Thư Viện Hoa Sen

Eastern Stories And Legends - Phóng Tác Truyện Bản Sanh - Phần 2 (Song ngữ Vietnamese-English)

18/02/20253:59 SA(Xem: 240)
Eastern Stories And Legends - Phóng Tác Truyện Bản Sanh - Phần 2 (Song ngữ Vietnamese-English)
EASTERN STORIES AND LEGENDS 
PHÓNG TÁC TRUYỆN BẢN SANH - PHẦN 2
Tác giả: Marie L. Shedlock
Dịch giả: Nguyên Giác

Eastern Stories and Legends by Shedlock2,

6. THE MAN WHO WORKED TO GIVE ALMS / NGƯỜI LÀM VIỆC ĐỂ BỐ THÍ, CÚNG DƯỜNG
7. THE KING WHO SAW THE TRUTH / VUA ĐÃ THẤY SỰ THẬT
8. THE BULL THAT DEMANDED FAIR TREATMENT / CON BÒ MUỐN ĐỐI XỬ TỬ TẾ
9. THE BULL THAT PROVED HIS GRATITUDE / CON BÒ BÀY TỎ LÒNG BIẾT ƠN
10. THE HORSE THAT HELD OUT TO THE END / CON NGỰA CHỊU ĐỰNG ĐẾN CÙNG
 
.... o ....
 
Truyện 6:
NGƯỜI LÀM VIỆC ĐỂ BỐ THÍ, CÚNG DƯỜNG

Vào một thời rất xưa, một tiền thân của Đức Phật là một thương gia tên là Vissaya (và được ban tặng danh hiệu Năm Đức Hạnh), ngài rất rộng rãi và thích bố thí. Ngài cho xây các hội trường bố thí tại bốn cổng thành, ngay trung tâm thành phố và ngay trước cửa nhà mình. Tại những nơi này, ngài bắt đầu bố thí và mỗi ngày có 600.000 người tới xin. Thức ăn ngài tặng cho những người ăn xin cũng y hệt như thức ăn của ngài thọ dụng.
 
Và khi ngài khuấy động người dân Ấn Độ bằng những món quà của mình, Sakka, Vua của các vị cõi trời, trở nên nghi ngờ và nghĩ rằng, "Vissaya này bố thí và bằng cách rải quà khắp nơi, ngài đang khuấy động cả Ấn Độ. Bằng cách bố thí như thế,  ta nghĩ rằng vị đó sẽ truất ngôi ta và sẽ trở thành Sakka. Ta sẽ phá hủy của cải của vị này, biến sẽ vị này thành một người nghèo khổ, và như vậy vị này sẽ không còn bố thí nữa."
 
Vậy là Sakka làm cho dầu, mật ong, mật mía và những thứ tương tự, cùng toàn bộ kho tàng ngũ cốc của vị thương giah biến mất, cũng như các nô lệ và người làm công của vị thương gia. Những người không còn gì hết tới nói, "Thưa ngài, hội trường bố thí đã biến mất. Chúng tôi không tìm thấy bất cứ thứ gì ở các nơi bố thí do ngài dựng lên."

"Hãy nhận tiền vậy," vị thương gia nói. "Việc bố thí sẽ không ngưng." Và gọi vợ mình đến, ngài bảo bà tiếp tục bố thí. Bà lục khắp nhà, và không tìm thấy một đồng tiền nào, bà nói, "Thưa ngài, ngoại trừ quần áo chúng ta đang mặc, em không thấy gì cả. Cả nhà trống rỗng." Mở cả bảy kho báu, họ cũng không tìm thấy gì cả, và ngoại trừ người lái buôn và vợ ông, không thấy ai khác, không còn cả nô lệ hay người làm thuê.
 
Người lái buôn, một lần nữa nói với vợ mình, "Em yêu, chúng ta không thể cắt đứt việc bố thí của mình. Hãy lục khắp nhà cho đến khi em tìm thấy thứ gì đó."
 
