứu cánh
viên mãn, chúng ta đọc bộ kinh có thể lý giải sâu sắc điều đó.
Không những Thích Ca Mâu Ni Phật mà mười phương ba đời tất cả Chư Phật Như Lai
không vị Phật nào không tán thán Tịnh Độ. Cho nên chữ “Phật thuyết” của kinh Vô
Lượng Thọ và chữ “Phật thuyết” trong các kinh khác không giống nhau. Trong các
kinh khác, “Phật thuyết” chính là Thích Ca Mâu Ni Phật nói, còn “Phật thuyết”
trong kinh này là tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai thảy đều nói, cảnh
giới không thể nghĩ bàn. Cho nên ý nghĩa chữ “Phật” ở đây đặc biệt vô cùng sâu
rộng.
Thứ hai là chữ “thuyết”
Thuyết chính là thuyết pháp. Thời xưa “thuyết” và chữ “duyệt” của “hỉ duyệt” là
một. Trong Luận Ngữ học, khi vừa mở đầu “học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt
hồ”, chữ “duyệt” này thực tế là “thuyết”, ý nghĩa là duyệt của hỉ duyệt. Nói
cách khác, người ưa thích thì ngài mới nói, không thích thì không nói. Phật lấy
độ chúng sanh làm bản nguyện, xem thấy chúng sanh căn cơ chín muồi có thể tiếp
nhận pháp môn, ngài hoan hỉ không gì bằng.
Chúng ta bình lặng suy nghĩ thì có thể lý giải, đức Phật muốn giúp đỡ tất cả
chúng sanh đều có thể cứu cánh viên mãn Phật. Trên thực tế tất cả chúng sanh
vốn dĩ thành Phật, ý nghĩa trong hai chữ “thành Phật” này, chúng ta phải tường
tận, phải thông suốt. Cái gì gọi là “thành Phật”? “Thành Phật” có gì tốt? Thành
Phật hay không thành Phật không như nhau sao? Xin thưa, không thành Phật và
thành Phật khác biệt nhau rất lớn. Không thành Phật, chúng ta có phiền não,
vọng tưởng, tai nạn, khổ, trên kinh Phật thường nói “sinh, lão, bệnh, tử khổ”,
ba khổ tám khổ không cách gì rời khỏi. Sau khi học Phật rồi, chính là sau khi
thành Phật, cái khổ này vĩnh viễn thoát ly, hết thảy khổ thế xuất thế gian đều
xả bỏ, đây là ưu điểm của việc học Phật.
Ngoài ra một ưu điểm nữa, khi chưa thành Phật, vũ trụ nhân sinh đối với chúng
ta là một mảng mù tịt, không biết được gì, đó là khổ. Sau khi thành Phật, tận
hư không khắp pháp giới, kết quả hiện tại vị lai, quá khứ khôn cùng vị lai vô
tận, không thứ nào không tường tận, không có thứ nào không thông suốt. Cái
thông suốt đó không phải do tưởng tượng, suy đoán. Thế gian hiện tại của chúng
ta mấy năm gần đây rất nhiều tai nạn trong ngoài nước, nhiều sách dự ngôn cũng
báo trước điều này. Chúng tôi đi dạo nhà sách thấy mười mấy loại sách nước
ngoài dự đoán tương lai có những tai nạn gì. Những dự đoán này chưa chắc đúng
bởi vì dự ngôn của họ đều từ số học mà suy đoán ra nên có thể tính sai. Trong
khi đó Phật nói rất chuẩn xác vì ngài đã mắt thấy tai nghe.
Phật ra đời vào ba nghìn năm trước, đã biết rõ như lòng bàn tay, giảng rõ ràng
tường tận. Kinh Lăng Nghiêm nói tình hình xã hội hiện tại của chúng ta rất tỉ
mỉ. Thời kỳ mạt pháp chính là thời đại này, sau hai ngàn năm trăm năm sau, thời
đại này “đấu tranh kiên cố”, quốc gia đấu tranh quốc gia, các đoàn thể trong
cùng xã hội đấu tranh, cá nhân đấu tranh cá nhân, vợ chồng cãi cọ bất hòa,
không thể tránh khỏi đấu tranh, vậy đấu tranh ngày nay có gì lạ? Nếu không có
đấu tranh, hóa ra lời Phật nói là sai? Xã hội này đi đâu cũng gặp hiện tượng
đấu tranh, chẳng phải đức Phật đã thấy rõ ràng tường tận như vậy rồi nói lại
với chúng ta.
Hiện tại xã hội này “tà sư nói pháp như cát sông Hằng”, tà sư là người thế nào?
Đó là ma tử ma tôn chuyên phá hoại chánh pháp. Loại người này rất nhiều, Phật
dùng “cát sông Hằng” để thí dụ, ý nói tà sư thuyết pháp đầy rẫy. Chúng ta tiếp
xúc chánh pháp, chân thật như kinh đã nói, vô lượng kiếp đến nay nhân duyên
phước đức thiện căn chín muồi mới có thể gặp được chánh pháp, có thể tinh tấn
không thoái chuyển, ngay trong đời này nhất định thành tựu. Thế nhưng người gặp
được chánh pháp trong chúng ta thoái tâm khá nhiều, vì sao? Thiện căn, phước
đức, nhân duyên không đầy đủ. Chỉ cần thiếu một trong ba điều kiện, họ liền
thoái tâm. Muốn giữ đạo nghiệp không thoái chuyển thì phải đặc biệt đề cao cảnh
giác, dù thiện căn phước đức hơi kém, vẫn không phải lo vì còn nhân duyên thù
thắng.
Đại sư Thiện Đạo trong Tứ Thiệp Sớ, tức chú giải của kinh Quán Vô Lượng Thọ,
được lưu thông rộng rãi, chương Thượng phẩm thượng sanh ngài giảng rất hay,
rằng người niệm Phật vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, bốn cõi ba bậc chín
phẩm đều gặp duyên không như nhau. Câu nói này chúng ta quyết không nên khinh
xuất xem lướt qua. Duyên vô cùng quan trọng, không ai giống ai, nếu duyên của
chúng ta thù thắng, người có thiện căn phước đức đều có thể đạt đến thượng phẩm
thượng sanh. Các đại đức xưa, phần lớn cho rằng thượng thượng phẩm vãng sanh
đại khái đều là Bồ tát Thượng tam phẩm. Trung phẩm vãng sanh phải là A La Hán,
Bích Chi Phật. Phàm phu vãng sanh chỉ ở hạ phẩm. Tuy nhiên ngài Thiện Đạo lại
không nói như vậy. Thiện Đạo nói, cùng với đại tiểu thánh, đại thánh chính là
Bồ Tát, tiểu thánh chính là Thanh Văn, Duyên Giác, đều do duyên không như nhau,
phàm phu chúng ta cũng có thể vãng sanh thượng thượng phẩm, vậy cái gì gọi là
duyên? Đó là đọc kinh, niệm Phật mỗi ngày không gián đoạn.
