Hai hạng người khó gặp ở đời

08/03/20153:27 SA(Xem: 10101)
Hai hạng người khó gặp ở đời

Hai hạng người khó gặp ở đời
Quảng Tánh

ni gioi ngay nay 2Hẳn ai cũng biết, một trong những bổn phận căn bản của người xuất giathuyết pháp, đem lời vàng vi diệu của Thế Tôn chia sẻ an lạc đến với mọi người. Không riêng hàng xuất gia, hàng cư sĩ cũng nhiệt thành tham gia vào Phật sự thuyết pháp trong khả năng có thể để chuyển hóa người thân, giúp những người có cơ duyên gặp gỡ trong đời sống hàng ngày hiểu được Chánh pháphồi tâm hướng thiện.

Song hành với thuyết phápnghe pháp. Phật pháp vốn bao la vô tận nên nghe (xem, đọc) pháp để hiểu biết sâu rộng thêm là vô cùng cần thiết. Nghe rồi suy ngẫm và ứng dụng thực hành trong đời sống lại càng cần thiết hơn. Vì vậy, Thế Tôn dạy người biết thuyết pháp và người biết nghe pháp để làm theo là hai hạng người khó gặp ở đời.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có hai người xuất hiện ở đời, rất khó gặp được. Thế nào là hai người? Đó là người hay thuyết pháp xuất hiện ở đời rất khó được gặp; người hay nghe pháp thọ trì vâng làm rất khó được gặp. Đó là, này Tỳ-kheo, có hai người xuất hiện ở đời rất khó được gặp. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên học thuyết pháp, nên học nghe pháp. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Khuyến thỉnh
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.307)

Rõ ràng, “nên học thuyết pháp và nên học nghe pháp” là một trong những bổn phận căn bản của hàng đệ tử Phật. Và những người con Phật chúng ta ai cũng đã từng học, đang học, sẽ học hai môn này, học đến trọn đời. Trong bối cảnh người người thuyết pháp, nhà nhà nghe pháp, rồi các ban ngành của Giáo hội liên quan đến nghiên cứu, giảng dạy, hoằng truyền Phật pháp với nhân sự lên đến hàng trăm người, vậy thì vì sao Thế Tôn lại khuyến cáo rằng, người thuyết pháp và người nghe pháp là hai hạng người khó gặp?


Thì ra, thuyết pháp đúng Chánh pháp, luôn khế lý, khế cơ, khế thời và khế xứ là điều không dễ dàng. Chúng ta mừng, hoan hỷ khi có nhiều người nhiệt tâm hoằng pháp. Nhưng bên cạnh niềm vui, vẫn còn những ưu tư vì đó đây vẫn còn những người nhân danh hoằng pháp nhưng truyền bá những điều tương tợ với Chánh pháp. Những hiện tượng như nhận lầm tầm gửi là bồ-đề; cố chấp, bảo thủ những quan điểm về hệ phái, tông phái, pháp môn; mạnh ai thì nấy nói (miễn có điều kiện thì tung băng đĩa, đưa lên mạng) mà không phải lúc nào các ban ngành chức năng cũng chấn chỉnh kịp thời v.v… là nguyên nhân khiến chúng ta “khó gặp người thuyết pháp”.

Nghe pháp cũng vậy, hiện nay người quan tâm tìm hiểu Phật pháp rất nhiều. Đây là tín hiệu đáng vui mừng trong bối cảnh đạo đức xã hội xuống cấp như hiện nay. Biết nghe pháp là quý, không nhiều thì ít, ai có quan tâm nghe đọc giáo pháp thì sẽ được thấm nhuần, lợi lạc. Tuy vậy, để có lợi ích thật sự như hoài bão của Thế Tôn thì song hành với tìm hiểu giáo phápứng dụng thực hành. Hiểu pháp là tốt nhưng hành trì được pháp sẽ tốt hơn rất nhiều. Hành trì pháp cho trọn vẹn vốn không phải là điều dễ bởi phần lớn chúng ta đều phước mỏng nghiệp dày. Cũng chính vì vậyThế Tôn dạy “người hay nghe pháp thọ trì vâng làm rất khó được gặp”.

Thế Tôn nói khó gặp người thuyết phápnghe pháp nhưng nếu có phước duyên và nỗ lực chuyển hóa tự thân thì chúng ta sẽ được gặp. Nói những pháp gì mình đã biết, không nói những điều mà mình còn mơ hồ, chưa biết tường tận. Nghe pháp xong thì cố gắng thực hành, được chừng nào hay chừng nấy, nguyện không nghe suông. Chỉ chừng ấy thôi, chúng ta cũng đã vâng theo lời Phật “nên học thuyết pháp, nên học nghe pháp”. 




Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :