Thư Viện Hoa Sen

Đức Đạt-lai-lạt-ma Giải-thích “Lời Khuyên Cố Gắng Thực-chứng Tính Không” Của Tịch Thiên (685-763)

16/07/20243:12 SA(Xem: 1283)
Đức Đạt-lai-lạt-ma Giải-thích “Lời Khuyên Cố Gắng Thực-chứng Tính Không” Của Tịch Thiên (685-763)
ĐỨC ĐẠT-LAI-LẠT-MA GIẢI-THÍCH
“LỜI KHUYÊN CỐ GẮNG THỰC-CHỨNG TÍNH KHÔNG”
CỦA TỊCH THIÊN (685-763)
Bản dịch Việt 2024: Đặng-Hữu Phúc
****
Đức Đạt-lai-lạt-maĐức Đạt-lai-lạt-ma giải-thích “Lời khuyên cố gắng thực-chứng tính không” của Tịch Thiên (685-763)
151. Khi tất cả các sự-sự vật-vật đều là vô-tự-tính (empty) trong đạo-lộ này, cái gì có thể được tiếp-nhận, cái gì bị lấy-mất? Ai có thể được tôn-kính hoặc bị khinh-miệt bởi ai?
151. When all things are empty in this way, what can be received, what taken away? Who can be honoured or humiliated by whom?
      Nói tóm tắt, một cá-nhân – tỉ-dụ bạn – kẻ lưu-trú trong luân-hồi, các nguy-cơ (dangers) và đau-khổ của chu-trình này, gồm cả các điên-đảo tinh-thần (mental distortions) và sự thành-tựu của Niêt-bàn – nói ngắn gọn, tất cả các thực-thể -- đều là  chẳng có một bản-chất tự-hữu. Như vậy, cái gì là được thành-tựu, và cái gì là bị mất đi? Khi bạn phân-tích ca-tụng và trách-cứ, chúng được phát-hiện là không tồn-tại thực-hữu.
152. Từ cái gì có thể có hạnh-phúc hoặc khốn-khổ, từ cái gì có thể được hài-lòng và cái gì bị chán-ngán? Khao-khát gì có thể ở đó? Khao-khát đó có chủ-đích gì, khi đã được khảo-sát tương-quan tới bản-chất thực-hữu của nó?
152. From what can there be happiness or misery, what can be liked and what loathed? What craving can there be? For what is that craving, when examined as to its true nature?
      Trong các ý-nghĩa về các bạn-hữu và các kẻ thù, tại sao bạn phải không hài-lòng với các kẻ mà họ không thân-thiện và tại sao hài-lòng với các kẻ mà họ là thân-thiện? Nếu bạn tìm kiếm trong giao-ước của thực-tại tối-hậu, nó là ai mà khát-khao, cái gì được khát-khao và cái gì là hành-động của khát khao. Không một thành-viên nào trong bộ ba đó tồn-tại một cách tự-hữu.
153. Trên sự phân-tích, thế-giới gì của các chúng-sinh là ở chốn đó? Ai, hệ-quả là, sẽ chết trong nó? Ai sẽ bắt đầu tồn-tại? Ai đang tồn-tại? Ai là một thân-nhân? Ai là bạn của ai?
153. On analysis, what world of living beings is there? Who, then, will die in it? Who will come to exist? Who has existed? Who is a relative? Who is whose friend?
154. Mong-ước tất cả chúng-sinh đều chấp-nhận như tôi rằng mỗi-mỗi sự-sự vật-vật đều là tương-tợ hư-không. Họ trở-thành giận-dữ trong các cuộc tranh-luận và hân-hoan trong các lễ-hội.
154. May all of my kind accept that everything is like space. They get angry in disputes and delight in celebrations.
Hư không. Skt. akasa
(Phật quang đại từ điển. Thích Quảng Độ dịch xb 2000 )
(1). Hư không: Chỉ cho pháp vô vi thanh tịnh, không bị chướng ngại.
(2). Hư không: Khoảng không bao la gồm có năm nghĩa: Trùm khắp, thường hằng, không bị ngăn ngại, không phân biệt, dung nạp hết thảy muôn vật.
Còn theo Tông kính lục quyển 6 thì Hư không có 10 nghĩa:
Không chướng ngại, cùng khắp, bình đẳng, rộng lớn, vô tướng, thanh tịnh, bất động, hữu không, không không, vô đắc.
(3). Hư không: Tên khác của Không giới. Chỉ cho khoảng không gian, nơi tồn tại của tất cả các pháp, 1 trong 6 giới.
*
      Tất cả các hiện-tượng đều tương-tợ hư-không, và nếu chúng được điều-tra, bạn tìm thấy rằng chúng không là tự-cung-cấp các nhu-cầu của chúng mà chỉ  không có tự-tướng (they are not self-sufficient but lack intrinsic identity). Sự lý-hội thông-hiểu sơ-khởi về tính không sẽ không-tức-khắc làm giảm bớt luyến-ái và chống-đối của bạn, nhưng nếu bạn thường xuyên học và bắt đầu lý-hội thông-hiểu về tính không, bạn theo thứ-bậc tiến tới thực-sự thực-chứng tính không. Trong tiến-trình đó, hiện-tướng nhị-nguyên dần-dần phai-tàn, chung-cuộc trong một sự thực-chứng vô-niệm, trực-tiếp về thực-tại tối-hậu (In that process, dualistic appearance gradually fades away, culminating in a direct, non-conceptual realization of ultimate reality).  Sự đó tác-động như là một phương-cách chữa-lành cho các điên-đảo tâm-trí do suy-đoán, nhưng nhiều điên-đảo khác bị- xóa-bỏ-hoàn-toàn chỉ trên Đạo-lộ Thiền-định.
      Bởi vậy nó thì gian-nan. Chỉ đơn-thuần hiểu-biết ý-nghĩa của tính không thì không bỗng-nhiên hoàn-toàn thoát khỏi các điên-đảo tâm-trí. Nói chính-xác, do bởi phát-kiến xác-định tính không sau nhiều lần nỗ-lực, các điên-đảo, theo từng thứ-bậc, có thể bị tống-xuất.
155. Với các cảm-giác sầu-muộn mông-mênh, bị phiền-nhiễu, và tuyệt-vọng; với các đòn tước-xé và chặt-chém lẫn nhau, bởi vì các hành-động ác-độc của họ, họ sống nhiều đời của họ một cách khốn-khổ, trong buồn-bã họ ước-ao hạnh-phúc cho chính họ.
155. With feelings of grief, vexation, and despair; with mutually inflicted lacerations and amputations, because of their evil actions, they lead their lives miserably, longing for their own happiness.
      Kế tiếp ngài Tịch Thiên viết về các thiệt-thòi của sự- không-thực-chứng tính không. Những người mà không thực-chứng tính không, họ giận-dữ kịch-liệt trong thời-gian các xung-đột diễn ra và hài-lòng trong thời-gian hoan-hỷ hội-hiệp. Khi các mong-muốn của họ không- thành, họ trải-nghiệm sự khốn-khổ; và để trốn-tránh điều đó họ vận-dụng tài-năng của họ, tranh-luận vói một kẻ khác, và chém và đâm mỗi kẻ khác. Bởi các hành-động ác-độc như vậy, họ làm cho đời sống thành rất vất-vả gian-khổ.
156.  Sau đó họ tái-sinh tốt-lành lần nữa và lần nữa, và hưởng-thụ các lạc-thú lần nữa và lần nữa, họ chết và rơi vào các địa-ngục và vào các phiền-não nghiêm-trọng, lâu dài.
156. After coming again and again to a good rebirth and enjoying pleasures again and again, they die and fall into hells and long, severe afflictions.
        Ngay cả trong đời-sống này, do bởi luyến-ái và chống-đối, có chút ít hoan-hỷ nhưng gian-khổ quá-lớn- lao. Trong đời kế-tiếp, đa số người đời lang-thang trong các trạng-thái khốn-khổ của tồn-tại. Ngay cả khi trong một trạng-thái tốt-lành của tồn-tại, họ không điều-tra cái gốc-rễ của luân-hồi và thiền-định về tính không; và kết-quả họ lại đi-xuống-dốc để tới các trạm-cuối đầy khốn-khổ của cuộc hành-trình. Ở nơi đó họ trải-nghiệm sự đau-khổ trường-kỳ mãnh-liệt.
157. Có nhiều khó-khăn và nguy-hiểm bị ẩn-dấu và không tiên-đoán được (pitfalls) trong tồn-tại, nhưng không có sự-thật này ở nơi đó. Có sự mâu-thuẫn hỗ-tương giữa hai sự-thật. Thật-tại không thể là tương-tợ cái này.
157. There are many pitfalls in existence, but there is not truth there. There is mutual contradiction between the two. Reality could not be like this.
      Có nhiều trú-sở (abodes) của đau-khổ, và trong nhiều vực-thẳm (abysses) của luân-hồi có si-mê về bản-chất của thực-tại. Như vậy, bạn bị ràng buộc vào luân-hồi này bởi các xiềng-xích của lòng ham muốn mãnh-liệt.