Vào đầu năm dân quốc, Trung quốc có một đạo tràng niệm Phật Linh Nham Sơn ở Tô
Châu của Ấn tổ. Đạo tràng này là Phật thất suốt năm, mỗi ngày đều trì Phật
thất, một năm ba trăm sáu mươi ngày không gián đoạn. Đây gọi là duyên. Một
người bước vào niệm Phật đường niệm Phật một năm ba trăm sáu mươi ngày không
gián đoạn, lòng chỉ nghĩ đến Phật, miệng niệm danh hiệu Phật, thử hỏi sao không
thành Phật được? Tuy nhiên, giả sử có người nào đó niệm năm bảy danh hiệu Phật,
lại rời khỏi niệm Phật đường, đến nơi khác, chuyển đổi, thoái tâm, nghe người
này, người nọ liền thay đổi chủ ý, đấy chẳng phải là duyên không đồng nhau hay
sao?
Tham thiền học giáo cũng không ngoại lệ, pháp sư nghiên giáo, duyên đó cũng rất
thù thắng. Chúng tôi đã nghĩ trong nhiều năm, đến hiện tại vẫn chưa thể thành
sự thật. Vì vậy chúng tôi luôn mong có chí đồng đạo họp cùng hướng đến toàn thế
giới tuyên dương Phật pháp Đại thừa, thành lập đoàn hoằng pháp. Pháp sư giảng
kinh đều tham gia tổ chức này. Mỗi ngày nghiên cứu thảo luận, mỗi tối giảng
kinh ở giảng tự, miệt mài một bộ kinh không xả bỏ, từng thiên từng thiên lặp
lại giảng giải, không ngừng thâm nhập thì có lý nào lại không thành công? Từ
trong giải môn được định, định khai trí tuệ. Thời xưa đại sư Thanh Lương ở Ngũ
Đài Sơn chuyên giảng kinh Hoa Nghiêm, cả đời ngài đã giảng qua năm mươi bộ,
người sau xem truyện ký vô cùng tâm đắc. Thử nghĩ xem, nếu chúng ta muốn học
kinh Hoa Nghiêm, đến dưới tòa của ngài Thanh Lương để nghe đủ năm mươi bộ thì
làm sao không thành tựu.
Thế Tôn năm xưa đã nói “nhị thời giảng kinh”, Phật giảng kinh hai thời, hai
thời là hai thời của Ấn Độ xưa. Ngày đêm của Ấn Độ là sáu thời: ngày ba thời,
đêm ba thời. Ban ngày gồm Sơ nhật phân, Trung nhật phân, Hậu nhật phân. Ban đêm
gồm Sơ dạ phân, Trung dạ phân, Hậu dạ phân. Vậy một thời là bốn giờ đồng hồ
hiện tại của chúng ta, hai thời là tám giờ đồng hồ. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng
tám giờ đồng hồ mỗi ngày, trong lòng không hề vọng tưởng. Không còn vọng tưởng
là duyên thù thắng. Cư Sĩ Lâm mỗi buổi tối giảng hai giờ đồng hồ, hai giờ đồng
hồ tâm địa thanh tịnh nghe kinh nghe pháp, vẫn còn đến hai mươi hai giờ khởi
vọng tưởng. Duyên như vậy vẫn chưa thù thắng.
Vì sao ngày nay chúng ta tu hành mà không thể thành tựu? Vì sao tâm chúng ta dễ
dàng bị dao động? Đạo lý chính ở chỗ này. Khoảng ba mươi năm trước, chúng tôi ở
Đài Trung thân cận với lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam. Lúc đó thư viện Từ Quang thành
lập một giảng tòa Phật học Đại Chuyên, cư sĩ Thái Dinh Hoa của Malaysia là học
sinh tốp đầu tiên. Giảng tòa Phật học Đại Chuyên khóa thứ nhất chỉ có bốn học
sinh, cho nên chúng tôi rất quen thuộc với họ. Thế gian vô thường, cư sĩ Thái
Dinh Hoa vừa qua đời cách đây một hai năm. Chúng tôi từng thấy ông học ở
trường, học Phật, tốt nghiệp, đến lúc ông về hưu, và lúc ông qua đời, vô thường
đây đều đáng để chúng ta cảnh tỉnh. Phật giáo dạy chúng ta phải thành tựu quả
Phật cứu cánh viên mãn, không dạy chúng ta làm A La Hán cũng không dạy chúng ta
làm Bồ Tát. Căn tánh như vậy đi đâu mà tìm được. Thực tế căn tánh như vậy không
phải không có, mà duyên không có. Rất nhiều năm, chúng tôi luôn hy vọng có được
một thôn Di Đà, là cái duyên để chúng ta cùng tu, mỗi ngày niệm Phật, niệm
không gián đoạn. Lão pháp sư Đế Nhàn cũng dạy cho người thợ vá nồi phương pháp
đó, niệm mệt có thể nghỉ ngơi, rồi niệm tiếp.
Chúng tôi ở Úc Châu có một đạo tràng nhỏ, gần đây đang mở Phật thất, có mười
mấy đồng tu tham gia, bên cạnh niệm Phật đường hiện tại là nơi đi lại. Tương
lai sẽ dời lối đi lại này, để khoảng đất trống làm nơi nghỉ ngơi. Niệm mệt thì
nằm nghỉ, nghỉ khỏe rồi trở lại niệm Phật đường niệm tiếp. Nơi này đại khái có
thể dung nạp được bốn mươi tám người. Chúng ta cung cấp nhân duyên, bốn mươi
tám người này chọn phương pháp của Viễn Công ở Lô Sơn, ghi danh trọn đời vào
niệm Phật đường. Viễn Công ở Lô Sơn ngày trước cũng vậy, ngài không xuống núi.
Chúng ta cũng vậy, ở niệm Phật đường một lòng một dạ cầu vãng sanh thượng
thượng phẩm. Chúng tôi dự định sẽ đặt là “Niệm Phật Đường Thượng Thượng Phẩm”,
không cầu thượng trung phẩm, mà nhất định phải là Niệm Phật Thượng Thượng Phẩm,
chỉ có bốn mươi tám người, chí đồng đạo họp. Vì để kiên định Tín-Nguyện, Niệm
Phật Đường buổi tối giảng kinh, có thể liên tục giảng ba đến năm năm, sau đó
không cần giảng nữa, mọi người thảy đều lý giải, đều tường tận, tất cả gốc nghi
đều được nhổ hết, bốn mươi tám người đều thành Phật. Duyên thù thắng không gì
sánh được.
