Lời Mở Đầu - Vị Trí Của Hàng Phụ Nữ Trong Phật GiáoKhi
Đức Phật Siddhattha Gotama (Sĩ Đạt Ta
Cồ Đàm)
thị hiện ở
Ấn Độ cách nay hơn 2,500 năm về trước, người
phụ nữ có một
địa vị rất
thấp kém và
đê hèn trong
xã hội Ấn Độ. Vào thời bấy giờ, trong phần còn lại của
thế giới văn minh, trải dài từ Trung Hoa đến Hy Lạp,
vị trí của người
phụ nữ vẫn khiêm nhường và hạ cấp. Ngày nay, cùng khắp nơi ai ai cũng nhìn nhận rằng
Đức Phật là người đã
sáng lập một
tôn giáo được
truyền bá sâu rộng trên
thế gian,
phổ cập đến những hang cùng hóc hẻm của
quả địa cầu, đã ban truyền một triết lý huy hoàng và vĩ đại nhất
trong lịch sử tư tưởng loài người.
Nhưng
vai trò phục hưng xã hội và
cách mạng văn hóa của
Đức Phật, rất
kỳ diệu và
phi thường, đôi khi bị các sử gia
Phật Giáo lãng quên.
Quan trọng nhất trong các đổi mới mà Ngài đem lại cho cơ cấu
xã hội loài người vào thời bấy giờ là sự phá tan
hệ thống giai cấp rất
tai hại và
giải phóng hàng
phụ nữ. Với lòng
quả cảm hiếm có đáng được
lưu ý Ngài chỉ vạch tánh cách
vô lý và điên rồ của những
ràng buộc nghiêm khắc trong sự
phân chia giai cấp và
tình trạng nô lệ của người
phụ nữ. Ngài
phục hưng hai
vấn đề tối
trọng yếu ấy trong tập tục và
tư tưởng con người mà vào thời bấy giờ đã
thấm nhuần tận xương tủy người Ấn. Ngài
biến chuyển một
xã hội đã lún sâu trong
thành kiến mù quáng và lòng
mê tín ẩn tàng
trở thành lành mạnh,
dũng cảm và có nền
đạo đức trong sạch.
Từ xa xưa trước thời
Đức Phật,
giai cấp Bà la môn (brahmin) vẫn giữ
toàn thể dân Ấn trong bàn tay sắt của họ, dìm thấp người
phụ nữ xuống hàng
tôi đòi hay
nô lệ. Người đàn bà không có quyền gì của mình, không
tự do ăn nói, mà phải tự giam hảm trong bốn bức tường của nhà mình và được xem là không xứng đáng được hưởng bất luận gì cao hơn là hàng tôi tớ của chồng, của cha hay của anh.
Nữ giới không bao giờ được sắp
ngang hàng với nam giới trong
xã hội.
Theo sách Manusmrti, The Laws of Manu, một
quy luật để hướng đạo số phận của cuộc sống trong
xã hội Ấn Độ thời xưa mà
nhà làm luật nổi tiếng Manu đã
ban hành,
hôn nhân là
tăng cường những
ràng buộc cột trói người đàn bà
trong vòng nô lệ, siết chặt trọn
cuộc đời vào người đàn ông -- là một phần của chồng, là người làm công, người giúp việc để
phục vụ chồng.
Vâng dạ phục tùng chồng,
thi hành những gì chồng
sai bảo, luôn luôn làm theo
ý muốn của chồng, chỉ bấy nhiêu đó cũng có
đủ tư cách cho người vợ
vượt qua cánh cổng của cảnh trời. Không như người nam, người nữ không
cần phải tế lễ hay
thực hành những
nghi thức lễ bái hoặc cúng kiếng nào, cũng không cần
đọc tụng kinh và dâng cúng
thần linh để
dọn đường lên cảnh trời. Một
lòng trung thành với chồng và lúc nào cũng
tuân hành lời
sai khiến của chồng là cái chìa khóa mở cổng vào
hạnh phúc thiên đàng [1]. Theo
quy luật Manu hàng
phụ nữ không được quyền học kinh Vedas (
Phệ Đà). Đó là
lý do tại sao trong
nghi thức lễ bái dành cho người nữ không có phần đọc chú Veda. Quan kiến về
nữ giới như vậy là một sĩ nhục cho người
phụ nữ Ấn Độ.
Lòng trung thành của người vợ không phải chỉ được bày tỏ trong khi chồng còn sống mà còn
tiếp tục cho đến khi
hỏa táng ông chồng. Một người vợ
Ấn Độ được
trông đợi phải theo chồng sang
thế giới bên kia bằng cách tự quyên sinh, nhảy vào ngọn lửa bừng cháy của giàn hỏa đang thiêu chồng.
Mặc dầu các tập tục man rợ ấy đã được
hoàn toàn bãi bỏ và
chấm dứt và không còn được
duy trì để bôi xấu gương mặt tươi đẹp của nền
văn hóa Ấn Độ,
tuy nhiên thói quen ấy đã được lan rộng trong
xã hội Ấn Độ cổ xưa, và ngày nay
thỉnh thoảng vẫn còn sống dậy trong xứ
Ấn Độ tân tiến, cho thấy rõ
vị trí thấp hèn của người
phụ nữ trong
xã hội Ấn vào những ngày xa xưa và có thể còn được
ứng dụng đến một mức độ nào.
Xã hội thời bấy giờ tin rằng sinh con gái là một điều
bất hạnh -- còn hơn vậy nữa -- là một
đại họa. Không phải chỉ người dân thường mà chí đến hàng vua chúa cũng không
tránh khỏi bị quan kiến hẹp hòi và
lầm lạc ấy gây nhiễm độc. Chuyện thuật rằng một ngày nọ Vua xứ Kosala (
Câu Tát La) đến hầu Phật như thông thường vua vẫn đến và đàm đạo với Ngài. Vào
lúc ấy có tin báo là Hoàng Hậu Mallika hạ sanh con gái.
Nghe tin này vua ngẩn ngơ khó chịu, sắc mặt trở nên
ủ dột âu lo và
phiền muộn. Nhìn thấy vậy đấng
Toàn Giác mở
lời khuyên:
"Không nên băn khoăn, tâu Đại Vương,Một bé gái có thểCòn tốt hơn con trai,Vì lớn lên em có thể thông minh và đức hạnh,Là một người vợ hiền, mẹ chồng em sẽ yêu quý.
Rồi đứa con trai mà em sẽ sanh ra Có thể làm nên đại sự Trị vì một lãnh thổ rộng lớn, đúng vậy, con traiCủa bà vợ cao quý trở thành người lãnh đạo quốc gia." [2]
Trong
Phật Giáo, sự khác biệt giữa nam và nữ không phải là một trở ngại để
thành tựu mức độ toàn hảo cao thượng nhất. Đề cập đến
Bát Chánh Đạo mà Ngài
ví như một cổ xe,
Đức Phật dạy:
"Dầu là người nữ, dầu là người namCổ xe cũng vẫn chờ đợi, cùng một chiếc xe ấySẽ đưa vào tận Niết Bàn." [3]Thấu hiểu lòng
thù nghịch hiểm độc và
thái độ ác cảm đối với hàng
phụ nữ trong các
hệ thống tôn giáo và
xã hội của thời Ngài,
Đức Phật phát huy một cuộc
cách mạng trong
tư tưởng và trong lối
cảm xúc của
đại chúng bằng cách
công khai và
can đảm tuyên bố rằng người nữ không có gì là
thấp kém hơn người nam, và trên
con đường đức hạnh toàn hảo và
trí tuệ thâm sâu dẫn đến
Niết Bàn, vừa khó khăn vừa khổ nhọc, nam và nữ vẫn ngang nhau. Bên trong mỗi người nữ, cũng như bên trong mỗi người nam, đều có
tiềm ẩn khả năng để
trở thành A La Hán,
tiềm lực để trở nên bậc
thánh nhân.
Tuyên ngôn này của
Đức Phật, cũng như sự phủ nhận
hệ thống giai cấp của Ngài, đã gây nên một
biến động lớn lao trong giới
tôn giáo thời bấy giờ vì đó là trực tiếp đương đầu với
niềm tin đã ăn sâu
vững chắc trong dân gian.
Tuy nhiên, những thành trì chánh thống ấy sớm sụp đổ trước
giáo lý vẻ vang của
Đức Phật.
Đức Phật chỉ rằng người đàn bà là mẹ của đàn ông. Không ai xứng đáng cho ta kỉnh mộ
tôn sùng bằng mẹ của mình, và phận làm con không thể trả hết món nợ của mẹ mà mình phải mang trong lòng. Như thế Ngài
nâng cao vị trí của hàng
phụ nữ.
Trong kinh sách
Phật Giáo, đôi khi vì lòng
sùng kính và
tôn trọng, hàng
phụ nữ được nhắc đến dưới
danh nghĩa là
xã hội các bà mẹ (màtugàma). Về sau, người
hiểu biết ở Ấn nghe theo
lời khuyên dạy của
Đức Phật về
giá trị của bà mẹ,
tuyên ngôn rằng:
"Bà mẹ và lãnh vực của mẹ phải được tôn trọng hơn là cảnh trời. [4]"
Đức Phật cũng ghi sâu vào tâm não của dân chúng thời bấy giờ nhu cầu phải kính nể và
tôn trọng nữ phái. Ngài dạy người nam nên xem người nữ như chị, như em gái và
hết lòng bảo vệ họ, nên đối xử
hiền hòa,
dịu dàng với vợ, xem vợ là
ngang hàng với mình, và cho con gái những cơ hội thăng tiến giống như con trai. Hơn nữa, trong kinh Sigàlovàda Sutta,
toát yếu đạo lý cho người
cư sĩ,
Đức Phật ban hành đường lối
chỉ đạo về bổn phận người làm chồng nên:
lễ độ, luôn luôn
nhã nhặn thanh tao với vợ; không
tỏ ý khinh thường;
trung thành với vợ,
trao quyền hành trong nhà, và mua sắm nữ trang cho vợ.
Cũng trong
bài kinh ấy
Đức Phật khuyên dạy bổn phận người làm vợ nên đối xử với chồng thế nào. Phải bày tỏ lòng thương kính chồng bằng năm cách: làm tròn phận sự của mình;
ân cần đón tiếp thân bằng
quyến thuộc bên chồng;
trung thành với chồng;
cẩn thận giữ gìn tiền bạc
của cải mà chồng đem về; luôn luôn siêng năng, không bao giờ tháo trúc công việc.
Vài người
chỉ trích vội vã đi đến
kết luận rằng
Đức Phật không biết và không
quan tâm thích nghi đến bổn phận và
lý tưởng của hàng
phụ nữ cư sĩ. Những vị ấy chỉ cần đọc các bài
thuyết giảng của
Đức Phật, nhất là những bài trong bộ Anguttara Nikàya (
Tăng Nhứt A Hàm) [5] và Samyutta Nikàya (
Tạp A Hàm) [6] để
nhận định đến mức nào đấng
Toàn Giác đã chú trọng đến
tình trạng an lành của "xã hội các bà mẹ." Theo
Đức Phật, tất cả mọi
tiến bộ và mọi
thành tựu,
tại thế cũng như
siêu thế, đều nằm trong tầm khả năng của người
phụ nữ cư sĩ sống với
nếp sống trong
gia đình và theo những khuynh hướng
đạo đức của người
tại gia,
miễn là người ấy
thực hành đúng theo lời dạy của
Đức Phật.
Những phẩm hạnh đem lại
tình trạng an lành cho người
phụ nữ trong cả hai,
thế gian này và
cảnh giới về sau, đã được
Đức Phật ban hành như sau:
1)
Tâm đạo nhiệt thành,
2) Biết
hổ thẹn và
ghê sợ tội lỗi,
3) Không dể duôi buông xuôi theo chiều hướng độc hiểm,
thù oán và
sân hận,
4) Không
ganh tỵ,
5) Không keo kiết
bỏn xẻn mà
quảng đại rộng rãi,
6)
Đức hạnh trong sạch,
7) Sống
cuộc đời đạo đức và
thích hợp với
thuần phong mỹ tục,
8) Trau giồi học vấn và
kiến thức thâm sâu,
9) Hăng say và nhiệt thành,
10)
Cảnh giác và
lanh trí,
11)
Sáng suốt và khôn ngoan. [7]
Một thiếu phụ mà có những phẩm hạnh như trên đã
vững chắc tiến bước trên
con đường an lành và
hạnh phúc. Như nhà viết kịch vĩ đại người hy lạp, Euripides, đã
lưu ý: "Không có gì tệ hại hơn là một người đàn bà xấu và không có gì cao cả hơn một người đàn bà tốt." Cũng vì
Đức Phật tin chắc vào khả năng của người
phụ nữ để tiến
đạt đến mức
tiến bộ tuyệt đỉnh mà
con người có thể
thành đạt nên Ngài
chấp nhận thỉnh nguyện khẩn cấp của bà
di mẫu Pajàpati Gotami và
thành lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni. Làm điều này
Đức Phật là người đầu tiên
trong lịch sử tôn giáo nhân loại đã
nâng cao vị trí của hàng
phụ nữ đến mức quan trọng nhất. Đây là
việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong rất nhiều
hệ thống tôn giáo và trường phái
tư tưởng được biết, trước và trong thời
Đức Phật. Đây là một sự canh tân bất ngờ đã làm cho những nhà
lãnh đạo xã hội và
tôn giáo thời bấy giờ
hoàn toàn kinh ngạc. Đây là một canh tân mới lạ
phi thường vì nó
chấp nhận cho hàng
phụ nữ đặc quyền tiếp thụ một
bản chất cao quý, một
sức mạnh kiên cố vững chắc trong nền
đạo lý, một khả năng
thấm nhuần trí tuệ thâm sâu ngang hàng với nam giới.