      Chấp-thủ trên tồn-tại thực-hữu là mâu-thuẫn luận-lý (incompatible) với trải-nghiệm bản-chất của thực-tại, và do vậy trong luân-hồi này nhiều người không xác-định được thực-tại.
158. Cũng-ở-nơi-đó, là các đại-hải của khốn-khổ, không ngừng-nghỉ và hung-bạo, vượt ngoài so-sánh. Cũng ở nơi đó, sức-lực là mỏng-manh tạm-đủ. Cũng-ở-nơi-đó, đời-sống là ngắn-ngủi.
158. There, too, are oceans of misery, unending and savage, beyond compare. Likewise strength is meagre there. There, too, life is short.
      Trong chu-trình luân-hồi này nhiều loại đau-khổ và bất-như-ý đều được trải-nghiệm, và bạn có khả-năng nhỏ-bé để tham-dự trong các hoạt-động hữu-ích và lành-mạnh.
159. Cũng-ở-nơi-đó, do các quan-tâm về phương-cách kiếm-tiền sinh-sống và sức-khỏe, trong đói-khát, mệt-mỏi và kiệt-sức, trong ngủ-nghỉ, trong các bất-hạnh (misfortunes) và trong sự tốn-phí thời-gian với các kẻ- ngu-ngốc mà không đem lại kết-quả hữu-ích.
159. There, too, because of the concerns of livelihood and health, in hunger, fatigue, and exhaustion, in sleep, in misfortunes, and in fruitless association with fools.
160. Cuộc-đời cá-nhân qua-đi nhanh-chóng, không- mục-đích, trong suốt thời-gian đó khó mà tìm được cách-sống-một-mình. Cũng-ở-nơi-đó, làm cách nào có thể có một phương-cách để ngăn-ngừa các trò-giải-buồn theo thói-quen?
160. Life passes quickly, pointlessly, while solitude is hard to find. There, too, how could there be a way of preventing habitual distraction?
161. Cũng-ở-nơi-đó, Ma Vương (Mara) nỗ-lực cố-gắng làm cho chúng ta trong đại-bất-hạnh tự-nhiên bị giáng-cấp. Ở-nơi-đó, bởi có-quá-nhiều đạo-lộ giả-dối, rất khó mà nghi-ngờ chúng là giả-dối.
161. There, too, Mara strives to make us fall into great misfortune. There, because of the profusion of false paths, doubt is hard to overcome)
      Nhiều người để thời-gian của họ qua-đi trong các trò-giải-buồn, và trí-tuệ để điều-tra bản-chất của các hiện-tượng là hiếm-hoi quá-đỗi. Ngay cả nếu có vài cá-nhân có khuynh-hướng bậc trung về linh-tâm, do bởi thói-quen với trò-giải-buồn, khuynh-hướng đó không được nuôi-dưỡng để được bền-vững, cũng không đạt đến mức rất-thâm-hậu. Thật là khó mà chữa-lành thói-quen đó.
      Nói rõ thêm, nhiều tác-hại đã bị tôi-rèn bởi Ma-vương và các thực-thể khác tương-tợ Ma-vương, chúng làm chướng-ngại tu-tập linh-tâm của nhiều cá-nhân. Trong thế-giới này có rất, rất nhiều đạo-lộ giả-dối mà chúng dẫn tới đau-khổ. Tỉ-dụ, có những quan-điểm cực-biên, tỉ-dụ chủ-nghĩa hư-vô (nihilism); và “chủ-nghĩa bất-khả-xác-định có, hoặc không có tạo-chủ (agnosticism)” mà theo chủ-nghĩa này thì người đời khó có thể siêu-việt những gì mà họ đang thông-hiểu bằng các giác-quan bình-thường, kiến-thức v.v..
(For instance, there are extreme views such as nihilism and there is agnosticism, which is difficult to transcend).
162. Và thời-điểm nhân-duyên tốt-đẹp là khó đạt được một lần nữa. Sự thị-hiện của chư Phật là ít-có và trận lũ-lụt của các phiền-não khó mà ngăn-chặn, hoặc làm-cho -chấm-dứt. Ồi, một sự tiếp-diễn của đau-khổ làm sao!
162. And the opportune moment is difficult to obtain again. The appearance of Buddhas is exceedingly rare and the flood of defilements hard to check. Oh, what a succession of suffering!