Hiện tại tôi đã nhiều tuổi, đã đến lúc phải vào niệm Phật đường. Tương lai đoàn
hoằng pháp dành cho pháp sư trẻ phát tâm tận lực hoằng pháp lợi sinh. Khi sáu
mươi hoặc bảy mươi tuổi về hưu theo chế độ “thất thập nhi chí sự” của Trung
quốc xưa, chúng ta có thể thoái hưu, bước vào Niệm Phật Đường niệm Phật, tu tập
cho chính mình. Có hai đạo tràng như vậy, giải - hành đều trọng mới có thể hưng
vượng Phật pháp. Phật độ chúng sanh xem thấy chúng sanh duyên đã chín muồi,
sanh khởi vô lượng tâm hoan hỉ, Phật làm tăng thượng duyên cho chúng ta, chúng
ta phải phát ra tâm này.
Công đức như thế nào là to lớn nhất, có ý nghĩa thù thắng nhất? Không gì hơn tổ
chức đoàn hoằng pháp, xây Niệm Phật đường vãng sanh thượng thượng phẩm. Đại sư
Ngẫu Ích trong “Di Đà Yếu Giải” khi giảng hai chữ “Phật Thuyết” có nói “Phật dĩ
độ sanh vi hoài”, tức là cơ duyên chúng sanh thành Phật đã chín muồi. Cách nói
của ngài người xưa không khẳng định như vậy.
Cơ duyên chúng sanh thành Phật đã
chín muồi, “vi thuyết nan tín chi pháp”, pháp môn Tịnh Độ là pháp khó tin. Giúp
đỡ chúng sanh thành tựu Phật quả cứu cánh viên mãn, niềm hoan hỉ không thể hình
dung được. Đại sư Ngẫu Ích nói rất chuẩn xác. Mười phương ba đời tất cả chư
Phật Bồ Tát xem thấy người căn tánh chín muồi, không ai không tuyên nói pháp
môn này. Do đây mà biết, căn tánh không chín muồi, chưa chín muồi, hay chưa đủ
tư cách làm Phật, có thể làm Bồ Tát, đức Phật liền tuyên nói các pháp môn đại
thừa khác. Nếu xem thấy chúng sanh có tư cách làm A La Hán chứng quả Bích Chi
Phật, Phật liền nói pháp môn Thanh Văn Duyên giác. Nếu thấp hơn nữa, xem thấy
chúng sanh tình chấp còn quá nặng, tà kiến sâu, không thể thoát khỏi sáu cõi
luân hồi, Phật liền giảng tiểu pháp Nhân Thiên, khuyên họ đời sau còn có thể
được thân người, không đến nỗi đọa vào ba đường ác. Đức Phật đối với tất cả
chúng sanh hết lời khuyên bảo, ứng cơ nói pháp, đó là “Phật thuyết”.
Thứ ba là hai chữ “Đại Thừa”
Tỷ dụ xe lớn. Thời xưa khoa học chưa phát triển, xe lớn nhất là xe ngựa, do bốn
ngựa kéo, có thể chở mười người; xe nhỏ là xe dê, xe nai, chỉ chở được một
người. Phật thí dụ Đại Thừa, Tiểu Thừa, tỷ dụ giáo học giúp đỡ chúng ta thành
tựu đạt đến một giai đọan nào đó. Mục tiêu gần nhất là Tiểu thừa. Giúp thoát
khỏi sáu cõi luân hồi là Tiểu Thừa. Hành trình xa hơn là Đại Thừa. Giúp chúng
ta siêu việt mười pháp giới gọi là pháp Đại Thừa. Phương tiện giao thông hiện
tại không như trước, phi cơ có thể chứa mấy trăm người, còn tàu thuyền càng
không cần phải nói, dụng ý của nó là sự vận chuyển chúng sanh từ nơi phiền não
sanh tử của cảnh giới này siêu việt đến bờ bên kia Bồ Đề Niết Bàn.
Vậy quyển kinh này là pháp Đại thừa, không chỉ là Đại thừa như trong chú giải
của đại đức xưa mà bộ kinh này là đại thừa ngay trong Đại thừa; không chỉ là
Đại thừa ngay trong pháp Đại thừa mà còn là Nhất Thừa ngay trong pháp Nhất
Thừa. Vậy pháp Nhất Thừa là gì? là pháp thành Phật. Thế Tôn vào những năm cuối
giảng kinh Pháp Hoa trong hội Pháp Hoa, Ngài tuyên bố “chỉ có pháp nhất thừa,
không hai cũng không ba”. Ngoài ra Phật phương tiện nói đó chân thật là bổn
hoài của ngài. Ngài giáo hóa chúng sanh với tấm lòng chân thật bình đẳng rằng
chỉ có pháp nhất thừa dạy chúng ta làm Phật, không làm Bồ Tát, A La Hán, mà
nhất định phải làm Phật cứu cánh viên mãn ngay trong đời này.
Vậy nói ba thừa là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, còn nói hai thừa là Tiểu thừa
và Đại thừa đều do Phật phương tiện nói. Nghe cách nói này của Phật, đại sư
Thanh Lương cảm ngộ, trong “Hoa Nghiêm Sớ Sao”, ngài nói “người học ba thừa, có
nhân không quả”, cùng ý nghĩa như kinh Pháp Hoa, vì sao? Thành Phật mới là quả,
không thành Phật thì không có quả, quả đó là giả, không phải thật. Cho nên
người học ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, có nhân không có quả. Do đó
phải biết, quyển kinh này có nhân có quả, không gì bằng. Có mấy loại kinh có
nhân có quả? Ngoài bộ kinh này còn có kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, các kinh
khác đều không có. Cho nên từ xưa đến nay các tổ sư đại đức dường như đều công
nhận Hoa Nghiêm, Pháp Hoa là nhất thừa giáo, trên cả Đại thừa. Bên cạnh đó,
kinh Phạm Võng cũng thuộc kinh Nhất thừa. Nhưng kinh Vô Lượng Thọ là Nhất thừa ngay
trong Nhất thừa, vì sao? Kinh Hoa Nghiêm đến sau cùng, “mười đại nguyện vương
cầu về Cực Lạc” mới viên mãn thành Phật. Trong khi đó quyển kinh Vô Lượng Thọ
mỗi câu mỗi chữ đều nói Phật quả cứu cánh, Hoa Nghiêm quy về là quy về Vô Lượng
Thọ. Thế mới nói, bộ kinh này “nhất thừa ngay trong nhất thừa”, vô thượng thừa.
Chúng ta may mắn gặp được kinh điển, không thể phủ định phước báu từ nhiều đời
nhiều kiếp, cũng có thể khẳng định thiện căn phước đức nhân duyên trong vô
lượng kiếp đã chín muồi. Một số người gặp kinh này vẫn không tin tưởng, vì sao?
“Vì pháp khó tín”. Tuy nhiên nhiều người vừa tiếp xúc liền tin tưởng.
Thích Ca Mâu Ni Phật luôn nói pháp khó tin, đích thực là như vậy. Khởi tín niệm
Phật là nhân, mỗi niệm làm Phật là quả, “nhân như biển quả, quả tận nguồn
nhân”, chân thật không thể nghĩ bàn, đó là ý nghĩa của đại thừa. Phật trong
kinh thường nhắc nhở như trong Hoa Nghiêm, tất cả các pháp thế xuất thế gian
“do tâm biến hiện, do thức hiện ra”, thức chính là tâm tưởng, lại nói “tất cả
pháp từ tâm tưởng sanh”, mỗi ngày chúng ta tưởng Phật, quả báo của Phật liền
hiện tiền.
