PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Hòa Thượng Thích Trí Thủ biên tập
Trì Danh Niệm Phật
So Sánh Ba Pháp: Thật Tướng Niệm Phật,
Quán Tưởng Niệm Phật, và Trì Danh Niệm Phật
Nói Niệm Phật không phải chỉ niệm nơi miệng mà thôi. Theo nghĩa đen, Niệm nghĩa là “nhớ nghĩ”. Cho nên khi tâm ta nhớ nghĩ đến Phật tức là niệm Phật. Vì vậy phương pháp Niệm Phật gồm có ba loại:
a.Trì danh niệm Phật tức là chuyên trì tụng danh hiệu Phật nơi miệng.
b. Thật tướng niệm Phật tức là thâm nhập nghĩa lý chơn thật của Phật dạy (Đệ Nhất Nghĩa Đế).
c. Quán tưởng niệm Phật tức là quán tưởng cảnh giới Cực Lạccủa đức Phật A Di Đà.
Thật tướng niệm Phật cũng tức là quán tưởng thật tướng của Phật. Kết quả sở đắc của phương pháp nầy là Chơn Như tam muội, cũng gọi là Nhất Hạnh tam muội. Tam muội nghĩa là chánh định, chỉ cho cảnh giới đạt được trong định khi sự tu tập đã thành tựu. pháp môn nầy vốn thuộc về Thiền tông, nhưng cảnh giới hiển hiện sau khi công hạnh tu thiền thành tựu chính là cảnh giới Tịnh Độ, nên cũng nhiếp vào pháp môn Tịnh Độ. Với pháp môn nầy, nếu không phải là bậc căn khí tối thượng thì không thể ngộ nhập, cho nên những hàng trung, hạ trí không thể tu tập được. Trong pháp môn Tịnh Độ vì thế ít khi đề cập đến phương pháp nầy, mà riêng nhường cho Thiền tông đề xướng.
Quán tưởng niệm Phật là một phương pháp y theo kinh quán Vô Lượng thọ mà thiết lập. Phương pháp nầy chia cảnh giới y báo và chánh báo trang nghiêm ở quốc độ Cực Lạc của đức Phật A Di Đà thành 16 phép quán qua 16 giai đoạn. Khi quán hạnh đã thuần thục, sức quán đã mạnh mẽ thời mở mắt nhắm mắt đều thấy cảnh giới Cực Lạc. Trong hiện tại có thể chuyển biến thế giới Sa-bà thành thế giới Cực Lạc. Không cần phải đợi tới lúc lâm chung sanh về Cực Lạc mới hưởng thọ cảnh giới ấy mà ngay trong hiện tại đã hưởng thọ rồi. Công hiệu của phương pháp quán tưởng niệm Phật thật là lớn lao, không thể tả xiết.
Chánh định tam muội chứng đượcdo tu theo phương pháp nầy nên có tên riêng là "Ban-châu tam muội" hay "Phật Lập tam muội". Phương pháp quán hạnh nầy quá vi tế huyền diệu và có 5 điều khó thành tựu:
1. Căn cơ ám độn, khó thành tựu.
2. Tâm thô tháo, khó thành tựu.
3. Thiếu phương tiện thiện xảo, khó thành tựu.
4. Nhận thức không sâu, khó thành tựu.
5. Tinh lực bất cập, khó thành tựu.
Nếu có 5 điều kiện nghịch lại 5 điều kiện trên là: căn cơ thông lợi, tâm niệm tế nhuyễn, phương tiện thiện xảo, nhận thức sâu sắc, gây được ấn tượng mạnh mẽ, tinh thần cương kiện thì kết quả được xem như đã nắm chắc ở trong tay. Nhưng có đủ điều kiện như thế, thật là vạn người chưa được một. Vì thế, phương pháp nầy cũng ít phổ cập trong quần chúng.
Phương pháp trì danh niệm Phật, so với hai phương pháp trên thì thật là dễ dàng hơn bội phần. Bất luận là trung hay hạ trí, hễ có phát tâm chuyên niệm danh hiệu Phật, không ai là không làm được. Niệm niệm tích lũy lâu ngày cho đến khi được "nhất tâm bất loạn" thì liền chứng tam muội. Tam muội nầy có tên riêng là "Niệm Phật tam muội". Trải qua hơn 2.000 năm, các bậc Đại Đức nối tiếp nhau đề xướng và thật hành phương pháp nầy, đã thâu hoạch được nhiều kết quả... Hiện tại, phương pháp nầy thâm nhập nhân gian, phổ cập khắp quần chúng và không ai là không biết niệm sáu tiếng "Nam mô A Di Đà Phật". Lý do thâm nhập và phổ biến của phương pháp nầy là hễ có tu là có thành, rất thích hợp với mọi căn cơ, bất cứ kẻ trí người ngu đều thâu nhiếp được một cách dễ dàng. Số người nhờ phương pháp nầy mà được độ thoát, so với các tông phái khác, chiếm đến bảy, tám mươi phần trăm.
Cứ xác thật mà nói thì đạo lý của pháp môn nầy hàm chứa tinh hoa của các pháp môn khác một cách sâu xa rộng rãi. Không những so với các pháp môn khác, nó đã không kém thua, mà trái lại, tinh hoa của các pháp môn khác đều thu trọn vào trong một pháp môn nầy. Nó có đủ khí độ rộng rãi tập hợp sự đại thành của các tông phái khác. Vì vậy, nếu bàn đến hiệu quả, bàn đến học lý, bàn đến khó dễ, không một tông phái nào so sánh kịp!
Có người vì không nhận thức rõ ràng chân giá trị của phương pháp trì danh niệm Phật nầy và vì thấy nó quá dễ dàng ai cũng thật hành được nên liền vội cho là một pháp môn dành cho hàng ngu phu thất phụ, chứ người thức giả thì không cần để ý đến. Họ đâu có ngờ rằng người nói như vậy mới chính là người ngu, vì chính ngay họ chưa nhận thức được phần nào nguyên lý hàm chứa trong pháp môn nầy. Giả sử người ấy có một nhận thức thấu đáo và chân chính, tưởng e rằng không những tự họ, họ sẽ triệt để khâm phục sùng bái, mà dù cho gặp phải hoàn cảnh khó khăn buộc họ có phải bỏ mình đi nữa, họ cũng không thể quên được niệm Phật!
Các Phương Pháp Trì Danh
Niệm Phật hay Trì Danh tức là đọc sáu chữ "Nam mô A Di Đà Phật" hoặc chỉ đọc bốn chữ "A Di Đà Phật" cũng được.
a) Niệm cao tiếng: Đem hết cả tinh lực toàn thân dồn vào một câu niệm Phật khác nào tiếng đại hồng chung, những tiếng sư tử rống, át cả trời đất vũ trụ. Theo phương pháp nầy thì hao hơi rát cổ nhiều, không thể trì niệm lâu được. Tuy nhiên nó có công năng đối trị được bệnh hôn trầm, giải đãi, trừ khử được tạp niệm lăng nhăng. Khi niệm Phật thấy mơ màng muốn ngủ gục, hoặc thấy tư tưởng bị chao động, hành giả nên mạnh mẽ đề khởi tinh thần, cất cao giọng niệm to tiếng làm trí não thức tỉnh, chánh niệm khôi phục và sẽ được linh hoạt như cũ. Niệm Phật cao tiếng có tác dụng rất lớn lao. Hơn nữa, nó còn làm cho người hai bên nghe rõ tiếng niệm và khiến họ lần lần sanh khởi tâm niệm Phật.
b) Mặc niệm: Lúc niệm, môi miệng chỉ hơi mấp máy không phát ra tiếng. Người ngoài nhìn vào, không biết là đương niệm. Tuy không phát ra tiếng, nhưng sáu chữ "Nam mô A Di Đà Phật" đương sáng ngời và rang rảng trong tâm thức hành giả, vô cùng rõ ràng. Nhờ sự sáng ngời và rang rảng ấy mà tâm thần định tỉnh, chánh niệm ngưng tụ thành một khối, khiến cho hiệu lực của nó không khác hiệu lực của niệm Phật có tiếng.
c) Niệm Kim Cang: Niệm thư thả, hòa hoãn tiếng không lớn quá, không nhỏ quá. Bất luận là niệm bốn chữ, hay sáu chữ, hành giả vừa niệm vừa lắng tai nghe lại tiếng niệm của mình từng chữ một, thật rõ ràng. Cứ vừa niệm vừa nghe như thế, trí óc sẽ không bị xao lãng và tâm thần định được.
d) Niệm giác chiếu: Một mặt xưng danh hiệu Phật, một mặt quay tâm trí của mình trở lui soi xét tự tánh. Với phương pháp nầy, cảnh đối tượng trước mắt đều bị đẩy lùi hết, chỉ còn một cảm giác linh động trong tâm thôi. Ấy là cảm giác tâm ta tâm Phật, thân ta thân Phật, cả hai cùng ngưng tụ thành một khối sáng chói lọi, tròn vành vạnh. Ngoài ra, các cảnh giới bao la trong mười phương như sơn hà, đại địa, nhà cửa, khí cụ, nhất nhất thảy đều mất tung tích cho đến thân tứ đại của hành giả cũng không biết lạc mất ở chỗ nào. Được như vậy thì báo thân chưa xả mà cảnh Tịch Quang đã chứng. Danh hiệu Phật vừa tuyên lên là đồng thời hành giả chứng nhập tam muội, đem thân phàm phu dự vào cảnh giới chư Phật.
đ) Niệm quán tưởng: Một mặt xưng danh hiệu Phật, mặt khác quán tưởng thân Phật và Bồ Tát trang nghiêm đương lồ lộ đứng trước mặt ta. Do tự kỷ ám thị tưởng tượng ra các cảnh như cảnh Phật đương đưa tay thoa đầu ta hoặc lấy áo phủ lên mình ta, hoặc như cảnh đức Quán Âm và đức Thế Chí đương đứng hầu hai bên đức Phật, còn Thánh chúng thì đương đoanh vây hai bên thân ta. Lại có thể quán tưởng cảnh đất vàng, hồ báu của thế giới Cực Lạc với lâu đài tráng lệ, lưới báu bủa giăng, hoa nở,chim kêu đương phát ra tiếng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng v.v...
e) Niệm truy đảnh: Cũng giống như phép niệm kim cang nói đoạn trước, nhưng giữa chữ trước và chữ sau, giữa câu trước và câu sau, đừng để xen hở. Chữ nọ bồi vào chữ kia, câu sau chồng lên câu trước, trung gian không cho dứt hở, nên gọi là truy đảnh . Truy nghĩa là đuổi theo, đảnh nghĩa là đầu.
g) Niệm lễ bái: Đồng thời trong khi miệng niệm thì thân lạy, hoặc niệm xong một câu thì lạy một lạy, hoặc bất kể miệng niệm nhiều hay ít, hễ cứ miệng niệm thì thân lạy, thân lạy thì miệng niệm.
h) Niệm từng loạt 10 niệm (sổ thập): Khi niệm dùng chuỗi hạt để ghi số loạt, cứ mỗi loạt mười câu. Sự ghi số có nhiều cách: hoặc mỗi lần niệm được mười câu thì lần một hạt; hoặc niệm ba câu một hơi, làm như vậy ba lần, đến câu tiếp thì lần một hạt chấm câu; hoặc ba câu một hơi, rồi hai câu một hơi nữa, như vậy hai lần rồi lần một hạt. Như vậy là cứ mỗi khi lần một hạt chuỗi tức là đã niệm xong mười niệm.
i) Niệm đếm theo hơi thở (sổ tức): Niệm như phép truy đảnh trước kia, không kể số danh hiệu Phật niệm được nhiều hay ít, chỉ dùng hơi thở làm chứng. Bắt đầu thở ra thì niệm cho đến khi hết hơi thở, nghỉ niệm mà hít hơi vào. Khi thở ra lại tiếp tục niệm như trước. Cứ mười lần như vậy, thì gọi là mười hơi niệm.
k) Niệm theo thời khóa nhất định. Điều tối kỵ nhất trong phép niệm Phật là lúc bắt đầu thì hăng hái mà về sau lại giải đãi. Sở dĩ có sự thủy cần chung đãi như vậy là vì không có tâm hằng thường. Cho nên, để giữ cho được thủy chung như nhất, ngay từ khi sơ phát tâm niệm Phật, hành giả cần phải tự vạch cho mình một thời khóa biểu nhất định. Một khi thời khóa biểu đã vạch sẵn rồi thì ngày ngày cứ y theo đó mà thật hành, tự gây cho mình một thói quen, và có như thế mới giữ được đạo tâm bất thoái. Trong buổi đầu, niệm nhiều hay ít chưa phải là điều quan trọng vì nhiều hay ít còn tùy thuộc năng lực và hoàn cảnh riêng biệt từng cá nhân; quan trọng là tại chỗ thường thời thật hành, đều đều và chuyên nhất.
l) Niệm bất cứ lúc nào. Với những hành giả đã huân tập được tịnh chủng khá thành thục thì tự nhiên phát ra những tiếng niệm Phật bất cứ lúc nào, cơ hồ như có một sức lực dõng mãnh bên trong thúc đẩy, khiến cho hành giả hằng tiến không lùi. Vì vậy mà dù công khóa đã hoàn tất, các vị nầy vẫn chưa cho là đủ, nên trừ ngoài giấc ngủ, bất luận ngày đêm, trong bốn uy nghi là đi, đứng, nằm, ngồi, không lúc nào, không chốn nào, là không niệm Phật. Như vậy câu "Nam mô A Di Đà Phật" không lúc nào rời khỏi miệng, lâu ngày thành tập quán.
m) Niệm hay không niệm vẫn là niệm. Phép niệm Phật nói ở đoạn trên là chỉ sự niệm thành tiếng, phát ra nơi cửa miệng, trong bốn uy nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Chữ Niệm trong đoạn nầy chỉ là tâm niệm (tâm niệm nhớ nghĩ đến Phật). Nói "niệm hay không niệm vẫn là niệm", có nghĩa là bất kể miệng có niệm thành lời hay không, luôn luôn trong tâm vẫn tưởng nhớ đến Phật tức là vẫn có niệm Phật.