Note: Thời-điểm nhân-duyên tốt-đẹp là sự sinh làm một người và tiếp-xúc với giáo-pháp của Phật. Tham-khảo kệ-tụng IV.15,16
163. Ôi khốn-khổ! Trạng-thái hoàn-cảnh cực-kỳ thương-tâm đáng-lo-lắng của các hữu-tình này đang ở trong các đại-hải của đau-khổ, các kẻ không-thấy trạng-thái tang-thương của chính họ mặc dầu họ đứng trong sự cực-kỳ tang-thương như thế!  
163. Oh misery! The extremely grievous condition of these beings who stay in the ocean of sufferings, who do not see their own wretched state though they stand in such extreme wretchedness!
[sasrava-bija: the seeds of defilement; các hạt-giống của phiền-não.
anasrava-bija: the seeds of purity; các hạt-giống của thanh-tịnh]
      Trong thời-gian cư-trú trong đau-khổ vô-biên, nhiều cá-nhân không nhận-định được trạng-thái tồn-tại của chính họ, sự bất-như-ý của chính họ. Nói chính-xác, họ nhầm-lẫn, sống trong đau-khổ, nhưng tưởng sống trong hạnh-phúc.
164. Cũng tương-tợ một kẻ phóng mình vào trong nước một lầnmột lần nữa, nhưng sau mỗi lần lại phải đi vào lửa, do vậy họ xem họ may-mắn, mặc dù họ cũng- cực-kỳ tang-thương.
164. Just like one who dowses himself with water again and again but must each time re-enter the fire again , so they consider themselves fortunate, though they are also extremely wretched.
165. Bởi vì nhiều cá-nhân sống tương-tợ như thế, đang giả-vờ họ sẽ không-già-đi hoặc chết, các bất-hạnh khủng-khiếp đang-đến-gần với cái chết là tiên-phuông của chúng.
165. As people live like this, pretending they will nod grow old or die, horrific misfortunes approach, with the death the foremost of them.
      Các kẻ đó giả-vờ là không lo-lắng quan-tâm, hành-động như thể họ là các Hiện-thể-đã-được-giải-thoát tức là các kẻ đã-vượt-qua-già-và-chết, đều là các kẻ bị-giết- trước-nhất bởi-vô-thường, và kế-tiếp rơi vào các nơi- chốn-khốn-khổ do họ đi-đến hoặc bị-gửi-đến.
166. Vào thời-điểm nào tôi sẽ cung-cấp cứu-tế cho các kẻ bị-hành-hạ trong ngọn-lửa của đau-khổ như thế này, với các tặng-phẩm hạnh-phúc lưu-xuất từ các đám-mây công-đức của tôi?
166. When shall I provide relief for those tormented in the fire of such sufferings, with offerings of happiness flowing from the clouds of my merit?
167. Vào thời-điểm nào tôi sẽ thuyết-giảng tính-không và tích-lũy công-đức, bằng các phương-pháp của sự-thật thế-tục, không nương-tựa trên sự phóng-chiếu, quan-liên tới các kẻ mà các tri-kiến của họ được đặt căn-bản trên sự phóng-chiếu?     
167. When shall I teach emptiness and the accumulation of merit, by means of conventional truth without reliance on projection, respectfully to those who views are based on projection?
[sự phóng-chiếu (projection)= thực-hữu-hóa (reify; reification) = cụ-thể-hóa; vật-chất-hóa (materialise; to think of as material thing) = chấp thật]
      Tôi mong-ước thực-chúng căn-bản, đạo-lộ và kết-quả của tu-tập linh-tâm không chấp-thủ trên tồn-tại thực-hữu, nói một cách khác [= but] công-nhận đơn-thuần tồn-tại thế-tục của chúng. Tôi mong-ước tích-lũy công-đức với lý-do và mục-đích đại-bi. Với sự thống-nhất tu-tập về trí-tuệ của tôi [cũng gọi là, thực-chứng tính không] và tu-tập của tôi về công-đức với lý-do và mục-đích đại-bi đối với các hữu-tình, tôi mong-ước trở-thành toàn-giác. Tôi mong-ước khai-hiển tính không tới vô-lượng hữu-tình các kẻ bị phiền-não do bởi chấp-thủ trên tồn-tại thực-hữu một cách chắc-chắn, không-hoài-nghi. Bởi vậy một Bồ-tát thệ-nguyện rằng bất-kỳ năng-lực nào kết-quả từ thiền-định trên tính không có thể được sử-dụng chỉ để sản-sinh an-sinh cho các kẻ khác.  
---------------------------------------
 (*Chương IX  Trí-tuệ siêu-việt có 167 kệ-tụng)
Phụ-bản
"Bấy giờ, Bồ-tát Đại sĩ Đại Huệ, vị đã từng vân du tất cả Phật độ, cùng với các đại Bồ-tát, nương thần lực Phât, từ chỗ ngồi đứng lên, để trần vai phải, đầu gối phải sát đất, chắp tay xoay người hướng đến Phật, cung kính cúi đầu, rồi dùng kệ tụng tán thán Phật rằng:
1. Phật bằng trí bi nhìn thế gian,
Nó như là hoa đốm hư không,
Không thể nói là sinh hay diệt,
Nên không thể nói hữu hay vô.
2. Phật bằng trí bi nhìn thế pháp,
Thực tế nó như vật huyễn ảo.
Do nó xa lìa nơi thức trí,
Nên không thể nói hữu hay vô.
3. Phật bằng trí bi nhìn thế gian
Nó giống như là một mộng cảnh,
Không thể nói nó đoạn hay thường,
Nên không thể nói hữu hay vô.
4. Pháp thân tự tính như mộng huyễn,
Ở đó có gì để khen ngợi?
Tán lễ tức không nắm lấy hữu,
Cũng không nắm lấy vô tự tính.
5. Pháp hiện tồn nhưng không thể thấy,
Do nó siêu việt thức và cảnh,
Mâu-ni siêu việt pháp trần cảnh,
Nơi đó có gì đáng khen chê?
6. Phật bằng trí bi lìa hình sắc,
Lại chứng nhân-pháp đều vô ngã ,
Do đây Phật thường hằng thanh tịnh,
Lìa phiền não chướng, sở tri chướng.
7. Phật không diệt ở trong Niết-bàn,
Cũng không trụ ở trong Niết-bàn,
Năng giác, sở giác thảy đều ly,
Cũng lại ly nơi hữu, phi hữu.
8. Nếu ai thấy Mâu-ni như vậy,
Tịch tĩnh, viễn ly nơi sinh tử.
Người đó đời này và đời sau,
Thanh tịnh phược thủ và vô cấu.
*
(Thánh Pháp Nhập Lăng già. Phạn bản toàn dịch Phước Nguyên)
---------------------------------------------------------------------------
 Bản gốc
THE DALAI LAMA: Transcendent Wisdom: Đức Đạt-lai Lạt-ma giải-thích chương Trí-tuệ siêu-việt của Con đường Bồ-tát của Tịch Thiên
Tịch Thiên (Santideva 685-763 CE)
Con đường Bồ-Tát (Bodhicaryavatara)
(Bodhicaryavatara)
*
Bản dịch Việt 2024: Đặng Hữu Phúc, dịch từ hai bản dịch Anh
*Bản dịch Anh: SANTIDEVA. The Bodhicaryavatara
Translated with introduction and Notes by Kate Crosby and Andrew Skilton 1995
*Bản dịch Anh:Transcendent Wisdom, translated by B. Allen Wallace (2009)




Tạo bài viết
30/06/2012(Xem: 80798)
02/10/2012(Xem: 51161)
09/10/2016(Xem: 11696)
Kính thưa quý vị khá thính giả của chương trình Phố Bolsa TV. Hiện nay tôi đang có mặt ở tỉnh Surin Thái Lan cùng đòan bộ hành với sư Minh Tuệ đi Đất Phật Ấn Độ và hôm nay nơi giữa đường thì chúng ta sẽ có một buổi nói chuyện trực tiếp với sư Minh Tuệ. Những câu hỏi đã được tôi soạn ra trước nhưng không hề có việc gửi tới trước cho Sư hoặc là cho anh Đoàn Văn Báu (Trưởng đoàn)
Vào năm 2015 ngôi chùa Linh Thứu tại thủ đô Berlin của xứ Đức, đã đảm nhận trọng trách tổ chức một khóa An Cư Kiết Đông cho hơn 100 vị Chư Tăng Ni đến từ các nơi, chủ yếu là Âu Châu. Gần mười năm sau, Chùa lại được hân hạnh đón tiếp lần thứ hai gần 100 Vị đến tu tập những 10 ngày từ mùng 9 đến 18 tháng 12 năm 2024, đó là khóa An Cư Kiết Đông kỳ thứ 12, nếu không trừ ra vài khóa vắng bóng thời Cô-Vít ngày nào!
Ngày 3/1, ngày thứ tư kể từ khi đặt chân tới đất Thái Lan, đoàn của sư Minh Tuệ đang đi bộ dọc đường 217 trên khu vực thuộc huyện Phibun Mangsahan, tỉnh Ubon Ratchathani ở miền đông bắc Thái Lan.