Lịch sử Trung Quốc có ghi chép, cuối đời Tống đầu nhà Nguyên, Triệu Mạnh Phủ là
người nổi tiếng chữ viết đẹp, hiện tại thiệp chữ của ông vẫn rất phổ biến. Ông
giỏi vẽ ngựa, ưa thích vẽ ngựa, ông thường đi quan sát hình thái động tác của
ngựa, trong lòng mỗi ngày đều nghĩ đến chúng. Một hôm ngủ trưa, ông nằm mộng
nghĩ đến ngựa, đó là lúc tập trung toàn bộ tinh thần. Thời gian ngủ tương đối
dài nên vợ ông đến gọi ông dậy. Vừa kéo mùng ra, bà vợ thất kinh hồn vía la lên
khi nhìn thấy một con ngựa nằm trên gường. Nghe tiếng hét, ông bừng tỉnh dậy
ngơ ngác không hiểu chuyện gì.
Trong lòng nghĩ đến ngựa nên biến thành ngựa, chẳng lẽ nghĩ đến Phật thì không
biến thành Phật được sao? Rõ ràng có đạo lý. Cho nên các vị đồng tu nên ghi
nhớ, nghĩ đến Bồ tát thì liền biến thành Bồ tát, nghĩ đến quỷ thì biến thành
quỷ, nghĩ đến địa ngục thì biến thành địa ngục, nghĩ thứ gì sẽ biến thành thứ
đó. Phật quá rõ ràng đối với chân tướng sự thật và đạo lý này, dạy chúng ta
tưởng Phật “nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền tương lai, quyết định thấy Phật”.
Chúng ta thường mỗi ngày từ sớm đến tối khởi vọng tưởng, không nghĩ đến Phật,
vậy từ đây, hãy chân thật cảm nhận rằng hình thành một Niệm Phật Đường đúng
pháp là điều rất cần thiết. Một Niệm Phật Đường chân chính đúng pháp quan trọng
hơn bất cứ thứ gì. Niệm Phật Đường chính là trường tuyển Phật, đến nơi đó để
làm Phật. Đó là nội dung “Đại thừa”, ý nghĩa của Nhất Phật Thừa.
Thứ tư là chữ “Vô Lượng Thọ”
“Vô Lượng Thọ”, tiếng Phạn gọi là A Di Đà, ý nghĩa này Phật cũng đã nói trên
kinh Di Đà. “A Di Đà” dịch thành Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ. Bổn ý của tiếng
Phạn, “A” dịch thành ý của Trung Quốc chính là Vô, “Di Đà” dịch là Lượng, bổn ý
chính là Vô Lượng. Cái gì là vô lượng? Tất cả đều vô lượng, không có thứ nào
không vô lượng, trí tuệ vô lượng, đức năng vô lượng, tài nghệ vô lượng, phước
báu cũng vô lượng. Ngày nay mọi người đều muốn phát tài, tài bảo vô lượng,
không có thứ nào không vô lượng. Nói một cách hơi thô thiển, một lỗ chân lông
vô lượng, một bụi trần cũng vô lượng. Tất cả chư Phật Như Lai ở trên đầu sợi
tóc giảng kinh nói pháp, đoạn tóc không phình to, chư Phật Bồ tát cũng không
thu nhỏ. Đây hoàn toàn là cảnh giới “sự lý vô ngại, sự sự vô ngại” của kinh Hoa
Nghiêm, không một pháp nào là không vô lượng, tất cả pháp đều là toàn thể tận
hư không khắp pháp giới. Quyển kinh Vô Lượng Thọ là thu nhỏ, là tinh hoa của
Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm đã nói “Lục tướng Thập Huyền”, quyển kinh Vô Lượng Thọ
này cũng là “Lục tướng Thập Huyền”. Hơn nữa, mỗi câu mỗi chữ trong kinh đều
viên mãn đầy đủ “Lục tướng Thập Huyền”, người xưa gọi là “Hoa Nghiêm quyển
trung” không phải không có đạo lý.
Để dễ hiểu, Thế Tôn nêu ra hai loại: Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang biểu đạt
tất cả đều vô lượng. “Quang” là ánh sáng chiếu khắp hư không pháp giới, ánh
sáng của Phật chiếu khắp nơi nơi. Thế nên hiện tại chúng ta gọi là không gian.
Quang Minh biểu đạt không gian. Thọ Mạng biểu đạt thời gian, gồm quá khứ, hiện
tại, vị lai. Nếu họp Thời - Không lại, chính là toàn thể vũ trụ chứa vạn sự vạn
vật trong nó, không có thứ nào trót lọt. Phật dùng hai ý này để giải thích Vô
Lượng, lược nói cũng rất viên mãn. Vậy chúng ta tỉ mỉ nghĩ thử, người hiện tại
nói Thời Không, Phật nói Quang Thọ, ý nghĩa Quang Thọ tốt hơn Thời Không không?
Trong Quang Thọ có linh khí; Thời Không hoàn toàn biến thành vật chất, không có
linh tánh. Quang Thọ có linh tánh còn viên mãn hơn rất nhiều so với hai chữ
Thời Không.
Ngay trong đức năng vô lượng mà người xưa nhắc nhở chúng ta, thực tế là trong
tất cả vô lượng, Thọ chiếm vị trí thứ nhất. Việc này chúng ta có thể lý giải,
nếu tất cả vô lượng chúng ta đều có được nhưng thọ mạng không có, chẳng phải là
một mảng không hay sao? Thọ dụng gì chúng ta cũng không có, cho nên ngay trong
tất cả vô lượng, thọ mạng là thứ nhất. Do đó, mới dùng “Vô Lượng Thọ” để giải
thích A Di Đà.
Thế giới Tây Phương Cực Lạc có vị đạo sư vĩ đại, đức hiệu là A Di Đà Phật,
nguyện hạnh từ nhân địa mãi đến thành tựu được quả vị, sau khi thành tựu sự
nghiệp, ngài đã triển khai mở rộng, giúp đỡ tất cả chúng sanh tận hư không khắp
pháp giới ngay trong một đời viên mãn thành Phật. Việc này không thể nghĩ bàn,
đó là vô lượng của vô lượng, hành giả phải tỉ mỉ thể hội mới có thể được một,
được hai, hay được vài phần. Thọ dụng của chúng ta là vô cùng vô tận. Thọ dụng
biểu hiện ở chỗ nào? Biểu hiện ở ngay “Tín, Nguyện, Hạnh” của chúng ta, tin sâu
không nghi, tuyệt đối không bị dao động, thiết nguyện nguyện lực kiên cường,
cũng không có bất cứ thứ gì có thể mê hoặc, được như vậy là “Tín, Nguyện, Hạnh”
của chúng ta đã thành tựu.
