Từ cành mai trên đỉnh Thiên Sơn đến cành mai cuộc đời

07/02/20211:00 SA(Xem: 4501)
Từ cành mai trên đỉnh Thiên Sơn đến cành mai cuộc đời

blank
TỪ CÀNH MAI TRÊN ĐỈNH THIÊN SƠN
ĐẾN CÀNH MAI CUỘC ĐỜI

Thích Thanh Tâm

 

thien son tuyet lien
Hoa sen trắng mọc trên núi tuyết Thiên Sơn Tân Cương Trung Hoa

Mùa xuân là mùa hoa mai nở. Hoa mai trên Thiên sơn thích nghi với khí hậu lạnh quanh năm, đến tháng 3, tháng 4 Dương lịch vẫn còn mãn khai. Trong tư duy lãng mạn đậm màu sắc phương đông, tác giả Kim Dung đã để cho nhân vật của mình bẻ một cành mai trên đỉnh Thiên sơn làm vũ khí chống lại song đao, song kiếm.

Thiên sơn là tên một rặng núi hiểm trở thuộc khu vực ngoại Tân Cương, phía Tây – Tây Bắc Trung Hoa, là biên giới thiên nhiên giữa Trung Hoa và Kirghizitan. Nhà văn Kim Dung đã để cho chàng thiếu niên Trương Vô Kỵ mới 15 tuổi vượt qua khoảng 18.000 dặm lên tới đỉnh Côn Lôn trong rặng Thiên sơn, giúp Bất Hối tìm người cha Dương Tiêu. Cơ duyên đã đưa đẩy cậu bé gầy gò Vô Kỵ bò lọt qua một hang đá nhỏ, tìm ra một thung lũng đẹp, học được thần công trong Cửu Dương chân kinh.

Cơ duyên đã khiến cậu ở đó năm năm làm bạn với cỏ cây, với khỉ vượn, rồi lên tới Quang Minh đỉnh, nơi đặt tổng đàn của Bái Hỏa giáo Trung Hoa, học được thần công Càn khôn đại na di. Lại cũng chính cơ duyên đã đưa Trương Vô Kỵ - bấy giờ đã là chàng trai 20 tuổi - phải đối đầu với sáu đại môn phái Trung Hoa khi họ cùng nhau lên đỉnh Quang minh để tiêu diệt Minh giáo. Kinh qua những đoạn đời đau khổ, chàng thanh niên 20 đó đả đủ chín chắn để biết tự dặn mình không được giết người, không được gây thù oán nhưng phải bảo vệ được những tinh hoa của Bái Hỏa giáo, bởi họ là những người yêu nước, kháng Nguyên.

Vợ chồng Hà Thái xung – Ban Thục Nhàn của phái Côn Lôn sử Chính Lưỡng Nghi kiếm pháp. Hai trưởng lão của phái Hoa sơn sử Phản Lưỡng Nghi đao pháp. Chính và phản là hai mặt đối lập triệt để nhưng khi đã hợp bích thì oai lực vô song, bởi nguyên tắc Âm – Dương tương điều, thủy hỏa tương chế. Vô Kỵ biết rằng mình không đơn giản chỉ đấu với chính -phản lưỡng nghi mà đang đấu với mọt triết lý thức chứng của Đông phương.

Chàng đã nhớ lại những lời đã học trong Cửu Dương chân kinh: “Gío thổi qua mỏm núi mặc cho nó ngang tàng, ánh trăng vẫn chiếu trên sông lớn” và “Quý hồ ta vẫn giữ được một hơi chân khí sung mãn”. Đó chính là nguyên lý “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư duy Đông phương. Chàng cũng nhận ra rằng chính - phản Lưỡng nghi thể hiện được là do gốc ở bộ pháp. Bước chân của bốn đại cao thủ sẽ đi từ Qui muội qua Vô vọng, Vô vọng qua Đồng nhân, Đồng nhân qua Đại hữu...Chàng khéo léo sử sựng phương pháp bốn lạng chống ngàn cân, lấy cái nhẹ nhàng bay bướm để hóa giải cái cường mạnh, lấy chậm để chế nhanh, lấy cái vụng để chế cái tinh xảo, lấy chiêu thức của người đẩy về phá người. Trương Vô Kỵ sử dụng một cành mai tươi đẹp dịu dàng bay nhảy trong rừng đao - kiếm. Ấy thế mà cành mai không rụng lấy một bông!  

Trong văn chươngtriết học Trung Hoa, mai được nâng lên bạn hữu của con người, đứng đầu mai – lan – cúc – trúc. Đây là cái đẹp tháng cái thô bạo cái nhân tính tiềm ẩn trong cành mai chiến thắng cái tàn bạo tiềm ẩn trong đao - kiếm; cái hồn hậu của tự nhiên chiến thắng cái tâm cơ của con người.

Để rồi hôm nay, ngồi bên chén trà, từ cành mai làm vũ khí ấy, ngẫm nghĩ về ẩn dụ một đóa mai mà tôi gọi là cành mai cuộc đời. “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, ngoài sân đêm trước một đóa mai.” Sự hiện hữu đột biến phản diện của một đóa mai đã đánh lay tâm thức con người một cách bất ngờ, tạo ra một mối nghi tình cho hành giả, mà thiền sư Mãn Giác đã trao cho những người đi sau, nhân lúc cáo bệnh thị chúng của ngài.

Và Ngài đã trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục" của các loài hữu tình nói riêng, và vạn vật vô tình nói chung. Chúng luôn luôn tồn tạibiến dịch trong từng sát na một, chúng luôn tùy thuộc vào các duyên đủ để hiện khởi, và biến khác đi nhờ lý vô thường tác động để hình thành luật tắc "vô thường tức thị thường."

Ở đây, chúng ta đang sống với cảm giác cảm tính chứ không phải trí giác của trực giác lý tính, do đó mỗi người có mỗi cái nhìn lệ thuộc vào cảm tính tình cảm thiên kiến của mỗi cá nhân. Vì vậy mọi cái nhìn đều lệ thuộc vào chủ quan tính, để nói lên cái ngã tính của mình thể hiện.

Hãy dừng lại mọi cảm xúc để hớp một ngụm trà, ngẫm nghĩ kiếp người giữa không gian xuân này. Một cành mai đang khoe sắc, đùa cợt gió xuân.!

Trung ẩn sơn, Thiệu Long tự, 2021

 





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
31/12/2016(Xem: 10016)
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :