- Mục Lục
- Lời Nói Đầu
- Quyển Thứ Nhất
- Quyển Thứ Hai
- Quyển Thứ Ba
- Quyển Thứ Tư
- Quyển Thứ Năm
- Quyển Thứ Sáu
- Quyển Thứ Bảy
- Quyển Thứ Tám
- Quyển Thứ Chín
- Quyển Thứ Mười
- Quyển Thứ Mười Một
- Quyển Thứ Mười Hai
- Quyển Thứ Mười Ba
- Quyển Thứ Mười Bốn
- Quyển Thứ Mười Lăm
- Quyển Thứ Mười Sáu
- Quyển Thứ Mười Bảy
- Quyển Thứ Mười Tám
- Quyển Thứ Mười Chín
- Quyển Thứ Hai Mươi
- Quyển Thứ Hai Mươi Mốt
- Quyển Thứ Hai Mươi Hai
- Quyển Thứ Hai Mươi Ba
- Quyển Thứ Hai Mươi Bốn
- Quyển Thứ Hai Mươi Lăm
- Quyển Thứ Hai Mươi Sáu
- Quyển Thứ Hai Mươi Bảy
- Quyển Thứ Hai Mươi Tám
- Quyển Thứ Hai Mươi Chín
- Quyển Thứ Ba Mươi
- Quyển Thứ Ba Mươi Mốt
- Quyển Thứ Ba Mươi Hai
- Quyển Thứ Ba Mươi Ba
- Quyển Thứ Ba Mươi Bốn
- Quyển Thứ Ba Mươi Lăm
- Quyển Thứ Ba Mươi Sáu
- Quyển Thứ Ba Mươi Bảy
- Quyển Thứ Ba Mươi Tám
- Quyển Thứ Ba Mươi Chín
- Quyển Thứ Bốn Mươi
Đại Tạng Số 1425
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc cùng
Sa môn Pháp Hiển, đời Đông Tấn, Trung Quốc
Việt dịch: Thích Phước Sơn - Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
Sài Gòn, Việt
Quyển Thứ Mười
NÓI VỀ PHẦN HAI CỦA BA MƯƠI PHÁP NI-TÁT-KỲ BA-DẠ-ĐỀ
17. GIỚI: CẦM CỦA
TIỀN VÀNG BẠC.
Khi Phật an trú tại vườn
Trúc Ca-lan-đà ở thành Vương Xá, nói rộng như trên, bấy giờ thôn trưởng của
thôn Châu-la đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, rồi đứng qua một
bên, bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Trước đây các vị đại thần, Bà-la-môn,
Cư sĩ, Trưởng giả họp tại cung điện Vua cùng nhau nghị luận. Có người thì nói
Sa-môn Thích tử nên cất giữ vàng bạc. Có người thì nói không nên cất giữ . Vậy
ai nói thật, nói đúng pháp, nói tùy thuận pháp, nghị luận không trái nghịch với
phép tắc hiện tại?"
Phật đáp: "Sa-mônThích
tử không nên cất giữ vàng bạc. Nếu có ai nói nên cất giữ, thì đó là phỉ báng
ta, không thật, không đúng pháp, không tùy thuận, là lời nghị luận trái với
phép tắc hiện tại. Vì sao vậy? Vì nếu được cất giữ vàng bạc thì cũng được duy
trì ngũ dục. Ngũ dục là: Mắt phân biệt sắc pháp sinh ra ái nhiễm, cho đến thân
xúc chạm sinh ra ái nhiễm. Phải biết rằng đó không phải là pháp của Sa-mônThích
Tử".
Vị Thôn trưởng nói:
"Thật là kỳ lạ, Bạch Thế Tôn! Chưa từng có việc như thế. Bạch Thế Tôn! Như
Thế Tôn nói Sa-môn Thích tử không nên cất giữ vàng bạc. Nếu cất giữ vàng bạc
thì không phải pháp của Sa môn, không phải pháp của dòng họ Thích. Vì thế, nay
con xin quy y Phật, quy y pháp, quy y Tăng. Con là đệ tử tại gia của Phật, xa
lìa sát sinh, Thế Tôn hãy chứng minh cho con. (nói như thế 3 lần) cho đến: Không
uống rượu. Trước đây con đã suy nghĩ: Sa-môn Thích tử không nên cất giữ vàng
bạc. Nếu ai cất giữ thì chẳng khác gì người hưởng thụ ngũ dục".
Bấy giờ Thế Tôn liền tùy
nghi thuyết pháp chỉ dạy Thôn trưởng khiến ông được lợi ích, hoan hỉ, giống như
tấm lụa sạch dễ thấm màu nhuộm. Ông liền thấy được lý Tứ Đế ngay tại chỗ ngồi,
bèn bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Người thế tục có nhiều công việc, con
xin từ biệt trở về".
Phật nói: "Ông nên tự
biết đúng lúc".
Ông liền đứng dậy đảnh lễ
dưới chân Phật, nhiễu bên phải rồi ra đi.
Sau khi ông đi không bao lâu
Phật bèn đến chỗ có đông Tỉ-kheo trải tọa cụ ngồi, nói với các Tỉ-kheo:
"Vừa rồi thôn trưởng Thôn Chu La đến chỗ ta (như trên đã nói cho đến) nhiễu
bên phải rồi ra đi".
Đoạn Phật nói với các
Tỉ-kheo: "Các thầy (311a) phải học như sau: "Không được cất giữ vàng
bạc. Ta không có lý do gì được phép cất giữ vàng bạc".
Họ liền đáp: "Bạch Thế
Tôn! Con vừa đếm tiền, nên tay bị dính đất".
Phật liền nói với Nan-đà:
"Vì sao các thầy lại dùng tay để cầm "sinh sắc", "tợ
sắc"? Từ nay ta không cho phép các thầy tự tay cầm "sinh
sắc""tợ sắc".
Lại nữa, khi Phật an trú tại
tinh xá có lầu gác trong rừng nơi Tì-xá-li, nói rộng như trên. Khi ấy,
Ưu-đà-diđến giờ khất thực, bèn khoác y, cầm bát đi tới nhà một người thợ hồ. Nhà
ông Này vừa làm lễ khánh hạ xong, bà vợ bèn bước ra nghênh đón làm lễ, hỏi:
"Tôn giả, hôm qua vì sao không đến? Nếu đến thì đã được thức ăn uống ngon
rồi".
Thầy liền đáp: "Hôm
qua, bữa nay thì có sao đâu? Nếu có thức ăn ngon thì hãy mang ra đây".
Bà liền nói: "Thức ăn
ngon hết rồi, nay con xin gởi tiền để tôn giả đến quán ăn mua thức ăn ngon
khác".
Thầy nói: "Đức Thế Tôn
chế giới, không cho ta tự tay cầm tiền. Bà hãy đem tiền buộc vào chéo y của
ta".
Bà theo lời chỉ bảo, đem
tiền buộc vào chéo y, rồi thầy ra đi, đến một quán bán bánh, nói với chủ quán:
"Lão trượng, hãy mang bánh cho tôi".
Ông ta nói: "Tôn giả
cho tôi xem tiền đã".
Ưu-đà-dinói: "Ông chỉ
cần đưa bánh cho ta, ta sẽ trao tiền cho ông ngay tại đây thôi".
Ông liền nói: "Tôn giả
hãy đưa bát ra".
Thế rồi, ông liền đem các
thứ bánh bỏ vào đầy bát, và nói: "Xin đưa tiền cho tôi".
Ưu-đà-dibảo: "Ông hãy
mở chéo y của tôi ra mà lấy".
Ông chủ quán muốn đùa cợt
nên không chịu mở, nói: "Ông hãy tự mở lấy đưa cho tôi".
Ưu-đà-diđáp: "Phật
không cho phép tôi cầm sinh sắc, tợ sắc, ông hãy tự mở lấy".
Ông ta bèn mở lấy. Lấy xong,
chê trách: "Vì sao Sa-môn Thích tử lại dùng phương tiện sơ sài này, xem
đây là thanh tịnh! Chúng ta cũng ít khi dùng tay cầm nắm và đặt vào trong
miệng, cũng chẳng khi nào buộc vào chéo áo hoặc bỏ vào trong túi. Thế này thì
mất hết phép tắc Sa môn, nào có đạo hạnh gì?"
Thế rồi, Ưu-đà-dimang bánh
về phòng, mời các Tỉ-kheo khác cùng ăn. Các Tỉ-kheo hỏi: "Thứ bánh này rất
ngon, ở đâu mà có được vậy? Loại này không phải là bánh làm ở nhà".
Ưu-đà-diđáp: "Này các
trưởng lão! Trong đây lợi ít mà lỗi nhiều!"
Các Tỉ-kheo bèn hỏi:
"[311b] Vì sao nhiều lỗi?"
Đáp: "Tôi tạo nhân
duyên như vậy như vậy cho nên nhiều lỗi".
Các Tỉ-kheo bèn đem việc ấy
bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Ưu-đà-diđến. Khi thầy đến rồi, Phật
liền hỏi: "Ông có làm như vậy thật chăng?"
Thầy đáp: "Có thật như
vậy, bạch Thế Tôn".
Phật khiển trách: "Đó
là việc xấu. Từ nay về sau, dùng tiền buộc vào chéo y, Ta cũng không cho".
Lại nữa, khi Phật an trú tại
thành Ca-duy-la-vệ, nói rộng như trên. Vì năm việc lợi ích, nên Thế Tôn cứ năm
hôm đi quan sát phòng ở của các Tỉ-kheo một lần, bỗng thấy một Tỉ-kheo mang
bệnh huỳnh đãng ốm yếu. Phật biết mà vẫn hỏi: "Tỉ-kheo! thầy có kham nhẫn
nỗi khổ được chăng? Thầy có sống yên ổn chăng?"
Thầy ấy đáp: "Bạch Thế
Tôn! Con không được yên ổn, bị bệnh tật khổ não".
Phật liền hỏi thầy:
"Ông không thể đòi hỏi thức ăn hợp với bệnh, thuốc hợp với bệnh được sao?"
Thầy đáp: "Con nghe Thế
Tôn chế giới Tỉ-kheo không được tự tay cầm sinh sắc, tợ sắc, lại không có ai
đưa cho con, nên con phải chịu khổ não".
Phật liền nói: "Từ nay
về sau, ta cho phép người bệnh được quyền sai tịnh nhân cất tiền bạc, nhưng chớ
có tham trước".
Thế rồi, Phật truyền cho các
Tỉ-kheo tại thành Ca-duy-la-vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế
giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--"Nếu Tỉ-kheo tự
tay cầm sinh sắc, tợ sắc hoặc sai người cầm nắm với ý tham trước thì phạm
Ni-tát-kì Ba-dạ-đề".
Giải thích
(Một số từ đã được giải
thích ở trước)
- Sinh sắc:
Chỉ cho vàng.
- Tợ sắc: Chỉ
cho bạc.
- Sinh sắc tợ sắc:
Chỉ cho các loại tiền tệ dùng ở thị trường.
- Cầm: Hoặc tự
mình cầm, hoặc bảo người khác cầm.
- Nắm: Hoặc tự
mình nắm, hoặc bảo người khác nắm.
- Tham trước:
Suy nghĩ như sau: "Ta sẽ dùng vật này để đạt được năm thứ dục lạc như:
Sắc, thanh, hương, vị, xúc". Đó gọi là tham trước.