Thứ năm là chữ “Trang Nghiêm”
“Trang Nghiêm” nếu dùng ngôn ngữ hiện tại mà nói là tốt đẹp, tốt đẹp đến tột
cùng. Bổn kinh đọc đến “Nhất Hướng Chuyên Chí, Trang Nghiêm Diệu Độ”. Diệu Độ
là gì? Người thông thường nghe có thể hiểu đó là thế giới Tây Phương Cực Lạc,
hiểu như thế chỉ đúng một nửa, còn một nửa ở đâu? Hoàn cảnh cư trú hiện tại của
chúng ta chính là Diệu Độ. Khi chúng ta vừa chuyển đổi cảnh giới, thì nơi này
chính là Diệu Độ, tuy không phải là Diệu Độ chân thật nhưng cũng gần
giống.
Đại sư Thiên Thai nói Lục tức, Tương tợ tức, Phần chứng tức, đến thế giới Tây
Phương Cực Lạc là Diệu Độ cứu cánh. “Nhất hướng chuyên chí”, chỉ cần chúng ta
làm đến được “nhất hướng chuyên chí”, cõi hiện tại này liền biến thành Tịnh Độ
hay Diệu Độ. “Cảnh tùy tâm chuyển”, nếu thể hội được ý này sẽ liền có thể tưởng
tượng ra.
Vào thời đại Đông Tấn, đại sư Viễn Công ở Lô sơn Giang Tây xây dựng Niệm Phật
đường Đông Lâm. Ngay lúc đó, nhiều người niệm Phật tu hành, nơi đó của họ chính
là Diệu độ, vì sao? Vì mỗi người bước vào đều “nhất hướng chuyên chí”.
Quyển kinh Vô Lượng Thọ giảng phương pháp tu hành, cương lĩnh tu hành “một lòng
chuyên niệm A Di Đà Phật, phát tâm Bồ Đề”. Hoàn cảnh của hành giả chính là Diệu
độ, chính là Tịnh Độ. Các đại đức xưa đã nói “tâm tịnh thời cõi nước tịnh”. Ở
đạo tràng này, người người tâm thanh tịnh, người người đều nhớ Phật niệm Phật.
Đạo tràng như vậy làm sao không thành Tịnh Độ được? Trang nghiêm thù thắng
trùng trùng, nghìn trùng tướng lạ tự nhiên hiện tiền, cảm ứng không thể nghĩ
bàn.
Lại nói đến “cõi Cực Lạc kia, công đức vô lượng, đầy đủ trang nghiêm”. Câu nói
này hiển nhiên là tán thán thế giới Tây Phương Cực Lạc, vì sao? Mười phương bao
gồm tất cả cõi nước những chúng sanh trong đó. Người niệm Phật vãng sanh đến
thế giới Tây Phương Cực Lạc, mỗi người đều tâm thanh tịnh, đều nhớ Phật niệm
Phật. Thế giới Tây Phương Cực Lạc là một đạo tràng lớn, chúng ta cũng có thể
tưởng tượng.
Trong kinh này, Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán A Di Đà Phật “Quang trung cực
tôn, Phật trung chi vương”. Thích Ca Mâu Ni Phật đại biểu cho hết thảy chư Phật
tán thán như vậy, không vị Phật nào không tán thán A Di Đà Phật là “Quang trung
cực tôn, Phật trung chi vương”, dựa vào cái gì? Dựa vào thế giới của ngài. Tất
cả những người vãng sanh đến Tây Phương Cực Lạc không có người nào tâm địa ô
nhiễm, mỗi mỗi đều thanh tịnh. Việc này trong mười phương cõi nước chư Phật
không tìm ra được. Mười phương cõi Phật đương nhiên rất trang nghiêm thanh
tịnh, nhưng trong đó ít nhiều vẫn còn mấy người khởi vọng tưởng, tuy chiếm số
ít. Thế giới Ta Bà của chúng ta, chúng sanh phiền não chiếm đa số. Một vạn
người thì có đến chín ngàn chín trăm chín mươi chín người đang khởi vọng tưởng.
Sai biệt lớn đó là uế độ. Có những thế giới, chúng sanh ở đó một nửa tâm địa
thanh tịnh, và một nửa tâm không thanh tịnh.
Tịnh Độ, tâm địa thanh tịnh chiếm đa số, khoảng 80%, 90%, vẫn còn 10 đến 20%,
tâm không thanh tịnh, làm sao giống được thế giới Tây Phương Cực Lạc thanh tịnh
100%. Các vị đồng tu phải ghi nhớ, tâm không thanh tịnh không thể sanh Tịnh Độ.
Không phải cứ niệm Phật thì nhất định sẽ sanh Tịnh Độ. Niệm mười vạn danh Phật
hiệu nhưng trong lòng vọng tưởng không ngừng, người xưa nói “đau mồm rát họng
chỉ uổng công”. Tâm địa thanh tịnh, một ngày chỉ niệm mười danh hiệu, hai mươi
danh hiệu cũng thành tựu.
Người xưa đề xướng “Pháp mười niệm”. Chúng tôi khuyên các vị đồng tu pháp mười
niệm còn đơn giản hơn. Một lần là mười câu “A Di Đà Phật” liên tục niệm mười
danh hiệu. Trong thời gian ngắn ngủi này, một vọng niệm cũng không thể xen lọt
vào. Niệm này gọi là “tịnh niệm”, không xen tạp. Niệm nhiều sẽ khởi vọng tưởng.
Mười câu niệm không khởi vọng tưởng, đó chính là tịnh niệm. Mỗi ngày niệm chín
lần, không bỏ ngày nào, đó gọi là “liên tục”, phù hợp với kinh đã nói “tịnh
niệm tương tục”. Rất nhiều đồng tu dùng phương pháp chúng tôi khuyên công nhận
đã có hiệu quả. Hy vọng một ngày ít nhất chín lần, càng nhiều đương nhiên sẽ
càng tốt. Đây là phương pháp dễ dàng nhiếp tâm. Thù thắng của Tây Phương Cực
Lạc chính là được A Di Đà Phật tiếp dẫn. Thế giới A Di Đà Phật hoan nghênh mọi
người di dân đến định cư. Thế nhưng điều kiện để di dân là tâm thanh tịnh. Dùng
bất cứ phương pháp gì đạt đến tâm thanh tịnh đều được, niệm Phật cũng được,
tham thiền cũng được, học giáo cũng được, trì chú cũng được.
