SINH RA LÀM NGƯỜI QUÝ BÁU
Lạt ma Gursam - Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên
Dù thế nào chăng nữa thì mọi
cuộc đời đều
quý báu. Trước hết,
quý báu có nghĩa là gì? Trong
Phạn ngữ, từ ratna để chỉ cho sự
quý báu. Trong tiếng
Tây Tạng, ratna đôi khi được dịch là konchog và có lúc được dịch là rinpoche. Đôi khi từ này được dịch ngắn gọn là rinchen. Những lúc khác được dịch là norbu, có nghĩa là viên ngọc quý. Vì thế, tiếng
Tây Tạng thật
phong phú khi
diễn tả những
thuật ngữ tâm linh khác nhau. Theo Uttaratantra của
Bồ Tát Maitreya (
Di Lặc) - một trong những bản văn
Phật Giáo quan trọng nhất - việc sinh ra làm người
quý báu được giảng theo năm cách khác nhau. Trước hết,
việc làm người này khó được và vì thế nó
quý báu. Thứ hai,
chân tánh của tâm thì thuần tịnh tự
nguyên thủy, vì
lý do này được sinh ra làm người cũng là điều
quý báu. Thứ ba, việc sinh ra làm người
quý báu có khả năng
sâu xa khiến ta có thể
sử dụng cuộc đời này để
thành tựu giác ngộ và làm
lợi lạc cho những người khác. Thứ tư, đó là vật trang sức vĩ đại nhất mà những món trang sức tầm thường khác không thể
so sánh được. Thứ năm, sự sinh ra làm người
quý báu ấy
sở hữu Phật tánh bất di bất dịch. Bởi những
lý do này mà nó được gọi là
quý báu.
Thiền định về sự sinh ra làm người
quý báu là pháp chuẩn bị thứ nhất trong bốn chuẩn bị thông thường. Đây là
thiền định về tám điều nhàn nhã (
tự do) và mười phú bẩm (
thuận lợi) của sự sinh ra làm người
quý báu.
Việc
hiểu biết về sự sinh ra làm người
quý báu này thì rất
cần thiết không chỉ đối với các
hành giả mà còn cho tất cả
mọi người. Tôi đã
nhận ra điều đó khi giảng dạy cho các thanh
thiếu niên rằng điều quan trọng là phải
giải nghĩa rõ ràng về
vấn đề này. Đáng tiếc là đôi khi có những người trẻ tuổi tự tử. Do đó rất
cần phải thấu hiểu
tính chất quý báu của
đời người. Vì thế tôi đã
cố gắng nói về
vấn đề này bất kỳ nơi nào tôi đến.
Mọi người ở đây đã
hiểu rõ về sự
quý báu của
đời người. Nhưng ở Montreal tôi đã thấy có nhiều người trẻ tuổi tự tử.
Giáo lý này nhằm khuyến khích người học
Phật Pháp đi vào thực hành và giúp những người khác có thể
nhận thức sâu sắc về
cuộc đời của họ. Vì thế đây là một
giáo lý vô cùng hữu hiệu. Ta có thể
sử dụng giáo lý này để có được
sức mạnh và
năng lực khi gặp những khó khăn và
thử thách. Khi ta
nhận thức sâu xa về
cuộc đời của ta và của những người khác, ta không làm hại
bản thân ta và những người khác. Sau khi
chấm dứt các việc học tập, tôi đã
thực hành ngondro (pháp chuẩn bị). Trong phái Drikung, các
thực hành này đựơc bắt đầu bằng những lời
cầu nguyện trường thọ tới
Đức Phật Amitayus (Phật
Vô Lượng Thọ). Sau đó tôi
thiền định về bốn chuẩn bị thông thường, mỗi chuẩn bị kéo dài
ba tuần. Khi tôi ngồi xuống để
thực hành các pháp này, tâm tôi trống rỗng và tôi không biết phải
thiền định về cái gì. Vì thế tôi
trở lại với các bản văn. Những bản văn
mô tả nguyên nhân của sự sinh ra làm người
quý báu, cho các ví dụ,
giải thích sự
hy hữu và
bản tánh của
đời người. Sau khi
thực hành bốn chuẩn bị tôi
nhận thấy việc
thiền định trở nên dễ dàng. Vì thế điều quan trọng là bạn phải tự
giáo dục,
tu tập bản thân dựa trên giáo lý này.