- Không tham trước:
Như vị Tỉ kheo trì giới thanh tịnh tự gánh lương thực như bún, bánh, gạo, bột
gạo.v.v., khi ấy suy nghĩ: "Ta không có phương tiện nào khác nên bất đắc dĩ
phải dùng đến thức ăn Này". Trái lại, nếu đối với các vật bất tịnh Này mà
tưởng là những vật thanh tịnh, như sau: "Ta sẽ thọ dụng những thứ
Này", thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề.
- Ni-tát-kì Ba-dạ-đề:
Các thứ tiền, vàng bạc Này phải đem thí xả giữa chúng Tăng, rồi sám hối tội
Ba-dạ-đề. Nếu không thí xả [311c] mà sám hối thì phạm tội Việt tì-ni .
Các thứ vàng bạc hay tiền,
hoặc nhiều, hoặc ít, hoặc thuần, hoặc tạp, hoặc đã làm thành dụng cụ, khi đem
thí xả giữa chúng Tăng, thì Tăng không nên cho lại Tỉ-kheo ấy, cũng không được
phân chia. Nếu nhiều thì nên bỏ vào quỹ tiết kiệm. Sau khi bỏ vào quỹ tiết kiệm,
nếu sinh lợi tức, thì được dùng nó làm phòng xá, sắm y, mà không được mua sắm
thức ăn.
Tỉ-kheo khi nhận được tiền,
và sau mùa an cư xong nhận được tiền sắm y, không được đưa tay cầm lấy mà phải
nhờ tịnh nhân lấy giúp.
Nếu không có tịnh nhân thì
hãy bảo thí chủ bỏ dưới đất bên cạnh chân mình. Sau đó, mình dùng cỏ, lá, gạch,
ngói tủ lên trên, đợi tịnh nhân đến, chỉ cho họ thấy để họ cầm lấy. Nếu tịnh
nhân không đáng tin cậy, thì bảo họ đi trước mình, và bảo để tiền tại nơi nào
đó.
Nếu Tỉ-kheo làm tri sự trông
coi việc của Phật, của Tăng có nhiều tiền vàng bạc để tại chỗ sinh địa thì nên
chỉ cho tịnh nhân biết. Nếu để chỗ tử địa kín đáo thì hoặc tự mình đào lấy,
hoặc sai Tỉ-kheo trẻ tuổi đào lấy. Nếu tịnh nhân không đáng tin, thì nên dùng
khăn bịt mắt họ ba vòng, rồi mới dẫn đến chỉ cho họ biết chỗ đất, sau đó chỉ
cho biết hầm để tiền, và cứ để mắt bị bịt như thế bảo đi khỏi nơi đó. Nếu tiền
rơi trên bờ hầm, thì được dùng ngói gạch gạt cho tiền rớt xuống hầm, và được tự
tay đậy nắp hầm lại. Sau đó khi cần lấy, nếu là chỗ sinh địa thì chỉ cho tịnh
nhân biết; nếu là chỗ tử địa thì được tự tay đào lên cho đến khi gặp tiền, bèn
sai tịnh nhân đến lấy. Nếu tịnh nhân không đáng tin thì phải bịt mắt y 3 vòng
rồi dẫn đến lấy. Nếu trong cái khăn gói để trên đầu cây gậy có vàng, bạc, tiền
thì không được tự tay cầm lấy mà nên bảo cho tịnh nhân biết. Nếu tịnh nhân bé
nhỏ không sờ tới thì được bồng y lên khiến y lấy. Khi bồng y nên nói như sau:
"Tôi bồng tịnh nhân, tôi bồng tịnh nhân". Lúc đem gói đồ xuống rồi
phải bảo y mở ra. Nếu y không biết mở thì được phép cầm tay y chỉ cho y mở. Khi
mở xong bảo y đếm. Nếu y không biết đếm thì được phép cầm tay y mà đếm. Khi đếm
xong, số còn thừa bảo y bỏ lại vào túi. Nếu y không biết cầm bỏ vào túi, thì
được phép cầm [312a] tay y dạy y bỏ vào túi. Khi bỏ vào túi xong nên bảo tịnh nhân
buộc túi lại. Nếu tịnh nhân không biết buộc, thì bảo y nâng cái đáy túi, rồi
Tỉ-kheo tự tay mình buộc. Khi buộc xong nên đem để lại trên đầu gậy như trước.
Nếu tịnh nhân thấp để không tới thì Tỉ-kheo được phép bồng y lên.
Nếu kho lẫm, rương, tủ để
trên gác, trên cột trụ, thì khi lấy, khi mở ra, khi đậy lại cũng như thế.
Nếu khi đi đường, tịnh nhân
mang vàng bạc, mà y còn bé, thì ta được phép dùng tay dắt y đi. Nếu khi lội
nước, thì ta được phép dìu y lội qua, nhưng phải nói: "Tôi dìu tịnh nhân,
tôi dìu tịnh nhân".
Nếu Tỉ-kheo dẫn tịnh nhân
theo, lúc đi qua đò mà y còn bé không lên đò được, thì Tỉ-kheo được phép đỡ y
lên đò, nhưng phải nói: "Tôi đỡ tịnh nhân, tôi đỡ tịnh nhân". Khi
xuống đò, cũng như vậy. Trên đường đi, Tỉ-kheo dừng lại ở trên bờ sông, bên
giếng hoặc trên ao hồ để ăn uống nghỉ ngơi, rồi lúc ra đi, tịnh nhân để quên
túi xách. Bấy giờ có vị trưởng lão Tỉ-kheo đi sau, xem có ai để quên vật gì
không, thì thấy có một gói đồ sót lại, bèn suy nghĩ: "Cái Này ắt là của vị
Tỉ-kheo kia", bèn cầm lấy mang đi, khi đi kịp chúng bạn, bèn hỏi:
"Vật Này của ai vậy?"Lúc ấy có người nói: "Đó là gói đồ của tịnh
nhân". Vị trưởng lão bèn bỏ gói đồ xuống đất. Bấy giờ, tịnh nhân nên cầm
lấy mang đi, nhưng không được gọi tên gói đồ.
Nếu Tỉ-kheo cùng đi đường
với tịnh nhân, khi đêm đến dừng nghỉ tại một chỗ, rồi tờ mờ sáng ra đi. Bấy
giờ, tịnh nhân cầm nhầm gói đồ của Tỉ-kheo, Tỉ-kheo cầm nhầm gói đồ của tịnh
nhân. Khi đến nơi, Tỉ-kheo mới nhận ra gói đồ mình cầm là của Tịnh nhân, thì
nên bỏ xuống đất, và tịnh nhân phải đến lấy mà không được gọi tên gói đồ (tức
không được gọi là túi đựng bạc).
Nếu Tỉ-kheo nhiều vàng, bạc,
tiền bị mất, và nghi bị rơi ở bên cạnh giường, nên muốn tìm lại, thì khi rời
khỏi giường, phạm tội Việt tì-ni . Nếu tìm lại được thì phạm tội Ni-tát-kì.
Nếu Tỉ-kheo có nhiều tiền
bạc, nghi là cất trong mền len, nên định tìm kiếm thì khi mở chiếc mền ra, phạm
tội Việt tì-ni . Khi được tiền, phạm tội Ni-tát-kì.
Nếu Tỉ-kheo có nhiều tiền
bạc, nghi bị rơi trên đất, muốn tìm kiếm thì khi cầm chổi quét đất, phạm tội
Việt tì-ni . Nếu tìm lại được, thì phạm tội Ni-tát-kì.
Nếu Tỉ-kheo có nhiều tiền
bạc, nghi bị rơi trong đống rác, nên định tìm kiếm, thì khi bươi đống rác, phạm
tội Việt tì-ni, khi được tiền phạm tội Ni-tát-kì.
Nếu Tỉ-kheo lâm bệnh, có đàn
việt cúng dường tiền thuốc, vì bệnh nên được nhận tiền, đem cất dưới mền. Khi
cần tìm lấy, nhưng vì trong tối mắt không trông thấy, dùng tay rờ đụng tiền,
thì không có tội.
Nếu đàn Việt làm giường ghế mới
bằng vàng bạc, vì có lòng tin, nên muốn để Tỉ-kheo sử dụng trước nhất, rồi
Tỉ-kheo nói: "Tôi là người xuất gia, luật không cho phép dùng". Đàn việt
lại nói: "Tôn giả vì tôi mà khai thông có được thọ dụng không?"
Tỉ-kheo nên nói: "Hãy xếp một tọa cụ cho dày lót lên, thì tôi mới ngồi
được". Nhưng khi Tỉ-kheo ngồi rồi thì không được [312b] lay động cái
giường, cũng không được khen ngợi.
Nếu đàn việt làm xe, máy móc
mới bằng vàng bạc, vì có tín tâm nên muốn để Tỉ-kheo sử dụng trước tiên, khi ấy
Tỉ-kheo nói: "Tôi là người xuất gia luật không cho phép sử dụng vật
ấy". Người kia lại nói: "Tôn giả hãy vì tôi mà phương tiện khai thông
thọ dụng giúp cho". Tỉ-kheo nên bảo: "Nếu trên xe có lót lá cây, hoặc
lót tấm vải lên trên, thì tôi mới đặt chân lên được". Nhưng sau khi đặt
chân lên, không nên động chân, cũng không được khen ngợi.
Có người đàn việt làm cái
mâm vàng bạc, vì có tín tâm nên muốn để Tỉ-kheo sử dụng trước nhất, Tỉ-kheo
nói: "Tôi là người xuất gia, không được phép dùng vật ấy".
Người kia nói: "Tôn giả
có thể vì tôi mà khai thông phương tiện thọ dụng được không?"Tỉ-kheo nên
nói: "Nếu dùng cỏ, lá cây hay tấm vải phủ lên trên đó thì có thể
được". Nhưng không được dùng tay cầm mà nên bảo họ bưng để xuống đất.
Nếu đàn việt làm chén bát
mới bằng vàng bạc, vì tín tâm nên muốn nhờ Tỉ-kheo sử dụng trước nhất. Rồi
Tỉ-kheo nói: "Tôi là người xuất gia không được phép dùng nó". Người ấy
lại nói: "Tôn giả có thể vì tôi mà khai thông phương tiện thọ dụng được
không?"Tỉ-kheo nên đáp: "Ngươi nên rửa sạch, đặt trên mâm, đem thức
ăn bỏ vào, rồi đưa tay chỉ bát nói: "Dùng, dùng... ". Nói 3 lần như
vậy, đó gọi là dùng. Nhưng khi ăn, Tỉ-kheo chỉ ăn thức ăn trong bát, không được
động đến xung quanh bát.
Nếu ngày mồng tám tháng tư
hay các ngày đại hội cúng dường, tất cả các tháp, tượng Bồ tát, cờ phướn bảo
cái, những dụng cụ cúng dường ấy có thếp vàng bạc thì Tỉ-kheo không được cầm
đến mà nên bảo tịnh nhân cầm. Nếu bị rơi xuống đất, thì nên cầm chỗ nào không
có vàng bạc nhặt lên. Nếu được thếp vàng khắp cả thì nên dùng vải bọc tay rồi
mới cầm. Nếu không có vật gì bọc tay mà trên tượng có chỗ chưa thếp vàng thì
nên cầm chỗ ấy. Tất cả các thứ như lư hương, đèn, cán phất trần mà có thếp
vàng, đều không được cầm. Khi tắm rửa tượng Bồ tát bằng vàng bạc thì không được
tự tay mình tắm mà phải bảo tịnh nhân làm. Vào những ngày đại hội, Tỉ-kheo bảo
tịnh nhân lấy ra các tượng bằng vàng bạc, Tỉ-kheo chỉ được đỡ giúp tịnh nhân,
không được cầm. Và trên tượng có thếp vàng, Tỉ-kheo không được trước cầm rồi
sau thả ra. Tùy theo mỗi nước, có nước dùng tiền bằng đồng, hoặc tiền bằng vỏ
ốc, hoặc tiền bằng sắt, hoặc tiền bằng hồ dao, hoặc tiền bằng thẻ tre, hoặc
tiền bằng da... Tất cả các loại tiền ấy, Tỉ-kheo không được cầm. Hoặc có những
nước người ta sử dụng tiền tệ mà chưa thành hình tướng của tiền tệ, Tỉ-kheo cầm
nó thì phạm tội Việt tì-ni . Có những nước người ta dùng loại tiền tệ không có
hình dạng của tiền tệ, mà Tỉ-kheo cầm nó thì phạm tội Việt tì-ni . Có những
nước người ta dùng loại tiền tệ có hình dạng của tiền tệ mà Tỉ-kheo cầm nó thì
phạm tội Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. [312c] Có những nước người ta dùng loại tiền tệ
không có hình dáng của tiền tệ, Tỉ-kheo xem nó như loại đồng, sắt mà cầm, thì
không có tội. Thế nên nói (như trên).
(Hết giới Ni-tát-kì 17)
Khi Phật an trú tại thành
Xá-vệ, nói rộng như trên, bấy giờ, nhóm 6 Tỉ-kheo mua các thứ sinh tô, dầu,
mật, đường phèn, sữa, sữa chua tại giữa chợ để dùng, nên bị người đời chê trách
rằng: "Vì sao Sa-mônthích tử không chịu khất thực mà đến các chợ mua thức
ăn để ăn, mất hết cả phép tắc Sa môn, có đạo nào như thế?"
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc
ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm 6 Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi,
Phật liền hỏi: "Có thật các ông mua các thức ăn tại chợ nên bị người đời
chê trách không?"
Họ đáp:"Có thật như
vậy, bạch Thế Tôn".
Phật khiển trách: "Đó
là việc xấu, đáng bị người chê trách. Các ông không nghe ta thường khen ngợi
thiểu dục, khiển trách đa dục hay sao?. Đó là việc phi pháp, phi luật, trái lời
ta dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp".
Thế rồi, Phật truyền lệnh
cho tất cả các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, vì
mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi, cũng phải nghe lại:
--"Nếu Tỉ-kheo mua
bán các thứ thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề".
Giải thích
- Các thứ: Hoặc
tự hỏi giá, hoặc nhờ người khác hỏi giá, hoặc tự thách giá, hoặc nhờ người khác
thách giá, hoặc tự hạ giá, hoặc nhờ người khác hạ giá.
- Tự hỏi giá:
Như hỏi: "Vật này giá bao nhiêu?". Và họ đáp: "Bán cho ông giá
chừng đó". Rồi hỏi: "Tôi mua với giá đó được không?"Vì cách hỏi
không thanh tịnh, nên phạm tội Việt tì-ni . Nếu mua được vật ấy thì phạm
Ni-tát-kì.
- Sai người khác hỏi:
Như bảo: "Ngươi đến hỏi xem vật ấy họ đòi bao nhiêu". Hoặc bảo:
"Nếu họ đòi giá chừng đó thì ngươi nên trả cho họ". Vì sai người ta
hỏi những lời bất tịnh nên phạm tội Việt tì-ni . Nếu mua được vật đó thì phạm
Ni-tát-kì.
- Thách giá: Chẳng
hạn họ hỏi: "Vật Này giá bao nhiêu?" Rồi mình đáp: "Tôi bán cho
ông với giá đó". Và người kia nói: "Tôi muốn mua với giá đó". Do
tranh nhau thách trả nói những lời bất tịnh nên phạm tội Việt tì-ni . Nếu bán
được vật đó, thì phạm Ni-tát-kì.
- Sai người thách giá:
Như bảo tịnh nhân: "Ngươi đến thách giá như vậy. Nếu được giá đó thì
bán". Vì nói lời bất tịnh nên phạm tội Ni-tát-kì.
- Hạ giá: Như
hỏi: "Giá vật Này bao nhiêu?"Rồi Họ đáp: "Một nghìn", và
mình nói: "Tôi trả cho ông 800". Nếu họ đòi 900, rồi mình nói:
"Tôi trả 700"... cho đến 10. Vì mong mua được vật của người ta mà bớt
giá một cách bất tịnh, nên phạm tội Việt tì-ni . Nếu mua được thì phạm
Ni-tát-kì.
- Sai ngưòi hạ giá:
Cũng như vậy. Nếu căn cứ theo thời giá mà đi mua các vật, như vật dùng ban đêm,
[313a] vật dùng trong 7 ngày, vật dùng suốt đời, vật tùy thân, vật nặng, vật
bất tịnh, vật vừa thanh tịnh vừa bất tịnh, khi nói thì phạm tội Việt tì-ni, khi
mua được thì phạm tội Ni-tát-kì. Nếu hỏi mua các vật dùng 7 ngày, trọn đời, tùy
thân, vật nặng, vật vừa thanh tịnh vừa bất tịnh ..., thì khi hỏi mua cũng phạm
tội như vật dùng ban đêm kể trên.
Tại chợ, giá vải đã được quy
định sẵn, Tỉ-kheo đem tiền đến mua vải, khi đặt tiền xuống sạp thì nên nói với chủ
sạp: "Đây là giá tiền của tấm vải đó". Nếu không nói (mà đặt tiền
xong) im lặng cầm vải đi thì phạm tội Việt tì-ni . Nếu mua dù lọng, rương, giày
da, quạt, mía, cá, sữa chua, dầu, mật... các vật ấy cũng như vậy.
Có những quốc gia, việc mua
bán tại các chợ đã có phép nhất định, người mua chỉ cần cầm tiền đặt ở chỗ vật
cần mua, và người chủ sạp gật đầu, thì biết là đồng ý bán. Nhưng Tỉ-kheo khi
mua cũng phải nói: "Giá tiền của vật Này đây". Người chủ sạp biết hay
không biết, đều phải nói như thế. Nếu không nói như thế mà im lặng cầm món hàng
đi thì phạm tội Việt tì-ni .
Nếu món hàng đáng giá 50
đồng mà người chủ sạp thách giá 100 đồng, rồi Tỉ-kheo nói: "Tôi chỉ trả 50
đồng". Chỉ mong mua với giá như vậy, thì không gọi là bớt (hạ) giá.
Nếu Tỉ-kheo biết người đứng
trước mình đang muốn mua vật nào đó thì không được tranh mua mà nên hỏi:
"Bà đã thôi chưa?"Nếu họ nói: "Tôi đang cố mua với giá đó".
Bấy giờ Tỉ-kheo không nên xen vào tranh mua với họ. Nếu mua thì phạm tội Việt
tì-ni . Nhưng nếu người mua nói: "Tôi dừng rồi", thì Tỉ-kheo nên nói
với người chủ sạp: "Tôi muốn mua vật kia với giá đó".
Nếu Tỉ-kheo trao đổi y bát
với nhau thì không được làm trung gian tranh giành. Nếu tranh giành thì Phạm
tội Việt tì-ni . Nếu người trước đã bỏ cuộc, rồi mình đổi lấy thì không có tội.
Nếu bán đồ vật giữa chúng
tăng thì được phép ra giá, khi bán được thì không có tội.
Nếu Hòa thượng, A-xà-lê muốn
mua lấy thì không được tranh giành. Nếu Tỉ-kheo với Tỉ-kheo mua bán đổi chác,
nói những lời bất tịnh để mua thì không có tội. Đối với 96 hạng người xuất gia,
dùng những lời bất tịnh trao đổi với họ để mua được vật thì không có tội.
Nếu Tỉ-kheo thấy người ta
bán bát bèn suy nghĩ: "Cái bát Này đẹp, nếu đem đến nơi kia bán sẽ được
lời", rồi mua, thì phạm tội Việt tì-ni . Trái lại, nếu suy nghĩ: "Ta
có vật Này mà không có tịnh nhân, đây là vật thanh tịnh", thì được mua mà
không có tội. Khi đến đó, hoặc Hòa thượng, A-xà-lê cần đến, hoặc mình bị bệnh,
hoặc muốn làm công đức, được giá cao bèn bán đi mà không vụ lợi, thì không có
tội. Đối với tất cả các vật khác cũng như vậy.
Nếu Tỉ-kheo khi cất giữ lúa
suy nghĩ: "[313b] Loại Này về sau sẽ quí giá", thì khi cất giữ phạm
tội Việt tì-ni, khi đem bán, phạm Ni-tát-kì. Nếu suy nghĩ: "Sợ lúc nào đó
giá lúa đắt đỏ, bấy giờ ta sẽ bán lúa Này và nhờ đó mà ta yên tâm tụng kinh
ngồi thiền, hành đạo". Đến khi đó, quả nhiên lúa đắt đỏ, thì hoặc dùng để
ăn, hoặc cho Hoà Thượng, A-xà-lê, hoặc dùng làm công đức, còn thừa ra đem bán
được lời, thì không có tội.
Nếu Tỉ-kheo cất thảo dược
với suy nghĩ: "Sau Này giá đắt ta sẽ bán", thì phạm tội Việt tì-ni.
Về sau đem bán thật thì phạm tội Ni-tát-kì.
Nếu Tỉ-kheo mua thuốc với
suy nghĩ: "Về sau Này khi có bệnh sợ giá thuốc đắt đỏ khó mua", nhưng
sau đó nếu không bệnh, hoặc uống còn thừa đem bán có lợi, thì không có tội.
Nếu Tỉ-kheo kinh doanh thuê
thợ làm đồ gốm, thợ mộc làm việc, nói những lời bất tịnh, thì phạm tội Việt
tì-ni . Nếu đi thuê các loại thợ như thợ hồ, thợ vẽ, thì cũng như vậy. Nếu đi
thuê xe ngựa, bò, lừa, lạc đà, người, thuyền ... cũng như vậy.
Nếu Tỉ-kheo phụ trách công
việc hằng tháng cho chúng Tăng, ra chợ mua các loại sữa, dầu, gạo, đậu, lúa
mạch, bún, bột mì, khi đi tìm mua các thứ đó, nói những lời bất tịnh, thì phạm
tội Việt tì-ni . Hoặc tự mua cho chính mình các thứ sữa, dầu ... nói những lời
bất tịnh thì phạm tội Việt tì-ni . Khi đã mua được thì phạm Ni-tát-kì.
Nếu Tỉ-kheo lúc đi mua đồ
khen chê một cách trung thực về những vật ở trước người rằng: "Cái Này
tốt, cái Này xấu, hoặc thô, hoặc tế, hoặc cân lượng lớn, nhỏ, thơm, thối ...
thì không có tội. Nếu người bán hàng nói: "Tôi sẽ cân đo đầy đủ".
Tỉ-kheo nên nói: "Ông bán đúng với giá Này thì thôi".
Nếu Tỉ-kheo khất thực có mì,
bún, thừa đem ra cửa hàng đổi sữa, dầu, tô lạt, nói những lời bất tịnh thì phạm
tội Việt tì-ni . Khi đổi được thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề.
Tỉ-kheo không được đến những
cửa hàng của những người tại chợ búa ồn náo để mua đồ, mà được đến những cửa hàng
ít người, nói: "Nên biết rằng tôi mua với giá Này đây". Tất cả đều
nên nói như thế.
Nếu Tỉ-kheo khất thực có bún
dư thừa, đem cho người khác để nhờ họ sửa chữa giày dép, nói những lời bất tịnh
thì phạm tội Việt tì-ni. Nếu trước đó cho người ta bún, sau đó người ta sửa
chữa giày giúp, hoặc nguời ta sửa chữa trước, sau đó mình cho họ bún thì không
có tội.
Nếu Tỉ-kheo dùng thức ăn
thừa trong bát đem thuê người bảo họ sửa chỗ đi kinh hành, nói những lời bất
tịnh, thì phạm tội Việt tì-ni . Chỉ nên nói rằng: "Hãy biết cái Này".
Nếu trước cho ăn, sau nhờ họ làm, hoặc trước nhờ họ làm, sau cho họ ăn, thì
không có tội.
Có đàn việt muốn giúp đỡ
Tỉ-kheo bèn đưa tiền cho chủ quán, nói: "Nếu Tỉ-kheo mỗ giáp hằng ngày đến
đây có cần thứ gì thì tùy ý đưa cho thầy ấy". Về sau, khi cần đến đòi hỏi,
nói những lời bất tịnh, thì không có tội. Thầy Tỉ-kheo ấy đòi đồ vật mà ở sạp
hàng không có [313c], nên chủ quán đưa tiền cho Tỉ-kheo đến chỗ khác tìm mua,
rồi Tỉ-kheo đến chỗ khác tìm mua vật mình cần, nói những lời bất tịnh, khi được
vật thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề.
Tỉ-kheo đến cửa hàng dùng
bất tịnh ngữ phân biệt giá, tịnh ngữ thủ, hoặc tịnh ngữ phân biệt giá, bất tịnh
ngữ thủ, hoặc bất tịnh ngữ phân biệt giá, bất tịnh ngữ thủ, hoặc tịnh ngữ phân
biệt giá, tịnh ngữ thủ.
- Bất tịnh ngữ phân
biệt giá, tịnh ngữ thủ: Như hỏi người chủ sạp: "Vật Này đòi giá
bao nhiêu? Tôi muốn biết giá của nó".
- Tịnh ngữ phân biệt
giá, bất tịnh ngữ thủ: Biết vật đó đề giá như thế, nhưng trả: "Tôi
muốn mua với giá đó".
- Bất tịnh ngữ phân
biệt giá, bất tịnh ngữ thủ: Vật đó họ đòi giá như thế, nhưng nói:
"Tôi mua với giá đó".
- Tịnh ngữ phân biệt
giá, tịnh ngữ thủ: Biết vật ấy giá chừng đó và mình mua đúng với giá đó.
Hai trường hợp Bất tịnh ngữ
phân biệt giá, tịnh ngữ thủ và tịnh ngữ phân biệt giá, bất tịnh ngữ thủ, phạm
tội Việt tì-ni. Trường hợp bất tịnh ngữ phân biệt giá, bất tịnh ngữ thủ, phạm
Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. Trường hợp Tịnh ngữ phân biệt giá, tịnh ngữ thủ không có
tội. Thế nên nói (như trên).
(Hết giới Ni-tát-kì 18)
Khi Phật an trú tại tinh xá
có lầu gác trong rừng Đại lâm, nơi thành Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ
Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà mua vàng từ các nhà hoàng tộc rồi bảo thợ kim hoàn của các
hoàng tộc làm dụng cụ trang sức bằng chuỗi anh lạc. Khi làm xong đem mài giũa
phát sáng, cất vào trong va li, dùng tấm lụa màu hoa sen xanh phủ lên trên, rồi
đưa cho Sa-di, dặn rằng: "Ta dẫn ngươi đến các nhà hào quí, nếu ta bảo ngươi
mở nắp va li, thì ngươi chỉ mở lộ ra một góc". Thế rồi, họ dẫn Sa-di đến
các nhà hào quí. Phụ nữ các nhà ấy trông thấy họ đến, liền ra cúi đầu đảnh lễ dưới
chân, đứng hầu một bên, và hỏi: "Vật gì đựng trong va li Này vậy?"
Họ đáp: "Hỏi cái Này
làm gì? Đó không phải là điều các người nên hỏi".
Vì không cho xem, nên các bà
ân cần nói với Sa-di: "[314a] Mở ra cho chúng tôi xem với".
Sa-di bèn mở hé ra cho xem
một góc. Màu xanh càng giúp cho xâu chuỗi nổi rõ màu sắc, và ánh mặt trời chiếu
vào càng làm rực rỡ chói mắt. Mấy bà liền hỏi: "Vật Này của ai vậy?"
Họ đáp: "Hỏi cái Này
làm gì? Ai có vàng đem chế tạo ra tức là chủ nhân".
Mấy bà lại hỏi: "Giá
vàng bao nhiêu?"
Họ liền đáp đúng như thật:
"Giá vàng chừng đó, tiền công chừng đó".
Mấy bà liền tán thán:
"Thực là đại quí!"
Họ nói: "Vì sao bà lại
"chê"của quí? Tôi đưa cho bà giá tiền chừng đó liệu bà có làm được
không?"
Trong số đó có người thành
tín nói: "Đúng như thầy dạy, làm cũng thật là khó, không thể nào làm nhanh
được"
Trong số đó có một phụ nữ,
hoặc là có của riêng hoặc là của của cha mẹ, hoặc là tài sản của mẹ chồng, hoặc
là tài sản của chú Ưu Ba Nan bác, hoặc là tài sản của chồng, hoặc là của giữ
riêng cho gia đình, bèn lấy mua chuỗi anh lạc đó. Vì lúc ấy người Này không mua
vàng tại cửa hàng, cũng không thuê thợ kim hoàn làm, cho nên chủ nhân các tiệm
vàng và những thợ kim hoàn đều chỉ trích rằng: "Vì sao Sa-mônThích tử lại
đoạt mất nguồn lợi tức của người ta?"
Các Tỉ-kheo liền đem việc ấy
đến bạch lên Thế Tôn. Phật bảo đi gọi Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi,
Phật liền hỏi: "Có thật các ông mua vàng từ các nhà hoàng tộc, rồi bảo thợ
kim hoàn làm thành đồ trang sức không?"
Ho đáp: "Có thật như
vậy, bạch Thế Tôn".
Phật khiển trách: "Đa,
đó là việc xấu. Ông không từng nghe ta dùng vô số phương tiện chê trách đa dục,
ca ngợi thiểu dục hay sao? Đó là việc phi pháp, phi luật, trái lời Ta dạy, không
thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp". Thế rồi, Phật truyền lệnh cho
các Tỉ-kheo đang ở tại Tì-xá-li phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế
giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--"Nếu Tỉ-kheo mua
bán các thứ sinh sắc, tợ sắc thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề".
Giải thích
- Sinh sắc:
Vàng.
- Tợ sắc: Bạc.
Hoặc dùng vàng đổi lấy vàng,
dùng vàng đổi lấy bạc, dùng vàng đổi lấy vàng bạc; hoặc dùng bạc đổi lấy bạc,
dùng bạc đổi lấy vàng, dùng bạc đổi lấy vàng bạc; hoặc dùng vàng bạc đổi lấy
bạc, hoặc dùng vàng bạc đổi lấy vàng bạc. Hoặc dùng loại không thể làm ra vàng
đổi lấy loại không thể làm ra vàng; hoặc dùng loại không thể làm ra vàng đổi
lấy loại làm ra vàng; hoặc dùng loại không thể làm ra vàng đổi lấy loại có thể
hay không thể làm ra vàng; hoặc dùng loại không thể làm ra vàng đổi lấy loại làm
ra vàng hay không thể làm ra vàng.
Dùng loại làm ra vàng đổi
lấy loại làm ra vàng trong 4 trường hợp; dùng loại làm ra vàng đổi lấy loại
không thể làm ra vàng trong 4 trường hợp; dùng loại làm ra vàng không làm ra
vàng và làm, hoặc không thể làm ra vàng trong 4 trường hợp, đều như trên. Hoặc
dùng loại không thể làm ra vàng đổi lấy loại không thể làm ra bạc, hoặc dùng
loại không thể làm ra vàng đổi lấy loại làm ra bạc; dùng loại không thể làm ra
vàng đổi lấy loại có thể hay không thể làm ra bạc; dùng loại không thể làm ra
vàng đổi lấy loại làm ra bạc hay không làm ra bạc và có thể hay không thể làm
ra bạc. Các loại làm ra vàng trong 4 trường hợp [314b] làm hay không làm ra
vàng 4 trường hợp, làm ra vàng hay không làm ra vàng và vừa có thể vừa không
thể làm ra vàng trong 4 trường hợp, cũng như trên. Hoặc dùng loại không thể làm
ra vàng đổi lấy loại không thể làm ra vàng bạc; dùng loại không thể làm ra vàng
đổi lấy loại làm ra vàng bạc; dùng loại không thể làm ra vàng đổi lấy loại có
thể hoặc không thể làm ra vàng bạc; dùng loại không thể làm ra vàng đổi lấy
loại có thể làm và không thể làm ra vàng bạc.
Ngoài ra, làm dụng cụ bằng
vàng, làm không làm dụng cụ bằng vàng, làm thành vàng không làm thành vàng và
làm không làm dụng cụ bằng vàng 4 trường hợp, đều như trên. Về những dụng cụ
được làm bằng bạc theo 12 cách trong 4 trường hợp và những kim hoàn hợp chế
bằng vàng bạc theo 12 cách trong 4 trường hợp cũng được nói rộng như trên.
(Hết phần hai của
Ni-tát-kì.)
Khi Phật an trú tại thành
Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có một Tỉ-kheo đến giờ khất thực, liền khoác
y, cầm bát đi đến nhà một người thợ gốm tên Pháp Dự. Pháp Dự trông thấy liền
cúi đầu đảnh lễ dưới chân rồi đứng qua một bên. Tỉ-kheo nói:
- Tôi cần bát.
Pháp Dự bèn làm bát cúng
dường. Bát Này không lớn, không nhỏ, vừa cỡ trung bình, được nung chín nhẵn
bóng.
Sau khi được bát, thầy mang
về tinh xá Kỳ Hoàn, các Tỉ-kheo hỏi:
- Trưởng lão, thầy được bát
đó ở đâu mà không lớn, không nhỏ, vừa trung bình, được nung chín nhẵn bóng như
thế?
Thầy đáp:
- Thợ gốm Pháp Dự bố thí cho
tôi đấy.
Các Tỉ-kheo hỏi thế rồi, đi
đến nhà Pháp Dự xin, đều được tất cả. Quá nhiều người đến xin như thế, nên Pháp
Dự suy nghĩ: "Có nhiều Tỉ-kheo cần đến bát, chi bằng ta mời chúng Tăng về
nhà cúng dường bát, vì chúng Tăng là phước điền tốt nhất, phước báo vô lượng".
Nghĩ thế rồi, ông bèn đi đến
tinh xá Kỳ Hoàn, tới trước Thượng tọa, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, quỳ gối chắp
tay bạch:
- Con là thợ gốm Pháp Dự,
xin mời đại đức chúng Tăng tới nhà con nhận cúng dường bát. Ai cần thì đến lấy.
Khi ấy, các Tỉ-kheo người
thì lấy 1 cái, hoặc 2, 3, 4 thậm chí có người lấy 10 cái. Pháp Dự cung cấp
không đủ. Bấy giờ, tôn giả Xá-lợi-phất đến giờ khất thực, bèn khoác y, cầm bát
vào thành Xá-vệ tuần tự khất thực, lần lượt đến gia đình ấy. Người vợ của Pháp
Dự vốn có tín tâm, nên rất hoan hỉ, hơn nữa, bà đã từng quen biết Tôn giả Xá-lợi-phất
từ trước nên đem cái bát bằng đồng rửa sạch múc đầy thức ăn, bưng ra sớt vào
bát của Xá-lợi-phất, rồi cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng hầu một bên. Tôn giả
Xá-lợi-phất hỏi bà: "Nghề nghiệp sinh kế trong nhà thế nào?"
Bà đáp: "Việc sinh kế
trong nhà không được phát đạt".
Tôn giả hỏi: "Vì sao
thế?"
Bà đáp: "Chồng con mời
Chư Tăng về cúng dường bát. Các Tỉ-kheo người thì lấy 1 cái, 2 cái thậm chí có
người lấy 10 cái. Thế nên, làm bát cung cấp không đủ, việc sinh kế trong nhà không
xoay xở nổi. Tại vì sao? Vì gia đình con, lớn nhỏ, ăn uống, trang phục, cung
cấp cho vua chúa, thuế khoá đều dựa vào nghề làm đồ gốm mà sinh hoạt. Thầy là
người được gia đình con tôn trọng, cúng dường, nên mới dám bộc bạch như
thế".
Khi ấy, tôn giả Xá-lợi-phất
thuyết pháp rộng rãi cho bà ta sinh tâm hoan hỉ, rồi ra về. [314c] Khi về đến
tinh xá, tôn giả bèn đem sự việc ấy bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi các Tỉ-
kheo tới. Khi họ tới rồi, Phật hỏi: "Các ông có việc đó thật không?"
Họ đáp:"Có thật như
vậy, bạch Thế Tôn".
Phật nói với các Tỉ-kheo:
"Nếu thí chủ không biết tính toán, thì người thọ nhận phải biết cân
nhắc".
Rồi Phật nói: "Từ nay
trở đi, Tỉ-kheo có bát thừa, chỉ cho phép cất trong một ngày mà thôi".
Thế rồi, họ đi đến Thế Tôn,
cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đứng hầu một bên, bạch với Phật: "Bạch
Thế Tôn! Hằng năm chúng con mời chư Tăng thọ trai rồi cúng dường bát, nhưng các
Tỉ-kheo không thọ nhận và nói: "Tôi nhận cái bát Này làm gì, vì chưa dùng
đến mà thành ra bất tịnh rồi". Lành thay, bạch Thế Tôn! Có phương tiện nào
giúp khai thông để cho người bố thí được công đức, và người thọ dụng được lợi
ích hay không?".
Phật nói: "Ta cho phép
một ngày (đã cho phép) trước kia thêm chín ngày nữa".
Thế rồi, các Tỉ-kheo chứa
bát dư đủ mười ngày, bèn cầm bát đến chỗ Phật bạch rằng: "Cái bát Này đã
đủ mười ngày, giờ đây phải làm sao?"
Phật dạy: "Này các
Tỉ-kheo, cái bát ấy nên tác tịnh cho các Tỉ-kheo quen biết, cứ mười hôm cất cái
cũ, dùng cái mới thay đổi một lần".
Rồi Phật truyền lệnh cho các
Tỉ-kheo đang sống tại Tì-xá-li tập họp lại tất cả, vì mười việc lợi ích mà chế
giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--"Nếu Tỉ-kheo có
bát thừa được chứa trong mười ngày, nhưng để quá mười ngày thì phạm Ni-tát-kì
Ba-dạ-đề ".
Giải thích:
- Mười ngày:
Được cất chứa trong khoảng mười ngày.
- Bát thừa:
Cái bát được phép sử dụng ngoài cái bát (đã qui định).
- Bát: Có các
loại: 1 - bát Tham-bà; 2 - bát Ô-ca-tư-ma; 3- bát Ưu-ca-tra-da; 4- bát
Đa-kì-da; 5 - bát Sắt; 6 - bát Trí-diệp-ni; 7 - bát Tất-lệ-thâu; 8 - bát
Thượng; 9 - bát Trung; 10 - bát Hạ; 11 - Quá-bát; 12 - Phi-bát; 13 - Tùy-bát.
8- Bát thượng: Tại nước
Ma-kiệt-đề, cứ một A-la-gạo được nấu thành cơm và canh rau thì đựng vừa đầy
bát. Một A-la bằng một đấu 6 thăng của Trung Quốc.
9- Bát trung: Cứ nửa
A-la-gạo nấu thành cơm và cả canh rau thì đựng vừa đầy bát.
10- Bát hạ: Chứa được một
Bát-tha-gạo nấu thành cơm và canh rau, cứ 3 phần cơm thì một phần canh rau.
11- Quá bát: Một A-la-gạo
được nấu thành cơm [315a] và cả canh rau vẫn đựng không đầy bát Này. Đó gọi là
quá bát.
12- Phi bát: Chứa không hết
một bát tha gạo được nấu thành cơm và canh rau. Đó gọi là phi bát.
13- Tùy bát: Tùy theo những
thứ cần thiết mà đựng vào trong đó.
Ở đây, nếu cất bát thượng,
bát trung, bát hạ quá 10 ngày, thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề, ngoài ra cất các
loại bát khác không phạm.
- Ni-tát-kì Ba-dạ-đề:
Như trên đã giải thích.
Nếu Tỉ-kheo vào ngày mồng
một đầu tháng nhận được 10 cái bát mà không tác tịnh, để qua khỏi ngày thứ 10,
thì tất cả các bát ấy đều phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. Giá như ai không hiểu cách
thọ trì, không hiểu cách tác tịnh, thì nên dạy họ thọ trì như thế, tác tịnh như
thế. Nghĩa là như trong giới trường y thứ nhất đã trình bày rõ, ở đây chỉ khác
là bát thay vì y mà thôi. Thế nên nói (như trên).
(Hết giới Ni-tát-kì 20)
Khi Phật an trú tại thành
Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ ở thành Này có một người thợ gốm tên Pháp Dự
mời chư Tăng về cúng dường bát. Các Tỉ-kheo vì ưa đẹp nên đem bát cũ đổi bát
mới, rất nhiều người làm như vậy. Do đó, thí chủ không cung cấp nổi. Bấy giờ,
Tôn giả Xá-lợi-phất đến giờ khất thực, khoác y, cầm bát vào thành tuần tự khất
thực, đến gia đình Pháp Dự, đứng trước cửa. Bà vợ của Pháp Dự với Tôn giả
Xá-lợi-phất vốn là chỗ quen biết nhau từ trước, bà lại có lòng kính tín, nên
rất hoan hỉ, cho đến nói: "Thưa tôn giả, chồng con mời chư Tăng đến cúng
dường bát. Các Tỉ-kheo vì thích bát đẹp nên đem bát cũ đến đổi bát mới, khiến
nhà con chứa bát cũ chất cao như núi. Gia đình con là nhà thế tục, bát mới còn không
dùng, huống gì là bát cũ. Thưa Tôn giả, mọi sinh hoạt trong gia đình con chỉ
trông cậy vào nghề làm bát".
Thế rồi, Xá-lợi-phất tùy
thuận thuyết pháp, khiến bà sinh tâm hoan hỉ, đảnh lễ dưới chân rồi cáo lui.
Đoạn thầy trở về tinh xá, đem sự tình ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật bèn bảo
gọi các Tỉ-kheo đến. Sau khi họ đã đến, Phật liền hỏi: "Các ông có làm
việc đó thật chăng?"
Các Tỉ-kheo đáp: "Có
thật như thế, bạch Thế Tôn".
Phật dạy: "Từ hôm nay
trở đi, ta không cho các Tỉ-kheo xin bát (nơi đàn việt)".
Lại nữa, khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có 60 Tỉ-kheo ở phương Bắc muốn đến
tinh xá Kỳ Hoàn đảnh lễ Phật, nhưng giữa đường bị bọn cướp lấy mất hết bát, nên
không có bát để tới Kỳ Hoàn. Lúc ấy, các vị phạm hạnh mỗi người cho một cái
bát. Khi họ được bát rồi bèn đi đến Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, rồi
đứng hầu một bên. Phật biết nhưng vẫn hỏi: "Này các Tỉ-kheo, các ông từ đâu
đến?".
Họ đáp: "Từ phương Bắc
đến".
Phật lại hỏi các Tỉ-kheo:
"Đi đường có an ổn không?"
Họ đáp: "Không an ổn,
giữa đường gặp bọn cướp nên mất hết bát, [315b] do đó, không có bát để đi vào
Kỳ Hoàn, may nhờ các vị Phạm-hạnh mỗi người cho chúng con một cái bát".
Phật lại hỏi: "Dọc
đường không có thành ấp xóm làng hay sao?"
Họ đáp: "Có".
Phật lại hỏi: "Vì sao
không xin bát?"
Họ đáp: "Vì chúng con
nghe Thế Tôn chế giới không cho xin bát, lại không có thí chủ".
Phật tán thán: "Lành
thay! Lành thay các Tỉ-kheo! Các ông là những người có lòng tin xuất gia, đúng
phép phải như vậy, dù cho mất mạng cũng không được phạm giới. Từ nay trở đi, Ta
cho phép khi mất bát được quyền xin bát".
Lại nữa, khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ 60 Tỉ-kheo ở phương Bắc bị mất bát, đi
đến Kỳ Hoàn, Tôn giả Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà nói với họ: "Các Trưởng lão, Đức
Thế Tôn cho phép ai mất bát được quyền xin bát, vì sao không xin?"
Họ đáp: "Các vị phạm
hạnh đã cho chúng tôi bát rồi".
Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà lại
nói: "Các Vị không xin những gì mình được phép xin, thành ra thất
lợi".
Họ đáp: "Chúng tôi đã
được bát rồi, thất lợi với chẳng thất, không thành vấn đề".
Nan-đà nói: "Tôi sẽ xin
giúp cho các vị".
Họ đáp: "Thầy tự biết
phải làm gì", cho đến Ưu-bà-tắc nói: "Tôn giả muốn làm cửa hàng đồ
gốm chăng?", như đã được nói rõ ở mục xin y.
Các Tỉ-kheo nghe việc ấy,
bèn đến bạch với Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ
đến rồi, Phật hỏi: "Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà, các ông có việc đó thật chăng?"
Họ đáp: "Có thật như
vậy, bạch Thế Tôn".
Phật hỏi: "Vì lý do gì
mà xin?"
Họ đáp: "Con xin cho
các Tỉ-kheo bị mất bát".
Phật bảo gọi các Tỉ-kheo bị
mất bát đến. Khi họ đến rồi, Phật hỏi: "Các Tỉ-kheo, các ông bảo Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà xin bát phải không?"
Các Tỉ-kheo đáp: "Không
có, bạch Thế Tôn".
Phật nói: "Vậy thì vì
lý do gì mà xin?".
Họ liền trình bày lại sự
việc kể trên .
Phật nói với các Tỉ-kheo:
"Hai ông Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà Này việc không nên xin lại xin, việc đáng
xin lại không xin".
Thế rồi, Phật nói với
Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà: "Đó là việc xấu, các ông không từng nghe ta dùng vô
số phương tiện tán thán thiểu dục, khiển trách đa dục hay sao? Đó là việc phi
pháp, phi luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc Này để nuôi lớn thiện pháp
được".
Đoạn Phật truyền lệnh cho
các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích
mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--"Nếu Tỉ-kheo dùng
bát chưa vá đến 5 lần mà vì thích đẹp, xin bát mới, thì phạm Ni-tát-kì
Ba-dạ-đề. Cái bát ấy phải thí xả giữa chúng Tăng, rồi Tăng đem cái bát chót
nhất trao cho thầy ấy, dạy như sau: 'Này Tỉ-kheo, thầy hãy nhận cái bát này sử
dụng cho đến khi vỡ', nguyên tắc phải như vậy".
Giải thích:
- Chưa đủ 5 miếng vá:
Nếu có một miếng vá, hoặc [315c] từ 2 miếng cho đến 4 miếng thì gọi là chưa đủ
5 miếng vá.
- Đủ 5 miếng vá:
Đã có 5 miếng vá, và mức độ đã đủ. Mức độ ở đây được quy định là chỗ vỡ được vá
lại xấp xỉ bằng ngón chân cái.
- Bát: Như
trên đã nói.
- Mới: Vừa
hoàn thành.
- Lại tìm thêm nữa:
Hoặc xin, hoặc khuyến hóa, vì thích đẹp, rồi chê bát của mình đang dùng là lớn
quá, nhỏ quá, nặng quá, nhẹ quá, hoặc thô kệch quá ..., tự nghĩ: "Ta có đàn
việt, có đất sét, có tay nghề, ta nên làm cái bát khác cho đẹp". Nếu như
thế thì vị Tỉ-kheo Này phải cầm cái bát mới ấy đến thí xả giữa chúng Tăng. Rồi
chúng Tăng chọn một cái bát kém nhất đưa cho Tỉ-kheo Này và căn dặn: "Này
trưởng lão, thầy phải nhận cái bát Này sử dụng cho đến khi vỡ không được cố ý
đập bể; lại phải sám hối tội Ba-dạ-đề". Nếu không đem cái bát mới ấy xả giữa
chúng Tăng mà sám hối tội Ba-dạ-đề thì phạm tội Việt tì-ni .
- Ba-dạ-đề: Như
trên đã nói. Thầy Tỉ-kheo ấy dùng bát chưa vá (hàn) đủ 5 chỗ mà vì thích đẹp,
đi tìm bát mới nên phạm Ni-tát-kì. Tỉ-kheo ấy phải mời một vị trì luật, biết
làm Yết-ma và thành tựu 5 pháp, rồi Tăng làm Yết-ma cử vị Này đứng ra xử lý
công việc. Vị Này phải hội đủ 5 yếu tố: Không thiên vị, không giận dữ, không sợ
sệt, không si ám, ai đưa, ai không đưa đều biết. Đó gọi là 5 yếu tố. Người làm Yết-ma
nên nói như sau:
"Xin đại đức Tăng lắng
nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu 5 pháp, nếu thời gian thích hợp đối với Tăng,
nay Tăng sai Tỉ-kheo mỗ giáp làm người hành bát (giải quyết công việc).Đây là
lời tác bạch:
Xin đại đức Tăng lắng nghe!
Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu 5 pháp, Tăng nay sai Tỉ-kheo mỗ giáp làm người hành
bát. Các đại đức nào bằng lòng Tỉ-kheo mỗ giáp làm người hành bát thì im lặng,
ai không bằng lòng hãy nói. Tăng đã bằng lòng sai Tỉ-kheo mỗ giáp làm người
hành bát xong, vì tất cả đều im lặng. Việc ấy cứ như thế mà thi hành".
Khi làm Yết-ma xong, nên
tuyên bố giữa chúng Tăng: "Những cái bát mà đại đức Tăng đang sử dụng phải
đem đến tất cả". Nếu không tuyên bố như vậy thì phạm tội Việt tì-ni .
Thế rồi, mỗi Tỉ-kheo đều phải
mang cái bát mà mình đang sử dụng đến. Nếu có Tỉ-kheo nào để cái bát mình đang
sử dụng ở nhà, rồi đem cái bát kém nhất đến, thì phạm tội Việt tì-ni . Người
làm Yết-ma nên bảo Tỉ-kheo Này đặt cái bát ấy xuống, trật vai áo bên phải, quỳ
gối bên phải xuống đất, nói: "Con là Tỉ-kheo mỗ giáp, dùng cái bát chưa đủ
5 miếng vá mà vì ưa đẹp, đi tìm bát mới, nay con đem thí xả giữa chúng
Tăng".
Vị luật sư nên hỏi:
"Ông đã sử dụng chưa?" Nếu đáp rằng đã sử dụng thì nên nói: "Ông
đã sử dụng bát bất tịnh (không đúng pháp) nên đã phạm vô lượng tội Việt tì-ni, phải
sám hối".
Thế rồi, vị Này phải nói:
"Thưa trưởng lão, [316a] con là mỗ giáp, có cái bát dùng chưa đủ 5 miếng
vá mà con lại xin bát mới, nay đem thí xả giữa chúng Tăng, trong đây phạm tội
Ba-dạ-đề vì dùng bát bất tịnh, lại phạm vô lượng tội Việt tì-ni, con xin sám
hối tất cả".
Người làm Yết-ma hỏi:
"Ông có thấy tội không?"
Đáp: "Thấy".
- Cẩn thận chớ có tái phạm.
- Xin cúi đầu chấp hành.
Người hành bát (được Tăng
sai) phải đem cái bát Này đến đưa cho vị lớn nhất trong Tăng (Thượng tọa). Nếu
Thượng tọa thứ nhất nhận, thì phải đem cái bát của Thượng tọa đưa cho Thượng
tọa thứ hai, cứ tuần tự như thế cho đến vị Tỉ-kheo không có tuổi hạ. Nếu hoàn
toàn không có ai lấy, thì cái bát kia nên trao lại cho chủ cũ. Nhưng nếu cái
bát ấy quí giá thì nên đem bán rồi mua 10 cái, 9 cái đem cất vào nhà bếp của
chúng Tăng, một cái giao lại cho chủ cũ và bảo: "Thầy hãy sử dụng cái bát
Này cho đến khi vỡ".
Thầy Tỉ-kheo cầm cái bát vá
vào thôn xóm khất thực, và khi ăn xong nên gỡ miếng vá ra, rồi dùng tro, đất
rửa cho sạch. Khi rửa, không được dùng vật cứng xoi vào lỗ hủng khiến nó bể vỡ,
mà nên dùng lông chim xoi vào. Khi rửa bát, cũng không được dùng cát chà xát
khiến nó phai màu mà phải dùng bùn đất để chà, hoặc dùng nước rễ cây, nước lá
cây, nước trái cây, nước hoa cây để rửa. Khi rửa, không được đến trên bờ hố,
chỗ nguy hiểm, hoặc dưới cây xoài có trái chín, hoặc dưới cây dừa, trên tảng
đá, trên gạch, chỗ đường đi, chỗ cửa mở. Khi rửa xong phải để vào trong túi rồi
đem cất trên vách, trong tủ, dùng vật gì đậy lên miệng bát.
Nếu có việc gấp gáp không
rửa sạch được thì nên dùng nước rễ, nước lá chùi qua, để khi xong việc sẽ rửa.
Sáng sớm, rửa xong mới mang vào làng khất thực. Giá như bát vá khó dùng, thì
mỗi ngày dùng xong phải rửa sạch. Nếu cố ý đập bể thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nếu
Hoà thượng, A-xà-lê, những bạn bè quen biết suy nghĩ: "Vị Tỉ-kheo hiền
thiện Này vì việc rửa bát mà phương hại đến sự ngồi thiền, trì kinh, tụng
kinh". Rồi đập vỡ, hoặc đem giấu đi khiến Tỉ-kheo tìm không thấy, rồi xin
cái khác, thì không có tội. Khi không có bát mà xin được môït cái thì phải sử
dụng. Nếu xin được 2 cái, thì dùng một cái, một cái nên đem cất vào nhà bếp của
chúng Tăng. Thậm chí, nếu xin được 10 cái thì nên dùng một cái, cò 9 cái kia nên
đem cất vào nhà bếp của chúng Tăng.
Nếu Tỉ-kheo không có bát rồi
đi tìm bát, bèn nhận được giá tiền của một cái bát, cũng được xem là có bát.
Nếu xin được giá tiền của 2 cái bát, thì phải bỏ vào ngân quỹ của chúng Tăng
giá tiền một cái. [316b] Thậm chí, nếu được giá tiền của 10 cái bát, thì nên bỏ
vào ngân quỷ của chúng Tăng giá tiền của 9 cái. Thế nên nói (như trên).
(Hết giới Ni-tát-kì 21)
Khi Phật an trú tại tinh xá
Kỳ Hoàn nơi thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Vì 5 việc lợi ích nên cứ 5 hôm, Thế
Tôn đi thị sát phòng xá các Tỉ-kheo một lần, Phật thấy chỗ ở của Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà để đầy các bình sữa, dầu, mật, đường phèn, nước rỉ ra, và các thứ
rễ thuốc, cây thuốc, lá thuốc, hoa thuốc và trái thuốc. Phật biết nhưng vẫn hỏi:
"Này các Tỉ-kheo, chỗ ở của ai đây mà để đầy các bình sữa, dầu, mật ...
nước rỉ ra khắp cả thế này?"
Các Tỉ-kheo đáp: "Bạch
Thế Tôn! Đó là chỗ ở của Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà".
Khi ấy, Thế Tôn nói:
"Đợi họ đến ta sẽ hỏi".
Lại nữa, khi Phật an trú tại
tinh xá có lầu gác trong rừng Đại Lâm ở Tì-xá-li, nói rộng như trên. Đến giờ
khất thực, Thế Tôn khoác y cầm bát cùng với nhiều Tỉ-kheo sắp vào thành
Tì-xá-li khất thực thì thấy Ưu-ba-nan-đà cầm một bát mật đầy đi ra. Thấy thế,
Phật biết mà vẫn hỏi: "Trong bát này đựng thứ gì vậy?".
Thầy đáp: "Bạch Thế
Tôn! Đó là mật".
Phật lại hỏi: "Dùng để
làm gì?"
Thầy đáp: "Nan-đà bệnh
đang cần nó".
Phật hói: "Nhiều
quá".
Thầy đáp: "Phải uống
suốt ngày".
Phật nói: "Vì sao chứa
thuốc uống suốt ngày? Từ nay trở đi không được chứa thuốc để uống suốt ngày
nữa".
Lại nữa, khi Phật an trú tại
tinh xá của dòng họ Thích bên cây Ni-câu-luật, trong thành Ca Duy La Vệ, vì 5
việc lợi ích nên cứ 5 hôm Thế Tôn đi tuần tra phòng xá các Tỉ-kheo một lần. Năm
việc lợi ích đó là:
1. Xem các đệ tử Thanh văn
có bận tâm đến các việc hữu vi không;
2. Xem họ có say mê đàm luận các việc thế tục
không;
3. Xem họ có ưa thích ngủ nghỉ, phương hại đến việc
hành đạo không;
4. Nhằm thăm bệnh các Tỉ-kheo;
5. Nhằm làm cho các Tỉ-kheo niên thiếu mới xuất gia
trông thấy oai nghi của Như Lai mà sinh tâm hoan hỉ.
Chính vì 5 việc ấy mà cứ 5
hôm Như Lai đi xem xét các phòng. Khi ấy Phật thấy một Tỉ-kheo đang bệnh, nhan
sắc tiều tụy, vàng vọt ốm yếu, Ngài biết nhưng vẫn hỏi:
- Tỉ-kheo, ông có được điều
hòa không?
- Bạch Thế Tôn! Con bị bệnh,
đau khổ, không điều hòa.
- Ông không thể đòi thức ăn
hợp với bệnh và thuốc trị bệnh sao?
- Vì Thế Tôn chế giới có
thuốc phải uống liền không được cất lâu, nên con mới bị khổ.
