- Mục Lục
- Lời Nói Đầu
- Quyển Thứ Nhất
- Quyển Thứ Hai
- Quyển Thứ Ba
- Quyển Thứ Tư
- Quyển Thứ Năm
- Quyển Thứ Sáu
- Quyển Thứ Bảy
- Quyển Thứ Tám
- Quyển Thứ Chín
- Quyển Thứ Mười
- Quyển Thứ Mười Một
- Quyển Thứ Mười Hai
- Quyển Thứ Mười Ba
- Quyển Thứ Mười Bốn
- Quyển Thứ Mười Lăm
- Quyển Thứ Mười Sáu
- Quyển Thứ Mười Bảy
- Quyển Thứ Mười Tám
- Quyển Thứ Mười Chín
- Quyển Thứ Hai Mươi
- Quyển Thứ Hai Mươi Mốt
- Quyển Thứ Hai Mươi Hai
- Quyển Thứ Hai Mươi Ba
- Quyển Thứ Hai Mươi Bốn
- Quyển Thứ Hai Mươi Lăm
- Quyển Thứ Hai Mươi Sáu
- Quyển Thứ Hai Mươi Bảy
- Quyển Thứ Hai Mươi Tám
- Quyển Thứ Hai Mươi Chín
- Quyển Thứ Ba Mươi
- Quyển Thứ Ba Mươi Mốt
- Quyển Thứ Ba Mươi Hai
- Quyển Thứ Ba Mươi Ba
- Quyển Thứ Ba Mươi Bốn
- Quyển Thứ Ba Mươi Lăm
- Quyển Thứ Ba Mươi Sáu
- Quyển Thứ Ba Mươi Bảy
- Quyển Thứ Ba Mươi Tám
- Quyển Thứ Ba Mươi Chín
- Quyển Thứ Bốn Mươi
Đại Tạng Số
1425
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc cùng
Sa môn Pháp Hiển, đời Đông Tấn, Trung Quốc
Việt dịch: Thích Phước Sơn - Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
Sài Gòn, Việt
Quyển Thứ Mười Một
NÓI RÕ PHẦN BA CỦA BA MƯƠI PHÁP NI-TÁT-KÌ BA-DẠ-ĐỀ.
(NGUYÊN VĂN GỌI PHẦN BỐN)
23. GIỚI:
CHO Y RỒI LẤY LẠI.
Khi Phật
an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, trưởng lão Nan Đà,
Ưu-ba-nan-đà, vào mùa Đông thời tiết khá lạnh, bèn mặc áo dày, trải chăn nệm
ấm, trên đầu chít khăn [318c] Phú-la, ở trước đốt một lò lửa. Bấy giờ, có ngoại
đạo da đen, mắt xanh, lạnh run lẩy bẩy đi đến, đứng trước hai thầy. Ngoại đạo
thấy thế lòng sinh vui vẻ, liền nói với Tỉ-kheo: "Các vị xuất gia được sướng
như vậy nhỉ! Thế rồi, tâm họ sinh hoan hỉ đối với Phật pháp, liền nói:
"Chúng tôi cũng mang danh là xuất gia, nhưng Phất Lan Ca Diếp dạy chúng
tôi sống lõa thể, nhổ tóc, leo lên núi, nhảy xuống khe, để cho năm sức nóng
thiêu thân mà đi khất thực, chịu đau khổ oan uổng mà chẳng vui sướng gì".
Các Tỉ-kheo
liền bảo: "Các ông có thích giáo pháp này thì đến đây xin xuất gia, rồi sẽ
sống an lạc như chúng tôi thôi".
Ngoại đạo
nói: "Tôi không có y Tăng-già-lê của Sa-môn".
Tỉ-kheo nói:
"Ông cứ đến, tôi sẽ cho ông".
Thế rồi,
ngoại đạo liền đến, các Tỉ-kheo bèn cho họ xuất gia, thọ giới cụ túc, rồi bảo:
"Nay Ta đã độ ông xuất gia, thọ giới cụ túc, ông phải làm những việc cần
thiết như sau: Sáng sớm Ta ngủ dậy, phải hỏi rằng: "Ngủ có an ổn
không?", mang ống nhổ và đồ tiểu tiện đi đổ, rồi đem rửa sạch để lại chỗ
cũ, trao nước rửa mặt, tăm xỉa răng, mang bát đi lấy cháo. Khi Ta điểm tâm
xong, ông phải rửa bát, lau khô rồi để lại chỗ cũ. Nếu có chỗ nào mời thọ trai
thì phải đến đó nhận lấy thức ăn. Khi Ta muốn vào xóm làng, phải đem y thường
mặc vào xóm làng trao cho Ta, rồi lấy y Ta vừa thay xếp lại ngay ngắn cất vào
chỗ cũ. Khi Ta từ xóm làng trở về, ngươi phải trải ghế nhỏ cho Ta ngồi, trao Ta
nước và lá cây. Khi Ta ăn, phải cầm quạt quạt. Ta ăn xong, phải rửa bát, lau
khô, đem cất lại chỗ cũ, rồi cởi y Ta mặc vào xóm làng xếp lại đem cất, trao
cho Ta y thường mặc. Khi ngươi ăn xong, phải đi lấy củi rác, giặt y, đem nhuộm,
quét trong phòng sạch sẽ, rồi lau sàn nhà. Khi Ta muốn vào rừng ngồi thiền, ngươi
phải mang tọa cụ đi theo, khi Ta trở về, thì theo về, rồi trao cho Ta nước rửa
tay. Khi trao cho Ta hương hoa cúng dường xong, ngươi phải trải giường, đưa
nước rửa chân cho Ta, rồi lấy dầu xoa bóp, trải ra, bỏ mùng, đưa ống nhổ, đồ
tiểu tiện, đốt đèn.v.v., cung cấp các thứ như vậy cho Ta xong xuôi, sau đó mới
tự lo phần mình".
Khi ấy tân
Tỉ-kheo (ngoại đạo) bèn đáp với Thầy rằng: "Những điều đó không phải là
phép tắc xuất gia, mà là làm đầy tớ".
Thầy nói:
"Nếu ngươi không thể làm được thì phải trả y Tăng-già-lê lại cho Ta".
Người ấy
bèn cởi y để dưới đất rồi ra đi.
Lại nữa,
khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ,Tôn-giả Nan Đà là
anh của Ưu-ba-nan-đà, Ưu-ba-nan-đà bèn nói với người đệ tử tùy tùng của anh
mình như sau: "Ta cùng với ngươi vào xóm làng, Ta sẽ cho ngươi phẩm vật. Nếu
Ta có làm điều gì trái oai nghi, [319a] ngươi chớ nói với người khác, vì Ta là
chú của ngươi".
Người đệ
tử nói: "Nếu tôi thấy cha tôi làm điều phi pháp, tôi cũng sẽ nói với người
khác, huống gì là chú".
Ưu-ba-nan-đà
lại nói: "Nếu ngươi như thế, Ta sẽ cho ngươi biết tay, bèn dẫn y đến nhà
hào quí. Nhà đàn việt này bèn mời họ ở lại dùng cơm.
Vì không
muốn cho y ăn nên Ưu-ba-nan-đà làm ra vẻ suy nghĩ đợi cho mặt trời gần trưa để
cho y không thể khất thực, mà trở về trú xứ cũng quá bữa, bèn nói với y:
"Ngươi hãy trở về tinh xá".
Người này
liền trở về, vì sợ trễ bữa, nên vội vàng vừa nhìn mặt trời vừa đi, nhưng vừa
tới tinh xá, thì thấy các Tỉ-kheo đã ăn xong, đang đi kinh hành trước cửa.
Các Tỉ-kheo
từ xa trông thấy Thầy đi vội vàng, nghi ắt có điều gì bất thường, liền hỏi:
"Hôm nay, ngươi cùng với Tỉ-kheo có nhiều người quen biết đi giáo hóa các
nơi, được những thức ăn gì ngon mà mặt mày hớn hở như thế?"
Đáp: "Hôm
nay tôi bị mất bữa ăn, chứ làm gì được thức ngon!"
Ưu-ba-nan-đà
bảo y trở về rồi, sau đó ăn uống các thứ, ăn xong, sợ sự tình tiết lộ, bèn
nhanh chân trở về, thì thấy các Tỉ-kheo đang tụ tập đông đảo bàn luận, liền suy
nghĩ: "Mọi người tụ họp bàn luận, ắt Tỉ-kheo kia đã nói với các vị phạm hạnh
về hành vi xấu ác của Ta, liền nói với Nan Đà: "Trưởng lão, đệ tử của Ngài
đã hướng đến các vị phạm hạnh nói về những việc xấu của tôi".
Nan Đà bèn
giận dữ, nói với đệ tư û: "Hôm nay, vì sao ngươi lại nói về lỗi của em Ta?
Ngươi hãy trả y Tăng-già-lê lại cho Ta".
Các Tỉ-kheo
nghe thế, cùng nhau bảo: "Thầy Tỉ-kheo này hôm nay gặp hai việc khổ não:
Một là mất ăn. Hai là mất y".
Phật nghe
được việc ấy, biết mà vẫn hỏi các Tỉ-kheo: "Đó là Tỉ-kheo nào mà cao giọng
lớn tiếng như thế?"
Các Tỉ-kheo
liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Đó là Nan Đà đoạt lại y của đệ tử tùy
tùng, cho nên mới lớn tiếng".
Phật bảo
gọi Nan Đà đến. Khi Thầy tới rồi, Phật bèn hỏi kỹ Nan Đà: "Có thật ông vì
muốn được cung cấp cho mình mà độ người, cho y, khiến cho đệ tử giận không chịu
làm thân phận tôi đòi, rồi ông đoạt lại y của đệ tử tùy tùng phải không?"
Thầy đáp:
"Có thật như vậy".
Khi ấy,
Phật nói với Nan Đà: "Vì sao ông độ người xuất gia, không dạy pháp luật,
mà chỉ sai họ chấp tác, cung cấp cho bản thân mình?".
Phật khiển
trách đủ điều, xong rồi liền nói với các Tỉ-kheo: "Từ nay trở đi không
được rắp tâm vì muốn cung cấp cho chính mình mà độ người xuất gia, ai độ thì
phạm tội Việt-tì-ni. Trái lại, nên nghĩ thế này: "Mong cho kẻ kia nhờ Ta
hóa độ, tu các thiện pháp, thành tựu đạo quả".
Thế rồi,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất
cả, vì mười việc lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe
lại:
-- "Nếu
Tỉ kheo cho y cho Tỉ-kheo khác, rồi sau đó nổi giận không vui, hoặc tự đoạt,
hoặc sai người [319b] đoạt lại, nói như sau: "Tỉ-kheo, trả y lại cho Ta,
Ta không cho ngươi nữa". Khi được y thì phạm tội Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề ".
Giải
thích
(Một số từ
đã được giải thích)
- Đoạt:
Hoặc tự đoạt, hoặc sai người đoạt, nói như sau: "Trả y lại cho Ta, Ta
không cho ngươi nữa". Khi lấy lại được, phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề.
- Ni-Tát-kì
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói.
Tóm lại,
có các trường hợp: Hoặc tự mình cho, rồi sai người đoạt lại; hoặc sai người
cho, rồi tự mình đoạt lại; hoặc tự mình cho, rồi tự mình đoạt; hoặc sai người
cho, sai người đoạt; hoặc cùng cho, đoạt riêng, hoặc cho riêng, cùng đoạt; hoặc
cùng cho cùng đoạt; hoặc cho riêng, đoạt riêng.
- Cùng
cho, đoạt riêng: Tỉ-kheo một lần cho 3 y, về sau đoạt riêng từng cái,
nói: "Trả cho Ta Tăng-già-lê, trả cho Ta Uất-đa-la-tăng, trả cho Ta
An-đà-hội". Đoạt như vậy thì phạm nhiều tội Ba-dạ-đề. Đó gọi là cùng cho,
đoạt riêng.
- Cho
riêng, đoạt chung: Tỉ-kheo cho y Tăng-già-lê, cho Uất-đa-la-tăng, cho
An-đà-hội không cùng một lần, nhưng đòi lại một lần, nói: "Ngươi trả các y
lại cho Ta". Đoạt như vậy thì phạm một tội Ba-dạ-đề. Đó gọi là cho riêng,
đoạt chung.
- Cùng
cho, cùng đoạt: Tỉ-kheo một lần cho các y, sau đó nói: "Trả hết
các y lại cho Ta". Đoạt như vậy, phạm một tội Ba-dạ-đề.
- Cho
riêng, đoạt riêng: Tỉ-kheo cho Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội
không phải cùng lúc, rồi sau đó đòi lại dần dần, nói: "Trả cho Ta
Tăng-già-lê, trả cho Ta Uất-đa-la-tăng, trả cho Ta An-đà-hội". Nói như vậy
mà được, thì phạm nhiều tội Ba-dạ-đề.
Nếu Tỉ-kheo
khi cho y Tỉ-kheo khác, nói: "Ngươi ở gần bên Ta, Ta sẽ cho ngươi y, nếu
không ở, Ta sẽ lấy lại", thì khi lấy lại không có tôïi.
Nếu Tỉ-kheo
khi cho y Tỉ-kheo khác, nói: "Ngươi ở đây, Ta sẽ cho, nếu không ở, Ta lấy
lại", thì khi lấy lại không có tội.
Nếu Tỉ-kheo
cho y cho Tỉ-kheo khác, nói: "Ngươi làm vui lòng Ta thì Ta cho". Sau
đó, không làm vui lòng, bèn lấy lại, thì không có tội.
Vì người
xem Kinh mà cho, sau đó, họ không xem, bèn lấy lại, thì không có tội.
Nếu Tỉ-kheo
bán y chưa lấy tiền, hoặc lấy chưa đủ, nên lấy lại y thì không có tội.
Nếu Tỉ-kheo
cho y cho đệ tử tùy tùng, đệ tử y chỉ mà không thể dạy dỗ được, vì muốn chiết
phục mà đoạt lại y, sau khi chiết phục được,bèn trả lại, thì không có tội.
Nếu đoạt y
của Tỉ-kheo, phạm tội Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề; đoạt y Tỉ-kheo-ni, phạm tội
Thâu-lan-giá; đoạt y Thức-xoa-ma-ni, Sa-di, Sa-di-ni, phạm tội Việt-tì-ni; đoạt
y người thế tục, phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Thế nên nói (như trên).
[319c] Khi
Phật an trú tại thành Xá Vệ, dân chúng 4 phương cách 12 do tuần, bố thí cho
chúng Tăng áo mưa, như nhân duyên Tỳ Xá Khư lộc mẫu đã nói rõ.
Lại nữa,
khi Phật trụ tại nước Kiều-tát-la, có một Tỉ-kheo lẩm cẫm, khi du hành, mặc áo
mưa bên trong, mặc y An-đà-hội bên ngoài, cầm cây chổi cán dài quét đất, Phật
thấy thế, nói với các Tỉ-kheo:
- Các ông
có thấy Tỉ-kheo lẩm cẩm kia chăng? Vì sao mà mặc y một cách ngược ngạo như thế!
Tỉ-kheo lẩm
cẩm ấy trông thấy Phật, bèn đi đến, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đứng
qua một bên. Phật biết mà vẫn hỏi: "Này Tỉ-kheo, bên trong ông mặc áo gì?"
Thầy đáp:
"Áo mưa".
- Bên
ngoài mặc áo gì?
- An-đà-hội.
- Này
Tỉ-kheo, vì sao cái đáng lý mặc ở ngoài, ông lại mặc ở trong, cái đáng mặc ở
trong, lại mặc ở ngoài? Nay vì sao lúc nào ông cũng mặc áo mưa?.
Thế rồi,
Phật nói với các Tỉ-kheo: "Các ông hãy đợi Như Lai du hành nước
Kiều-tát-la trở về thành Xá Vệ, rồi nhắc lại Ta, Ta sẽ chế định cách thức mặc
áo mưa cho các Tỉ-kheo".
Sau khi
Phật du hành nước Kiều-tát-la trở về, các Tỉ-kheo liền bạch với Phật:
"Bạch Thế Tôn! Khi Thế Tôn du hành nước Kiều-tát-la có nói rằng: - Sau khi
Như Lai du hành nước Kiều-tát-la trở về Xá Vệ, các ông hãy nhắc lại Ta, Ta sẽ
chế định việc mặc áo mưa cho các Tỉ-kheo. Nay thật đúng lúc, xin Thế Tôn chế
định việc mặc áo mưa".
Thế rồi,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất
cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- "Trong
vòng một tháng cuối mùa Xuân, các Tỉ-kheo nên tìm vải may áo mưa, rồi may trong
vòng nửa tháng mà dùng. Nếu chưa đến tháng cuối mùa xuân mà Tỉ-kheo đi tìm vải
may áo mưa, rồi may trong vòng nửa tháng sử dụng, thì phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề
".
Giải
thích
- Một
tháng cuối xuân: Tức 15 ngày cuối của tháng 3 và 15 ngày đầu của tháng
tư. Đó gọi là một tháng cuối mùa xuân.
- Áo
mưa: Như Thế Tôn đã cho phép.
- Áo
(y): Có 10 loại, như trên đã nói.
- Tìm:
Cầu xin, hoặc khuyên người ta cho. Lúc tìm, không nên đến các nhà nghèo xin chỗ
này một thước, chỗ kia 2 thước, mà nên đến xin những nhà khá giả, hoặc một
người cho, hoặc nhiều người cùng cho. Đó gọi là tìm.
- Nửa
tháng cuối: Từ 16 tháng 3 trở đi nên giặt, nhuộm, vá y, cho đến ngày
mồng một tháng tư thì sử dụng. Nếu Tỉ-kheo chưa đến ngày 16 tháng 3 mà đi tìm,
may thành, sử dụng, thì phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề .
Tỉ-kheo nào
có năm đức tính thành tựu thì Tăng nên làm Yết-ma cử vị ấy chia áo mưa. [320a]
Năm đức tính đó là:
- Không
thiên vị; Không giận dữ ; Không sợ hãi; Không mê muội; và biết ai đã chia rồi,
ai chưa chia.
Đó gọi là
năm đức tính. Người làm Yết-ma nên nói như sau:
"Xin Đại-đức
Tăng lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu năm pháp, nếu thời gian thích hợp đối
với Tăng, nay Tăng cử Tỉ-kheo mỗ giáp làm người chia áo mưa. Đây là lời tác bạch.
Xin Đại-đức
Tăng lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu 5 pháp, nay Tăng cử Tỉ-kheo mỗ giáp
làm người chia áo mưa, Đại-đức nào bằng lòng Tỉ-kheo mỗ giáp làm người chia áo
mưa, thì xin im lặng, ai không bằng lòng hãy nói.
Tăng đã
bằng lòng cử Tỉ-kheo mỗ giáp làm người chia áo mưa xong, vì Tăng đã im lặng.
Việc ấy cứ như thế mà thi hành".
Khi làm
Yết-ma xong, nên xướng lên giữa chúng rằng:
- Đại-đức
Tăng lắng nghe! Có các loại vải lớn, nhỏ, bằng 4 ngón tay, 8 ngón tay, không
bằng nhau, không thể tính, tôi sẽ chia.
Nếu không
xướng lên như thế thì phạm tội Việt-tì-ni.
Người này
làm Yết-ma xong, phải đi tìm cho Tăng. Khi đi tìm, không nên đến những gia đình
nghèo, xin chừng một thước, 2 thước, mà nên đến những nhà khá giả, hoặc một
người cho, hoặc nhiều người hợp lại cho, tối thiểu được một áo mưa. Đó gọi là
đi tìm.
Nếu từ 16
tháng 3 trở đi có người mang vải đến cúng thì nên chia. Khi chia nên hỏi
Thượng- tọa: "Thượng-tọa muốn lấy hôm nay hay đợi sau này lấy?"Nếu đó
là loại tốt. Nếu Thượng- tọa nói: "Lấy hôm nay, thì liền trao cho".
Nếu nói: "Sau này sẽ lấy", thì đợi về sau sẽ đưa. Nếu có Tỉ-kheo khách
tới, nên hỏi: "Thầy định an cư mùa hạ tại đâu?". Nếu nói: "An cư
tại đây, thì nên đưa cho". Nếu nói: "Tôi muốn an cư chỗ khác",
nhưng muốn nhận áo mưa ở đây, thì cũng nên đưa, nhưng dặn: "Thầy không nên
nhận áo mưa ở chỗ khác nữa". Nếu nói: "Tôi không lấy ở đây, đợi khi an
cư chỗ nào, tôi sẽ lấy ở đó, thì cứ tùy ý".
Nếu được
nhiều áo mưa thì mỗi Tỉ-kheo nên cho một trong 2 Sa-di một cái. Nếu ít, cho
không đủ, thì khi an cư xong, chia y nên chia đều áo mưa, áo này không được
dùng mặc thường như 3 y, cũng không được tác tịnh thí, không được mặc áo mưa
xuống tắm dưới sông, dưới ao, không được mặc khi mưa lâm râm. Khi tắm không
được khỏa thân mà nên mặc đồ lót. Nếu dư y cũ thì không được thường mặc áo mưa
làm các công việc, mà phải đợi khi mưa lớn, mặc tắm. Khi mặc tắm bỗng dưng trời
ngừng mưa, mà còn bẩn, thì được mặc tìm chỗ nước khác tắm, không có tội.
Nếu Tỉ-kheo
khi ăn, hoặc khi có bệnh muốn dùng dầu thoa mình mà gặp chỗ nhiều người qua
lại, thì có thể 2 người chụm đầu lại che khuất để thoa.
Cái y tắm
mưa này được dùng tắm vào khoảng nửa tháng 4 cho đến 15 tháng 8 [320b] thì nên
xả. Khi làm phép xả, một Tỉ-kheo xướng giữa chúng Tăng như sau:
"Đại đức
Tăng lắng nghe! Hôm nay Tăng xả áo tắm mưa".
Nói như
thế 3 lần. Nếu để đến ngày 16 mới xả thì phạm tội Việt-tì-ni. Khi xả rồi, được
dùng nó để may 3 y, được tác tịnh với Tỉ-kheo quen biết, cũng được mặc vào
trong các chỗ có nước khác tắm, đều không có tội. Thế nên nói (như trên).
Khi Phật
an trú tại thành Xá Vệ nói rộng như trên. Bấy giờ Tôn-giả Nan Đà, Ưu-ba-nan-đà
cầm bắp chỉ sợi đi đến nhà Cư sĩ, nói với Ưu Bà Di: "Bố thí vải sợi cho
tôi".
Những bà
vợ của các Cư sĩ suy nghĩ: "Thầy Tỉ-kheo này muốn mua vải sợi", nên
mỗi người đều mang vải sợi đến.
Tỉ-kheo thấy
vậy, bèn lấy so sánh với cuộn vải sợi của mình rồi nói: "Chính tôi muốn
tìm loại vải sợi này đây, bây giờ đem so sánh thì giống y hệt". Nếu thấy
cái nào đẹp, thì lại nói: "Tôi muốn tìm loại này, nhưng so sánh thì ở đây
đẹp hơn". Nếu thấy loại thô, thì liền nói: "Chỉ sợi này tuy thô,
nhưng có thể làm thành đẹp". Thế nhưng, những người gánh gồng vải sợi đến
đều chẳng được tích sự gì.
Lúc bấy
giờ, cách tinh xá Kỳ Hoàn không xa có một xóm nghèo, nơi đây có lập ra một cửa
hàng dệt, các Tôn-giả kia định độ thợ dệt này xuất gia, để sai dệt y (cho
mình). Tôn giả A Nan khi đến giờ khất thực, bèn khoác y, cầm bát vào xóm làng
tuần tự khất thực, đến trước cửa nhà ấy, trông thấy Nan Đà, Ưu-ba-nan-đà cùng
cầm cuôïn chỉ sợi căng ra. Thấy thế, rồi cùng nhau chào hỏi. Đoạn A Nan hỏi 2
vị kia: "Các trưởng lão đang làm gì đấy?"
Họ đáp:
"Chúng tôi định dệt vải"
Thế rồi,
họ suy nghĩ: "Hôm nay Ta được thấy thị giả A Nan (tức A Nan là thị giả của
Phật), thế nào Thầy ấy cũng sẽ nói với Thế Tôn tạo ra phương tiện (có giải pháp
linh động)". Nghĩ thế rồi, ông bèn cầm cuộn chỉ cúng dường tôn giả A
Sau khi
khất thực trở về, ăn xong, A Nan bèn đem sự kiện trên bạch đầy đủ lên Thế Tôn.
Phật bảo gọi Nan Đà, Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi
Ưu-ba-nan-đà về vấn đề trên, cho đến: "A
Thầy đáp:
"Có thật như vậy".
Phật khiển
trách: "Đó là việc xấu. Ông không từng nghe Ta dùng vô số phương tiện khen
ngợi thiểu dục, chê trách đa dục hay sao? Đó là việc phi pháp, phi luật, trái
lời Ta dạy, không thể dùng việc ấy để nuôi lớn thiện pháp được".
Thế rồi,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất
cả, vì 10 điều lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải
nghe lại:
-- "Nếu
Tỉ-kheo tự đi xin chỉ sợi rồi sai thợ dệt dệt vải, thì phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề
".
Giải
thích
- Tự
xin: Khuyến hóa xin, hoặc được một cuộn, 2 cuộn chỉ sợi.
- Vải
sợi: Có 7 loại [320c] vải sợi .
- Thợ
dệt: Như thợ dệt Kim-tì-đề-trú-cu-lợi.
Nếu dệt
thành vải thì phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề .
Nếu Tỉ-kheo
tự đi xin vải sợi thì phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Nếu nhận được (vải
sợi) thì phạm tội Việt-tì-ni. Khi dệt thành vải thì phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề .
Theo phong
tục của nước Ca Thi, cứ sau khi an cư xong, đàn việt cúng chỉ sợi và tiền dệt
cho các Tỉ-kheo. Tỉ-kheo nào muốn dệt thành vải thì đem đến bảo thợ dệt như
sau: "Tôi đưa ông cuộn chỉ này, ông dệt thành vải cho tôi". Nếu như
thợ dệt nói: "Tôi không hiểu ý Thầy", thì nên hỏi: "Nhà ông làm
nghề gì?". Đáp: "dệt vải". Lại nói: "Ông hãy dệt cái này
thành vải cho tôi". Nếu thợ dệt cũng không hiểu lời nói ấy, thì nên đem
cuộn chỉ ấy giao cho tịnh nhân nhờ họ thuê dệt giúp, nhất thiết không được dùng
những lời nói thuê mướn. Nếu có Tỉ-kheo biết dệt đai buộc lưng, Ta muốn nhờ
Thầy ấy dệt thì nên cầm chỉ đến đưa và nói: "Trưởng lão, hãy làm giùm
thành đai lưng cho tôi". Thế nên nói (như trên).
Khi Phật
an trú tại tinh xá Kỳ Hoàn trong thành Xá Vệ, bấy giờ Tỳ Xá Khư lộc mẫu cứ mỗi
ngày mời chúng Tăng về nhà thọ trai. Bấy giờ, có Tỉ-kheo tới phiên mình đến nhà
ấy thọ trai, trông thấy Tỳ Xá Khư lộc mẫu cầm cuộn chỉ đưa thợ dệt, nói:
"Ông dệt thành vải giúp tôi. Tôi muốn cúng dường Tôn-giả Nan Đà,
Ưu-ba-nan-đà. Những vị này khó tính, ông gắng dệt cho thật đẹp".
Tỉ-kheo ấy
thọ trai xong, trở về tinh xá, nói với Nan Đà: "Trưởng lão, tôi muốn báo
cho Thầy một tin vui".
- Có việc
gì vui thế?
- Tôi nghe
Tỳ Xá Khư lộc mẫu định cúng dường y cho Thầy.
- Y đó
không phải cúng dường cho tôi. Vì sao? Vì Ưu Bà Di này sắp cúng dường cho các
bậc hiền thánh.
- Không
phải vậy, chính mắt tôi trông thấy Tỳ Xá Khư lộc mẫu cầm cuộn chỉ sợi đưa thợ
dệt, nói: "Tôi đưa ông cuộn chỉ sợi này, ông hãy dệt thành vải cho đẹp
giúp tôi. Tôi muốn cúng dường cho Nan Đà, vì Thầy ấy khó tính".
- Thầy có
biết nhà thợ dệt ở đâu không?
- Biết.
- Nhà ấy ở
vùng nào? Tại hẻm nào? Cửa hướng về phương nào? Chỉ cho tôi rõ các tiêu tướng
(dấu hiệu).
Khi đã hỏi
kỹ, biết rõ chỗ rồi, sáng hôm sau Nan Đà khoác y, đi đến nhà ấy, trông thấy thợ
dệt đang căng đường kinh (đường chỉ dọc) để dệt liền hỏi:
- Lão
trượng, căng đường kinh dệt vải cho ai vậy?
- Tôi sắp
dệt vải cho Lộc mẫu Tỳ Xá Khư.
- Ông có
biết Tỳ Xá Khư thuê dệt cho ai không?
- Tôi
biết. Bà thuê dệt cho Nan Đà, Ưu-ba-nan-đà.
- Ông biết
Nan Đà không?
- Tôi
không biết.
- Nan Đà,
Ưu-ba-nan-đà chính là chúng tôi đấy. Ông hãy dệt cho đẹp, dài, rộng, mịn, dày.
- [321a]
Số lượng sợi có giới hạn nhất định, tôi có thể dệt không có đường vĩ (đường chỉ
ngang) được sao?
- Ông cứ
theo lời tôi dệt cho đẹp, nhà ấy giàu có, sẽ tự đưa thêm vải sợi cho ông.
- Nhà ấy
đưa thêm cho tôi vải sợi, thế còn tiền dệt thì ai đưa cho tôi?
- Ông cứ
dệt cho đẹp, còn tiền dệt tôi sẽ đưa cho ông.
- Nếu
Tôn-giả trả tiền dệt cho tôi, bà ấy đưa thêm vải sợi, thì tôi sẽ dệt như lời
dặn.
Thế rồi,
thợ dệt cứ theo lời dặn, dệt thật đẹp, khi sợi hết thì đến đòi, làm như vậy đến
3 lần. Tỳ Xá Khư lộc mẫu suy nghĩ: "Người này chỉ đến đòi vải sợi, không đòi
tiền dệt, vì sao Ta không đưa cho đủ vải sợi? "
Khi dệt
xong tấm vải rộng, dài, dày, đẹp, ông bèn đem đến đưa Lộc mẫu. Lộc mẫu nhận
rồi, thầm nhủ: Tấm vải này rất đẹp, không nên cúng cho Thầy ấy (Nan Đà), vì đây
là vật cúng dường có giá trị. Thế nhưng, trước đã hứa cúng cho Thầy rồi. Nghĩ
vậy, bà bèn đưa cho Nan Đà.
Khi Tấm
vải chưa thành, ngày nào Nan Đà cũng đến nhà thợ dệt, nhưng lúc được vải rồi
thì Thầy rời xa nhà ấy, đi vào con hẻm khác, ví như con quạ già lánh xa chỗ có
tên bắn. Thợ dệt do nhiều công việc, không thể đến đòi tiền dệt. Về sau, nhân
có đại hội thợ dệt, ông bèn đến thành Xá Vệ. Lúc ấy thợ dệt suy nghĩ: "Mọi
người chưa tập họp, giờ đây Ta hãy đến tinh xá Kỳ Hoàn đòi tiền dệt". Nghĩ
thế, ông bèn đến đó, hỏi các Tỉ-kheo: "Nan Đà, Ưu-ba-na-đà ở tại chỗ nào?"
Các Tỉ-kheo
nói: "Trong phòng này đây".
Ông liền
vào phòng, thấy Nan Đà rồi, bèn đảnh lễ vấn an, giả vờ không biết, như chưa
từng gặp nhau, bèn hỏi: "Tôn-giả nhận được vải chưa? "
Nan Đà hỏi
ngược lại: "Vải nào?"
- Tôi dệt
cho Lộc mẫu đấy.
- Được rồi.
- Tấm vải
có vừa ý Tôn-giả không?
- Cũng tạm
được.
- Thưa
Thầy, Thầy hãy trả tiền dệt cho tôi.
- Trả tiền
dệt gì?
- (cho
đến) Ưu Bà Di đưa đủ vải sợi, và Thầy hứa trả tiền dệt cho tôi.
Nan Đà bèn
nổi giận nói: "Ngươi có biết Nan Đà, Ưu-ba-nan-đà không? Ta muốn móc lấy
tròng mắt của ngươi. Bỗng dưng hư không mà bốc khói. Ngươi hy vọng nhận được
tiền dệt của Ta chẳng khác gì muốn lột lấy 2 miếng vải che của ngoại đạo lõa
thể, hoặc mong lóc lấy 500 cân thịt từ chân của con quạ già đã chết, hoặc đem
bỏ một nắm cám dưới đáy sông Hằng rồi mong nhặt lại được tất cả". Đoạn,
bảo đệ tử: "Ngươi lấy Tăng-già-lê đưa Ta, Ta sẽ mặc đi tới nhà vua gọi
lính đến bắt trói tên này nạp cho quan".
[321b] Thợ
dệt suy nghĩ: "Kẻ Sa môn này có thế lực lớn, lại hay ra vào cung vua, y có
thể gây ra sự bất lợi lớn cho Ta. Ta lấy số tiền dệt kia để làm gì! Miễn giữ
được mạng sống là tốt". Nghĩ thế rồi, ông ta bỏ đi, ra khỏi cửa bèn chạy
một mạch đến giữa hội chúng các thợ dệt. Mọi người liền trách y: "Bọn
chúng tôi ai cũng bỏ cả việc nhà, đến đây để cùng lo liệu việc quan. Nay ngươi
vì sao lại bỏ mọi người, đi đâu?"
Anh ta
liền đáp: "Các vị hãy nghe tôi đã: Lộc mẫu đưa sợi cho tôi dệt, khi vải
dệt chưa xong, ngày nào Nan Đà, Ưu-ba-nan-đà cũng ghé đến. Nhưng khi nhận được
vải rồi thì cũng giống như con quạ già lánh xa chỗ bị tên bắn... chung cục, tôi
suy nghĩ: "Miễn giữ được mạng sống", (nói rộng việc trên) cho nên tôi
mới đến trễ như vậy".
Mọi người
liền nổi giận, nói: "Tên Tỉ-kheo này khinh thường chúng ta quá lắm, đã
không trả tiền may mà trái lại còn muốn dựa thế lực của Vua định bắt trói
người. Ngày nay, chúng ta hãy lập ra giao ước. Sau này không ai dệt vải cho Sa
môn nữa". Có người nói: "Chúng ta nên giao ước với nhau ở chỗ kín,
đừng cho ai biết. Tôi biết kích thước y của Sa môn, dài 5 khuỷu tay, rộng 3
khuỷu tay, hoặc dài 5 khuỷu tay, rộng 2 khuỷu tay. Nếu gặp kích thước y chừng ấy
thì chúng ta không nên dệt. Vị Sa môn này có thế lực, y có thể nhờ nhà vua dùng
quyền lực sai khiến người ta, thậm chí có thể gây nên sự bất lợi cho nguời, vậy
chớ cho ai biết".
Đến ngày
Tự-tứ, đàn việt gánh bắp chỉ đến nhà thợ dệt thuê thợ dệt dệt vải, thợ dệt hỏi:
"Ông định dệt áo kích thước cỡ nào?"
Chủ nhân
đáp: "Chiều dài 5 khuỷu tay, rộng 3 khuỷu tay, hoặc dài 5 khuỷu tay, rộng
2 khuỷu tay".
Thợ dệt
suy nghĩ: "Đó là kích thước y của Sa môn", liền đáp: "Tôi đã dệt
cho người ta, không thể dệt thêm được". Thế rồi, người ấy đi hỏi khắp nơi,
đều không ai chịu dệt".
Bấy giờ,
các nhà hào phú bèn đem vải đã dệt rồi cúng dường cho chúng Tăng. Còn các nhà
nghèo vì không có vải dệt sẵn nên không lấy gì cúng dường cho Tăng. Khi ấy, chư
Tăng nhận vải cúng dường ít, Phật biết mà vẫn hỏi A Nan: "Vì sao chúng
Tăng nhận ít vải cúng dường như vậy?"
A
Họ đáp:
"Có thật như vậy, bạch Thế Tôn".
Phật khiển
trách: "Đó là việc xấu. Các ông không từng nghe Ta khen ngợi thiểu dục,
chê trách đa dục hay sao?".
Thế rồi,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả,
vì 10 lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
"[321c] Nếu cư sĩ hay vợ cư sĩ bảo thợ dệt dệt vải cho Tỉ-kheo, Tỉ-kheo
này không được yêu cầu trước mà tự động đến thợ dệt khuyên: "Ông có biết
không, vải ấy là dệt cho tôi đấy. Ông phải dệt cho đẹp, dài và rộng, rồi tôi sẽ
trả tiền cho ông", thì dù số tiền chỉ đáng giá một bữa ăn, Tỉ-kheo này đã
giao ước trả tiền như vậy, khi nhận được vải, phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề".
Giải
thích
- Cư
sĩ: Nguời chủ nhà.
- Nguời
vợ: Người vợ của chủ nhà.
- Tỉ-kheo:
Hoặc Tăng, hoặc nhiều người, hoặc một người.
- Thợ
dệt: Như trên đã nói.
- Y:
có 10 loại, như trên đã nói.
- Không
được yêu cầu trước: Vốn không yêu cầu mà tưởng có yêu cầu, hoặc yêu cầu
người khác mà tưởng yêu cầu mình, hoặc yêu cầu về việc khác mà tưởng yêu cầu về
việc dệt vải.
- Tự
động đến: Tức đi tới ruộng hoặc tới nhà họ.
- Khuyên:
Bảo họ dệt dày, mịn, hoặc dài, rộng.
- Tiền:
Các loại tiền tệ.
- Giá
tiền: Những vật khác (được trị giá thành tiền)
- Thức
ăn: Như gạo lứt, gạo nếp, cá, thịt.
- Trị
giá: Như tiền, vật .v.v., nếu được y thì phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề.
Nếu Tỉ-kheo
nói với thợ dệt: "Ông dệt cho tôi thật đẹp, thật chắc, thật dày ..".
Khi nói như vậy thì phạm tội Việt-tì-ni. Khi thợ dệt bắt tay vào dệt chừng vài
nhịp thì phạm Ba-dạ-đề. Khi họ dệt xong, nhận được vải, thì phạm Ni-Tát-kì
Ba-dạ-đề.
Nếu Tỉ-kheo
thuyết pháp cho thợ dệt nghe, rồi thợ dệt dừng tay đứng lắng nghe, Tỉ-kheo nói:
"Chỉ nên nghe bằng tai, không nên nghe bằng tay, tay vẫn cứ làm". Khi
nói như vậy thì phạm tội Việt-tì-ni.
Nếu Tỉ-kheo
nghe ai đó định dệt vải cho mình, rồi đến đó khuyên thợ dệt mà không hứa trả
giá, thì khi được vải phạm tội Việt-tì-ni. Nếu nghe rồi đến khuyên và hứa trả giá,
thì khi nhận được vải, phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề. Nếu không nghe mà đến khuyên
rồi tự động đưa (tiền), thì khi được vải, phạm tội Việt-tì-ni. Nếu không nghe, không
đến khuyên, cũng không đưa tiền dệt, thì khi được vải không có tội.
Nếu có quả
phụ cúng dường vải cho chúng Tăng, rồi Tỉ-kheo theo thứ tự nhận được vải ấy
giữa chúng Tăng, khi ấy người đàn bà đó nói với Tỉ- kheo: "Nhà tôi không
có người. Tôn-giả có thể đến chỗ thợ may nhờ họ may giúp vải này. Nếu Tôn-giả
tự đến thợ may lo liệu thì có thể vừa nhanh mà vừa đẹp".
Khi đó,
Tỉ-kheo được quyền đi tới chỗ thợ may, nói như sau: "Lão trượng, ông biết
may nhanh, biết may dày...". Nói như thế, thì không có tội. Thế nên nói
(như trên)
Khi Phật
an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên, bấy giờ, nhóm 6 Tỉ-kheo an cư tại
một làng nọ. Lúc mới bắt đầu an cư, vào một buổi mai, họ khoác y, cầm giấy bút
vào một xóm làng, nói với các Ưu-bà-tắc: "Các ông hãy họp nhau làm việc
nghĩa, cúng vải [322a] an cư cho chúng tôi".
Các Ưu-bà-tắc
nói: "Lúc này không phải là lúc xin vải an cư, đợi đến mùa thu lúa chín,
khi ấy phần lớn người ta đều hoan hỉ, họ sẽ cúng dường vải".
Nhóm 6
Tỉ-kheo nói: "Các ông không biết rằng ở đời có nhiều tai nạn, như nạn vua,
nạn nước, lửa, trộm cướp, hoặc cha mẹ các ông ngăn cản không bố thí được, thế
là các ông không thành tựu công đức, còn chúng tôi thì thất lợi hay sao?"
Ưu-bà-Tắc nói:
"Tôn-giả chỉ chỉ cho tôi các tai nạn mà tự mình không thấy các tai nạn,
Tôn-giả tính nhận được tiền an cư rồi thì bãi đạo (hoàn tục) hoặc muốn đi nơi
khác sao? Sao lại đa dục tham lam, như thế thì nào có đạo hạnh gì!".
Các Tỉ-kheo
nghe thế, liền đem sự việc ấy bạch đầy đủ với Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm 6
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi: "Có thật lúc bắt đầu an cư,
các ông đến nhà Ưu-bà-tắc xin vải an cư, khiến cho các Ưu-bà-tắc trách móc
chăng?"
Họ đáp:
"Có thật như vậy".
Phật liền
khiển trách: "Đó là việc xấu. An-cư chưa xong mà đã xin vải trước. Từ nay
trở đi, các Tỉ-kheo không được xin vải trước khi an cư xong".
Lại nữa,
khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, bấy giờ vị đại thần của vua Ba Tư Nặc là Di Ni
Sát Lợi làm phản, Vua sai vị đại thần tên Tiên-Nhân Đạt Đa tới đó đánh dẹp. Vị
đại thần này lúc sắp lên đường, bèn đi đến chỗ tôn giả A Nan bạch rằng:
"Thưa Tôn-giả, vị đại thần của Vua Ba-tư-nặc làm phản, nay nhà vua sai tôi
đến đó đánh dẹp, tôi sắp đối đầu với cường địch, thân mạng khó bảo toàn. Hằng
năm cứ khi an cư xong, tôi thường cúng dường trai Tăng và dâng y. Nay tôi vì
lệnh Vua sai khiến không thể chờ đợi được, nên tôi định dâng y trước, đến khi
an ổn trở về, sẽ cúng dường trai phạn sau".
Tôn-giả A
Nan bèn đem sự việc ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật biết mà vẫn hỏi A Nan:
"Ông an cư còn mấy ngày nữa?"
Thầy đáp:
"Còn 10 ngày".
- Phật
dạy: "Từ nay Ta cho phép trước Tự tứ 10 ngày, các Tỉ-kheo được nhận y dâng
cấp thời".