Mục đích của việc học Pháp là để hỗ trợ cho
thực hành. Ngài Vasubhandu (
Thế Thân) đã nói: “Bất kỳ nền
giáo dục nào
chúng ta theo đuổi phải nhằm hỗ trợ cho
thiền định.”
Như vậy, thế nào là một
cuộc đời tâm linh? Ta có một
cuộc đời tâm linh khi ta sống để làm
lợi lạc chúng sinh và
hoàn toàn tiệt trừ những
cảm xúc phiền não.
Hình thức thực hành của
chúng ta là
hình thức của một yogi (
hành giả) hay yogini (nữ
hành giả)
cư sĩ.
Chúng ta giữ
năm giới nguyện
biệt giải thoát của một
cư sĩ. Có bảy
phạm trù giới nguyện
biệt giải thoát: những giới nguyện của
tăng ni thọ cụ túc giới, những giới nguyện của các
sa di và
sa di ni, những giới nguyện của
cư sĩ nam và
cư sĩ nữ, và giới nguyện trong một ngày. Tất cả những giới nguyện được thọ với
mục đích làm
lợi lạc chúng sinh. Là
con người,
chúng ta cần có
thực phẩm, quần áo, và nơi trú ẩn. Theo
truyền thống, điều
cần thiết thứ tư là một con ngựa. Và để có được những điều này
chúng ta cần có một
việc làm.
Mục đích của
cuộc đời là
hạnh phúc.
Hạnh phúc không chỉ đến từ bên ngoài.
Hạnh phúc đến từ bên ngoài thật hạn hẹp.
Hạnh phúc nội tại to lớn hơn nhiều. Nhưng
chừng nào mà những
hoạt động của
chúng ta không lấn át
thời giờ để
thiền định thì hai loại
hạnh phúc này không
mâu thuẫn nhau. Hãy
đơn giản,
dịu dàng và
tốt lành. Điều đó có vẻ
bao gồm mọi sự. Đối với một
hành giả như
chúng ta, không những ta phải thấu hiểu
cuộc đời quý báu ra sao, mà còn phải hiểu rằng nó thật
vô thường. Mọi sự đều thay đổi.
Mục đích của việc
thiền định về lẽ
vô thường là dùng nó như một cách
đối trị cho tánh lười biếng.
Thiền định này cũng được dùng làm một phương thức
đối trị cho tánh
tham luyến. Khi
chúng ta thoát khỏi tham luyến,
tâm thức chúng ta trở nên mạnh mẽ và
tự do. Thân xác
chúng ta có thể ở trong
sinh tử nhưng tâm
chúng ta thì
tự do tự tại.
Giáo lý về sự
vô thường là cốt tủy của Pháp.
Giáo lý này
giải thoát chúng ta khỏi sự
tham luyến,
sân hận và
ganh ghét. Sự
vô thường đối trị tánh bám chấp.
Chúng ta bám chấp vào những niệm tưởng bởi ta không
nhận ra rằng chúng thì
vô thường. Do đó, tâm ta bị
tham luyến trói buộc. Khi một niệm tưởng khởi lên, nó sẽ biến mất khi bạn
nhận thấy nó
vô thường. Vì thế có một mối
liên hệ chặt chẽ giữa việc
nhận thức sâu xa lẽ
vô thường và
thiền định.
Chúng ta cũng phải
nghĩ tưởng rằng những
cuộc đời khác cũng quan trọng. Là một người
ăn chay thật không dễ dàng, bởi lẽ bạn
cần phải học tập về khoa dinh dưỡng. Tôi mất một năm học tập để
trở thành một người
ăn chay bởi tôi phải học tất cả về điều này. Việc
ăn chay tích tập
công đức to lớn và
giảm thiểu khả năng bị bệnh tật. Vì nhiều
lý do,
trở thành một người
ăn chay thì thật
lợi lạc.
Hỏi: Con đọc được rằng một trong những
lời nguyện của
Đức Phật Dược Sư là giúp cho
phụ nữ được
tái sinh làm người nam
trong đời sau? Điều ấy có
tính chất văn hóa không?
Đáp: Có lẽ điều ấy có
tính chất văn hóa. Đây có thể là một
giáo lý thiết thực. Tôi không
quen thuộc với
lời nguyện đó. Các bậc
cha mẹ nên tạo cơ
hội đồng đều cho tất cả con cái của họ. Tôi đã hướng dẫn một chuyến
du hành tới
Ấn Độ và khi
chúng tôi ở Dehra Dun,
vấn đề ni giới được đặt ra. Họ đã
để ý rằng các
sư cô phải sống trong những
điều kiện tệ hại hơn. Khi tôi tới Arizona tôi được mời tới một sweat lodge - lều tẩy tịnh - (1) để
cầu nguyện. Những người đàn bà vào lều trước rồi mới tới đàn ông. Tôi cho rằng điều này thật vĩ đại. Vợ tôi đã kể cho tôi nghe biết bao nhiêu
vấn đề về
sức khỏe mà
phụ nữ gặp phải ở
Tây Tạng.
Phật Giáo đã nói rõ rằng để
đạt được giác ngộ, những người nam và nữ đều có cơ hội như nhau. Vì thế mọi
cuộc đời đều
đặc biệt.
Hỏi: Khi Thầy còn là một cậu bé và
gia nhập tu viện, thầy có
nhận thức sâu sắc về
giá trị của việc có thể
thực hiện được điều đó?
Đáp: Phần đông các
hành giả trẻ tuổi không
nhận thức được điều này. Đối với họ đó là một việc thuộc về
văn hóa. Chỉ một
thiểu số là có
động lực tâm linh. Thông thường thì ở
Tây Tạng một đứa trẻ
trở thành một tăng hay ni. Trong
trường hợp của tôi, tôi rất
quan tâm tới việc
gia nhập tu viện.
Hỏi: Khi
thiền định con thấy có nhiều niệm tưởng khởi lên. Thầy có thể
giải thích làm cách nào để
buông bỏ chúng?
Đáp: Trong
thời gian thiền định điều gì đó có thể
xuất hiện. Nhưng
bản tánh của tâm thì vẫn
hiện diện ở đó. Đừng lấy hay bỏ bất kỳ điều gì. Bạn nên
thoát khỏi những
nghi ngờ và
hy vọng. Mọi sự
phát khởi thì không thể tách lìa
bản tánh của tâm. Nếu
trước tiên bạn
cầu nguyện Lạt ma hay Bổn Tôn của bạn thì các ngài có thể cứu giúp bạn. Ngài Gampopa đã nói như thế. Hãy
gắn bó với những sự
xuất hiện như một đứa trẻ đã làm. Những sự
xuất hiện ấy chỉ là một
chướng ngại nếu bạn bám chặt vào chúng hay
xua đuổi chúng đi. Điều quan trọng là phải nhẫn nại.
Lòng bi mẫn thì cũng
cần thiết. Và bạn phải
kiên trì. Trong hậu
thiền định bạn phải
thực hành chánh niệm./.
Chú thích: (1) sweat lodge: Túp lều hay nhà nghỉ được dùng trong
nghi lễ tịnh hóa. Lúc
ban đầu, các Thổ dân ở châu Mỹ đã
sử dụng nghi lễ này. Đối với họ đây là một
buổi lễ đầy
ý nghĩa. Ngày nay
nghi thức này trở nên
phổ biến trong những nhóm người không phải là người da đỏ. Những người này
nhận ra nghi thức tẩy tịnh có lợi cho
sức khỏe cũng như
tâm linh của họ.
Nguyên tác: “Precious Human Birth”
by Lama Gursam
http://www.lamagursam.org/precious_human_birth.html
Xin đọc thêm:
-
Một Đời người
Quý báu http://thuvienhoasen.org/tuyentapxuan-86.htm
- Đừng Bỏ phí Cơ hội
Thực hành Pháp http://thuvienhoasen.org/dungbophicohoithuchanhphap.htm
Bản dịch Việt ngữ của
Thanh Liên