Cũng nên
ghi nhận thêm rằng
Đức Phật cho phép thành lập Giáo Hội chư Tỳ Khưu Ni vào thời điểm và địa điểm mà người
phụ nữ được xếp vào hạng rất
thấp kém, khiêm tốn và có một
địa vị nhục nhã trong
xã hội. Và ta cũng có thể nói thêm rằng,
mặc dầu 2,500 năm đã
trôi qua từ thời
Đức Phật và
mặc dầu nhiều
hệ thống tôn giáo khác đã phát triển
dồi dào thịnh vượng tại
Ấn Độ, chí đến ngày nay không có
tôn giáo nào
thành lập một
giáo hội cho hàng nữ
tu sĩ. Không thể còn nhiều
nghi ngờ nữa, rằng hàng
phụ nữ trên
thế giới vẫn chịu một món nợ
trường cửu đối với
Đức Phật vì Ngài đã
nâng cao họ lên hàng
danh dự này. Sau khi
Giáo Hội Tỳ Khưu Ni được
thành lập, một số đông
phụ nữ từ mọi từng lớp của
đời sống gia nhập vào
Giáo Hội và những hành động của các bà đã tô điểm
vẻ vang những trang
văn học Phật Giáo.
Đời sống của một số khá đông những vị tỳ khưu ni
thánh thiện ấy,
công trình kiên trì nỗ lực của các bà để
thành đạt mục tiêu giải thoát và những khúc ca khải hoàn sau khi
thành tựu mục tiêu, đã được
mô tả một
cách sống động trong Therigàthà (Psalms of the Sisters,
Trưởng Lão Ni Kệ, những thánh thi của chư tỳ khưu ni).
Trong tích chuyện bà Pajàpati Gotami, được đề cập đến trong kinh sách, có tường trình việc
thành lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni với đầy đủ
chi tiết.
Văn học Phật Giáo chứa đựng
dồi dào những gương lành của người
phụ nữ đã
viên mãn nhiều
thành tựu khác thường.
Bộ Anguttara Nikàya,
Tăng Nhứt A Hàm, kể lại rất tận tường
tiểu sử các bà
Phật tử, tỳ khưu ni và
cư sĩ tín nữ, không những đã
thực hành tốt đẹp Giáo Pháp mà còn là
giảng sư dạy
Giáo Lý. Vị Tỳ Khưu Ni Kunđalakesà [8] là một trong các bà. Tích chuyện Tỳ Khưu Ni Somà đã nói lên bằng những danh
từ không thể
lầm lẫn rằng
nữ tính không phải là trở ngại cho
tiến bộ.
Tin tưởng lầm lạc thông thường ở
Ấn Độ là cho rằng về
phương diện tinh thần và
đạo đức người
phụ nữ thấp kém hơn người nam, được Tỳ Khưu Ni Somà [9]
bác bỏ và giải rõ như sau: "Làm thế nào
bản chất của người đàn bà được xem là
thấp kém khi mà, với
tâm an trụ, với
tri kiến sáng tỏ và
thanh tịnh đầy
trí tuệ sâu sắc, người
phụ nữ có thể vén lên bức màn
vô minh đang bao trùm mình,
thông suốt Giáo Pháp và
nhận thấy đời sống đúng theo
thực tướng của nó?"
Sự kiện Đức Phật thông hiểu tiềm năng sâu ẩn và khả năng hoàn mãn những
thành tựu vĩ đại và cao thâm của hàng
phụ nữ không làm cho Ngài
mù quáng không thấy những khuyết điểm và yếu mềm cố hữu trong
tâm tánh người nữ, và đó là điểm đặc thù của phái này. Ngài có thể khuyến cáo cả hai, người nam và người nữ, nên
cảnh giác lưu tâm đến các
thiếu sót và suy kém ấy.
Đề cập đến nữ phái,
Đức Phật nói:
"Khuynh hướng không cương nghị và bẩm tánh kém đạo đức là tai hại lớn lao của nữ giới," [10] nhưng điều này không có nghĩa là bắt buộc họ phải chịu số phận như vậy. Điều này chỉ có nghĩa là người nữ
cần phải hết sức thận trọng và tận lực
gia công chiến đấu để vượt đến mức độ cao trổi hơn
trong đời sống.
Dầu sao,
Đức Phật vạch rõ những
yếu kém và khuyết điểm của hàng
phụ nữ, không phải để
chế nhạo và
chê cười là thua sút, mà Ngài nhắm đến
mục tiêu cao quý là giúp họ
nhận định những khó khăn gây trở ngại cho những
nỗ lực thành tựu mục tiêu của mình và khuyến khích họ
thận trọng canh phòng các cuộc tấn công của những khát vọng và các cuộc đột kích của những
cám dỗ.
Có lời dạy rằng những
thích thú của năm
giác quan -- sắc, thinh, hương, vị, xúc, vốn làm say mê và
cám dỗ người nam -- đều tập trung và kết tinh trong
hình dáng người đàn bà [11]. Với
năng lực làm
say đắm mê hồn ấy người đàn bà có thể
nô lệ hoá và đặt người đàn ông dưới quyền
thống trị của mình.
Người ta thường nói rằng người
phụ nữ cám dỗ và
lôi cuốn con người dể duôi
buông lung bằng những cái liếc mắt, những nụ cười duyên, những
dáng điệu yêu đương, bằng cách
thân mến chăm nom chãi chuốt (dunni-vatthena) và bằng những lời
quyến rũ dịu dàng dễ mến. [12]
Bộ kinh Angutara Nikàya,
Tăng Nhứt A Hàm, mở đầu như sau:
"Này chư tỳ khưu,
Như Lai không biết một hình thể nào khác chiếm đoạt quả tim người đàn ông như
bóng dáng của người đàn bà. Này chư tỳ khưu,
hình dáng của người
phụ nữ làm cho
tâm trí người nam
đắm đuối say mê.
"Như Lai không biết một
âm thanh ...
Như Lai không biết một hương thơm ...
Như Lai không biết một
mùi vị ...
Như Lai không biết một sự đụng chạm nào ...
mà có thể làm
đắm đuối say mê và giam cầm quả tim người nam như
âm thanh, hương thơm,
mùi vị và sự đụng chạm một người đàn bà. Tiếng nói, hương thơm,
mùi vị và sự đụng chạm với người
phụ nữ chiếm đầy
tâm trí người nam.
"Này chư tỳ khưu,
Như Lai không biết sắc, thinh, hương, vị, xúc nào khác mà làm cho quả tim người đàn bà
hoàn toàn đắm đuối say mê trước những
quyến rũ và
cảm xúc ấy."
Nơi đây có một thời pháp về sự thân cận
nam nữ và
năng lực không thể cưỡng của nó được
diễn đạt trong một
ngôn ngữ giản dị và không thể nhầm lẫn,
chân lý mà không người biết
lẽ phải nào có thể dám phủ nhận. Sự
gần gủi giữa nam và nữ được
Đức Phật xem là
dục vọng hùng mạnh nhất, là
bản năng có
sức mạnh hùng hậu nhất của
con người. Nếu ta để cho
tình dục lôi cuốn,
trở thành người bị
trói buộc, người
nô lệ của những
dục vọng, người
hoàn toàn tự hảm mình trong cạm bẩy, tự hiến mình vào
nanh vuốt của
mê hoặc -- thì
con người dũng mãnh nhất cũng
trở thành như loài sâu bọ
thế cô; một người
thánh thiện sáng suốt cũng hành động như
điên cuồng khờ dại; chí đến một
hành giả đã
thành đạt những từng thiền (jhàna) cao cũng có thể rơi xuống
thâm sâu trong những
khổ cảnh trần gian.
"Không có lửa nào như tham ái.Khát vọng không tàn lụi, nó bừng cháy." [13]
Đó là lời của
Đức Phật về những
cảm xúc của
tình dục. Nhưng ta phải nhớ rằng
Đức Phật không khinh rẻ, không có ý làm
tổn hại danh dự,
suy giảm giá trị của
nữ giới. Ngài chỉ nêu lên
tâm tánh yếu mềm và
tình trạng mỏng manh của người nữ và muốn cho họ
cảnh giác đề phòng. Đàng khác Ngài
thấm nhuần và in sâu vào lòng họ bài học tự mình
uốn nắn tâm tánh và
sửa đổi tác phong để thành một nguồn
an ủi và
sức mạnh của
nhân loại.
Nói về người
phụ nữ,
Đức Phật vắn tắt phê bình:
"Tác phong dể duôi hay kém đạo đức là ô nhiễm của người phụ nữ. [14]" Nhưng
một lần nữa
Đức Thế Tôn khẳng định
rõ ràng, "
Người tốt nhất trong những bà vợ hiền là người làm vui lòng chồng, [15]" và ở một
nơi khác Ngài
ghi nhận, "
Vợ là người bạn hiền tốt nhất. [16]" Goldsmith chỉ vang âm những lời của
Đức Phật khi ông viết:
"Một bà vợ toàn hảo giúp đỡ
trong đời sống còn nhiều hơn người luôn luôn khoát chiếc áo
triết gia, vổ ngực tự xưng
anh hùng, hay những
công nương gắt gỏng. Người làm cho chồng con
hạnh phúc là một nhân vật vĩ đại hơn các
thiếu nữ trong những
câu chuyện tiểu thuyết mà
trọn đời chỉ giết chóc
nhân loại bằng những làn tên được phóng ra từ ống tên khoé mắt."
Một cách
vắn tắt, đó là
vị trí của
nữ giới trong
Phật Giáo. Người
phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng
danh dự ngang hàng với nam giới, về
phương diện khả năng và
thành đạt mục tiêu Niết Bàn, và trên nấc thang
thành tựu của
nhân loại, có khả năng trèo đến mức tột đỉnh mà người nam có thể đến.
Trong mọi
lãnh vực nỗ lực của
nhân loại, người nam không có gì hơn người nữ, nhưng
cùng lúc Đức Phật nhìn nhận những khuyết điểm dính liền theo
nữ tính, khuynh hướng nhẹ dạ và thiên tánh yếu mềm của người
phụ nữ dễ dàng rơi vào đường
tội lỗi, dễ bị khuyến dụ đi trên
con đường kém
đạo đức, và vốn là một vị thầy
luân lý vĩ đại -- là vị thầy vĩ đại nhất
trong lịch sử loài người -- Ngài gióng lên hồi chuông
cảnh tỉnh, chỉ vạch những dấu hiệu hiểm nguy trên
con đường tiến bộ của các bà.
Mối
lo âu chánh của
Đức Phật là
phục hưng tinh thần đạo đức và
luân lý cho tất cả
mọi người, nam và nữ; là
giải thoát họ ra khỏi những
trói buộc vô cùng tận của vòng
luân hồi và đưa họ đến
hạnh phúc trường cửu của
Niết Bàn. Đã như vậy, Ngài không mấy bận tâm đến những
vấn đề của
thế gian như
cải cách xã hội và
tiến bộ chánh trị. Ngài để những công việc ấy lại cho những ai có
thẩm quyền -- những nhà cai trị dân, vua chúa, người có
quyền thế, những người có
nhiệm vụ gánh vác công chuyện quốc gia.
Suốt đời Ngài không bao giờ
xen vào những tổ chức của chánh quyền; Ngài không bao giờ nhúng tay vào những
vấn đề chánh trị nhưng dầu sao, không thể phủ nhận và
luận bàn, rằng trong khi
tuyên ngôn bức
thông điệp vĩnh cửu về
sự giải thoát nhân loại,
cùng lúc ấy, vì
lý do cao cả của
giáo huấn tuyệt luân, Ngài đã đem lại
tiến bộ xã hội đáng ghi nhớ và sự
giác ngộ chánh trị cho
toàn thể nhân loại,
duy nhất trong lịch sử thế giới. Những chuyện tích thuật lại dưới đây cho thấy rằng
giáo huấn tuyệt vời của
Đức Phật đã có một
ảnh hưởng thấm nhuần sâu xa vào
đời sống của hàng
phụ nữ trong thời Ngài. [17]
Hầu hết tất cả những tích chuyện này đều được
phiên dịch từ
kinh điển và các Bản
Chú Giải Pali. Những câu kệ được viết lại theo
văn xuôi để có thể rất
trung thực, dễ
thực hiện và dễ đọc.
-ooOoo-
Thành Lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni
Người
Phụ nữ Vĩ Đại Nhất - Mahà Pajàpati Gotami
Cuộc đời và
tiểu sử Bà Mahà Pajàpati Gotami, sự
xuất gia của bà và sau đó sự
thành lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni (Bhikkhuni) là một trong những mẫu chuyện sáng chói và
hấp dẫn nhất trong
văn học Phật Giáo. Nó
biểu lộ cùng lúc trí tuệ thấy xa và
lòng nhân đạo của
Đức Phật Đại Từ Đại Bi. Hơn nữa nó cho thấy đến mức nào
năng lực hùng mạnh của sự
quyết tâm bất khuất và
bất thối chuyển và lòng
quả cảm của một thiếu phụ có thể gieo
ảnh hưởng đến
xã hội đương thời. Nó cũng cho thấy như thế nào một sự
can thiệp làm
trung gian để
thỉnh cầu đầy
lòng từ ái, có thể giúp làm mềm dịu
lập trường cứng rắn nhất và dẫn đến
tình trạng thân hữu và mềm dẽo hơn.