Thế rồi, Phật nói với các
Tỉ-kheo: "Từ hôm nay trở đi ta cho phép Tỉ-kheo bệnh được cất thuốc qua
một ngày".
Khi ấy Phật hỏi Nan-đà:
"Lúc ở Xá-vệ ông thường cất chứa nhiều sữa, dầu, mật, đường phèn phải
không?"
Thầy đáp: "Có thật như
vậy, bạch Thế tôn".
Phật liền khiển trách:
"[316c] Vì sao ông lại đa dục không biết chán? Từ nay trở đi Ta không cho
phép cất chứa nhiều thức ăn".
Lại nữa, khi Phật trú tại
Ba-la-nại trong vườn nai của tiên nhân, nói rộng như trên. Bấy giờ có một y sĩ
xuất gia hành đạo, chữa bệnh cho 60 Tỉ-kheo đau ốm. Thầy đi đến thăm viếng Thế
Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi đứng hầu một bên. Phật biết mà vẫn hỏi:
"Này Tỉ-kheo y sĩ, các Tỉ-kheo bệnh có điều hòa không?
Thầy đáp: "Bạch Thế
Tôn! Các Tỉ-kheo bệnh an ổn, nhưng con thì lao khổ".
Phật hỏi: "Vì sao vậy?"
Thầy đáp: "Bạch Thế
Tôn! Thành Ba La Nại cách đây nửa do tuần, vì phải tìm những thứ cần dùng, hằng
ngày con phải đi về, vì thế mà lao khổ. Vả lại, Thế Tôn chỉ cho phép Tỉ-kheo bệnh
cất thuốc trong một ngày mà bệnh tật thì chưa khỏi".
Phật lại hỏi Tỉ-kheo y sĩ:
"Vậy thì nên chứa thuốc chừng bao nhiêu ngày là an ổn?"
Thầy đáp: "Bạch Thế
Tôn! Dùng liên tục 7 ngày thì mới có thể biết rõ hiệu lực của thuốc".
Phật dạy: "Từ hôm nay
trở đi, Ta cho phép được cất thêm 6 ngày nữa, với một ngày trước kia, thành ra
7 ngày".
Thế rồi, Phật truyền lệnh
cho các Tỉ-kheo đang sống tại Ba La Nại phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi
ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--"Nếu Tỉ-kheo bị
bệnh cần phải uống các thứ sữa, dầu, mật, đường phèn, sinh tô, mỡ, thì được
phép cất 7 ngày để uống. Nếu để quá 7 ngày mà còn cất thuốc để uống không xả bỏ
thì phạm tội Ni-tát-kì Ba-dạ-đề ".
Giải thích:
- Bệnh cần uống thuốc:
Như sữa, dầu, mật, đường phèn, sinh tô, mỡ như đã nói trong giới ăn trộm.
- Bệnh: Gồm có
404 bệnh, bệnh phong có 101, bệnh hỏa có 101, bệnh thủy có 101 và bệnh tạp cũng
có 101. Nếu gặp bệnh phong, nên dùng dầu, mỡ để chữa trị; gặp bệnh nhiệt, nên
dùng sữa để trị; gặp bệnh thủy, nên dùng mật chữa trị; gặp bệnh tạp, nên dùng
cả 3 loại thuốc trên để trị.
- Bảy ngày:
Mức độ tối đa.
- Cất trong 7 ngày:
Nhận thuốc về dùng trong 7 ngày, nếu để quá 7 ngày uống thì phạm Ni-tát-kì
Ba-dạ-đề .
- Ni-tát-kì Ba-dạ-đề:
Thứ thuốc ấy phải đem ra thí xả giữa chúng Tăng rồi sám hối tội Ba-dạ-đề. Nếu
không thí xả mà sám hối, thì phạm tội Việt tì-ni .
- Ba-dạ-đề:
Như trên đã nói.
Nếu Tỉ-kheo một ngày được 10
loại thuốc như sữa, dầu, mật, đường phèn, sinh tô và 5 thứ mỡ thì được uống tất
cả 7 ngày không cần tác tịnh, nếu để quá 7 ngày thì tất cả phạm Ni-tát-kì.
Nếu Tỉ-kheo một ngày được 10
loại thuốc, một nửa tác tịnh, [317a] một nửa không tác tịnh, trong đó, loại
được tác tịnh thì đúng pháp, loại không tác tịnh mà để quá 7 ngày thì phạm
Ni-tát-kì.
Nếu Tỉ-kheo một ngày được 10
loại thuốc, thì như trong giới y thừa ở trên đã nói rõ, trong đây khác nhau là
thời gian của thuốc chỉ có 7 ngày. Cho đến không nhớ rõ mà tưởng nhớ rõ, đó
không gọi là tác tịnh. Dầu thắp đèn, dầu thoa chân, dầu thoa mình không nhớ rõ,
không tác tịnh, để quá 7 ngày, phạm Ni-tát-kì.
- Tác tịnh không đúng
pháp: Nếu tác tịnh với người không có tâm ý (không hay biết), để quá 7
ngày phạm Ni-tát-kì.
Nên tác tịnh với Tỉ-kheo,
Tỉ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-ni, Sa-di, Sa-di-ni, người thế tục, súc sinh .
Có các trường hợp: Súc dược lợi, súc dược lợi tương ô; súc dược lợi, bất
súc dược lợi tương ô; bất súc dược lợi, súc dược lợi bất tương ô; bất súc dược lợi,
bất súc dược lợi bất tương ô; tục nhân dược lợi ô Tỉ-kheo dược lợi; Tỉ-kheo
dược lợi ô tục nhân dược lợi; tục nhân dược lợi ô tục nhân dược lợi; Tỉ-kheo dược
lợi ô Tỉ-kheo dược lợi; Khách Tỉ-kheo lợi ô cựu Tỉ-kheo lợi; Cựu Tỉ-kheo lợi ô
khách Tỉ-kheo lợi; Khách Tỉ-kheo lợi ô khách Tỉ-kheo lợi; Cựu Tỉ-kheo lợi ô cựu
Tỉ-kheo lợi; Tăng lợi ô Tỉ-kheo lợi; Tỉ-kheo lợi ô tăng lợi; Tăng lợi ô Tăng
lợi; Tỉ-kheo lợi ô Tỉ-kheo lợi; Hữu thực gian, phi thọ gian; hữu thọ gian, phi
thực gian; hữu thực gian, hữu thọ gian; hữu phi thực gian, phi thọ gian; bình đường
phèn; dầu thắp đèn; sữa lạc; mỡ.
- Súc dược lợi, súc
dược lợi tương ô: Nếu Tỉ-kheo trước bữa ăn được đường phèn, tạp thực
còn thừa không tác tịnh, sau bữa ăn lại được đường phèn cũng không tác tịnh mà
lấy cất; đó gọi là súc dược lợi súc dược lợi tương ô (thức ăn cất trước, thức
ăn cất sau hoen ố lẫn nhau).
- Súc dược lợi, bất
súc dược lợi tương ô: Tỉ-kheo trước bữa ăn được đường phèn, tạp thực,
bèn ăn không tác tịnh, sau bữa ăn lại được đường phèn đem tác tịnh rồi lấy cất.
Đó gọi là súc dược lợi bất súc dược lợi tương ô.
- Bất súc dược lợi,
súc dược lợi bất tương ô: Nếu Tỉ-kheo trước bữa ăn được đường phèn,
không ăn tạp đem tác tịnh, sau bữa ăn lại được đường phèn thừa không tác tịnh
mà nhận lấy. Đó gọi là bất súc dược lợi súc dược lợi bất tương ô.
- Bất súc dược lợi,
bất súc dược lợi, bất tương ô: Nếu Tỉ-kheo trước bữa ăn được đường
phèn, không ăn tạp, liền đem tác tịnh mà ăn, sau đó lại được đường phèn tác
tịnh rồi nhận lấy. Đó gọi là bất súc dược lợi, bất súc dược lợi, bất tương ô.
- Tục nhân (dược) lợi
ô Tỉ-kheo (dược) lợi: Bấy giờ có Ưu-bà-tắc đến đảnh lễ [317b] chân
Tỉ-kheo, Tỉ-kheo có đường phèn cất đến ngày thứ 7, bèn hỏi Ưu-bà-tắc: "Ông
muốn uống nước đường phèn không?"Ông ta đáp: "Muốn uống". Thế
rồi, ông ta mang đường phèn ấy đi đến đảnh lễ các Tỉ-kheo khác, hỏi: "Tôn
giả muốn uống nước đường phèn không?"Tỉ-kheo ấy đáp: "Muốn
uống". Tỉ-kheo Này được đường phèn trong ngày không tác tịnh mà lấy. Đó
gọi là tục nhân lợi ô Tỉ-kheo lợi.
- Tỉ-kheo (dược) lợi ô
tục nhân (dược) lợi: Có một Ưu-bà - tắc đem đường phèn đến, đảnh lễ
chân Tỉ-kheo, Tỉ-kheo có đường phèn cất đến ngày thứ 7, bèn hỏi Ưu-bà-tắc: "Ông
có muốn uống nước đường phèn không?". Ông ta đáp: "Muốn
uống"liền lấy đổ chung vào trong bình rồi đi. Lại có một Ưu-bà-tắc khác
đem đường phèn đến, hai người gặp nhau giữa đường. Ưu-bà-tắc trước hỏi
Ưu-bà-tắc sau: "Ông định đi đâu đó?". Ông ta đáp: "Tôi muốn đem
đường phèn Này đến cho Tỉ-kheo mỗ giáp". Ông Này liền nói: "Ông hãy
mang phần đường phèn Này đến cho Tỉ-kheo mỗ giáp ấy giúp tôi". Ông ta liền
nhận mang đi. Đó gọi là Tỉ-kheo lợi ô tục nhân lợi.
- Tục nhân (dược) lợi
ô tục nhân (dược) lợi: Cả 2 người đều khác biệt nhau(?)
- Tỉ-kheo (dược) lợi ô
Tỉ-kheo (dược) lợi: Tỉ-kheo có nước đường phèn cất đến ngày thứ 7, bèn
hỏi Tỉ-kheo khác: "Thầy muốn uống nước đường phèn không? "Thầy ấy
đáp: ‘Muốn uống". Rồi Tỉ-kheo ấy ngay trong ngày được đường phèn, không
tác tịnh mà nhận lấy. Đó gọi là Tỉ-kheo lợi ô Tỉ- kheo lợi.
- Khách Tỉ-kheo lợi ô
cựu Tỉ-kheo lợi: Tỉ-kheo khách có đường phèn cất đến ngày thứ 7, bèn
hỏi Cựu Tỉ-kheo: "Thầy muốn uống nước đường phèn không?"Vị kia đáp:
"Muốn uống". Thế rồi, Cựu Tỉ-kheo Này ngay trong ngày ấy được đường
phèn không tác tịnh mà nhận lấy. Đó gọi là khách Tỉ-kheo lợi ô Cựu Tỉ-kheo lợi.
- Cựu Tỉ-kheo lợi ô
khách Tỉ-kheo lợi: Có tỉ-kheo khách đến, rồi cựu tỉ-kheo có đường phèn
cất 7 ngày, nói với tỉ-kheo khách: "thầy muốn uống nước đường phèn
không?". thầy liền đáp: "muốn uống". Thế rồi, tỉ-kheo khách Này được
đường phèn ngay trong ngày, không tác tịnh mà nhận lấy. đó gọi là cựu tỉ-kheo
lợi ô khách tỉ-kheo lợi.
- Khách Tỉ-kheo lợi ô
khách Tỉ-kheo lợi: Có 2 khách Tỉ-kheo đến một trú xứ, Vị Này có đường
phèn để 7 ngày, bèn hỏi vị kia: "Thầy muốn uống nước đường phèn
không?"Vị kia đáp: "Muốn uống". Thế rồi, ngay trong ngày, thầy
được đường phèn, không tác tịnh mà nhận lấy. Đó gọi là khách Tỉ-kheo lợi ô
khách Tỉ-kheo lợi.
- Cựu Tỉ-kheo lợi ô
cựu Tỉ-kheo lợi: Một cựu Tỉ-kheo có [317c] đường phèn để 7 ngày, hỏi
một cựu Tỉ-kheo khác: "Thầy muốn uống nước đường phèn không?". Thầy
liền đáp: "Muốn uống". Thế rồi, ngay trong ngày, thầy được đường phèn,
không tác tịnh mà nhận lấy. Đó gọi là cựu Tỉ-kheo lợi ô cựu Tỉ-kheo lợi.
- Tăng lợi ô Tỉ-kheo
lợi: Tăng có đường phèn để 7 ngày đem chia cho Tỉ-kheo, Tỉ-kheo Này
ngay trong ngày được đường phèn, không tác tịnh mà thọ nhận. Đó gọi là Tăng lợi
ô Tỉ-kheo lợi.
- Tỉ-kheo lợi ô Tăng
lợi: Tỉ-kheo có đường phèn để 7 ngày liền mang đến cúng dường Tăng,
Tăng được đường phèn ngay trong ngày, không tác tịnh mà nhận lấy. Đó gọi là
Tỉ-kheo lợi ô Tăng lợi.
- Tăng lợi ô Tăng lợi:
Tăng có đường phèn để 7 ngày đem ra cúng dường cho Tăng, Tăng Này nhận được
đường phèn ngay trong ngày, không tác tịnh mà nhận lấy. Đó gọi là Tăng lợi ô
Tăng lợi,
- Tỉ-kheo lợi ô
Tỉ-kheo lợi: Tỉ-kheo có đường phèn để 7 ngày, rồi hỏi Tỉ-kheo khác:
"Thầy có muốn uống nước đường phèn không?". Vị Này đáp: "Muốn
uống". Thế rồi, Tỉ-kheo Này ngay trong ngày nhận được đường phèn, không
tác tịnh mà nhận lấy. Đó gọi là Tỉ-kheo lợi ô Tỉ-kheo lợi.
- Hữu thực gian phi
thọ gian: Nếu Tỉ-kheo 7 ngày ăn đường phèn, rồi nhận thêm đường phèn
nữa, ngày thứ 8 lại ăn. Vì không để gián đoạn nên phạm tội Việt tì-ni . Cần phải
để gián đoạn một ngày. Đó gọi là hữu thực gian phi thọ gian.
- Thọ gian phi thực
gian: Nếu Tỉ-kheo nhận đường phèn để 7 ngày không ăn, đến ngày thứ 8
lại nhận thêm đường phèn khác, không để gián đoạn mà thọ nhận nên phạm tội Việt
tì-ni . Cần phải để gián đoạn một ngày. Đó gọi là thọ gian phi thực gian.
- Thọ gian thực gian:
Nếu Tỉ-kheo 7 ngày nhận được đường phèn rồi ăn, đến ngày thứ 8 lại nhận được
đường phèn cũng ăn, như vậy là phạm 2 tội Việt tì-ni .
- Phi thọ gian phi
thực gian: Nếu Tỉ-kheo do tụng kinh nhiều bị bệnh phổi, thổ huyết, rồi
thầy thuốc bảo: "Bệnh Này nên uống thường xuyên đường phèn". Thì
trước bữa ăn được ăn đường phèn, sau bữa ăn tác tịnh rồi cũng được ăn. Đó gọi
là phi thọ gian, phi thực gian.
- Bình đường phèn:
Như ở nước Vũ-La, người muốn thọ giới cụ túc, sau khi thọ giới tại giới trường,
bèn đem bố thí cho chúng Tăng mỗi người một bình đường phèn. Các Tỉ-kheo có tín
tâm thích làm công đức bèn mang bình đường phèn ấy đến cúng dường Thượng tọa.
Thượng tọa có tín tâm, nên nói: "Tăng là phước điền tốt nhất". Thế là
vị ấy đem bố thí cho Tăng. Các Tỉ-kheo có đường phèn cất 7 ngày, còn lấy thêm
đường phèn Này. Đó gọi là ô nhiễm lẫn nhau .
Nếu Tỉ-kheo vào bữa ăn nhận
được nhiều mía, ăn còn thừa thì được ép ra nước để dùng vào buổi tối. Nếu uống không
hết thì được [318a] đem nấu thành đường phèn để dùng trong 7 ngày. Đường phèn
Này nếu dùng không hết thì đem đốt thành tro để dùng suốt đời. Nếu có việc
không ép được, thì trước bữa trưa nên dùng nước tác tịnh, nói như sau: "Ở
trong đây có tịnh vật sinh ra, tôi sẽ nhận lấy".
Nếu vào bữa ăn nhận được
nhiều trái cây, ăn không hết thì được đem ép để dùng buổi tối. Nếu có việc không
thể ép được thì lúc ấy nên nói: "Trong đây có Tịnh vật sinh ta, tôi sẽ
nhận lấy". Nếu thời gian đã quá hạn (hết ngày), thì không nên làm .
- Dầu đốt đèn:
Nếu tín nữ có lòng tin thuần thành đem cúng dường cho Tăng Thức ăn, bằng cách
đổ dầu vào đèn đốt lên đem cúng dường, thì Tăng không nên nhận khi có ngọn đèn
sáng, mà nên bảo tịnh nhân nhận lấy. Nếu không có tịnh nhân thì nên bảo họ để
xuống đất, thổi tắt ngọn đèn rồi mới nhận. Nếu người nữ vì có tín tâm, quá ân
cần, không muốn tắt ngọn đèn, thì có thể nhận lấy. Khi nhận xong, nên dùng dao
cắt bỏ tim đèn rồi mới sử dụng dầu. Đó là trường hợp dầu thắp đèn.
- Bình sữa lạc:
Vào bữa ăn nhận được nhiều sữa lạc dùng không hết, thì nên đem nấu thành sinh
tô để dùng trong 7 ngày. Nếu sinh tô còn thừa thì được đem nấu lần nữa thành
thục tô để dùng trong 7 ngày.
Nếu Tỉ-kheo đi khất thực
được nhiều sinh tô thì nên dùng miếng lụa sạch lọc lấy tô để dùng trong 7 ngày.
Nếu có công việc không thể làm trước buổi trưa được, thì nên nói: "Trong
đây sẽ sinh ra tịnh vật, tôi sẽ dùng làm thuốc uống trong 7 ngày". Nếu lỡ
quên không dùng, không tác tịnh, để quá thời hạn thì thành ra bất tịnh.
Nếu khi đi khất thực được
nhiều dầu, thì nên áp dụng như trường hợp tô vừa nói ở trên.
Nếu vào bữa ăn nhận được
nhiều mè, ăn còn thừa thì nên đem ép thành dầu để dùng trong 7 ngày. Nếu vì
công việc không làm được, thì như trường hợp tô đã nói ở trên. Đó gọi là bình
sữa lạc.
Mỡ: Nếu Tăng đem chia cho mỡ
gấu, mỡ cá, mỡ bi, mỡ heo, mỡ Thất-tu-ma-la, thì Tỉ-kheo ít có người quen biết
có thể dùng một miếng lụa mỏng lọc để làm thức ăn dùng trong 7 ngày. Nếu bận
việc không thể làm được thì như trường hợp tô đã nói ở trên.
Khi Tăng đem chia dầu,
Tỉ-kheo hoặc muốn đem tác tịnh, hoặc dùng làm dầu ăn 7 ngày, hoặc dùng làm dầu
thắp đèn, hoặc làm dầu thoa chân, hoặc dùng thoa mình. Nếu Tăng chia dầu ít
không đủ dùng, bèn đem đổ dồn một chỗ, thì tất cả đều bất tịnh. Nếu có dầu
thanh tịnh (hợp lệ) thì đổ chung với dầu thanh tịnh trong một bình rồi đem rửa
bình sạch giao cho tịnh nhân giữ. Cũng vậy, dầu dùng 7 ngày nên đổ chung với
dầu dùng 7 ngày trong một bình, rồi đem rửa bình sạch giao cho tịnh nhân cất.
Cũng vậy, dầu đốt đèn, dầu thoa chân, khi có được cũng nên nhận.
Nếu Tỉ-kheo muốn uống bột,
uống dầu, thì không được trước uống bột, sau uống dầu, vì bột là thuốc dùng
trọn đời, còn dầu là thuốc dùng 7 ngày. Do đó, nên uống dầu trước, rồi rửa tay,
súc miệng cho sạch [318b], sau đó mới uống bột.
Nếu Tỉ-kheo sau bữa ngọ trai
có bệnh, nên uống tô trước, vì tô là thuốc 7 ngày, rồi rửa tay, súc miệng cho
sạch mới ăn. Nếu Tỉ-kheo có bệnh muốn uống tô thì phải uống vào buổi mai, vì tô
là thuốc dùng 7 ngày, sau đó ăn cơm xong, súc miệng, rửa tay cho sạch rồi mới
uống thuốc.
Nếu Tỉ-kheo uống dầu xong,
còn thừa định dùng đốt đèn hoặc thoa chân, nhưng có Hòa thượng, A-xà-lê đến
thấy chê dầu nhiều, bèn uống nữa thì phạm tội Việt tì-ni .
Nếu Tỉ-kheo ăn đường phèn
xong rồi muốn uống nước ngọt vào buổi tối, thì phải súc miệng cho sạch, rồi mới
uống nước ngọt. Nếu uống nước ngọt rồi mới ăn đường phèn, cũng như vậy.
Nếu Tỉ-kheo muốn nấu đường
phèn, nên sai tịnh nhân nấu.
Nếu Tỉ-kheo nhận được tô,
rồi dùng tô trộn với tô, tô trộn với dầu, tô trộn với mật, tô trộn với đường
phèn, tô trộn với sinh tô, tô trộn với mỡ, cũng vậy, dầu, mật, đường phèn, sinh
tô, cho đến mỡ trộn với tô, mỡ trộn với dầu, mỡ trộn với mật, mỡ trộn với sinh
tô, mỡ trộn với đường phèn, mỡ trộn với mỡ, cũng như vậy. Thức ăn đúng giờ,
thức uống buổi tối, thuốc dùng 7 ngày, thuốc dùng suốt đời trộn lẫn vào nhau
thì được uống đúng thời.
Thuốc uống buổi tối, thuốc
dùng 7 ngày, thuốc dùng suốt đời hòa lẫn vào nhau thì được uống vào buổi tối.
Thuốc uống 7 ngày, thuốc
dùng suốt đời hòa lẫn vào nhau, thì được uống trong 7 ngày.
Nếu Tỉ-kheo có ít người quen
biết khi đi khất thực được muối đỏ, muối tía ... thì nên rửa sạch để dùng suốt
đời. Nếu được hồ tiêu, tất bát, cũng lại như vậy.
Nếu Tỉ-kheo có ít người quen
biết khi đi khất thực được đường phèn đen, đường phèn trắng, nên đem rửa sạch
hơi đồ ăn, để làm thuốc dùng trong 7 ngày. Thế nên nói (như trên).
Hết quyển thứ mười.