Đức Phật hay Đạo Phật tự ngàn xưa không những giới thiệu cho chúng ta có nhận thức được về sự KHỔ và con đường tu tập để đưa đến chấm dứt mọi sự khổ đau ngay trong hiện tại, mà còn giúp cho chúng ta có một tầm nhìn trong sáng để trang bị hoàn thiện về đạo lý “Nhân bản” của con người trên mọi sinh lộ của cuộc đời.
Tuy nhiên, Đạo Phật khi du nhập vào bất cứ một quốc độ nào, trước tiên là phương phápchuyển hóa để thực hiệntinh thần hội nhập , lưu xuất trong cộng đồng, lại cần phải tùy vào nền văn hóagiáo dục, những phong tục tập quán truyền thống đã được truyền tụng, tôn trọng, ca ngợi sẵn có của quốc độ ấy. Thế nhưng, cho dù có sự khác biệt thế nào đi nữa, thì lời dạy của Đức Phật cũng đã được khẳng định về mặt đạo lý, hay luân lý của con người từ muôn thuở xa xưa cho đến ngàn thuở xa sau, như :
“Tâm Hiếu là tâm Phật’ Hạnh Hiếu là hạnh Phật”
Tâm và Hạnh là hai nhân tố song hành bất tuyệt, biểu thị một giá trịtồn tạibất biến trong mọi hình thứcđạo lý của con người. Chúng ta thấy, sự minh chứng đạo lý nơi bản xứ trong truyện thơ dân gian “Quan Âm Diệu Thiện” và đã được dân chúng Việt Nam biết đến nhiều, như ;
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
Qua lăng kính đạo đức của người Việt Nam, đã có từ những thời đại ngàn xưa, sự chắt lọc ý thứctruyền thừa không ngừng trong cộng đồngxã hội, đã tạo nên những đường nét thẫm mỹ bằng những ý niệm hành động giáo dụctrong sánglành mạnh, được thấm nhuần vào trong mọi tầng lớp sinh hoạt đậm chất liệu đạo đứccon người, và vẫn luôn được thắp sáng, hiện hóa trong sự tươi mát, không những tự ngàn xưa, mà còn cho cả đến ngàn sau.
Do đó, để xây dựng cho bản thân một nhân cách đích thực, thì tinh chất của nhân cách ấy chính là lòng “Nhân”, những nỗi trắc ẩntrong đời sống được nói đến và được hành động một cách đúng đắn. Nhưng “Hiếu” lại chính là cội gốc của Nhân, là nền tảng đạo đức muôn đời trong trời đất.
Theo quan điểm của Nho Giáo, thì Hiếu là gốc của Đức, là nguồn của Giáo, bước đầu của đạo Hiếu là phải giữ mình, vì thân thể tóc da của ta là từ nơi cha mẹ, nên không dám làm tổn thương, là nết đầu của Hiếu. Lập thân đem lại lợi mình, có danh phận ở đời, làm rạng rỡ cho cha mẹ, dòng họ, là nết cuối của Hiếu “Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, Hiếu chi thủy dã. Lập thânhành đạo, dương danh ư hậu thế, dĩ hiển phụ mẫu, Hiếu chi chung dã” (Hiếu Kinh).
Thế nhưng, nếu đức tính Hiếu hay Nhân không được nuôi dưỡng để được lớn mạnh trong mỗi lúc, thì mọi hình thức trong cuộc sống sẽ bị biến dạng, và sẽ làm nguy hại cho xã hộicon người, nhất là ngay trong thời đại của chúng ta. Điều ấy, Đức Phật đã nói lên ngay từ buổi ban đầu, điều mà có năng lực ươm mầm cho đức Nhân và Hiếu, như :
“ Nầy Mahanama, dựa trênthiện nam tử có lòng Tin, các người trong gia đình được lớn lên về 5 phương diện; 1./ Lớn lên về lòng Tin, 2./ Lớn lên về Giới, 3./ Lớn lên về học hỏi ( các Thiện pháp), 4./ Lớn lên về Bố Thí, 5./ Lớn lên về Trí Tuệ. Dựa trênthiện nam tử có lòng Tin…, các người trong gia đình được lớn lên vì 5 sự lớn lên nầy”
(Kinh Tăng Chi, II).
Như vậy, qua 5 sự nuôi dưỡng ấy để được lớn lên, lớn mạnh, không phải chỉ để trong gia đình, mà là luôn thuận theo dòng chảy của thời gian, dẫu có bao biến động làm dấy cồn lên nhịp sống.v.v.. Thì sự trải nghiệm qua bao dãi dầu, mỗi chặng đường đời. Khi ấy, con người vẫn tiếp nhận, tiêu hóa và tồn tại một giá trị bất tuyệt không thể thiếu được đó là Hiếu, nếu thiếu, thì không thể tròn nghĩa phẩm chất con người. Bởi vì, trong mỗi đời người ít nhiều đều có sự nếm trải, tiếp nhận hay từ chối.
Những tiếp nhận nào mà trong đó có sự xúc cảm từ địa vị, lợi lạc từ tài sản, những lạc thú từ những tiểu tiết thường tình… thì sớm chiều rồi cũng sẽ tàn phai vô vị, lãng quên theo dòng biến động thay đổi bất tận của thời gian, nó sẽ trở thành những hoài niệmvô vọng mà thôi. Nhưng, đạo lý “Hiếu” luôn được thắp sáng, rực sáng tận sâu thẳm tâm hồn của con người, luôn soi rọi trên mọi nẻo đời và vô cùng theo với thời gian, thành một sức sống tươi mát thánh thiện. Sự sống ấy, luôn nói lên cách hành xử căn bản từ tinh chất “Nhân Bản”, đó là việc biết ơn và đền ơn.
Nói đến việc biết ơn và đền ơn, trước hết, với thái độ của người con và nhất là đối với người đệ tử Phật, không gì khác hơn là thực hiệntỏ bày một niềm Hiếu Tâm, Hiếu Hạnh và Hiếu Kính, Hiếu Đạo đối với Tổ thầy, ông bà cha mẹ khi còn sanh tiền, khi chúng ta còn có cơ hội chỉ đến với chúng tamột lầntrong đời, như lời dạy của Đức Phật đã cảnh báo, đánh thức trong lòng cho mỗi người con, đó là vận maytối thượng đến với con cái:
“ Phụng dưỡng cha và mẹ Là vận may tối thượng” (Kinh Tiểu Bộ I)
Cái vận may ấy, chúng ta có thể đánh mất bất cứ lúc nào trong cuộc đờivô thường và ngắn ngủi nầy. Chính vì lẽ đó, Đức Phật đã nhấn mạnh vào trọng điểm nhằm nhắc nhớ đến những người con phải thấy và biết về hai cái ơn sâu nặng ấy.
Với đạo lýNho giáo, Đức Khổng Tử cũng đã khuyên nhắc chúng ta: “Cư tắc trí kỳ Kính, Dưỡng tắc trí kỳ Lạc, Bệnh tắc trí kỳ ưu, Tang tắc trí kỳ Ai, Tế tắc trí kỳ Nghiêm” (Ở thì phải hết lòngcung kính, Phụng dưỡng thì phải vui vẻ, đau yếu thì phải biết lo toan, qua đời thì phải thương tiếc, cúng tế thì phải biết trang nghiêm.). Qua những điều ấy, cũng đã thể hiện tương quan đến sự sống và sự chết qua cái đẹp suối nguồn của đạo lýcon người từ muôn thuở.
Chúng ta cùng nghe lại, cùng suy nghiệm những lời quí giá bao đời của cha ông chúng ta trong kho tàng cadao dân ca Việt Nam, như:
“Ru hời, ru hỡi, ru hơi Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông Núi cao, biển rộng mênh mông Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi”. (Ca dao)
Con người khi sanh ra và lớn lên trong đời, luôn có sự đan xen nhiều mối quan hệ chuyền níu trong xã hội, thế nhưng trong đó, mối quan hệ gần gũi thiêng liêngmật thiết nhất, đó là cha và mẹ, ân nghĩa sâu nặng nhất cũng bắt đầu từ cha và mẹ. Và cũng chính nhờ vào mối quan hệ thiêng liêng đó, nên có sự nuôi dưỡng mầm yêu thương từ những bậc cha mẹ, cũng như những nhà lảnh đạo về mặt đạo đức, văn hóagiáo dục một cách tích cựctrong sáng đúng nghĩa, thì đây là một cơ may đem lại cho đời sốngtừ gia đình đến ngoài xã hội trong một đất nước hằng có được một nếp nghĩ, sinh hoạtlành mạnh, nhiều sự bình yên. trải qua nhiều đời, nhiều thế kỷ của dân tộc. Nếu trái lại, thì sẽ phát sinh những bất an, đồng thời làm mất đi một trật tự đáng tiếc của cha ông ngàn thuở.
Qua một cái nhìn khác về đạo lý của “Hiếu”, Đức Phật đã giúp cho chúng ta phân định được giữa cái “Thiện và Ác” như sau :
“Nầy các tỳ kheo, đối với những người độc ác, đây là những đặc tánh của họ được biết đến, tức là không biết ơn và không đền ơn. Còn bậc chân nhân, nầy các tỳ kheo, là biết ơn, là đền ơn. Đối với những thiện nhân, đây là những đặc tánh của họ được biết đến, tức là biết ơn và đền ơn…” (Kinh Tăng Chi I, 118).
Chúng ta thấy, Đức Phậtnhấn mạnh ở chổ “… Đây là những đặc tánh của họ được biết đến…”. Thế nên, sự sai khác chênh lệch nhau đã được bắt đầu từ một phát xuất do ý niệm đưa đến hành động, Và cũng từ hành động đã biểu thị cho thế giới tâm tư của vị ấy có cao thượng hay thấp kém. Đến đây, chúng ta lại nghe thêm lời dạy khác của Đức Phật giữa cái ác và cái thiện như thế nào !
“Điều thiện tối cao Không gì hơn bằng Hiếu Điều ác cực ác Không gì hơn bất hiếu” (Kinh Nhẫn Nhục).
Nếu như theo đà xu hướng và phát triển của xã hội ngày hôm nay, thì cái ác (bất hiếu), nói một cách khác là không biết ơn và không đền ơn cũng đã được báo động một cách đáng lo ngại về mặt đạo đứcgiáo dục, trong khi mức sống không phải dễ dàng đem lại ổn định phần đông cho số người trong cộng đồng. Mặc dù trên hình thức nào đó, chúng ta thấy những phương tiệnphục vụ ngày càng nâng cao theo mỗi lúc. Đồng thời, tạo thêm nhiều nhu cầu bám víu, kích thích từ những cảm thọlạc thúthấp kém, hay bởi lắm bề bộn để được sinh tồn trong cuộc sống mà lãng quên hay bỏ qua đi .v.v…
Điều nầy, đối với những nhà lảnh đạo tinh thần thuộc lảnh vực tôn giáo, cũng như các vị có chức năng trong giới đào tạo và giáo dục của một tổ chức quốc gia, tưởng cũng cần phảitheo dõi, quan tâm đến sâu sắc và có một định hướng hợp lý. Tất nhiên, cũng không thể không nói đến trách nhiệm trong việc chăm sóc, quản lý từ phía cha mẹ. mà trước đây trong kho tàng tục ngữ đã nói đến :
“ Cha mẹ ngoảnh đi, thì con dại Cha mẹ ngoảnh lại, thì con khôn” (tục ngữ VN).