Thế rồi
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất
cả, vì 10 lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi, cũng phải nghe
lại:
--"Nếu
còn 10 ngày nữa mới mãn 3 tháng hạ mà gặp dịp dâng y cấp thời, Tỉ-kheo nào cần,
được phép tự tay nhận lấy, rồi được cất giữ đến lúc thời y (thời gian được phép
tìm y), nếu cất quá thời hạn, thì phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề".
Giải
thích
- Mười
ngày: Từ mồng 6 tháng 7 đến 15 tháng 7, đó là 10 ngày.
- Được
y dâng cấp thời: Hoặc nam, hoặc nữ, hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc tại gia,
xuất gia, hoặc quân lính lúc sắp ra trận dâng, [322b] hoặc lúc trở về dâng,
hoặc lúc chết dâng, hoặc khi thiếu nữ về nhà chồng dâng, hoặc người đi buôn lúc
lên đường dâng, khi ấy thí chủ nói với Tỉ-kheo: "Nếu hôm nay không lấy thì
ngày mai sẽ không có". Đó gọi là y dâng cấp thời.
- Y:
Gồm có 7 loại như trên đã nói.
- Muốn
lấy: Nếu cần vật ấy thì lấy cất đến thời của y.
- Thời
gian của y: Nếu không thọ y Ca-hi-na thì được cất đến 15 tháng 8, nếu
có thọ y Ca-hi-na thì được cất đến 15 tháng chạp. Nếu cất quá thời gian ấy thì
phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề.
Tỉ-kheo nào
thành tựu 5 đức tính sau đây thì Tăng nên cử làm người chia y: Không thiên vị,
không giận dữ, không sợ hãi, không mê muội và biết ai nhận rồi, ai chưa nhận.
Đó gọi là 5 đức tính.
Người làm
Yết-ma nên nói như sau:
"Xin Đại-đức
Tăng lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu 5 pháp, nếu thời gian thích hợp đối
với Tăng, nay Tăng cử Tỉ-kheo mỗ giáp làm người khuyến hóa chia y".
Rồi bạch
như sau:
"Xin Đại-đức
Tăng lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu 5 pháp, nay Tăng cử Tỉ-kheo mỗ giáp
làm người khuyến hóa chia y. Các Đại-đức nào bằng lòng Tỉ-kheo mỗ giáp làm
người khuyến hóa chia y cho chúng Tăng thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói.
Tăng đã
bằng lòng cử Tỉ-kheo mỗ giáp làm người khuyến hóa chia y xong, vì Tăng đã im
lặng. Việc này cứ như thế mà thi hành".
Người được
Tăng cử nên bạch Tăng như sau:
"Các Đại-đức,
vải có loại 4 ngón tay, có loại 8 ngón không bằng nhau, nếu cùng thông cảm tôi
sẽ chia".Nếu không bạch mà chia thì phạm Tội Việt-tì-ni, phải bạch như
trên rồi mới chia. Vị Tỉ-kheo này từ 16 tháng 3 nên bảo các đàn việt cầm giấy
bút đi ghi chép các phòng xá, giảng đường, phòng sưởi ấm, nhà thiền, cửa ngõ,
nhà bếp, nhà chứa nước, nhà tiêu, nhà chứa củi, phòng tắm, chỗ ngồi dưới gốc
cây, chỗ kinh hành, phải ghi tên tất cả, rồi xướng giữa Tăng: "Xin Đại-đức
Tăng lắng nghe! Tại trú xứ kia có chừng ấy mền gối, có chừng ấy y an cư, chừng
ấy thực phẩm, chừng ấy ngày ăn chay, chừng ấy vật được chú nguyện. Tại trú xứ
nọ có chừng ấy chỗ A Luyện Nhã". Nếu các tinh xá ở bên trái, bên phải xa
nhau thì nên chia phòng xá vào ngày 12, 13. Nếu tại trú xứ ấy không dung nạp
hết thì phải đi đến nơi khác. Nếu trong phạm vi thôn xóm gần đó có tinh xá thì
nên chia vào ngày 14,15. Khi chia, phải ghi rõ phòng ốc, mền gối này đưa cho
Thượng-tọa, và phải bạch Tăng: "Trụ xứ kia có chừng ấy phòng xá, mền gối,
xin thượng-tọa tùy ý nhận". Khi nhận xong, phải tuần tự giao cho đệ nhị, [322c]
đệ tam Thượng-tọa, cho đến Tỉ-kheo không có tuổi hạ. Thượng-tọa nên nói rằng:
"Phòng xá thì chia theo thứ lớp, còn vật cúng dường thì nên chia bình
đẳng". Bấy giờ, nên tùy Thượng-tọa xử trí. Khi Thượng-tọa nhận rồi nên tuần
tự trao cho đệ nhị, đệ Tam Thượng-tọa, cũng như thế, cho đến Tỉ-kheo không có
tuổi hạ. Nếu phòng nhiều, nên chia 1 người 2 phòng. Khi giao cho 2 phòng mà
không chịu nhận thì nên nói: "Đây là vì để trông coi mà chia, chứ không
phải chia để ở". Không được chia cho Sa-di 2 phòng. Nếu phòng xá ít, thì
nên chia 2 người một phòng. Nếu chia như vậy mà vẫn không đủ, thì 3 người một
phòng, hoặc 4 người, 5 người, cho đến 10 người cùng ở chung một phòng.
Nếu có nhà
lớn, hoặc phòng sưởi, hoặc phòng ngồi thiền, hoặc giảng đường thì tất cả cùng ở
trong đó. Nếu không đầy đủ, thì đưa cho Thượng-tọa giường nằm, cho người trẻ giường
ngồi. Nếu cũng không đủ, thì đưa Thượng-tọa giường ngồi, người trẻ giường đặt
dưới đất. Nếu cũng không đủ, thì đưa Thượng-tọa nệm cỏ, người trẻ ngồi không
nệm. Nếu cũng không đủ, thì các Thượng-tọa nên ngồi, những người trẻ nên đứng.
Nếu cũng không đủ, thì Thượng-tọa nên đứng, người trẻ nên ra khỏi phòng, tới
dưới gốc cây hoặc những nơi khác.
Thầy Tỉ-kheo
được Tăng sai, từ ngày 16 tháng 6 trở đi, nên nói với các đàn việt: "Lão
trượng, phải lo chuẩn bị y". Khi ấy, nếu đàn việt đưa y, thì nên bảo:
"Hãy để ở nhà ông, đợi đúng lúc rồi đưa". Nếu quân lính sắp đi chinh chiến
cúng dường, hoặc chinh chiến trở về cúng dường, hoặc người trước khi chết cúng
dường, hoặc khách buôn lúc ra đi cúng dường, hoặc lúc thiếu nữ lấy chồng cúng dường,
nếu như lúc ấy không lấy thì ngày mai không có thì khi ấy nên nhận lấy.
Từ mồng 5
tháng 7 trở đi, nếu có ai đưa y đến thì lấy cất một chỗ, rồi dùng lá cây hoặc
vỏ cây ghi chép vào: Chừng ấy thời y, chừng ấy phi thời y, chừng ấy y dâng cấp
thời. Loại y đúng thời, thì để đúng thời chia; loại y phi thời thì chia lúc phi
thời; loại y dâng cấp thời thì chia đúng thời.
Nếu người
chia y hoặc bãi đạo, hoặc chết không thể chia y được, hoặc thời hạn đã hết thì
nên đổi y cho nhau: Y Tỉ-kheo-ni nên đổi cho Tỉ-kheo, y Tỉ-kheo nên đổi cho
Tỉ-kheo-ni. Nếu làm như vậy mà không được thì y Sa-di nên đổi cho Tỉ-kheo, y
Tỉ-kheo nên đổi cho Sa-di. Nếu cũng không được thì nên bạch giữa chúng Tăng như
vầy: "Bạch chư Đại-đức, thời gian của y đã qua, chúng Tăng hòa hợp, dùng
các y đó làm ngọa cụ cho Tăng 4 phương". Nếu bằng lòng thì nên làm ngọa cụ
cho Tăng 4 phương, Nếu có người nói: "Tôi an cư mùa hạ tại đây, được phần
y này, vì sao lại dùng làm ngọa cụ cho Tăng 4 phương?", thì nên nói với
người ấy rằng: "Đợi sang năm vào thời gian của y, sẽ đưa cho thầy".
Thế nên nói (như trên) .
{323a} Khi
Phật an trú tại thành Xá Vệ, bấy giờ vào mùa hạ an cư, các Tỉ-kheo sống tại A
Lan Nhã, đến giờ khất thực, bèn khoác y đi vào thôn xóm khất thực. Sau đó, các
mục đồng chăn bò, chăn dê, hoặc những người đi lấy củi bèn cầm chìa khóa tới mở
cửa phòng các Tỉ-kheo lấy trộm y vật. Khi ấy các Tỉ-kheo vì sợ lấy trộm, nên
cầm hết y vật vào xóm làng. Phật biết mà vẫn hỏi: "Đó là những Tỉ-kheo nào
mà chuyển vận đồ đạc đến đây vậy?".
Các Tỉ-kheo
liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Đó là các Tỉ-kheo an cư tại A Lan Nhã,
sau khi đi khất thực, có người cầm chìa khóa đến mở cửa phòng lấy trộm hết các
y vật, cho nên mới mang lổn ngổn tới đây".
Phật nói:
"Từ nay về sau, vào những lúc đáng lo ngại, Ta cho phép được đemi một
trong 3 y gởi trong xóm làng".
Lại nữa,
khi Phật an trú tại tinh xá Kỳ Hoàn nơi thành Xá Vệ, lúc ấy tại nước Sa Kỳ,
ngay trong mùa hạ an cư, có sự tranh cãi xảy ra trong Tăng chúng, Phật bèn sai
Ưu Ba Ly đến nước Sa Kỳ như pháp dập tắt sự tranh chấp đang xảy ra giữa chúng
Tăng. Nhưng trưởng lão Ưu Ba Ly không đi. Phật hỏi Ưu Ba Ly: "Vì sao ông
không đi?"
- Bạch Thế
Tôn! Y Tăng-già-lê của con nặng nề, nếu gặp mưa nữa thì không thể mang nổi, mà
nay đã nửa mùa an cư, nếu để y lại, thì phạm Ni-Tát-kì.
- Ông đi
về mất hết mấy ngày?
- Bạch Thế
Tôn! Đi 2 ngày, ở lại 2 ngày, trở về 2 ngày, tổng cộng mất hết 6 hôm kể cả đi
về.
- Từ nay
về sau các Tỉ-kheo được để y lại trong vòng 6 hôm.
Ưu Ba Ly
đến đó rồi, thấy sự đấu tranh khó mà giải quyết nhanh được, bèn trở về, đảnh lễ
chân Phật, đứng hầu một bên. Phật biết nhưng vẫn hỏi: "Ưu Ba Ly, vì sao
ông đi về nhanh vậy? Sự đấu tranh đã dập tắt xong chưa?"
- Dạ chưa
dập tắt, bạch Thế Tôn.
- Vì sao
vậy?
- Sự tranh
chấp khó dập tắt, không thể giải quyết nhanh được, lại sợ quá ngày, mất y (y
phạm qui định), phạm Ni-Tát-kì, cho nên con phải trở về.
- Từ nay
Ta cho phép được sống cách ly với y trong một tháng, nhưng Tăng phải làm Yết-
ma cho phép được sống cách ly với y một tháng mà không vi phạm. Người làm
Yết-ma nên nói như sau:
"Xin Đại
đức Tăng lắng nghe! Trưởng lão Ưu Ba Ly nay đến nước Sa Kỳ vì Tăng dập tắt sự
tranh chấp. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, nay Tăng cho Ưu Ba Ly đến
trước Tăng xin phép Yết-ma một tháng không mất y. Các Đại-đức nào bằng lòng cho
Ưu Ba Ly đến trước Tăng xin phép Yết-ma một tháng không mất y thì im lặng. Ai
không bằng lòng hãy nói. Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng. Việc ấy cứ như thế
mà [323b] thi hành.
Thế rồi,
đương sự phải đến trước Tăng xin, nói như sau:
"Xin Đại-đức
Tăng lắng nghe! Tôi là Tỉ-kheo Ưu Ba Ly muốn đến nước Sa Kỳ vì Tăng dập tắt sự
tranh chấp, mong Đại-đức Tăng cho tôi pháp Yết-ma một tháng không mất y".
Xin như
vậy đến lần thứ 2, thứ 3, rồi người làm Yết-ma nên nói:
"Xin Đại-đức
Tăng lắng nghe! Trưởng lão Ưu Ba Ly muốn đến nước Sa Kỳ vì Tăng dập tắt sự
tranh chấp, đã đến trước Tăng xin pháp Yết-ma một tháng không mất y. Nếu thời
gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay cho Ưu Ba Ly pháp Yết-ma một tháng không
mất y. Đây là lời tác bạch. Xin Đại-đức Tăng lắng nghe. Trưởng lão Ưu Ba Ly
muốn đến nước Sa Kỳ vì Tăng dập tắt sự tranh chấp, đã đến trước Tăng xin pháp
Yết-ma một tháng không mất y. Các Đại-đức nào bằng lòng cho Ưu Ba Ly pháp
Yết-ma một tháng không mất y thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Đây là
lần Yết-ma thứ nhất, (lần thứ 2, thứ 3 cũng nói như vậy).
Tăng đã
bằng lòng cho Ưu Ba Ly một tháng không mất y xong. Vì Tăng đã im lặng. Việc ấy
cứ như thế mà thi hành".
Sau đó
Phật hỏi các Tỉ-kheo: "Đã cho Ưu Ba Ly pháp Yết-ma một tháng không mất y
chưa?".
Đáp:
"Đã cho".
Thế rồi,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất
cả, vì 10 lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe
lại:
-- "Khi
3 tháng hạ chưa xong, các Tỉ-kheo an cư tại A Luyện Nhã, nếu có sự kiện đáng lo
sợ, nghi ngờ, thì có thể gởi một trong 3 y tại nhà dân. Tỉ-kheo có duyên sự
được cách ly với y trong 6 hôm, nếu quá 6 hôm, trừ Tăng Yết-ma cho phép, thì
phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề".
Giải
thích
- Ba
tháng an cư: Từ 16 tháng tư đến 15 tháng 7.
- Chưa
xong: Chưa hết tháng cuối mùa hạ, nghĩa là Tỉ-kheo sống tại A Luyện Nhã
chưa đến tháng cuối.
- Chỗ
A Luyện Nhã: Trong phạm vi đường kính 500 cung không có nhà của mục
đồng, đó gọi là chỗ A Luyện Nhã.
- Điều
đáng lo sợ: Hoặc bị giết, bị cướp đoạt.
- Điều
nghi ngờ: Tuy không bị giết, bị cướp đoạt, nhưng trong lòng sinh nghi:
"Không biết trong chốc lát nữa có kẻ nào đến giết người, lấy y
không". Nếu Tỉ-kheo thấy có điều đáng nghi ngờ lo ngại như vậy, đó gọi là
nghi ngờ.
- Hoặc
một trong 3 y: Hoặc y Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội, nhưng
không được gởi y Tăng-già-lê và An-đà-hội, mà nên gởi y Uất-đa-la-tăng tại nhà
dân trong thôn. Tuy vậy, không được gởi nhà thế tục (không đáng tin) mà nên gởi
nhà nào đáng tin, có thể lấy lại được. Nếu gởi gia đình khả nghi mà họ suy
nghĩ: "Các Tỉ-kheo [323c] không chắc gì đã trở lại", thì nên đề phòng.
Các Tỉ-kheo
nếu vì việc tháp, việc Tăng thì được lìa y trong 6 đêm.
- Sáu
đêm: Thời hạn trong 6 hôm.
- Trừ
Tăng Yết-ma (cho phép): Thế Tôn dạy (nếu Tăng Yết-ma thì) không có tội.
Nhưng nếu Tăng Yết-ma không thành tựu, thì không thể gọi là Yết-ma. Yết-ma
không thành tựu nghĩa là: Chúng không thành tựu, tác bạch không thành tựu,
Yết-ma không thành tựu. Nếu bạch thành tựu, Yết-ma thành tựu, chúng Tăng thành
tựu thì gọi là Tăng làm Yết-ma.
Nếu đã thọ
Yết-ma giữa Tăng xong thì không nên ở lại đợi cúng dường, mà nên đi liền. Nếu
trước bữa ăn làm Yết-ma thì sau bữa ăn nên đi. Nếu sau bữa ăn làm Yết-ma thì
sáng sớm hôm sau nên đi. Lúc đi, không nên đi đường quanh ghé nhà đàn việt, mà
nên đi đường thẳng. Nếu đường thẳng có tai nạn như tai nạn sư tử, tai nạn hổ
lang, tai nạn trùng độc, tai nạn mất mạng, thì khi ấy đi bằng đường quanh không
có tội.
Khi đến đó
rồi không được diên trì đợi khách Tỉ-kheo cúng dường ẩm thực. Nếu đến trước bữa
ăn, thì sau khi ăn xong, tập họp chư Tăng diệt trừ sự tranh chấp. Nếu đến sau
bữa ăn, thì sáng sớm hôm sau liền tập họp chư Tăng diệt trừ sự tranh chấp. Nếu
sau bữa ăn giải quyết xong việc, thì sáng sớm hôm sau trở về. Nếu giải quyết
xong công việc trước bữa ăn, thì sau bữa ăn trở về, không được ở lại đợi khách
Tỉ-kheo cúng dường. Khi trở về không nên đi đường quanh mà phải trở về bằng
đường thẳng. Nếu đường thẳng có tai nạn, thì như trên đã nói.