Trên hết, đây là một giai đoạn đầy hiểm họa có những
thành quả sâu xa nhất
trong lịch sử giải thoát hàng
phụ nữ. Hai ngàn năm trăm năm sau thời
Đức Phật, cuộc
vận động để
giải phóng nữ giới vẫn còn được mạnh mẽ
tiếp diễn khắp nơi trên
thế giới.
Tuy nhiên, hơn hai mươi lăm thế kỷ về trước
Đức Phật đặc ân công nhận và
cho phép hàng
phụ nữ được
xuất gia và
gia nhập vào
giáo hội,
mặc dầu không khỏi phần nào
do dự. Người trực tiếp
đảm đang trách nhiệm đưa
vượt qua khúc quanh
lịch sử,
giải phóng nữ giới, không ai khác hơn là Bà Mahà Pajàpati Gotami vĩ đại. Giữa nhóm các mạng phụ
phu nhân đã có
ảnh hưởng trên bước đường
giải phóng nữ giới, bà trổi lên là vị nữ
anh hùng nổi bật. Bà đứng hàng đầu các bà
tín nữ của
Đức Phật.
Đức Phật chỉ định cho bà
địa vị quan trọng nhất về tuổi tác cũng như về
kinh nghiệm. Nhưng
nếu không có lòng
dũng cảm kiên trì và bất khuất của bà trước những bất trắc
chồng chất, giới
Phật tử không bao giờ biết có
Giáo Hội Tỳ Khưu Ni. Bà sanh trưởng tại thị trấn Devadaha của xứ
Ấn Độ cổ xưa, trong
gia đình Suppabuddha. Bà là em của Hoàng Hậu Mahà Màyà, mẹ
Thái Tử Siddhattha. Tên tộc bà là Gotami. Người ta gọi bà là Mahà Pajàpati Gotami bởi vì các nhà
tiên tri đoán rằng về sau bà sẽ trở nên vị
lãnh đạo của một nhóm người rộng lớn. "Mahà" có nghĩa lớn. "Pati" là người
dẫn đầu và "Pajà" là một nhóm đông người có tổ chức. Vua Suddhodna, trị vì dân tộc Sakyan tại Kapilavattu, cưới luôn cả hai bà, Mahà Màyà và em là Gotami.
Theo quan niệm xã hội của người thời bấy giờ, một cuộc
hôn nhân như thế ấy không có chi là lạ và vẫn
thích hợp với tập tục đương thời.
Bà Gotami sanh một gái tên Sundari Nandà và một trai tên Nanda. Về sau cả hai đều
gia nhập vào
Giáo Hội. Hoàng Hậu Mahà Màyà băng hà sau khi hạ sanh Hoàng Tử Siddhattha được bảy ngày. Trong một
cử chỉ cao cả,
hy sinh tình
mẫu tử, bà Gotami giao con lại cho người khác
nuôi dưỡng và lãnh lấy
trọng trách thiêng liêng dưỡng dục và chăm sóc con của chị mình.
Dưỡng nuôi và chăm sóc vị Phật tương lai, bà không những được
toàn thể Phật tử trên
thế gian tri ân mà cũng đặt
Thái Tử Siddhattha vào
vị trí phải mang trọng ân đối với bà.
Lòng biết ơn không phải là phẩm hạnh chung của người tầm thường, nam cũng như nữ.
Tuy nhiên, đó là dấu hiệu
nổi bật của chư Phật. Đó là một trong những
đức hạnh chánh yếu và đặc thù của chư Phật. Cũng chính lòng
tri ân này, trong số những
lý do khác, đã thúc giục
Đức Phật cuối cùng tán thành lời
thỉnh cầu khẩn thiết và bền dai của Bà Gotami và
chấp nhận bà vào
Giáo Hội Thánh Thiện của chư Tỳ Khưu Ni.
Khi Vua Suddhodana băng hà Bà Gotami,
lúc ấy đã không còn chị, không còn chồng và con (con bà đã
gia nhập vào
Giáo Hội Tăng Già),
quyết định từ bỏ thế gian và những gì
rực rỡ sáng chói của kiếp
nhân sinh phàm tục và
trở về nương tựa trong cuộc sống không nhà cửa. Bà xin được
xuất gia, nhưng
Đức Phật không chấp thuận.
Ngày kia
Đức Phật đến thành Kapilavattu để
giảng hòa một cuộc
tranh chấp dữ dội giữa hai dân tộc, Sakyan và Koliyan, đang dành quyền xử dụng nước của dòng sông Rohini. Sau khi cuộc cãi vã
cay đắng đã được dàn xếp ổn thỏa và hai bên
dịu giọng, như thường lệ,
Đức Thế Tôn mở lời
thuyết giảng Giáo Pháp, và sau khi lắng nghe thời Pháp một số đông người trai trẻ Sakyan xin
gia nhập vào
Giáo Hội chư Tỳ Khưu. Các bà vợ của những vị ấy, do Mahà Pajàpati Gotami hướng dẫn, đến xin
xuất gia với
Đức Bổn Sư. Các bà khẩn khoản
van xin như sau: "Bạch
Đức Thế Tôn, thật là một
đại hạnh cho
nữ giới nếu hàng
phụ nữ chúng con được
chấp nhận gia nhập vào
Giáo Hội Tỳ Khưu
Ni để khép mình trong khuôn khổ của
Giáo Pháp và
Giới Luật mà Ngài
công bố."
Tuy nhiên,
Đức Phật không sẵn sàng khích lệ
thỉnh nguyện của Bà Gotami và
trả lời, "Đủ rồi, này Bà Gotami,
Như Lai không thể làm
vừa lòng Bà và
chấp nhận như vậy." Lần thứ nhì, rồi lần thứ ba Bà Gotami lặp lại lời
thỉnh cầu, nhưng mỗi lần đều bị từ chối. Sau đó
Đức Thế Tôn lần hồi sang thành Vesali và ngự trong một đền thờ trên đỉnh núi. Bà Gotami vẫn không nao núng, không
ngã lòng vì những đợt
thỉnh nguyện bất thành, mà
bền gan cam chịu mọi khổ nhọc và đương đầu với
nghịch cảnh,
quyết định theo chân
Đức Thế Tôn đến Vesali cùng với một số mạng phụ
phu nhân có
niềm tin nơi bà. Nơi đây ta
mục kích sự
biểu dương tinh thần dũng cảm bất khuất của bà, đáng gợi lòng ngưỡng mộ và
tôn kính của
mọi người.
Cắt lìa những chùm tóc
đẹp đẽ một thời nào,
vứt bỏ những đồ trang điểm
giàu sang tráng lệ, và khoác lên mình tắm y vàng
thô thiển, các bà
cam chịu khổ nhọc đi bộ,
trải qua đoạn đường dài 150 dặm đến Vesali. Vốn chưa từng
quen thuộc với những
thử thách quá cam go dường thế ấy trong
quá khứ, các bà chiến đấu và
vất vả khổ nhọc trăm bề trên cuộc
hành trình. Dài theo đường, nhiều người thấy vậy rất cảm kích, sẵn lòng
hào hiệp nhường chỗ trên xe, nhưng các bà
lễ độ khước từ và
tiếp tục nhọc nhằn lê bước.
Cảnh tượng quả thật não nề và rất đáng
thương tâm.
Cuối cùng các bà đến Vesali,
suy yếu và
kiệt quệ, đứng trước cổng chùa, mình mẩy lắm lem cát bụi --
y phục nhăn nhó tả tơi, chân cẳng sưng vù đau nhức.
Đại Đức Ànanda, vị
thị giả trung thành và rất tận tụy, người hầu
cận thân tín và
cần mẫn siêng năng của
Đức Phật, thấy
cảnh tượng khổ đau như vậy,
động lòng trắc ẩn,
đến gần Đức Bổn Sư và bạch như sau: "Kính
Bạch Đức Thế Tôn, Bà Gotami cùng với đoàn
tùy tùng đang đứng phía trước điện,
vẻ mặt hốc hác mệt nhọc,
sức lực kiệt quệ. Các bà ấy phải đi đường xa tìm đến gặp
Đức Thế Tôn để khẩn khoản
thỉnh nguyện. Kính
bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài
từ bi cho phép nữ giới được
xuất gia tỳ khưu ni, trong khuôn khổ của
Giáo Pháp và
Giới Luật mà
Đức Thế Tôn đã
công bố. Đây sẽ là một
đại hạnh, bạch hóa
Đức Thế Tôn, nếu Ngài
cho phép hàng
phụ nữ được
gia nhập vào
Giáo Hội." Ba lần
Đại Đức Ànanda cố nài xin, nhưng
Đức Phật một mực
chối từ.
Tuy nhiên,
Đại Đức Ànanda không nãn lòng. Khi một người
thành thật và
kiên trì cầu khẩn cho người khác và tập trung
cố gắng nhằm làm mềm dịu một
thái độ cứng rắn thì
không có lý do gì để
từ bỏ triển vọng. Lúc bấy giờ
Đại Đức Ànanda
áp dụng đường lối khác, kính
cẩn bạch đấng
Toàn Giác như sau: "Bạch hoá
Đức Thế Tôn, người
phụ nữ có chăng khả năng
thành đạt những mức sống cao thượng
trong đời sống
tinh thần -- bốn tầng thánh [18]-- một khi họ
từ bỏ cuộc sống
tại gia, tiến đến
đời sống không nhà cửa, tự khép mình vào khuôn khổ của
Giáo Pháp và
Giới Luật của Đức Thế Tôn?" "Có, này Ànanda, họ có
đủ khả năng làm được vậy, [19]"
Đức Phật trả lời.
Tiến được một bước
vững chắc trong chiều hướng
thuận lợi, được khích lệ,
Đại Đức Ànanda thiết tha khẩn bạch, "Bạch hoá
Đức Thế Tôn, nếu hàng
phụ nữ có
đủ khả năng đạt
thành thánh quả, như vậy Bà Mahà Pajàpati Gotami mà trước kia đã nuôi
Đức Thế Tôn bằng sữa của bà, đã bồng bế Ngài trong lòng sau khi hoàng hậu
thăng hà và sau đó dưỡng nuôi chăm sóc Ngài
cho đến lúc
trưởng thành, vậy,
bạch Đức Thế Tôn, hàng
phụ nữ có thể được phép
gia nhập vào
nếp sống không nhà cửa, trong khuôn khổ của
Giáo Pháp và
Giới Luật mà
Đức Thế Tôn đã
công bố." Đến đây
Đại Đức Ànanda đã chạm đến một điểm rất
tế nhị.
Đại Đức đã đề cập đến
vấn đề biết ơn, và
biết ơn là một đức tính được chư Phật hết lời tán dưong và
thâm sâu thấm nhuần. Trước lời khẩn cầu nồng nhiệt của
Đại Đức Ànanda,
Đức Phật không thể làm gì hơn là
thuận lòng.
Tuy nhiên, với
trí tuệ nhìn xa và hiểu rộng,
Đức Thế Tôn có thể thấy những hiểm họa và những khuyết điểm không thể tránh trong việc
điều hành song song hai
Giáo Hội Tăng Già cùng một lúc. Do đó Ngài
ban hành một vài
điều kiện và
quy định vài
giới luật cho
Giáo Hội chư Tỳ Khưu Ni nhằm
giữ gìn và
bảo vệ tương lai cho cả hai
Giáo Hội. Những
điều kiện được
ban hành là:
1. Một vị tỳ khưu ni, dầu có trăm tuổi hạ do sự
thọ trì cụ túc giới (upasampadà) phải chào hỏi một vị tỳ khưu,
đứng dậy trước mặt vị tỳ khưu,
đảnh lễ và
thực hành tất cả những bổn phận
thích nghi đối với vị tỳ khưu,
mặc dầu vị này mới
thọ cụ túc giới trong ngày hôm nay.
2. Một vị tỳ khưu ni không
thể nhập hạ (vassa) ở một nơi mà không có tỳ khưu.
3. Vào mỗi ngày
sám hối (một tháng hai lần), vị tỳ khưu ni phải hỏi
Giáo Hội chư Tỳ Khưu ngày giờ nào một vị tỳ khưu đến
hành lễ phát lồ (uposatha). [20]
4. Khi mãn
thời gian an cư kiết hạ mỗi vị tỳ khưu ni phải thọ
lễ tự tứ (pavàrana) [21] trước cả hai
Giáo Hội, tỳ khưu và tỳ khưu ni (để kiểm thảo xem trong ba điểm: thấy, nghe và
hoài nghi, mình có làm
điều chi lỗi lầm không)
5. Một vị tỳ khưu ni đã phạm một
trọng tội phải chịu hình phạt manatta [22] trước cả hai
Giáo Hội, Tỳ Khưu và Tỳ Khưu Ni.
6. Một
nữ giới tử (sikkhamànà, trong
thời gian học tập) đã có
tu tập sáu giới trong
thời gian hai năm, có thể
thọ trì cụ túc giới với cả hai
Giáo Hội, Tỳ Khưu và Tỳ Khưu Ni.
7. Bất cứ trong
trường hợp nào một vị tỳ khưu ni không quyền khiển trách hay nặng lời một vị tỳ khưu.
8. Kể từ hôm nay tỳ khưu ni không được phép làm
lễ sám hối cho tỳ khưu nhưng tỳ khưu thì có thể
hành lễ sám hối cho tỳ khưu ni.