Ba bậc vãng sanh của người niệm Phật là Thượng Trung Hạ. Người tu học các pháp
môn Đại thừa khác tu đến tâm địa thanh tịnh, phát nguyện vãng sanh, đều có thể
đi. Cửa A Di Đà Phật mở rộng, tuyệt nhiên không nói người không niệm A Di Đà
Phật thì không được rước, không hề có đạo lý này. Chỉ cần tâm địa thanh tịnh,
tùy tiện tu bất cứ pháp môn nào, thảy đều được cả, đều có thể vãng sanh. Tôi
từng dự luận đàn ở Úc Châu, đại chúng trong luận đàn tổng cộng mười bốn đoàn
thể tôn giáo, gồm Phật giáo, Đạo giáo, Ki Tô giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo,
Do Thái giáo,… Tôi nói với họ: “không luận các vị tu học tôn giáo nào, chỉ cần
tu đến tâm thanh tịnh phát nguyện vãng sanh, A Di Đà Phật thảy đều tiếp dẫn”.
Phật pháp bình đẳng, không kỳ thị chủng tộc, tôn giáo. A Di Đà Phật rất hoan
nghênh, không luận chúng ta tu pháp môn nào, không luận chúng ta tín ngưỡng tôn
giáo nào, chỉ cần tu tâm địa thanh tịnh phát nguyện cầu vãng sanh, A Di Đà Phật
đều sẽ đến tiếp dẫn. Pháp môn này rất tuyệt vời, không có bài xích tu học tông
phái khác nhau, vậy mới gọi là thật trang nghiêm. Cho nên thế giới Tây Phương
Cực Lạc trang nghiêm thù thắng không gì bằng.
“Đại Thừa” “Vô Lượng Thọ” “Trang Nghiêm” đều là tánh đức của chúng ta, đức năng
tự tánh vốn đủ, là quả báo chúng ta mong cầu. Mục đích học Phật ở đâu? chính là
phải đạt được “Đại Thừa, Vô Lượng Thọ, Trang Nghiêm”. Vậy phải làm thế nào có
thể đạt được? Đề kinh phía sau đưa ra phương pháp.
Phần trước đã nói, muốn ngay đời này đạt được “Vô Lượng Thọ” được hay không?
Được, ngay đời này của chúng ta là Vô Lượng Thọ, đời này nhất định không chết.
Chết rồi sao còn có thể gọi là trường thọ. Tịnh Tông thù thắng nhất là không
chết. Nếu tu tốt, ngay cuộc sống thường ngày phải chân thật sám hối tiêu nghiệp
chướng. Bằng không đó chính là chướng ngại. Phiền não là chướng ngại, lo lắng
là chướng ngại, vướng bận là chướng ngại, bệnh khổ là chướng ngại. Tiêu trừ
chướng ngại chính là tiêu nghiệp chướng, buông bỏ hết thảy, mỗi giờ mỗi phút
phải giữ gìn tâm thanh tịnh của chính mình.
Thứ sáu là chữ “Thanh tịnh”
Thanh tịnh là không ô nhiễm, trong khi đó “bình đẳng” là không phân biệt. Còn
phân biệt thì không còn bình đẳng, còn tốt xấu là không còn thanh tịnh. Cái này
ưa thích, cái kia chán ghét, như vậy chúng ta đã bị ô nhiễm, nhất định có
chướng ngại. Vì sao một số người niệm Phật vãng sanh không bị bệnh, biết được
lúc nào đi, dường như đã có hẹn với Phật, hẹn xong cứ thế đứng mà đi, ngồi mà
đi, an nhiên tự tại? Ngày trước chúng tôi ở Đài Loan, lão hòa thượng Đạo Nguyên
kể cho chúng tôi một câu chuyện vãng sanh có thật. Chúng tôi không còn nhớ tên
người đó, nhưng họ niệm Phật trước khi vãng sanh còn nói với mọi người rằng:
“Các vị đã bao giờ thấy hoặc nghe nói việc ngồi vãng sanh chưa?” Mọi người trả
lời có. Ông hỏi tiếp: “Các vị đã bao giờ thấy hoặc nghe nói việc đứng vãng sanh
chưa?”. Mọi người cũng trả lời có. Ngay lúc đó, ông liền búng người một cái,
đầu chúc xuống, chân hướng lên trên, rồi vãng sanh. Xem, việc vãng sanh đó mới
đẹp làm sao, rất tự tại. Vì sao ông có thể làm được? Vì tâm ông thanh tịnh,
không chút ô nhiễm. Ông tự tại ngay trong cuộc sống thường ngày, vãng sanh cũng
tự tại, tự tại trong tất cả. Ông ấy sống mà ra đi, đi đến nơi không chết, hoàn
toàn không chết. Thân này không cần nữa thì đổi lấy thân của Phật, làm gì có
chuyện chết.
Không chút đau khổ, hoàn toàn an vui tự tại, đổi một thân thể thù thắng hơn rất
nhiều so với thân thể hiện tại này. Kinh nói rõ, người thế giới Tây Phương Cực
Lạc “thân thanh khiết, thể không hoại”, thân thể đó là tùy tâm sở cầu, biến hóa
khôn cùng tận như Thế Tôn đã nói trên kinh “ngàn trăm ức hóa thân”. Thích Ca
Mâu Ni Phật ngàn trăm ức hóa thân, người vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực
Lạc, cho dù phàm thánh đồng cư độ hạ hạ phẩm vãng sanh đều có năng lực như
Thích Ca Mâu Ni Phật, “ngàn trăm ức hóa thân”. Có như thế, chúng ta mới có thể
đồng thời cúng dường vô lượng vô biên chư Phật, đồng thời nghe vô lượng vô biên
chư Phật giảng kinh thuyết pháp. Ngày nay chúng ta tu học khổ cực, cả đời một
vài bộ kinh cũng không cách gì thông, nhưng khi đến thế giới Tây Phương Cực
Lạc, một giờ ở đó chúng ta học được hơn rất nhiều. Cõi này, chúng ta học mười
vạn năm cũng chưa được, nhưng ở thế giời Tây Phương Cực Lạc, một giờ đồng hồ,
chúng ta được nghe mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai giảng kinh thuyết
pháp, thù thắng không gì bằng.
Cho nên muốn khai đại trí tuệ cứu cánh viên mãn thì phải vãng sanh. Không cầu
vãng sanh không thể được. Không vãng sanh mà chỉ muốn dựa vào tu hành của chính
mình, dù tu đến đoạn kiến tư phiền não, thoát khỏi ba cõi, phá tiếp trần sa vô
minh, vượt mười pháp giới, cũng rất gian nan, khổ sở, không dễ dàng gì. Tính
theo thời gian mà nói, vô lượng kiếp còn chưa chắc có thể thành tựu dù siêu
việt mười pháp giới, chứng được Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát, từ Viên Sơ Trụ lại chứng
được Phật quả viên mãn. Việc này trên kinh Phật nói, còn phải trải qua ba đại A
Tăng Kỳ kiếp, làm gì bằng đến thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Một số đồng tu nghe đến lời nói này của chúng tôi hoài nghi rằng: “Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh không có cách nói này, hạ hạ phẩm vãng sanh phải mười hai
kiếp mới hoa khai kiến Phật”. Không sai, thế nhưng chúng ta nên biết vì sao
Phật phải nói lời nói này. Chúng ta học Phật phải nương vào một bộ kinh. Chỗ
nương vào nhất định là kinh Vô Lượng Thọ. Hơn nữa, trong kinh Vô Lượng Thọ,
phẩm thứ sáu, bốn mươi tám nguyện do chính Phật A Di Đà nói, Thích Ca Mâu Ni
Phật giới thiệu Tịnh Độ cho chúng ta. Tịnh Độ ba kinh, nếu có một câu trái với
bốn mươi tám nguyện thì chúng ta không thể tin tưởng. Mở quyển kinh ra, mỗi câu
mỗi chữ đều tương ứng với bốn mươi tám nguyện. Thế nên Thế Tôn vì sao nói pháp
này? Chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa. Vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc
nếu không luận gia trì bổn nguyện Di Đà, chúng ta hạ hạ phẩm vãng sanh phải tu
mười hai kiếp mới hoa khai kiến Phật. “Không luận gia trì” ý nghĩa như vậy.
Trong ý này có mật nghĩa.
Mật nghĩa nói rõ thế giới Tây Phương thù thắng không gì bằng. Chúng ta lấy cảnh
giới này mà nói, hạ hạ phẩm vãng sanh đó là phàm phu, một phẩm phiền não cũng
chưa đoạn. Đới nghiệp vãng sanh, phiền não còn chưa đọan, huống hồ mười hai
kiếp hoa khai kiến Phật. Theo thiền tông, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh, địa vị Viên giáo sơ trụ. Chúng ta hiểu rõ, nếu không phải ở thế giới Tây
Phương, một phàm phu muốn thoát khỏi sáu cõi, muốn siêu việt mười pháp giới
chứng được Viên Sơ trụ, kinh Hoa Nghiêm nói phải trải qua vô lượng kiếp. Vì sao
phải trải qua thời gian dài đến vậy? Vì thời gian thoái chuyển qua nhiều, tiến
ít lùi xa, chưa kể những thoái duyên. Thế giới Tây Phương Cực Lạc không có
thoái duyên mà chỉ có tiến bộ, cho nên mười hai kiếp liền thành công. Mười hai
so với vô lượng kiếp, thời gian đã rút ngắn quá nhiều. Thù thắng của thế giới
Tây Phương theo lời Phật nói là như vậy.
Tuy nhiên tình hình thực tế lại khác, xem Bốn mươi tám nguyện, thế giới Tây
Phương là căn cứ bậc nhất của Tịnh tông. A Di Đà Phật nói, người sanh đến thế
giới Tây Phương Cực Lạc đều là A Duy Việt Chí Bồ Tát. Bồ Tát A Duy Việt Chí là
ai? Trong chú giải của cổ đức, địa vị thấp nhất là Thất Địa Viên giáo, địa vị
cao nhất là đẳng giác Bồ Tát. Hay nói cách khác, vừa sanh đến thế giới Tây
Phương Cực Lạc, ngôi vị của chúng ta từ thấp nhất là Thất Địa lên đến Đẳng
giác. Thật khó tin. Mười phương Thanh Văn, Duyên giác, Bồ Tát nghe rồi đều
không tin tưởng. Họ tu hành khổ cực, quả báo đạt được rất ít, còn chúng ta
không làm gì đáng kể nhưng một bước là lên trời, lập tức trở thành Thất Địa,
đương nhiên họ sẽ không thể tin phục, dù không tin phục nhưng đó vẫn là sự
thật. Vì sao chúng ta có thể lên đến quả vị cao như vậy? Gia trì bổn nguyện của
A Di Đà Phật. Pháp môn này gọi là “pháp môn nhị lực”. Chính mình chỉ cần đầy đủ
“Tín, Nguyện, Hạnh”, thâm tín thiết nguyện, lão thật niệm Phật, bốn mươi tám
nguyện A Di Đà Phật sẽ gia trì chúng ta, đó là tha lực giúp chúng ta sanh đến
thế giới Tây Phương Cực Lạc với phẩm vị cao, thành tựu thù thắng.
Dù có tra khắp Đại Tạng kinh cũng không có cách nói này ngoài kinh Vô Lượng
Thọ, kinh A Di Đà, cho nên phải tin tưởng. Thời xưa tu học pháp môn này, nhưng
chúng ta chưa hề thấy hoặc nghe hiện tượng người vãng sanh nên không cần bàn
luận, nhưng từ lúc chúng ta học Phật tiếp xúc với pháp môn này, chúng ta mới
thực tế kiểm chứng những người y theo pháp môn mà tu hành, thực sự đã có người
đứng mà ra đi, ngồi mà đi, mắt thấy tai nghe, không thể giả được.
Vào năm Dân quốc thứ 58, chúng tôi giảng kinh ở miền nam Đài Loan, có một vị cư
sĩ nói với chúng tôi, người vợ của tướng quân Lương Đài Nam niệm Phật ba năm
được vãng sanh trong tư thế đứng, không hề có bệnh. Bà cụ này tâm địa hiền
lương, trong cuộc sống thường ngày không bao giờ tranh với người, không bon
chen với đời, cuộc sống tạm qua ngày, con cháu hiếu thuận. Cho nên bà buông bỏ
vạn duyên để học Phật, lúc đầu cũng không hiểu Phật là gì, khi nhìn thấy tượng
thần thì xem như Phật để bái lạy, Bồ Tát Thổ Địa, Thành Hoàng cũng đều là Bồ
Tát, không phân biệt thần và Phật, bái lạy khắp nơi. Ba năm trước đó, con trai
bà cưới vợ, cô dâu hiểu được chút ít Phật pháp khuyên mẹ chồng không nên đi bái
lạy nhiều nơi, mà chuyên ở nhà lạy A Di Đà Phật, niệm A Di Đà Phật. Bà mẹ chồng
vốn có thiện căn, liền tiếp nhận lời khuuyên bảo của con dâu, chuyên niệm A Di
Đà Phật suốt ba năm. Hôm vãng sanh là buổi tối, khi chuẩn bị ăn cơm, bà nói với
người trong nhà rằng: “Các con cứ ăn cơm trước, không nên đợi mẹ, mẹ phải đi
tắm rửa”. Con trai và con dâu hiếu thuận vẫn đợi để cùng ăn. Bà đi tắm rất lâu
mà không thấy xuống, người nhà sốt ruột lên xem thử. Quả thật bà có đi tắm
nhưng sau đó không xuống ăn cơm mà vào niệm Phật đường nho nhỏ của gia đình,
mặc áo tràng chỉnh tề, tay cầm xâu chuỗi. Các con gọi bà nhưng không thấy bà
trả lời, bước lại gần xem thì bà đã vãng sanh tự bao giờ, đứng vãng sanh. Đây
là việc đã xảy ra không lâu, hiện nay miền nam Đài Loan mỗi khi nhắc đến chuyện
này, có rất nhiều người biết, nên không thể cho đó là tin đồn thất thiệt.
Một trường hợp khác, khi đó chúng tôi ở Cựu Kim Sơn nước Mỹ, một cụ bà ngồi
vãng sanh. Đời sống ở Mỹ rất vất vả, cả hai vợ chồng đều phải đi làm, nếu chỉ
dựa vào một người kiếm tiền thì không nuôi được cả nhà. Khi có con, phần lớn
các cặp vợ chồng mời mẹ mình đến để trông trẻ, nấu cơm. Cho nên người già ở Mỹ
cũng tương đối vất vả. Bà lão này là một hành giả niệm Phật, khi con trai con
dâu đi làm, cháu nội đi học, một mình bà ở nhà niệm Phật, rất thanh tịnh, không
ai quấy nhiễu. Không biết đã niệm được bao nhiêu năm mà ngày bà ra đi, không ai
biết bà ra đi lúc nào. Một buổi sáng sớm, người trong nhà thấy lạ vì bà chưa
thức dậy nấu cơm sáng như mọi ngày. Không rõ tại sao hôm nay bà ngủ trưa đến
vậy, mọi người mới đến mở cửa phòng, bà cụ xếp chân ngồi kiết già trên gường.
Tiến đến gần xem kĩ thì thấy bà đã ra đi. Hiện tượng này hiếm thấy. Bà để di
chúc ngay trước mặt, ngoài di chúc còn có hiếu phục của con trai, con dâu, cháu
nội. Cũng không biết bà may nó từ lúc nào, tự tay làm, từng phần từng phần để
ngay trước gường. Như vậy bà đã biết trước giờ đi nên chuẩn bị từ sớm di chúc
và các hiếu phục cho con cháu, sau đó niệm Phật ngồi mà đi.
Do đó chỉ cần tâm thanh tịnh, chúng ta có thể làm được. Tại sao cứ phải đem
những việc thế gian không liên quan, những việc vụn vặt xen tạp chất chứa trong
lòng. Nhất định phải học thanh tịnh, chân thật biết quá khứ, hiện tại, vị lai.
Tiền đồ là một mảng sáng lạng, cho nên thế gian cho dù việc gì mắt thấy tai
nghe đều không nên để trong lòng, thấy như không thấy, nghe như không nghe, mỗi
giờ mỗi phút gìn giữ tâm thanh tịnh. Người khác thành công, chúng ta cũng có
thể thành công, dù không được, tâm vẫn phải thanh tịnh, tất cả buông bỏ, buông
bỏ ngay bây giờ, không dính mắc. Có như vậy mới có thể vãng sanh Cực Lạc.
Thứ bảy là chữ “Bình Đẳng Giác”
Bình Đẳng Giác là tâm bình đẳng, tâm giác ngộ. Bình đẳng chính là chân tâm,
chân tánh, chân như. Bình đẳng là pháp môn “không hai”, còn có cái thứ hai tức
vẫn chưa bình đẳng. Chúng ta phải nỗ lực học tập bằng cách chuyển đổi quan niệm
chính mình, nhận thức vạn pháp quy về một. Một chính là bình đẳng, “vạn pháp
nhất như”, trong kinh văn nói “Như thị ngã văn”. Vì sao kinh Phật chữ đầu tiên
được dùng là “như”? Vạn pháp như một, đó là cách nói chân thật, khi đến phần
kinh văn, chúng tôi sẽ chia sẻ kỹ hơn. Chúng ta phải tu tâm bình đẳng, luyện
tập không phân biệt. Trong cuộc sống này, có nên phân biệt hay không? Dĩ nhiên
vẫn phải phân biệt, phân biệt vì người ta phân biệt, họ chấp trước, chúng ta
phải đối phó với họ. Ví dụ, họ bảo đây là Phật đường, chúng ta cũng gọi là Phật
đường, vì họ phân biệt không phải ta phân biệt. Thực sự trong lòng chúng ta
không có Phật đường. Họ nói tướng này gọi là người, ta liền cũng gọi là người,
tùy chúng sanh phân biệt mà chúng ta phân biệt, tùy chúng sanh chấp trước mà ta
chấp trước, nhưng trong tâm chính mình đích thực không phân biệt, không chấp
trước. Đây là phương pháp tu Thanh tịnh Bình đẳng Giác.
Còn phân biệt còn chấp trước là phàm phu, một đời này không cách nào có thể
giải quyết vấn đề. Sáu cõi từ đâu mà ra? Từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
biến hiện ra. Nếu không có chấp trước thì không có sáu đường dù chúng ta còn
vọng tưởng, phân biệt. Diệt được cả vọng tưởng, phân biệt, chúng ta sẽ siêu
việt mười pháp giới, vì mười pháp giới là do vọng tưởng phân biệt biến hiện.
Siêu việt mười pháp giới, liền bước vào pháp giới Nhất Chân. Trong pháp giới
Nhất Chân mặc dù vẫn còn vọng tưởng nhưng cái vọng tưởng đó rất mỏng, không còn
chướng ngại. Tuy nhiên vẫn phải đoạn dứt, vì vọng tưởng chính là vô minh. Kinh
Hoa Nghiêm nói “Bốn mươi mốt phẩm vô minh” đã đoạn tận thì viên mãn thành Phật.
Phật nói rõ, sáu cõi mười pháp giới là do đâu mà ra, là giả. Năng biến vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước cũng là giả, cảnh giới sở biến thì sao là thật
được. Sáu cõi mười pháp giới đều không thật,
“Phàm sở hữu tướng,
Giai thị hư vọng,
Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn bào ảnh”
Nếu để tâm là sai. Muốn khi vãng sanh tự tại, đẹp mắt thì phải buông bỏ những
thứ này, chân thật làm đến được thanh tịnh bình đẳng giác.
Quyển kinh này thù thắng nhất ở bình đẳng phổ biến giác ngộ tất cả chúng sanh.
Nói cách khác, kinh này dạy chúng sanh bình đẳng thành Phật, pháp môn này không
thể nghĩ bàn. Tất cả pháp môn khác đều không có cách nói này. Bồ Tát, Thanh
Văn, Duyên Giác, trời, người làm sao có thể bình đẳng thành Phật? Kinh Vô Lượng
Thọ dạy chúng ta bình đẳng thành Phật, nên gọi là kinh Bình Đẳng, pháp này gọi
là pháp Bình đẳng, cái học này cũng gọi là học Bình đẳng. Bình đẳng giác là
biệt hiệu của Phật A Di Đà, cũng là chánh giác của tất cả chư Phật. Chỉ cần
thành Phật đều gọi là Bình Đẳng Giác, Phật Phật bình đẳng, Bồ Tát cùng Bồ Tát
vẫn không bình đẳng. Chỉ Phật cùng Phật mới bình đẳng, Phật Phật đạo đồng, vì
thảy đều đoạn hết vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, đều hiện ra tướng bình
đẳng.
Thứ tám là chữ “Kinh”
Chữ này quá phổ biến, hành giả hầu như đã thông, chúng tôi xin tỉnh lược nội
dung ý nghĩa chữ này.
(Còn tiếp ...)
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: PT. Giác Minh Duyên