Lúc mới
đến đó không được tụng kinh, đun bát, nhuộm y. Nếu giải quyết công việc xong mà
còn thì giờ thì được tụng kinh, làm các việc khác. Nếu sự việc khó giải quyết,
thì trong thời gian lưu lại được tụng kinh, đun bát và nhận sự cúng dường ẩm
thực của Tỉ-kheo khách, như vậy không có tội.
Khi dập
tắt sự tranh chấp không được dùng ý riêng mình áp đặt người ta mà phải ra giữa
chúng sai người có khả năng, có uy đức thế tục (giúp giải quyết).
Nếu ở A
Luyện Nhã thì được gởi y trong nhà dân sáu hôm. Nếu quá sáu hôm thì phạm
Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. Vị Tỉ-kheo này muốn xả y thì nên thỉnh vị trì luật, như
giới thứ nhất ở trên đã nói. Thế nên nói (như trên).
Khi Phật
an trú tại thành Xá Vệ, có một Tỉ-kheo đến giờ khất thực bèn khoác y, cầm bát
vào thành tuần tự khất thực, đến một nhà kia, có một phụ nữ nói với Thầy:
- Thưa
Tôn-giả, ngày ấy ..., con sẽ cúng dường chư Tăng và dâng y.
Tỉ-kheo nói:
"Lành thay, này chị em! Dùng 3 pháp không kiên cố là thân, mệnh và tài sản
để đổi lấy 3 pháp kiên cố, vậy hãy thực hiện nhanh. Vì tài vật vô thường, có
nhiều tai nạn".
Nói thế
rồi, Thầy liền trở về tinh xá, nói với các Tỉ-kheo: "Tôi muốn báo cho các
vị một tin vui".
Các Tỉ-kheo
hỏi: "[324a] Có tin vui gì thế?"
Thầy đáp:
"Tôi nghe Ưu Bà Di mỗ giáp định cúng dường trai phạn và dâng y cho chư
Tăng".
Nhóm 6
Tỉ-kheo nghe thế rồi, liền hỏi: "Thầy vừa nói gì đó?"
- Tôi nghe
Ưu Bà Di mỗ giáp định cúng dường trai phạn và dâng y cho chư Tăng.
- Thầy có
biết nhà ấy ở nơi nào không? Nằm vào đường nào? Cửa hướng về phương nào?
Hỏi cặn kẻ
rồi, sáng sớm hôm sau, họ bèn khoác y, đi đến nhà ấy, hỏi: "Bà chủ có được
yên ổn không?"
Bà đáp:
"Yên ổn".
- Tôi nghe
bà định cúng dường trai phạn và dâng y cho chư Tăng có thật thế không?
- Thưa
Tôn-giả, tôi có ý định ấy, nhưng e trong lúc chuẩn bị gặp nhiều sự khó khăn,
không biết có thành tựu không.
- Như tôi
đây là người xuất gia trước, làm Tỉ-kheo đã lâu năm, nếu bà dâng y, tôi sẽ mặc
đi tới các nhà hoàng tộc, hoặc đảnh lễ Thế Tôn. Nếu các nhà hào quí, hoặc ai đó
hỏi tôi: "Ông được y đó ở đâu vậy?". Tôi sẽ đáp: "Do Ưu Bà Di mỗ
giáp có tín tâm cúng dường", như vậy bà sẽ được tiếng tốt, mọi người đều
biết đến bà.
- Gia đình
con lại không có vật nào nữa, vì con đã định cúng dường chư Tăng, nếu cúng
riêng cho Thầy thì con sẽ phạm lỗi thất hứa cúng cho Tăng. Nếu con có (y khác),
con sẽ cúng riêng cho Thầy, vì cúng cho Thầy cũng như cúng cho chư Tăng.
- Cúng hay
không cúng tùy ý bà!
Nói thế
rồi, Thầy liền ra đi. Khi Thầy đi rồi, Ưu Bà Di suy nghĩ: "Nếu Ta cúng
dường cho Tỉ-kheo ấy mà không cúng dường cho chư Tăng, vốn là ruộng phước tốt
(thì không ổn), nhưng nếu Ta không cúng dường cho Tỉ-kheo ấy mà Tỉ-kheo ấy vốn có
nhiều thế lực với vương gia thì ông ấy có thể gây cho Ta sự bất lợi". Nghĩ
như vậy nên bà không cúng dường cho Tăng, và vì giận Tỉ-kheo ấy nên cũng không
cúng dường cho Thầy.
Các Tỉ-kheo
nghe thế, bèn đem việc ấy bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan Đà,
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật hỏi rõ các việc trên: "Các ông có
việc đó thật chăng?"
Họ đáp:
"Có thật như vậy".
Phật khiển
trách: "Đó là việc xấu, có 2 điều không ổn:Một là khiến cho người bố thí
mất phước; Hai là người nhận mất y".
Rồi Phật
nói với Nan Đà, Ưu-ba-nan-đà: "Các ông không từng nghe Ta dùng vô số
phương tiện khen ngợi thiểu dục, chê trách đa dục hay sao? Đó là điều phi pháp,
phi luật, trái lời Ta dạy, không thể dùng việc ấy để nuôi lớn thiện pháp được".
Đoạn Phật
truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả,
vì 10 lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--"Nếu
Tỉ-kheo biết vật đó thí chủ định cúng dường cho Tăng mà tự xoay về cho mình,
thì phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề".
Giải thích:
- Biết:
Hoặc tự biết, hoặc nghe từ người khác.
[324b] Vật:
Gồm có 8 loại:
1- Thức ăn
dùng đúng giờ, 2- Thức uống dùng buổi tối; 3- Thuốc dùng trong 7 ngày; 4- Thuốc
dùng suốt đời; 5- Vật vặt vãnh; 6- Vật nặng nề; 7- Vật không hợp pháp; 8 - Vật
vừa hợp pháp vừa không hợp pháp.
- Vật
định cúng Tăng: Ý thí chủ định chọn những vật đó để cúng cho Tăng.
- Tăng:
Gồm 8 thành phần: 1- Tỉ-kheo-Tăng; 2- Tỉ-kheo Ni Tăng; 3- khách Tăng; 4- Tăng
ra đi; 5- Tăng cựu trú; 6- Tăng an cư; 7- Tăng hòa hợp; 8- Tăng không hoà hợp.
- Tự
xoay về cho mình: Tự thu vào, tự cất chứa, tự sử dụng. Nếu như vậy thì
phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề. Vật này phải đem thí xả giữa chúng Tăng, rồi sám hối
tội Ba-dạ-đề. Nếu không thí xả mà sám hối thì phạm tội Việt-tì-ni.
Nếu có
người định cúng dường, đến hỏi Tỉ-kheo:
- Thưa
Tôn-giả, tôi định cúng dường mà không biết nên cúng dường nơi nào?
Tỉ-kheo
nên đáp:
- Tùy ý bà
kính trọng nơi nào thì cúng dường nơi đó.
- Nơi nào
được quả báo nhiều?
- Cúng
dường Tăng được quả báo nhiều.
- Chư Tăng
nào giữ giới thanh tịnh, có nhiều công đức?
- Tăng
không phạm giới không mất thanh tịnh.
Nếu có
người đem phẩm vật đến cúng dường, Tỉ-kheo nên bảo: "Cúng cho Tăng được
quả báo lớn". Nếu họ nói: "Con đã từng cúng cho Tăng rồi, nay con
muốn cúng cho Tôn-giả", thì Tỉ-kheo nhận, không có tội.
Nếu thí
chủ hỏi Tỉ-kheo: "Con nên cúng dường vật này cho người nào để vật cúng này
của con được sử dụng luôn?"
Khi ấy,
Tỉ-kheo nên nói: "Tỉ-kheo mỗ giáp là người tụng kinh, giữ giới, tọa thiền,
nếu cúng cho Thầy ấy thì sẽ được sử dụng thường xuyên".
Nếu biết
vật đó thí chủ định cúng cho Tăng mà xoay về cho mình thì phạm Ni-Tát-kì
Ba-dạ-đề. Nếu xoay về cho người khác thì phạm Ba-dạ-đề. Nếu biết vật đó họ định
cúng chúng Tăng này mà khiến họ cúng chúng Tăng khác thì phạm tội Việt-tì-ni.
Nếu biết
họ cúng cho nhóm người này mà khiến họ cúng nhóm người khác, thì phạm tội
Việt-tì-ni.
Nếu biết
vật đó cúng cho súc sinh này mà xoay xở hướng về súc sinh khác thì phạm tội
Việt-tì-ni tâm niệm sám hối.
Cái vật mà
Tỉ-kheo đã xoay về cho mình (đã nói ở trên), Tăng không được cho ai mà phải sử
dụng. Thế nên nói (như trên).
Hết quyển thứ mười một.