Mặc khác, để nâng lên tính cáchtuyệt vời của Đức Nhân, Đức Hiếu qua giáo lý của Phật, lời dạy đã vượt ra ngoài phạm trùước định giữa cha mẹ và con cái, giữa bản thân và quyến thuộc, nhằm mở rộng sự toàn mãn chân thiện của một tâm hồn, đó là :
“Giới danh vi Hiếu” (Giới là Hiếu). (Giới Kinh)
Như vậy, Hiếu là cội nguồn của Giới, nếu người không hiếu thảo, thì người ấy không thể giữ giớitrọn vẹn và do vậy, không thể tạo tác được các pháp lành (thiện pháp). Sự thâm thúy sâu kín trên đã minh họa cho một hiện trạngxã hội hưng thịnh một nếp sốnglành mạnh (Chân-Thiện-Mỹ) hay một hình ảnhsuy yếu, nguy hại từ sự lo âu, sợ hải của hổn loạn.
Bởi vì, Hiếu mà ta thấy được là do “Hạnh” mà ra, còn Hiếu mà ta không thể thấy được bằng mắt, đó là “Lý của Hiếu”. Vì rằng; nhờ “Lý” (ý thức chơn chánh) mà “Giới” phát sinh, nhờ “Hạnh” (hành động đúng pháp) nên “Giới” mới hiển lộ. Nếu như người chỉ có “Hạnh” mà không nương theo “Lý” thì chỉ biết hiếu thảo với cha mẹ mà không có mở rộngtình thương yêu với mọi người, khi ấy chúng ta có thể sanh tâm bất thiện…
Do đó, ngoài tinh thầnbáo đápân nghĩasinh thành của con cái, đã được nhắc nhớ qua lời ca dao, như:
“Nghĩa cha sanh cùng công mẹ dưỡng Thì ngày đêm tư tưởng chớ khuây Hai công đức ấy nặng thay Xem bằng bể rộng, xem bằng trời cao” (Ca dao.)
Chúng ta còn phải hiểu thêm về lời dạy của Đức Phật, không phải chỉ biết ơn và đền ơn phụng dưỡng thôi là đủ, mà tự thân có thực hiệntu tập những giới pháp của bậc Thánh để được thuần tịnh tâm tư, còn giúp cho cha mẹ biết hướng tâm về Tam Bảo, các thiện pháp, biết bố thí, có chánh kiến... để trở thành bậc thiện trí trong giáo pháp của bậc Thánh và trong đời sống hiện tại.
Giá trị đích thực của Hiếu không phải qua sự lập đi lập lại một định nghĩa nào đó, mà là ngay trong mỗi hành động ứng xử hằng ngày luôn phát tiết một cử chỉchân thật và tôn kính, trân trọng, không dấu lại bên trong những điều bất mãn, nhọc nhằn hay một ý niệmcố gắng nào đó, nghĩa siêu vượt về Hiếu, nó không phải là một qui định, một nghĩa vụ, một bổn phận bắt buộc, mà là phải từ nguồn mạch yêu thươngchân thật từ tinh chấtđạo đứcgiáo dục mà các bậc Thánh đã thực hiện và đề ra.
Tóm lại, Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã là một gương sáng của đức Hiếu Hạnh, đã thể hiện qua nhiều đời kiếp, và cho đếnđời sốngcuối cùng nơi cõi đời hiện tại, khi chấm dứtcon đườngsinh tử, công hạnhthiêng liêng đối với cha mẹ từ muôn đời nay đã viên mãn.
Đồng thời, từ khi Đạo Phật có mặt trong đời và theo suốt dòng thời gian trên 25 thế kỷ đi qua, là một nhân chứng của đạo lýtình thương, biết ơn,nhớ ơn và đền ơn. Và cũng kể từ khi giáo lý bậc giác ngộ hội nhập cùng với đạo lý dân tộc Việt Nam tự ngàn xưa cho đến nay, và cho đếnmãi mãi ngàn sau, đã trở thành một nếp sống mang tính đặc thù và hòa nhập theo suốt chiều dài lịch sử của quê hương Việt, và cùng với kho tàng ca dao, dân ca dân gian thấm đậm những sắc màu tươi mát, bình anmầu nhiệm từ bao thế kỷ xa xôi, hiện tại và cho đếnvô tậnmai sau.
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới.
Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát
Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN
Một đồng.. giữa lúc nguy nan
Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình..
Bão giông tan tác quê mình..
Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia....
Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.