Những
giới luật và
điều kiện trên đây phải được
tôn trọng, khâm sùng, kính cẩn
tuân hành, và nghiêm túc
thọ trì suốt đời, không được
vi phạm dầu bất cứ
trường hợp nào.
Giờ đây
Đại Đức Ànanda đã học nằm lòng với
Đức Thế Tôn tám giới chủ yếu ấy, đến gặp Bà Mahà Pajàpati Gotami và trao truyền lại bà. Bà Gotami
hoan hỷ lãnh giáo,
chấp thuận nghiêm trì tám giới chủ yếu ấy và nguyện
trọn đời không
vi phạm [23]. Sau đó Bà Gotami
xuất gia. Bà đến trước
Đức Phật và
đảnh lễ.
Đức Bổn Sư
thuyết giảng cho bà một thời Pháp và ban truyền cho bà một
đề mục hành thiền. Bà Gotami, vị
đệ tử có
tâm đạo nhiệt thành,
thực hành đúng theo lời
giáo huấn, hành thiền, khai triển
tuệ minh sát (vipassanà) và
chứng đắc Đạo Quả A La Hán cùng với bốn patisambhidà [24],
tri kiến phân tách. Về sau các vị
đệ tử của bà cũng
đắc Quả A La Hán khi Ngài
Trưởng Lão Nandaka [25]
chấm dứt một thời Pháp giảng cho các bà. Trong khi
cư ngụ tại Vesali, Bà Gotami
nhận biết rằng
cuộc đời của bà sắp
kết liễu, đến
đảnh lễ từ giả
Đức Phật và
viên tịch --
lúc ấy bà được một trăm hai mươi tuổi thọ.
Như vậy, lần đầu tiên
trong lịch sử tôn giáo một
Giáo Hội Nữ
Tu Sĩ được
thành lập và
nữ giới được
chấp nhận vào
đời sống tu viện. Cánh cửa đã rộng mở để cho hàng
phụ nữ xuất gia,
đặc ân cho phái nữ
gia nhập vào một
Giáo Hội Nữ
Tu Sĩ đã được
ban hành.
Giáo Hội Tỳ Khưu Ni sớm được
thành lập,
tốt đẹp và
vững chắc. Nhiều bà ở lứa tuổi lớn khôn, các bà khác giữa độ thanh xuân và những bà khác nữa
tuổi hạc đã cao đến mức
hoàng hôn của cuộc sống, tất cả đều
gia nhập vào
Giáo Hội Tỳ Khưu Ni. Họ đến thật đông -- hạng người
giàu sang sung túc và những người
nghèo khổ bần cùng, người dốt nát và người có
trình độ văn hóa sâu rộng, người chất phác thật thà và người nhiều
học thức -- họ đến từ các nẻo đường của
đời sống và xin
gia nhập vào
Giáo Hội Thánh Thiện của chư vị Tỳ Khưu Ni.
Giáo Hội tồn tại trong nhiều trăm năm. Những vị tỳ khưu ni này, sau khi đã
gia nhập vào
Giáo Hội và
thành đạt giải thoát cuối cùng, bắt đầu thốt ra những lời
tán dương và những khúc ca khải hoàn hay thánh thi, như người ta gọi, được góp nhặt trong một quyển sách có tên là Therìgàthà (những bài Thánh Thi của các
Trưởng Lão Ni, hay
Trưởng Lão Ni Kệ). Những bài thánh thi này nói lên mức độ phỉ lạc mà các bà đã
kinh nghiệm trong khi
xuất gia và sau đó khi
thành đạt thánh quả.
Câu hỏi đôi khi được nêu lên là
Đức Phật có đặt Ni Bộ dưới quyền của Tăng Bộ chăng. Câu hỏi thật sự không cần được nêu lên, bởi vì
Đức Phật khai sáng hai
giáo hội riêng biệt tách rời và
sinh hoạt song song, và không có
ý định làm cho
giáo hội nào sẽ
kiểm soát giáo hội nào.
Giáo Hội chư Tỳ Khưu có những vị
tăng trưởng, hai vị
đại đệ tử ấy là nhị vị
Trưởng Lão A La Hán, Sàriputta và Mahà Moggallàna. Cùng thế ấy, bên Ni Bộ cũng có hai vị
Ni Trưởng, tức hai vị
A La Hán Khemà và Uppalavannà.
Sự kiện Đức Phật không bao giờ có
ý định đặt
Giáo Hội Tăng Già, tăng bộ hay ni bộ, dưới quyền
kiểm soát của một người hay một nhóm người, được lời dạy của Ngài trong
kinh Đại Niết Bàn, Mahàparinibbàna Sutta, cho thấy
tỏ rõ. Nơi đây Ngài
tuyên bố không bao giờ có ý rằng Ngài, là vị Phật, phải
kiểm soát Tăng Già (Sangha). Theo
Đức Phật,
Tăng già không bao giờ có nghĩa là một cơ cấu được hàng ngủ hóa, được tổ chức thành đoàn, phải
sùng bái và
trung thành phục tùng một vị
giáo chủ duy nhất. Nhưng đây phải là một tập đoàn của những người nam và những người nữ
tự do, nhiệt thành dấn thân vào
nhiệm vụ cao cả là
thành đạt Niết Bàn,
giải thoát cuối cùng cái tâm. Và những vị này có đủ
tự do tư tưởng và hành động trong một cơ cấu gồm những người
trang nghiêm,
thấm nhuần những
lý tưởng cao thượng,
cố gắng bắt tay vào
công trình cao cả là phá vỡ những xiềng xích của vòng
luân hồi, samsàra, những kiếp sống
triền miên lặp đi lặp lại.
Câu hỏi thường được nêu lên là
Đức Phật do dự, không sẵn sàng
cho phép nữ giới gia nhập vào
Giáo Hội, có phải vì Ngài xem
nữ giới là
thấp kém hơn nam giới và nghĩ rằng họ không
thích hợp với một khuynh hướng cao cả như vậy không.
Giải đáp cho câu hỏi là không bao giờ, không có lần nào,
Đức Phật công bố rằng người nữ
thua kém người nam, bất luận trên
phương diện trí thức hay cương nghị hay khả năng
thành đạt Niết Bàn. Chỉ có thể
giải thích sự
do dự của
Đức Phật trên
căn bản là Ngài có thể
nhận thấy rằng nếu người
phụ nữ gia nhập vào
đời sống tự viện thì phẩm hạnh cốt yếu của người sống
độc thân, vốn dĩ rất
cần thiết cho sự
điều hành suôn sẻ của một
tự viện, sẽ bị
ảnh hưởng và
tổn thương. Và cũng vì điều này mà Ngài
ban hành tám giới hay
điều kiện bảo vệ. Chính tám giới này tạo
điều kiện để
điều hành tốt đẹp hai
cơ quan trong
tinh thần trang nghiêm và
thích đáng với
bản tánh tự nhiên. Nó giữ chư ni trong
vị trí thích hợp với
tâm tánh người nữ. Cũng chính tám giới này đã hỗ trợ
trạng thái điều hoà và
thuận thảo và đem lại tình
giao hảo thích nghi giữa tỳ khưu và tỳ khưu ni.
Không nên
diễn dịch bất cứ như thế nào sự
chấp thuận muộn màng của
Đức Phật là Ngài
chấp nhận tánh cách
yếu đuối hay
suy nhược của người
phụ nữ. Theo một lối, đó là
phương tiện để chỉ cho cả hai, chư tỳ khưu và chư tỳ khưu ni, hiểu rằng sự hình thành
Giáo Hội Tỳ Khưu Ni từ giai đoạn
sơ khởi đã
mang theo với nó một vài
yếu tố hiểm nguy, và
nếu không có những
phương sách dự phòng, trong tương lai có thể xảy ra những bất trắc khó lường. Sự
chấp thuận cuối cùng biểu lộ trí
sáng suốt thâm sâu của
Đức Phật và khả năng thấy xa trong tương lai
hậu quả của bất cứ
sinh hoạt nào. Nó cũng cho thấy sự
biết ơn và
lòng bi mẫn mênh mông như trời biển của Ngài
bao gồm mọi tầng lớp và tất cả mọi loài
chúng sanh. Nên
ghi nhận rằng
công trình nghiêm túc
hành trì tám giới này có một
vai trò tối
trọng yếu và có rất nhiều
ý nghĩa để
gìn giữ tình trạng thanh khiết và
thánh thiện của hai
Giáo Hội trong một
thời gian rất
lâu dài. Chính tám giới
trọng yếu này (được gọi trong tiếng Pali là
garu-dhammas) là tảng đá
vững chắc làm nền để
xây dựng kiến trúc đồ sộ và
công trình sinh hoạt chảy trôi suôn sẻ của hai
Giáo Hội.
Cái quyền to lớn và
đặc ân mà Bà Mahà Pajàpati Gotami đã
tranh đấu và
thành công, tức quyền của
nữ giới được
gia nhập vào
Giáo Hội Thánh Thiện,
quả thật là quan trọng
trong lịch sử tôn giáo. Chí đến ngày nay còn nhiều
hệ thống tôn giáo hưng thạnh trên
thế giới vẫn chưa chịu nhượng quyền cho hàng
phụ nữ thọ giới tu sĩ. Cũng có một số ít
tôn giáo đã nhường cho
nữ giới quyền
xuất gia, bắt đầu
hoài nghi rằng không biết
nhân nhượng nhiều quyền như thế mình có
sáng suốt không, và đặt câu hỏi có cần bước sang giai đoạn này không.
Đức Phật nổi bật là một trong số ít các vị
giáo chủ của
nhân loại đã
nâng cao hàng
phụ nữ lên một
vị trí xứng đáng
trong đời sống, bằng cách
cho phép nữ giới gia nhập vào
Giáo Hội Tỳ Khưu Ni, và như vậy, mở ra một chương sách
hoàn toàn mới
trong lịch sử giải phóng của người
phụ nữ.
Chú thích:
[1] Nàsti strìnàm prthagyajnoNa vratam napyuposathamPatim susrusate yenaTena svarge mahìyate (Manu, câu 153).[2] Kindred Sayings, I, trang iii.[3] Kindred Sayings, I, trang 45.[4] Jananì janma bhùmis ca svargàdapi garìyasi.[5] Anguttara Nikàya, 4: 265 và những trang tiếp.[6] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm. 4: 238 và những trang tiếp.[7] i. saddho, ii. hirimà ottàpi, iii. akkodhano anupanàhi, iv. anissuki, v. amacchari, vi. anaticàri, vii. sìlavà, viii. bahussuto, ix. àraddhaviriyo, x. upatthita sati, xi. pannavà (Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, 4: 143)[8] Xem phần sau, Kundala Kesa.[9] Psalms of the Sistrers (Trưởng Lão Ni Kệ)[10] Xem Dhammapada, kinh Pháp Cú, câu 242.[11] Pancakàmagunà ete itthirùpasmim dissare -- rupà saddhà rasà gandhà photthabbà ca manoramà(Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, 3: 69)[12] Gradual Sayings, iii, trang 57.[13 Xem Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 251.[14] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 242.[15[ Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, I: 7[16] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, I: 37.[17] Quý vị quan tâm đến vấn đề "Người Phụ Nữ Trong Phật Giáo" có thể đọc Women Under Primitive Buddhism của tác giả I.B. Horner; Women in Buddhist Literature của tác giả B.C. Law; và bài viết có nhiều tài liệu "Women and the Religious Order of the Buddha" của Jotiya Dhìrasekera, hiện nay là Đại Đức Dhammavuhàri (The Mahà Bodhi, May-June 1967, Calcutta).[18] Tầng thánh đầu tiên là nhập lưu (sotàpatti, cũng gọi là Tu đà huờn); tầng thứ nhì là nhất lai (sakadàgàmi, Tư đà hàm); thứ ba là bất lai (anàgàmi, A na hàm); và thứ tư, bậc thánh cuối cùng, là A la hán (arahatta), giai đoạn mà tất cả mọi thằng thúc đều bị phá tan và mọi nhiễm ô đều được bứng tận gốc rễ.[19] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, 4: 276; Vinaya, Tạng Luật 2: 254.[20] Vào ngày rằm và ngày mồng một khi chư tăng cu hội để đọc Pàtimokkha hay Giới Bổn.[21] Buỗi lễ cử hành nhằm chánh thức chấm dứt mùa nhập hạ.[22] Một hình thức trừng phạt thuộc về giới luật.[23] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, 4:274 ff.[24] Sự hiểu biết có tánh cách phân tách về: i) ý nghĩa (attha), ii) kinh điển (dhamma), iii) ngữ nguyên (nirutti), và iv) thông hiểu rõ ràng ba điểm trên.[25] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 146, Bài giảng của Đại Đức Nandaka cho các bà tỳ khưu ni.
Người Con Gái Chăn
Đà La và
Vấn Đề Giai CấpĐức Phật Siddhattha Gotama đang ngự trong thành Sàvatthi (Sravasti,
Xá Vệ),
Ấn Độ, tại
Kỳ Viên Tịnh Xá của
Trưởng Giả Anàthapindika,
Cấp Cô Độc. Vào
lúc ấy Đại Đức Ànanda, vị
đệ tử trung kiên và là
thị giả chuyên cần nhất của
Đức Bổn Sư cũng ngụ tại ngôi
tự viện ấy. Ngày nọ, như thường lệ,
Trưởng Lão Ànanda
y phục chỉnh tề, tay ôm
bình bát, chân
thong dong đều đặn từng bước, và
mắt nhìn xuống,
đi vào thành Sàvatthi. Khi đã thọ
vừa đủ vật thực để đỡ dạ Ngài tìm ẩn vào một nơi yên tĩnh để độ ngọ. Thọ thực xong Ngài tìm nước và thấy một cái giếng bên đàng. Vào
lúc ấy có một
thiếu nữ thuộc
giai cấp Chandàla (chăn
đà la) tên Prakrti, cũng đến giếng ấy gánh nước.
Đại Đức Ànanda
đến gần đứng lại,
mắt nhìn xuống đất, hai tay ôm bát. Và
câu chuyện đối thoại xảy diễn như sau:
Prakrti: Bạch Sư,
cần dùng chi?
Đại Đức: Xin cho tôi chút nước để giải khát.
-- Tôi là người thuộc
giai cấp Chandàla (chăn
đà la); không ai dùng nước của
chúng tôi.
-- Tôi chỉ muốn xin chút nước uống để giải khát. Nước làm đở khát cho tất cả
mọi người, dầu người thuộc về
giai cấp, đẳng cấp hay
chủng tộc nào.
-- Sư không biết rằng trong xứ có hai
giai cấp: cấp cao và cấp thấp sao? Tôi thuộc về
giai cấp thấp.
--
Vấn đề giai cấp là cái gì
rõ ràng không quan trọng đối với tôi. Tôi không
mảy may bận tâm đến việc này. Tôi chỉ cần chút nước để giải khát.
-- Làm thế nào tôi, một gái hạng chăn
đà la, có thể dâng nước đến Sư? Chí đến cái bóng của
chúng tôi, người ở
giai cấp cao còn không dám giẫm chân lên. Họ tránh
chúng tôi,
hất hủi chúng tôi, và nếu bất chợt thấy
chúng tôi thì họ mau mau đi rửa mặt với
nước thơm và than vản: "Bất hạnh thay! hôm nay
chúng ta lại gặp một người thuộc hạng
cùng đinh." Họ khinh rẻ
chúng tôi và có những
thái độ khinh khi như vậy.
-- Tôi không biết
giai cấp cao hay
giai cấp thấp, cô cũng là một
con người như tôi. Tất cả
mọi người đều là người như nhau. Tất cả đều
cùng chung thuộc về
chủng tộc loài người. Tất cả đều có một đầu, hai mắt, hai tai, một miệng và một mũi v.v... Máu chảy trong huyết quản của
mọi người đều có màu đỏ như nhau, không phải đen. Có gì khác biệt? Có gì để có thể phân chia?
-- Đúng vậy, bạch Sư, về phần
vật chất thì không có gì khác biệt.
Tuy nhiên, người ở
giai cấp và
địa vị cao sang, họ đã tạo
thiện nghiệp và vun bồi
phước báo nên
tái sanh vào
gia đình cao cấp.
Chúng tôi đã tạo
nghiệp bất thiện nên sanh vào
giai cấp cùng đinh, làm người khốn khổ cơ hàn,
cặn bã của
xã hội, phải chịu số phận bị khinh khi
ruồng rẫy.
-- Dầu sao,
Đức Bổn Sư, bậc
Toàn Giác Tối Thượng, Thầy tôi, có ban truyền bức
thông điệp cao quý như sau:
"Là cùng đinh không phải do sanh trưởng,Không phải do sanh trưởng là bà la môn,Do hành động ta trở thành cùng đinh,Do hành động ta trở thành bà la môn." (Sutta-nipàta. 135).Tôi không
quan tâm đến cái được gọi là
giai cấp chút nào, xin cho tôi chút nước vì hiện tôi đang cần giải khát.
Prakrti nói không ra lời, miệng ngậm cứng như câm. Người
thiếu nữ sợ hải, cúi xuống
nghiêng mình tới trước, run rẩy
trịnh trọng dâng nưóc đến Ngài Ànanda, sớt ra từ trong cái chậu, và tim nàng bắt đầu đập, càng lúc càng mau.
Nhà Sư hớp nước với
lòng biết ơn nồng hậu trong khi Prakrti
ngạc nhiên đứng nhìn. Rồi
Đại Đức Ànanda
trở về tịnh xá.
Nhưng Prakrti thì ngẩn người, nhớ lại giọng nói dịu hiền của
nhà sư, nàng
đắm đuối say mê phẩm cách cao đẹp và
tướng mạo oai nghiêm của
vị đạo sĩ đến độ ngây ngất sững sờ,
vô cùng kinh ngạc."'Xin cho tôi chút nước, xin cho tôi chút nước' Tiếng nói êm dịu nhẹ nhàng
dễ cảm; ông ấy nói chuyện với ta
hiền hòa thanh nhã làm sao! Ôi,
con người đẹp đẽ lạ thường,
phong độ cao quý vô cùng! Tại sao ông ấy lại đến với người con gái chăn đà la? Có phải ta là người con gái
duy nhất trong thành Sàvatthi này không? Có phải đây là cái giếng
duy nhất trong thành này không?
Y phục của ta không
hiển nhiên cho thấy ta là hạng chăn
đà la hay sao? Cách
ăn mặc và trang sức của ta không nói lên
giai cấp ta hay sao? Người lạ mặt
kỳ diệu khác thường ấy có thể là ai? Từ đâu ông ta đến đây? Rồi ông sẽ đi đâu? ờ, mà ông ấy sẽ còn
trở lại xin nước uống nữa chăng?" Nàng
tiếp tục ngẩn ngơ
mơ mộng một cách buồn thảm.
Tâm nàng mãi vơ vẩn đăm chiêu với những
ý nghĩ trên trong khi
thơ thẩn từng bước trên đường về nhà.
Đến nhà, nàng đặt bầu nước xuống bỏ qua một bên, rồi vội vã đi tìm mẹ, một bà phù thủy có nhiều bùa phép và
van xin mẹ làm bùa chú bỏ cho ông sư.
Bà mẹ: Có gì
làm phật ý con, cái gì làm cho con
đau khổ,
nhà sư ấy là ai?
Prakrti: 'Xin cho tôi chút nước, xin cho tôi chút nước, xin cho tôi chút nước' -- Mẹ ơi, trước đây con chưa từng nghe một giọng nói dịu hiền
thanh nhã như vậy.
-- Người mà xin con nước chắc phải thuộc
giai cấp của
chúng ta.
-- Dạ không đâu, đó là một thanh niên đẹp trai tươi tắn lạ thường, đầu cạo trọc, mình
đắp y vàng, tay ôm
bình bát, rõ thật là
thanh nhã trang nghiêm.
-- Con nói gì bậy bạ vậy. Làm thế nào một người đầu cạo trọc lại có thể đẹp trai, tươi tắn? Con biết không, người ta cạo đầu là để làm
cho không còn vẻ đẹp hay
duyên dáng gì nữa?
-- Con không
biết điều đó, thưa mẹ, người ấy
dễ thương,
duyên dáng làm sao. Ông ta là
hiện thân của
lòng từ mẫn và khiêm tốn, của phẩm cách
thanh tao và
trang nhã.
-- Ông ấy có phải là người thuộc
giai cấp của
chúng ta không?
-- Dạ phải, ông nói con cũng thuộc
giai cấp của ông.
-- Đó là
giai cấp nào vậy con?
--
Giai cấp loài người.
-- Con có phỉnh lừa ông ta và không nói rõ
giai cấp của mình không?
-- Con nói với ông con là hạng chăn
đà la, nhưng ông ta không chịu tin con. Ông cứ xin nước hoài, và
tuyên bố rằng người ta là
bà la môn hay
cùng đinh do hành động của mình chớ không phải vì sanh trưởng trong một
gia đình nào. Rồi ông nói thêm về
tự do và phẩm cách
con người. Từ bấy lâu nay con
lầm lạc ngỡ rằng mình là "kẻ có tội" phải chịu khốn khổ bần cùng, nay nhờ ông con được biết rằng mình cũng thuộc
xã hội loài người, và cũng được
un đúc từ cái khuôn
nhân loại. Ông ta cho con ánh sáng, ông là ánh sáng của con.
'Xin cho tôi chút nước, xin cho tôi chút nước.' Ôi, giọng nói êm dịu hiền hoà làm sao!
-- Này Prakrti con, người ta được sanh vào
giai cấp ăn trên ngồi trước vì trong
quá khứ họ đã tạo nghiệp tốt. Còn
chúng mình thì sanh vào
giai cấp chăn
đà la, hạng
cùng đinh, cũng do
hậu quả của những nghiệp chẳng lành mà mình đã gieo trong
quá khứ.
-- Không phải vậy đâu thưa mẹ, không phải tất cả đều do
nghiệp báo. Chính
xã hội loài người đã sắp xếp, đóng dấu, dán nhãn lên, rồi gọi
chúng ta là
cùng đinh, chính
con người tạo sự
phân chia giả tạo ấy. Không sao đâu, con muốn biết chàng thanh niên ấy là ai, tên họ và làm nghề gì.
-- Theo cách con
mô tả, này con, mẹ tin rằng ông ấy là
đệ tử của
Đức Phật Gotama (
Cồ Đàm), ông là một người thuộc dòng Sakya (
Thích Ca). Mẹ nghe rằng tên ông ta là Ànanda. Ông là một tỳ khưu, một
tu sĩ, người đã
từ bỏ thế gian cùng với những
lạc thú và
tiện nghi trần tục.
-- Này mẹ
yêu dấu, con
van xin mẹ, con không thể sống mà không có người ấy. Con phải có ông ta. Xin mẹ hãy dùng tất cả bùa chú và phù phép, hãy tận dụng mọi
quyền năng thần thông của mẹ, và đưa Ànanda về con.
Nếu không được vậy, con sẽ nhịn đói đến chết, và mẹ sẽ mất đứa con
duy nhất.
-- Này con
yêu dấu, con có biết không rằng Vua xứ Kosala (
Câu Tát La) của
chúng ta là một
thí chủ nhiệt thành của
Đức Phật Gotama? Nếu hay được rằng con say mê và khao khát muốn được Ànanda, ắt vua sẽ
tiêu diệt toàn thể cộng đồng Chandàla (chăn
đà la). Con có muốn vua làm điều ấy không?
-- Thưa mẹ, con
van xin, mẹ hãy đọc lên câu
thần chú, và ông ấy sẽ đến.
Nếu không có ông, con sẽ không thể sống nữa.
-- Này Prakrti con,
Đức Phật, đấng
Toàn Thiện, đã
diệt trừ mọi
dục vọng và
ô nhiễm. Ngài là bậc
Tôn Sư tối thượng. Bùa phép của Ngài cao cường hơn tất cả những người khác.
Thần chú của Ngài trội hơn bất cứ ai.
Tuy nhiên, mẹ sẽ tận lực
cố gắng cho con, đứa con yêu quý nhất đời của mẹ, chớ nên kêu gào than khóc nữa, và hãy đi ăn đi.
Để
đáp lại lời
van xin khẩn thiết của người con gái
duy nhất, bà mẹ nhúm một bếp lửa với phân bò khô ngoài sân, ngồi lại một bên với 108 cành hoa arka và bắt đầu đọc
thần chú. Và trong khi ấy bà luôn luôn ném hoa, hết cái này đến cái khác, vào ngọn lửa, mỗi lần ném một cành hoa thì miệng đọc
thần chú.
Trưởng Lão Ànanda không thể
cưỡng lại năng lực, sức
quyến rũ mãnh liệt, của bùa phép. Ngài rời bỏ
tịnh thất của
tu viện, quên hẳn
lối sống mà mình đã chọn, và thẳng tiến đến nhà của người
thiếu nữ Chandàla (chăn
đà la). Bà mẹ trông thấy
vị đạo sĩ tiến
đến gần nhà, bảo con gái dọn sẵn một chỗ ngồi.
Vừa lúc Prakrti sắp xếp xong thì
nhà sư vô nhà và ngồi xuống trên chỗ đã dọn sẵn. Ngài
lưu ý đến những nụ cười
quyến rũ của Prakrti và thuận chiều hướng về những
cám dỗ của bà mẹ. Ngày đã về chiều. Vầng
thái dương dần dần lặn chìm xuống dưới chân trời phương Tây và bầu không khí im lìm
lặng lẽ, trang trọng bao
trùm khắp nơi.
Nhà sư cảm nghe ngột ngạt,
lạc lối và
lúng túng. Ngài liền nghĩ đến
Đức Phật, ngưỡng nguyện trong lòng: "Ngưỡng mong
Đức Bổn Sư Từ Mẫn và
Trí Tuệ mở lòng trắc ẩn cứu con ra khỏi hiểm họa này."
Lúc bấy giờ
Đức Phật Toàn Tri, với nhãn quan của một vị Phật, nhìn thấy
tình thế nguy ngập của người
đệ tử trung thành, và với
lòng bi mẫn vô lượng vô biên, Ngài đọc chú Buddhamantra, những câu có
ý nghĩa như sau:
"Nếu có một biển hồ trong suốt, không một đớm nhỏ bợn nhơ, hoàn toàn im lặng, và người vào đó được châu toàn, tất cả hiểm họa, mọi nổi kinh sợ và run rẩy đều biến tan, thì hồ đó là Niết Bàn mà chư thiên và tất cả hành giả và các bậc Thánh Nhân, đều sùng kính. Do oai lực của chân lý các lời này, ước nguyện mọi điều lành đến với tỳ khưu Ànanda."Câu chú
hoàn toàn khắc phục bùa phép của bà phù thủy, và Ngài Ànanda được
cứu thoát khỏi
tai họa khủng khiếp,
quyết định mau mau
trở về tịnh thất. Prakrti rất
đau lòng xót dạ và
thất vọng một cách chua cay, nhưng không
từ bỏ nỗi lòng đối với
nhà sư. Sáng hôm sau nàng sửa soạn,
ăn mặc tươm tất với những đồ trang sức lộng lẫy nhất của mình và chờ sẵn trên
con đường mà thường ngày
Trưởng Lão Ànanda phải
trải qua để vào thành Sàvatthi trì bình. Và trong khi Ngài lặng lẻ tiến hành buổi đi bát thì Prakrti bước liền theo chân, từ nhà này đến nhà kia, dân chúng lấy làm
ngạc nhiên nhìn thấy
cảnh tượng kỳ lạ này.
Ngài Ànanda
hoàn toàn lúng túng, bươn bả quày bước
trở về tịnh thất, luôn luôn có Prakrti
theo sau, và thuật lại đầu đuôi
câu chuyện với
Đức Bổn Sư.
Lúc ấy Prakrti đứng trước cổng chùa, Đấng
Đại Bi cho vời nàng vào. Với cặp
mắt nhìn xuống nàng
đi vào,
đảnh lễ Đức Thế Tôn và
chấp tay ngồi lại một bên.
Rồi Đấng
Đại Bi nhỏ nhẹ hỏi cô gái Chandala (chăn
đà la): "Cô muốn làm gì với
Đại Đức Ànanda?".
Một cách giản dị và ngây thơ, Prakrti
bộc lộ tất cả những khát vọng mà nàng ấp ủ sâu kín trong lòng. Đức
Tôn Sư bảo: "Này Prakrti, con hãy về nhà xin phép
cha mẹ trước đi."
Nàng vội vã đi nhanh về nhà rồi quày quả
trở lại với sự
đồng ý của
cha mẹ.
Một lần nữa
Đức Phật mở lời:
Đức Phật: Này Prakrti, có rất nhiều thanh niên trong thành Sàvatthi. Tại sao con chỉ thương có mình Ànanda là một thầy tỳ khưu, người đã
từ bỏ nếp sống tại gia?
Prakrti: Con
ưa thích và
thương yêu ông ấy với tất cả tấm lòng. Ông ấy đem ánh sáng lại cho người con gái đã mãi sống trong đêm tối. Chính ông dạy con rằng con là một
con người, không phải
nô lệ, và như
ai nấy, con cũng có thể hưởng quyền làm người. Ông là ánh sáng cho mắt con, là niềm
hy vọng cho tất cả những
ước mơ của con, là dòng suối của đời con. Con muốn ông. Con không thể sống mà không có ông.
-- Như vậy, nếu muốn được ông ấy, con phải làm những gì
Như Lai bảo con làm.
-- Để có thể được Ànanda, kính bạch Ngài, con sẽ làm tất cả những gì Ngài muốn con làm.
-- Nếu con cạo trọc đầu và khoác lên mình tấm y vàng như Ànanda, con sẽ được ông ấy.
--
Chắc chắn con sẽ làm
y như lời Ngài bảo. Bạch Ngài, con đi gắp về nhà và sẽ
trở lại liền, đầu cạo trọc và
đắp y vàng.
Prakrti đi nhanh về nhà, và
giải thích đầu đuôi cho mẹ. Nghe vậy bà mẹ nổi
cơn giận dữ.
-- Này con
yêu dấu, con điên rồi sao? Con có còn
tỉnh táo không, hay đã
mất trí rồi?
-- Này mẹ, xin mẹ
vui lòng cạo đầu cho con,
nếu không con sẽ tự quyên sinh.
-- Con là con gái ngu. Tóc là trang điểm tốt nhất của người đàn bà.
Cạo tóc đi con sẽ
xấu xí, khó coi. Trong
toàn thể khu thành Sàvatthi này không có người con gái nào
dễ thương và
duyên dáng như con. Này con
yêu dấu của mẹ, hãy nhẫn nại, mẹ sẽ tìm cho con một người chồng xứng đáng.
-- Con không cần ai khác, chỉ muốn Ànanda của con. Đối với con, ông ấy
đẹp đẽ sáng ngời, ông ấy
duyên dáng dễ thương, có giọng nói
nhỏ nhẹ dịu hiền và
phong độ thanh tao nhã nhặn, dễ mến làm sao. Ông ấy là trọn cuộc sống của con, là kho tàng
bảo vật, là tất cả
trong đời con.
-- Thôi, hãy đi ăn đi, đừng để
chết đói bây giờ.
-- Này mẹ, con sẽ nhịn ăn đến
chừng nào mẹ cạo đầu cho con.
Sợ con
chết đói, bà mẹ liền cạo đầu cho con.
-- Bây giờ con giống
y như một
sư cô. Con sẽ bị mấy ông
đạo sĩ và thầy của họ,
Đức Phật Gotama, lường gạt. Họ có bùa phép cao cường
kỳ diệu để
quyến dụ những người như con. (Chính
lòng từ bi vô lượng vô biên của
Đức Phật đã
cảm hóa và làm cho người ta về với Ngài, chớ không có sự
cám dỗ khuyến dụ hay gian manh xảo quyệt lường gạt nào.)
-- Không hề gì đâu mẹ, dầu ra sao thì ra, nếu có được Ànanda của con, là con bằng lòng
vui vẻ lắm rồi. Con không cần gì khác. Giờ đây con đi
Tịnh Xá Jetavana (
Kỳ Viên.
-- Muốn làm gì thì làm; con sẽ
ăn năn hối tiếc vì sự điên rồ
trầm trọng này. Cạo đầu xong, Prakrti vội vã
trở lại chùa,
đảnh lễ Đức Phật và ngồi lại một bên.
Lúc ấy cũng có nhiều vị sư, kể cả Ngài Ànanda, đã hội về hầu Phật.
Prakrti: -- Bạch hóa
Đức Thế Tôn, con đã làm đúng theo lời Ngài bảo. Như đã hứa, xin Ngài cho con Ànanda.
Đức Phật: -- Trước khi được Ànanda, con phải
trả lời những câu hỏi của
Như Lai.
-- Xin vâng, con sẽ
giải đáp những câu hỏi của Ngài.
-- Con
yêu thương Ànanda lắm. Vậy cái gì của
nhà sư ấy đã làm cho con
đắm đuối say mê.
--
Toàn thân ông ấy, các bộ phận và tất cả những gì trong
thân thể ông ấy đều rất
vừa lòng con. Chính cái nhìn của ông là giọt thuốc nhỏ vào, làm cho mắt con
sáng tỏ. Giọng nói của ông làm cho con
đắm đuối say mê, ông là tất cả cho con.
-- Này Prakrti con, tất cả những gì con thấy và tất cả những gì làm con
mê hồn là
bề ngoài của lớp da. Sắc đẹp chỉ mỏng manh như lớp da, nông cạn và phù du tạm bợ.
Thân thể chúng ta không phải làm bằng vàng, bằng ngọc, bằng hột xoàn hay một loại
kim cương nào khác. Trong thân này có: tóc, móng, răng, da, thịt, gân, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, chất nhờn, nước miếng, nước mũi, nước tiểu, phẩn. Phía sau bức hình đẹp đẻ, cái sắc đẹp
bề ngoài ấy, là một cơ thể đầy thương tích, không có chi ổn định
vững bền và thường còn. Thành trì này được tạo dựng bằng xương, đắp thịt và máu bên ngoài, trong đó tích trử
tuổi già, bịnh tật và chết chóc, kiêu hãnh
ngã mạn, và
phỉ báng kẻ khác . Nếu, vì một
lý do nào, những gì ở bên trong được phơi bày ra ngoài, như một cái gối bị lộn ngược,
chắc chắn cần phải có một người cầm roi đứng đó để rượt đuổi bầy quạ và chó, đến đó cả đoàn cả lũ rất đông. Khát vọng say mê là do
lòng ham muốn ích kỷ.
"Trìu mến sanh sầu muộn,Trìu mến sanh lo sợ,Người đã dập tắt hoàn toàn lòng trìu mến,Không còn sầu muộn, còn gì lo sợ?" --( Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 213)Từ ngày bắt đầu thương Ànanda, con đã chịu trăm phần
đau khổ, mất ăn,
mất ngủ, than vắn
thở dài, nỉ non khóc kể, rên rỉ bi ai -- những điều ấy làm cho con
vô cùng sầu muộn. Giờ đây, hãy suy tư
sáng suốt,
nghĩ lại xem cơ thể của Ànanda có phải là cái gì đáng được
trìu mến bám níu không? Có phải là cái gì đáng được ta
hân hoan ôm giữ không? Là cái gì đáng được khát khao
ham muốn một cách
tuyệt vọng không? Tất cả mọi sự vật là vậy, khi ta vừa bám vào thì nó đã hư hoại,
suy tàn và phân tán. Tất cả những vật được
cấu tạo là như thế, trong khi ta
thèm khát ham muốn thì nó đã mục thúi và phai tàn.
-- Kính
bạch Đức Thế Tôn, những lời của Ngài, xác đáng và đúng
chân lý, đem lại cho con nhiều
an ủi.
Mọi việc đã
sáng tỏ. Kính xin Ngài cho con
xuất gia.
-- Được, này Prakrti,
Giáo Hội của
Như Lai rộng mở cho tất cả, không
phân biệt giai cấp, màu da, bộ lạc,
chủng tộc hay
nam nữ.
Giáo Hội của
Như Lai tựa hồ như biển cả
mênh mông. Dường như nước trong các dòng sông Gangà, Yamunà, Sindu, Aciravati, đều tuôn chảy vào
đại dương và mất đi lai lịch của nó, cùng thế ấy người từ những
giai cấp và bộ lạc khác nhau, từ các nẻo đường khác nhau
trong đời sống, đều
gia nhập vào
Giáo Hội của
Như Lai, và rồi
ý niệm về
giai cấp, đẳng cấp, bộ lạc và những
phân biệt khác đều
phai mờ và tan biến. Trong
đại dương, này Prakrti, chỉ có một vị, và đó là vị mặn của muối. Trong
Giáo Hội của
Như Lai cũng dường thế ấy, chỉ có một vị, và đó là vị
Giải Thoát.
Ehi tvam bhikkhuni, cara brahma cariyamHãy đến đây, này tỳ khưu ni, sống đời thánh thiện.Đức Thế Tôn gọi nàng vào như thế ấy, và Prakrti
trở thành hội viên của
Giáo Hội Tỳ Khưu Ni.
Rồi Đấng
Đại Từ Bi thuyết giảng cho nàng khía cạnh
đơn giản của
Giáo Pháp bằng những lời lẽ
dễ hiểu. Nàng đặt
niềm tin vững chắc nơi
Tam Bảo, Tri-ratna: Phật, Pháp, Tăng (Buddha, Dhamma và Sangha). Sau đó
Đức Bổn Sư
giải thích cho nàng
Tứ Diệu Đế -- bốn
chân lý vĩnh cửu về sự
đau khổ hay bất
toại nguyện, về nguồn gốc của
đau khổ, sự
chấm dứt đau khổ, và
con đường dẫn đến
chấm dứt đau khổ, và Đấng
Toàn Giác ban cho nàng món quà
Giải Thoát,
nâng cao con người, từ
bùn lầy suy thoái và
điêu tàn đến
tình trạng an lạc thanh bình,
giác ngộ và
Niết Bàn.
Phương cách trình bày
rõ ràng dễ hiểu của
Đức Bổn Sư
thấm nhuần,
ăn sâu vào tận
đáy lòng của
thiếu nữ và đổi hẳn cái nhìn
toàn diện của nàng. Nàng khấu đầu
đảnh lễ dưới chân Đấng
Toàn Giác Tối Thượng và xin
sám hối về những
lỗi lầm của người con gái
si mê và không được dạy dỗ.
Sự
xuất gia của người con gái Chandàla (chăn
đà la) làm cho Vua Pasenadi (
Ba Tư Nặc) xứ Kosala (
Câu Tát La)
vô cùng bối rối và các thân hào nhân sĩ trong thành Sàvatthi (
Xá Vệ) xôn xao nổi dậy. Họ không thể bỏ qua chuyện một người trong
gia đình Chandàla (Chăn-đà-la) mà được
xuất gia,
gia nhập vào
Giáo Hội Thiêng Liêng của
Đức Phật. Không thể dung tha, họ kéo nhau đến chùa để hội thảo và
tranh luận về
vấn đề tối
trọng yếu này, một
vấn đề vi phạm đến
thanh danh và
uy tín của họ, nhưng
Đức Phật thì
rõ ràng thản nhiên. Ngài luôn luôn phủ nhận
hệ thống phân chia giai cấp một cách không thể
lầm lẫn. Ngài là vị
giáo chủ duy nhất đã
cố gắng pha trộn chung trong
tinh thần khoan dung đại độ và
thuận thảo điều hoà những người mà trước kia đã bị
ruồng bỏ vì
tình trạng ngu đần của sự
phân chia giai cấp.
Đức Thế Tôn nhẫn nại lắng nghe những lời phiền trách của họ, rồi bắt đầu thuật lại
câu chuyện quá khứ của Prakrti:
'Vào thủa xưa, ở
Ấn Độ có một làng Chandàla (chăn
đà la) bên cạnh sông Gangà (Hằng). Vị
trưởng làng tên là Trishanku. Ông này có người con trai
đẹp đẽ lạ thường tên Sardulakarna, lão thông
thâm sâu ba
bộ kinh Veda (
Phệ Đà) và những ngành học vấn khác. Người cha rất ước muốn cho con mình cưới một cô gái
xinh đẹp và
minh mẫn. Biết trong làng có một
thiếu nữ đặc biệt dễ mến, tên Prakrti,
con người bà la môn tên Pushkarasari, ông đến bàn thảo
vấn đề với người cha cô ấy. Ông
bà la môn nổi giận rầy la thậm tệ người cha của chàng thanh niên và từ chối lời
cầu hôn.
"Trishanku nhẫn nại
giải thích vấn đề như sau: 'Thưa Ông, tất cả
mọi người, dầu ở đâu, nghèo hay giàu, có học hay
vô học thức,
xấu xí hay
xinh đẹp, dầu đen hay dầu trắng, tất cả đều
cùng chung thuộc về một
xã hội loài người, chung thuộc về một
chủng tộc nhân loại.
Giai cấp và đẳng cấp là những
phân chia do
con người giả tạo.'
"Lời
giải thích hùng biện ấy
hoàn toàn thuyết phục người
bà la môn. Ông
đồng ý gả con, Prakrti, cho Sardula-karna, con ông Trishanku."
Và
Đức Phật nói tiếp:
"Prakrti, vị tỳ khưu ni
trước mặt chúng ta đây, là con gái người
bà la môn, trước kia cũng có tên Prakrti. Sardulakarna là tỳ khưu Ànanda ngày nay, và chính
Như Lai là Trishanku, viên
trưởng làng, Tù Trưởng Chăn
Đà La.
Vua Pasenadi cùng đoàn
tùy tùng chăm chỉ lắng nghe
câu chuyện quá khứ, lấy làm
kinh ngạc, không nói được một lời, cùng nhau
đảnh lễ Đức Phật và
chư Tăng rồi
lặng lẽ lui gót
trở về.
Mắt Người Trinh Nữ - Subhà Gặp Tên Du Đãng
Đã tạo được nhiều phước báu trong
quá khứ, vào thời của
Đức Phật Siddhattha Gotama, Bậc
Tôn Sư Toàn Giác Tối Thượng, nàng Subhà
tái sanh vào
gia đình của một vị
bà la môn khả kính tại Ràjagaha (
Vương Xá, ngày nay là Rajgir,
Ấn Độ). Nàng có sắc
đẹp tuyệt trần, trong
toàn thể thân nàng chỗ nào cũng dễ mến,
vì lẽ ấy có tên là Subhà. Khi
Đức Bổn Sư ngự tại Ràjagaha cô đặt
niềm tin (saddhà)
vững chắc nơi Ngài và
trở thành một nữ
thiện tín. Về sau cô
phát tâm lo sợ
bản chất đáng
kinh hoàng của vòng
luân hồi (samsàra), vòng quanh những kiếp
sinh tồn triền miên tiếp diễn, và
nhận thức rằng thú vui
trần tục là dây
trói buộc vào vòng
nô lệ, một loại
hạnh phúc tạm bợ
nhất thời, có ít hứng vị.
Tình trạng an toàn và
tự do nằm trong sự
buông bỏ khước từ. Vì
thế cô xin
xuất gia với
Sư Bà Mahà Pajàpati Gotami [1]. Cô Subhà
tinh tấn chuyên cần. Hành thiền
vắng lặng (samàdhi) và tận lực
gia công hành
thiền minh sát (vi- passanà) cô
chứng đắc tầng thánh thứ ba (anàgàmi,
bất lai), không còn bao giờ
trở lại Dục Giới sau khi chết.
Ngày kia, Tỳ Khưu Ni Subhà vào vườn xoài của Jìvaka để ngơi nghỉ vào buổi trưa.
Cùng lúc ấy có tên du đãng nọ ở thành Ràjagaha, trong lứa
tuổi thanh xuân đầy
tham dục, thấy
ni cô vào rừng thì đâm ra
say đắm sắc đẹp diễm kiều của cô. Tên du đãng đứng chận ngang đường không cho đi tới.
Ni cô Subhà cố làm cho anh ta hiểu rằng cô là người
xuất gia, đã khước từ
thế gian, và
cảnh cáo anh về những
tai hại và nguy cơ của
dục lạc, nhưng
vô hiệu quả.
Lời khuyên của
ni cô đã lọt vào lỗ tai của người điếc.
Cuộc
đàm thoại sau đây được ghi lại bằng những vần thơ
thanh nhã tiếng Pali, trong bộ Therìgàthà,
Trưởng Lão Ni Kệ.
1. Tỳ khưu ni Subhà đang vào khu vườn xoài
xinh đẹp. Một tên du đãng chận ngang giữa đàng.
Sư cô nói với nó như sau:
2. "Lỗi gì, tội gì, bần ni đã
xúc phạm đến ông mà ông chận đường? Này ông bạn, tôi là một
ni cô, đã
xuất gia mà chạm đến người nam là
phạm giới.
3. "Phật Giáo đối với tôi thật
vô cùng quý báu và tôi rất mến chuộng. Giới
tu tập nào mà
Đức Bổn Sư đã
ban hành (cho tỳ khưu ni), tôi nghiêm túc
thọ trì. Không
mảy may ô nhiễm, tôi
hoàn toàn trong sạch. Tại sao ông lại
chận đường tôi?
4. "Tâm của ông đầy những
tư tưởng tham dục; tôi thì tâm thanh ý tịnh. Quả tim của ông bị những khát vọng
đê hèn khuấy động, tôi không còn
dục vọng và dầu đi đâu cũng không
ham muốn gì cho cái thân xác
phàm tục này. Tại sao ông mãi đứng đó
chận đường tôi?"
Tên du đãng
trả lời:
5."Sư cô đang còn son trẻ, sắc đẹp của
sư cô trong trẻo,
thân hình đẹp đẽ diễm kiều.
Gia nhập Giáo Hội (sống đời
thánh thiện) thì có
lợi ích gì; hãy lột bỏ đi bộ y vàng. Đến đây,
chúng ta hãy
thọ hưởng lạc thú trong khu rừng đầy bông hoa đang đua nở, hãy tìm thú vui của nhục dục.
6. "Xem kìa, hương thơm ngào ngạt của ngàn hoa đang
phảng phất trong gió. Hãy
thưởng ngoạn mùa xuân đang tung nở, hớn hở trong niềm vui. Hãy đến đây,
thọ hưởng lạc thú trong khu rừng đầy bông hoa đang đua nở, hãy tìm thú vui trong nhục dục.
7. "Những ngọn cây đầy bông hoa nghiêng ngả, lã lơi uốn mình trước gió, hình như đang ca hát để đón mừng
chúng ta. Nhưng
sư cô thì
thui thủi vào rừng
một mình, làm sao tìm được
hạnh phúc trong đó?
8. "Vào trong khu rừng hoang dại, nơi mà
thú dữ hằng
lui tới, nơi bị khuấy động và luôn luôn phải
run sợ trước những thớt voi đi tìm mồi, bốc lên mùi rừng rú
dã man, hôi thúi nồng nặc, nơi
vắng bóng người và đầy kinh sợ hải hùng [2],
sư cô muốn vào trong ấy
một mình, không ai tháp tùng hay sao?
9."Ôi, này người
thiếu nữ đẹp đẽ tuyệt trần! Như pho tượng đúc bằng
vàng ròng lộng lẫy sáng chói, như
tiên nữ nhảy múa hát ca trong một
hoa viên trên cảnh trời, trong bộ
y phục làm bằng tơ lụa của Benares cô sẽ
đẹp đẽ xinh tươi.
10. "Ôi,
thiếu nữ với cặp mắt
mơ mộng đẹp như tiên! Tôi sẽ
hàng phục dưới
quyền uy của cô nếu
chúng ta có thể chung sống và cùng nhau
trải qua cuộc đời trong khu rừng hoang dại này và
thọ hưởng dục lạc. Cùng khắp
thế gian không có ai dịu hiền và dễ mến như cô. (Đối với tôi cô còn quý hơn là mạng sống của tôi).
11. "Nếu cô
lưu ý đến những lời của tôi (
từ bỏ và
lánh xa đời sống độc thân của cô), cùng nhau sống đời
tại gia cư sĩ và hưởng thụ nhục dục
ngũ trần. Những
kiều nữ thướt tha dễ mến sống trong những tòa nhà
đẹp đẽ sẽ chăm sóc và
cung phụng cô về mọi nhu cầu.
12. "Hãy mặc những
y phục may bằng hàng lụa ở Benares. Hãy trang điểm với những
tràng hoa, và ướp tẩm
nước thơm hương bay ngào ngạt. Tôi sẽ thân tặng cô nhiều đồ trang sức đủ loại, với những hột
kim cương lóng lánh sáng ngời.
13 "Cô sẽ nằm trải mình trên một cái giưòng
ấm cúng tiện nghi và
sang trọng,
có mùi thơm của
gỗ trầm phảng phất, và bao phủ trong một tấm trải giường mới mịn bằng lông trừu êm ấm và gối đầu trên những cái gối dồn với lông
thiên nga mềm mại, màn trướng mới mẻ
tinh anh.
14. "Dường như
hoa sen xinh đẹp mà nở tung trong một ao đầm hoang dại (và
lặng lẽ tàn tạ, không ai màng muốn), cùng thế ấy, cô là một
sư cô thanh khiết;
thân hình trong trắng,
trinh bạch và giữ vẹn
tiết tháo, cô sẽ
già nua và
suy nhược rồi tàn tạ
hoại diệt với
tuổi già."
Sư cô Subhà hỏi:
15. "Nhìn vào phần nào trong cơ thể phù du
yếu ớt đang
suy tàn này, ông thấy thích thú? Có gì mà ông xem là dễ mến trong cái thân nhơ bẩn ngạt
mùi hôi thúi này?"
Tên du đãng
trả lời:
16. "Mắt cô giống như mắt của những con hưu
rụt rè e sợ; nó tựa như cặp mắt
xinh đẹp của bà
tiên nữ sống nơi
thâm sơn cùng cốc. Nhìn vào đó lòng tôi tê tái tràn đầy khát vọng không thể
kềm chế.
17. "Gương mặt
sáng ngời của cô chói lọi xinh tươi như một pho tượng vàng
rực rỡ. Mắt cô
lóng lánh như những tai sen màu đỏ. Nhìn vào lòng tôi rung cảm không thể
kềm chế.
18."Với lông nheo dài của cô! Với cặp mắt
trong trẻo và
lóng lánh sáng ngời của cô! Dầu cách xa ngàn dậm tôi vẫn chỉ mơ cặp mắt chói dịu ấy. Ôi, người có cặp mắt
xinh đẹp như các vì
tiên nữ trong
câu chuyện thần thoại! Trong
thế gian này không có chi mà tôi yêu quý bằng đôi mắt ngọc của cô."
Sư cô Subhà
trả lời:
19."Ông
chận đường một người con gái của
Đức Phật.
Ước vọng của ông cũng điên rồ và
vô ích như dấn bước trên
con đường nguy hại. Lòng khao khát của ông muốn được tôi cũng dại khờ và
vô nghĩa như muốn nhảy vọt lên đỉnh núi Meru, hay mong muốn
mặt trăng là món đồ chơi của
con người. (Là một ước muốn không bao giờ được
thỏa mãn).
20. "Không nơi nào trên
thế gian này có bất luận cái chi (dầu
vô tri vô giác hay hữu giác hữu tri) mà có thể gợi lòng
tham dục của tôi. Tôi không biết
tham dục là gì. Lòng
tham dục ấy, tôi đã phá tan từ gốc rễ bằng cách
vững chắc tiến hành trên
Con Đường Cao Thượng.
21. "Như vật gì mình đã
vứt bỏ trong đống lửa đang phừng cháy, như chai thuốc độc đã
bị hủy diệt, dường thế ấy ngọn lửa
tham dục của tôi đã
bị dập tắt vĩnh viễn. Tôi không biết (thấy)
tham dục là gì.
22."Nếu có thể được, hãy đi
cám dỗ người đàn bà nào khác mà chưa từng có đủ
sáng suốt để trông thấy
ngũ uẩn [3], hoặc người chưa từng
liên hệ với
Đức Phật. Nơi đây ông chỉ khuyấy rầy người tu nữ -- một
sư cô đã
chứng ngộ Tứ Diệu Đế. [4]
23."Trước những
lời khiển trách và
tán dương, trong
đau khổ và
hạnh phúc, tôi luôn luôn giữ
chánh niệm. Như vậy, không lúc nào tâm tôi bám níu hay
thèm khát điều chi. Tất cả các
pháp hữu vi,
hiện hữu do
duyên sinh, đều giả tạm. Tôi đã
hoàn toàn thông suốt điều này.
24. "Tôi là
đệ tử của
Đức Phật, người đã vượt thoát ra khỏi mọi thúc dục
ô nhiễm, đã tận diệt mọi
ái dục bẩn thỉu
đê hèn. Lái chiếc xe
Bát Chánh Đạo, tôi thẳng tiến (đến
Niết Bàn). Những mũi tên của
tham dục đã được nhổ ra. Tôi tìm những cảnh quạnh hiu cô tịch,
đơn độc và
thanh khiết để
thích thú sống
một mình (
an hưởng thú vui của rừng núi).
25. "Ôi, ta đã thấy những đồ chơi hình giả, tay chân sơn phết với
màu mè sực sỡ và những thằng hình bằng gỗ để làm trò chơi múa rối, được nối ráp và khéo léo cột
với nhau bằng chỉ và, có thể
thong thả nhảy múa theo mọi chiều hướng.
26. "Nhưng một khi gỗ, chỉ và trục quây đều được
tháo gỡ hay nới lỏng và bỏ tung toé món ở đây món ở kia, thì còn đâu là đồ chơi hình giả, đâu là thằng hình múa rối. Có nơi nào trong đó mà ông có thể
chú tâm đến?
27. "Cơ thể này của ta cũng dường như thằng hình gỗ đồ chơi. Nó không còn nữa khi các bộ phận
vật lý và những phụ tùng của nó không còn. Ngoài những bộ phận và
phụ thuộc không còn người sống nữa. Ông sẽ
chú tâm vào đâu (phần nào)?
28. "Hãy nhìn bức hình vẻ một
thiếu nữ trên tường, với cái nhìn
sai lạc ông sẽ thấy đó là một người sống. Sự
nhận thấy ấy là một
ảo ảnh. [5]
29. "Này ông,
con người thiển trí!
con người đui mù. Ông cố bám vào thân này như vật gì thường còn và thuộc về của ông chăng, trong khi nó vốn chỉ là bọt bèo và bong bóng? Tấm thân phù du tạm bợ này tựa hồ như trò chơi của nhà
ảo thuật, như một cội cây bằng vàng mà ông thấy trong mộng, một pho tượng bằng bạc mà nhà
ảo thuật khéo léo trình bày giữa đám đông, ông có
luyến ái nó không?
30. "Mắt này chỉ là một hòn bi nhỏ nằm trên một nạng cây -- một cái
bong bóng đầy nước mắt và tiết ra chất nhờn, một sự pha trộn (những màu trắng, đen và xanh v.v...) đó là tất cả những gì tạo nên
hình dáng của mắt."
31.
Sư cô Subhà không còn
luyến ái bất cứ gì; cô không
luyến ái cặp mắt. Do đó, trong một
cảnh tượng rất
cảm động,
sư cô thình lình hồn nhiên móc trồng mắt ra đưa cho tên du đãng và nói: "Đây là con mắt đó (con mắt mà ông
đắm đuối say mê). Hãy
lấy đi."
32. Tức khắc, lòng
tham dục của tên du đãng biến tan. Xin
sám hối với
sư cô, chàng ta nói: "Ôi, này
sư cô, bậc
thánh thiện và vô nhiễm! Ngưỡng nguyện
sư cô được an lành! Ngưỡng nguyện mắt
sư cô được hồi phục! Tôi không bao giờ còn dám
tái phạm tội ác ghê tởm như vậy nữa.
33. "Cũng dường như tôi
đi vào một ngọn lửa đang cháy đỏ. Cũng giống như tôi đang ôm một con
rắn độc. Phá khuấy một người
hiền lành thánh thiện như
sư cô thì
ích lợi gì? Cúi xin
sư cô khoan dung tha lỗi cho tôi.
34. Được thoát ra khỏi tay tên du đãng,
sư cô Subhà về hầu Phật, bậc
Toàn Giác Tối Thượng. Nơi đây, ngưỡng nhìn lên
dung nhan lộng lẩy của
Đức Bổn Sư nhãn quan của
sư cô liền được
hồi phục trong tất cả
tình trạng rực rỡ vinh quang của nó.
Khi nhãn quan
trở lại như xưa
sư cô vô cùng hoan hỷ, và
Đức Phật thuyết giảng về những pháp để
thành đạt tầng thánh cao nhất. Bà đè nén niềm
hoan hỷ thích thú trong lòng, phát triển
thiền minh sát và
chứng ngộ Đạo Quả A La Hán, tầng thứ tư và cũng là tầng
cuối cùng trong
tứ thánh, bằng cách
trọn vẹn nắm vững
Giáo Pháp,
thông suốt đầy đủ
ý nghĩa trong tất cả
chi tiết.
Về sau,
thọ hưởng hạnh phúc của
đạo quả Niết Bàn, và suy tư về tầng thánh mà mình đã
chứng ngộ, bà
tuyên bố cuộc đàm thọai với tên du đãng qua những vần thơ được đề cập đến trên đây.
Kisàgotami - Chỉ Một Nhúm Hột Cải [6]
Tích chuyện Bà Kisàgotami là một trong những chuyện
cảm động nhất trong
kinh điển được
ghi nhận. Bà sanh trưởng trong một
gia đình nghèo tại thành Sàvatthi (
Xá Vệ). Bà thuộc dòng Gotama, và do đó là
họ hàng với
Đức Phật Gotama. Vì có
thân hình mỏng manh
yếu ớt nên người ta gọi bà là Kisà (có nghĩa là ốm gầy) Gotami. Khi đến tuổi
trưởng thành bà được gã cho người con trai của một
thương gia, và
đúng lúc, hạ sanh một trai. Than ôi, khi bé lớn khôn vừa đến tuổi bặp bẹ biết nói và biết chơi thì chết, làm cho mẹ
vô cùng sầu thảm. Vì
tình thương con vô bờ bến, đứa con
duy nhất, bà không thể tin rằng con bà đã thở
hơi thở cuối cùng, ôm con vào lòng chạy đôn chạy đáo tìm thuốc
cứu mạng. Trong
toàn thể vùng Sàvatthi không vị
lương y nào có thể
cứu sống một người chết.
Vì quá
sầu muộn bà như người
mất trí, bôn ba chạy từ nhà này sang nhà khác khóc nức nở, van kêu: "Cúi xin quý ông quý bà rộng lòng cho tôi thuốc để
cứu mạng con!"
Tuy nhiên, dân chúng không thể
thuyết phục bà rằng đứa bé đã chết. Nỗi khổ đau của bà quá sâu đậm để có thể
nhận định đúng mức lời họ. Sau cùng có một vị
trưởng lão sáng suốt thấu hiểu tâm trạng đáng thương của bà mẹ đang khóc sướt mướt, khuyên bà nên đến gặp
Đức Phật Tối Thượng.
Đức Bổn Sư
Đại Từ Đại Bi, vào lúc bấy giờ đang ngự tại
Tịnh Xá Jetavana (
Kỳ Viên) của
Trưởng Giả Anàthapindika (
Cấp Cô Độc), tại Sàvatthi.
Bà
lật đật tuôn chạy đến
tịnh xá, đặt đứa con chết dưới chân
Đức Bổn Sư,
đảnh lễ Ngài và thuật lại
câu chuyện rất
thương tâm có thể làm mềm dịu quả tim chai cứng nhất.
Đấng
Đại Bi nhìn bà với cặp mắt dịu hiền và
nhỏ nhẹ nói: "Này bà chị
thân mến, có một món thuốc thần hiệu
chắc chắn chữa được bịnh,
Như Lai sẽ
hàn gắn vết thương lòng của bà. Chỉ cần tìm cho
Như Lai một nhúm hột cải xin từ bất cứ nhà nào trong thành này." Bà Gotami nghe những
lời an ủi ấy thì lòng mừng vô hạn.
"Nhưng nên
ghi nhận, này Gotami,"
Đức Bổn Sư nói tiếp, "rằng phải xin hột cải ấy từ một nhà nào mà chưa từng bao giờ có người chết."
Tuy nhiên, vì quá đổi
vui mừng bà Gotami không thấu
hiểu ý nghĩa
lời nói của đấng
Toàn Giác. Với
ước vọng cứu được đứa con
yêu dấu, bà tức khắc vội vã chạy tìm hột cải. Tất cả
mọi người trong thành đều tận
tình thương hại bà và rất sẵn sàng cho hột cải mà bà
hết lòng mong tìm. Nhưng than ôi, bà không thể tìm một nhà nào mà màra, thần chết, chưa hề đến viếng.
Trời đã về chiều,
mặt trời lặng lẻ, nhẹ nhàng lặn chìm trong vùng trời ở phương Tây, đàn chim
vội vàng bay về ổ, và Bà Gotami
cuối cùng nhận thức tánh cách
phổ cập của
hiện tượng chết.
Chân lý phủ phàng
rọi sáng cho bà như một ánh chớp, và bà
thông hiểu rằng tất cả những gì yêu
quý mến thương nhất trên đời đều
vô thường. Tất cả mọi sum hợp đều
chấm dứt trong chia ly và
đời sống suy tàn, biến tan vào cõi chết. Do đó bà đi ra ngoại ô thành, đặt con trong một bãi tha ma rồi về
tịnh xá, vừa than:
"Đây không phải là luật lệ của xóm làng, không phải luật của thành phố,Không phải là luật chỉ để áp dụng riêng cho gia đình này hay gia đình khác;Mà cho toàn thể thế gian -- hơn thế nữa, cho tất cả chư thiên trên cảnh trời.Đây là định luật: tất cả đều vô thường." [7]
"Này Gotami, bà có
tìm ra hột cải không?"
Đức Thế Tôn hỏi.
"Bạch Đức Thế Tôn, con ra đi, bế trong lòngĐứa con càng lúc càng lạnh dần, đi từng nhà để hỏi xin --Từ nơi rừng rậm này đến thành phố --'Cúi xin ông bà ban ơn ban phước,Cho tôi chút hột cải', và mọi người ai có cũng đều cho,Vì tất cả người nghèo đều thương hại người nghèo;Nhưng khi con hỏi, nơi đây, tại nhà bạn, Đã từng có người chết không --Chồng, vợ, hay con, hay người làm công? họ trả lời:'Này bà chị! Bà hỏi gì? Người chếtThì có thật nhiều, người sống chỉ một ít!'Rồi trả lại hột cải với lời cảm tạ buồn thảm.Và van xin ở nhà khác; nhưng người khác nói,'Đây là hột cải, nhưng người làm công trong nhà đã chết!''Đây là hột cải, nhưng chồng tôi đã qua đời!''Đây là hột cải, nhưng khi gieo mạ xong thì chồng tôi chếtGiữa mùa mưa và mùa gặt hái!'
Ôi, Bạch Đức Thế Tôn! Con không thể tìm đâu ra một nhàCó hột cải mà không có người chết!Do vậy con đành lìa bỏ đứa con -- nó không còn búCũng không cười -- dưới một lùm cây, bên cạnh dòng suối,Để rồi về đây chiêm ngưỡng dung nhan Ngài, Đảnh lễ dưới chân Ngài, và bạch hỏi van xin Ngài chỉ choNơi nào có thể tìm ra hột cải ấy và không thấy thần chết,Quả thật vậy, nếu giờ đây con của con không chết,Như con sợ, và như người ta nói với con."Bà Kisàgotami bạch như vậy.
Đức Bổn Sư dạy,
"Này bà tín nữ! Bà đã tìm ra," "Tìm được cái gì mà không ai tìm thấy -- Niềm an ủi đắng cay mà Như Lai tặng cho bà. Đứa con yêu dấu đã an giấc nghìn thu Trong vòng tay của bà ngày hôm qua; Hôm nay bà biết rằng toàn thể thế gian mênh mông này Đều than khóc nỗi khổ đau của họ cũng giống vậy." [8]
"Đối với người mà tình thương đã gắn bó Tập trung và bám chặt vào con cái và đàn gia súc,Cái chết tràn đến như trận thủy lụt trong đêm tối,Càn quét cuốn đi trọn cả làng đang ngon giấc." [9]
Những lời của
Đức Bổn Sư thấm sâu vào tâm bà, lúc bấy giờ đã
thấu triệt rằng
vô thường là đặc tướng của tất cả mọi
hiện tượng sinh tồn. Bà
chứng đắc tầng thánh đầu tiên (sotàpànna,
nhập lưu) và xin
xuất gia,
gia nhập vào
Giáo Hội Tỳ Khưu Ni. Sau đó không bao lâu, nhờ nghe những thời
thuyết giảng của Đấng Bổn Sư
Đại Từ Đại Bi, và nhờ
chuyên cần hành thiền, bà tiến đến mức
tuyệt đỉnh thanh tịnh, tầng thánh
cuối cùng, vượt ra khỏi mọi bợn nhơ của
đời sống. Về sau, nhớ lại những
thành tựu cao cả đã đạt, bà nói lên một số
kệ ngôn mà dưới đây xin ghi lại hai câu
cuối cùng:
"Hoan hỷ thay! Ta đã dấn bướcTrải qua con đường Thánh Thiện, Bát Chánh Đạo Thẳng tiến đến trạng thái cao siêu.Ta đã chứng ngộ Niết Bàn, và nhìn vàoGương sáng của Giáo Pháp thiêng liêng.
Ta, chí đến ta, vết thương đau khổ cũng được hàn gắn,Đã đặt xuống gánh nặng, nhiệm vụ đã viên mãn hoàn thành,Tâm ta đã hoàn toàn giải thoát,Ta, sư cô Kisàgotami, đã tuyên ngôn điều này!" [10]
Chú thích:[1] Xin xem phần trên, Tích chuyện Bà Mahà Pajàpati Gotami.[2] Bản Chú Giải nói: "Trong rừng vào lúc ấy không có gì giống như vậy. Nhưng tên du đãng nói như thế vì muốn làm cho sư cô hoảng sợ."[3] Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hay nói cách khác, là danh và sắc, cái mà được gọi là chúng sanh.[4] Đau khổ hay bất toại nguyện, nguồn gốc của đau khổ, sự chấm dứt đau khổ, và con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ.[5] Đức Phật nói đến ba loại ảo ảnh (tiếng Pali là vipallàsa, Sanskrit: viparyàsa) bám níu vào tâm con người.[6] Paramatthadìpanì, Chú Giải bộ Therìgàthà, Trưởng Lão Ni Kệ.[7] Psalms of the Sisters, trang 107[8] The Light of Asia.[9] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 287. Psalms of the Sisters, trang 107[10] Psalms of the Sisters, trang 109.