Vào lúc đó, một người cắt cỏ ném liềm, sào và dây thừng buộc cỏ xuống ngưỡng cửa rồi chạy mất. Vợ của người thương gian thấy chúng và nói: "Thưa ngài, đây là tất cả những gì em thấy", rồi mang đến và trao cho chồng. Vị này nói: "Suốt những năm qua, tôi chưa bao giờ cắt cỏ trước đây, nhưng hôm nay tôi sẽ cắt cỏ, lấy và bán, và bằng cách này, tôi sẽ bố thí xứng đáng".
 
Vì vậy, vì sợ phải ngưng bỏ các hoạt động từ thiện của mình, vị này đã cầm liềm, sào và dây thừng, và đi ra khỏi thành phố đến một nơi có nhiều cỏ, cắt cỏ xong, bó chúng lại thành hai bó, nói rằng: "Một bó sẽ thuộc về chúng ta, và bó còn lại tôi sẽ bố thí".
 
Vị này đã làm như vậy trong sáu ngày, và vì không đủ để nuôi tất cả những người đến xin bố thí, nên vào ngày thứ bảy, vị này và vợ đã nhịn ăn. Sau đó, sức lực của vị nàyg đã cạn kiệt. Ngay khi sức nóng của mặt trời chiếu vào đầu ông, mắt ông bắt đầu quay cuồng trong đầu, và vị này bất tỉnh, ngã xuống, cỏ rải tung tóe ra. Sakka đang di chuyển xung quanh, quan sát những gì người thương gia làm. Và vị vua cõi trời đó, đứng giữa không trung, kêu lên: "Hãy ngừng bố thí đi, và ngươi sẽ có niềm vui mãi mãi."
 
“Ngươi là ai?” Người thương gia kêu lên.
“Ta là Sakka.”
Và người thương gia nói: “Thiên đế Sakka đã đạt được ngôi cao cõi trời bằng cách tự mình gánh vác các bổn phận đạo đứcbố thí.”
 
“Tại sao ngươi bố thí?” Sakka hỏi, vẫn muốn thử thách vị thương gia.
“Không phải vì ta mong muốn làm Thiên đế cõi trời Sakka hay vua cõi Phạm thiên Brahma, mà thông qua việc bố thí, ta sẽ có được trí tuệ viên mãn về mọi thứ.”

“Hỡi người thương gia vĩ đại,” Sakka kêu lên, “từ nay trở đi, ngươi hãy bố thí mỗi ngày.”
Và tất cả tài sản của vị thương gia đã được trả lại cho vị thương gia.

.. .. ..

Story 6:
THE MAN WHO WORKED TO GIVE ALMS

Once upon a time the Buddha was born as a merchant named Vissaya (and being endowed with the Five Virtues) he was liberal and fond of alms-giving. He had alms halls built at the four city gates, in the heart of the city, and at the door of his own house. At these points he set on foot alms-giving and every day 600,000 men went forth to beg and the food of the beggar and the merchant was exactly the same.
 
And as he thus stirred up the people of India by his gifts, Sakka, the King of the gods, grew suspicious and thought, “This Vissaya gives alms and by scattering his gifts everywhere is stirring up all India. By means of his alms-giving, methinks he will dethrone me and himself become Sakka. I will destroy his wealth, and make him a poor man, and so bring it about that he shall no longer give alms.”
 
So Sakka caused his oil, honey, molasses and the like, and all his treasure of grain to disappear, as well as his slaves and work people. Those who were deprived of his gifts came and said, “My Lord, the alms hall has disappeared. We do not find anything in the various places set up by you.” “Take money hence,” he said. “Do not cut off the giving of alms.”
 
And calling his wife, he bade her keep up her charity. She searched the whole house, and not finding a single bit of money, she said, “My Lord, except the clothes we wear, I see nothing. The whole house is empty.” Opening the seven jewel treasuries they found nothing, and save the merchant and his wife no one else was seen, neither slaves nor hirelings. The merchant, again addressing his wife, said, “My dear, we cannot possibly cut off our charities. Search the whole house till you find something.”

At that moment a certain grass-mower threw down his sickle and pole and the rope for binding the grass in the doorway, and ran away. The merchant’s wife found them and said: “My Lord, this is all I see,” and brought and gave them to him. Said he: “All these years I have never mown grass before, but to-day I will mow grass, and take and sell it, and by this means dispense the fitting alms.”

So, through fear of having to cut off his charities, he took the sickle, and the pole and the rope, and going forth from the city came to a place of much grass, and mowing it, tied it up in two bundles, saying, “One shall belong to us, and with the other I will give alms.”

This he did for six days, and because there was not enough to feed all who came for alms, on the seventh day, he and his wife went fasting. Then his strength gave out. No sooner did the heat of the sun strike upon his head than his eyes began to swim in his head, and he became unconscious, and falling down he scattered the grass. Sakka was moving about, observing what the merchant did. And that god, standing in mid-air, cried: “Refrain from giving, and thou shalt have joy for ever.”

“Who art thou?” cried the merchant.

“I am Sakka.”

And the merchant said:

“Sakka reached his high office by taking upon himself moral duties, and giving alms.”

“Why dost thou give alms?” asked Sakka, still wishing to test him.

“It is not because I desire Sakkahood nor Brahmaship, but through giving there cometh knowledge of all things.”

“Great merchant,” cried Sakka, “henceforth do thou every day give alms.” And all his wealth was restored to him.

.... o ....

Truyện 7:
VUA ĐÃ THẤY SỰ THẬT
 
Vào một thời rất xưa, một tiền thân của Đức Phật đã sinh ra làm vua. Ngài tử tế và độ lượng, phân phát đủ thứ bố thí cho người nghèo; ngài cũng không hoàn toàn để lại công việc trao tặng bố thí cho những người dưới quyền: ngài đích thân trao tặng quà bố thí. Và hầu như ngày nào, ngài cũng đích thân đến Hội trường bố thí để đảm bảo không ai ra về tay không.
 
Nhưng một buổi sáng, khi vua nằm suy ngẫm về những gì ông vẫn có thể làm cho dân tộc mình, ngài bắt đầu cảm thấy rằng, xét cho cùng, ngài đã không làm được điều gì to tát, và ngài nói: “Tôi chỉ cho dân tộc mình những thứ bên ngoài—vàng bạc, quần áo và thức ăn mà tôi có thể dành dụm được, và kìa! Sự cho đi này không mang lại cho tôi niềm vui. Giá như tôi có thể cho dân tộc mình một phần của chính mình—một thứ quý giá nào đó thể hiện tình yêu của tôi dành cho họ—bất kể phải trả giá thế nào! Và nếu hôm nay, khi tôi xuống Hội trường bố thí, nếu có người nói, 'Hãy cho tôi trái tim của ,' thì, thực ra, tôi sẽ rạch ngực mình bằng một ngọn giáo, và, như thể tôi đang kéo một bông súng từ một hồ nước tĩnh lặng, tôi sẽ kéo trái tim mình ra. Nếu anh ta xin thịt và máu của tôi, thì tôi cũng sẽ cho anh ta. Nếu anh ta phàn nàn rằng không có ai khác làm công việc của  ta, thì tôi sẽ từ bỏ ngai vàng của mình, và tự xưng là một nô lệ, tôi sẽ làm công việc của một nô lệ. à thực sự, nếu có ai đó xin đôi mắt của tôi, món quà quý giá nhất của các vị cõi trời, thì tôi sẽ móc chúng ra như người ta móc lõi cây cọ vậy.”
 
Sau đó, ngài tắm rửa, cưỡi trên một con voi được trang bị đầy đủ, ngài cưỡi xuống Hội trường bố thí, trong lòng tràn đầy tình yêu thương dành cho dân chúng.

Bấy giờ Sakka, Vua của các vị cõi trời, nghe thấy quyết tâm của nhà vua, và nghĩ đến việc thử thách ngài, xem lời nói của  có vô ích không; liệu đó có phải là tâm trạng khoảnh khắc thoáng qua, hay là suy nghĩ nghiêm túc của vua không.

Vì vậy, khi nhà vua xuống Nhà bố thí, Sakka đứng trước mặt ngài, trong hình dạng của một cụ già Bà la môn mù, người giơ tay ra và kêu lên: "Vạn tuế nhà vua!"

Và nhà vua ra hiệu cho cụ già nói ra những gì trong lòng mình.
 
“Hỡi Đức Vua vĩ đại,” người Bà La Môn mù nói—“trên khắp thế gian này không có nơi nào mà danh tiếng của trái tim vĩ đại của ngài chưa lan truyền. Tôi mù, nhưng ngài, hỡi Đức Vua, có hai mắt—do đó tôi cầu xin ngài, hãy cho tôi một mắt, để tôi cũng có thể chiêm ngưỡng vinh quang của Trái đất!”

Sau đó, Đức Vua vô cùng vui mừng vì cơ hội này đã đến với ngài nhanh như vậy, nhưng không muốn thể hiện ngay niềm vui mà vua cảm thấy trong lòng, vua nói: “Hỡi Bà La Môn, tôi cầu xin ngài hãy cho tôi biết, ai đã bảo ngài đi đến Hội trường bố thí này? Ngài xin tôi thứ quý giá nhất mà một người đàn ông sở hữu, và thật khó để cho đi!”
 
Và người Bà La Môn trả lời: “Này, một vị cõi trời đã gửi tôi đến đây và bảo tôi cầu xin ân huệ này.”
 
Và nhà vua nói: "Lời cầu nguyện của ngươi đã được chấp thuận: ngươi đã cầu xin một mắt, này ta sẽ cho ngươi cả hai mắt."
 
Và rồi tin tức lan truyền nhanh chóng khắp thị trấn rằng nhà vua sắp trao đôi mắt của mình cho một người Bà la môn mù, và Tổng tư lệnh cùng tất cả các quan chức đã tụ họp lại để họ có thể thuyết phục nhà vua từ bỏ mục đích của mình.
 
Và họ nói: "Hỡi nhà vua vĩ đại, chẳng lẽ ngài không thể ban tặng những món quà khác cho người Bà la môn mù lòa này sao—tiền bạc, đồ trang sức, voi và vải bằng vàng? Tại sao ngài lại trao cho người này món quà quý giá nhất, đôi mắt hoàng gia của ngài?"
 
Và nhà vua nói: "Này, ta đã phát nguyện này, và ta sẽ có tội nếu ta phá vỡ nó."

Và các cận thần nói: "Hỡi nhà vua, tại sao ngài lại làm điều này? Là vì Sự sống, hay Sắc đẹp hay Sức mạnh?"

Nhà vua trả lời: "Không phải vì bất kỳ điều nào trong số những điều này: mà là vì niềm vui của việc bố thí, cho đi."
 
Sau đó, nhà vua ra lệnh cho Bác sĩ phẫu thuật làm việc của mình. Và khi một trong hai mắt của vua được lấy ra, vua đã trao nó cho Bà la môn, và mắt này nằm vừa vặn trong hốc mắt của cụ già Bà la  như một bông hoa sen xanh đang nở.
 
Và nhà vua nói: "Con mắt nhìn thấy mọi thứ còn vĩ đại hơn con mắt này", và tràn ngập niềm vui sướng, vua đã trao tặng con mắt thứ hai.
 
Và sau nhiều ngày và qua nhiều đau đớn, thị lực của nhà vua đã được phục hồi - không phải đôi mắt tự nhiên nhìn thấy mọi thứ xung quanh - mà là đôi mắt nhìn thấy Chân lý hoàn hảotuyệt đối. Và nhà vua trị vì trong sự công chínhcông lý, và mọi người học được từ vua Trí tuệ thuần khiết.
 
.. .. ..

Story 7:
THE KING WHO SAW THE TRUTH

Long, long ago the Wisdom Child that should in time become the Buddha was born a King. He was kind and generous, distributing all sorts of alms to the poor; nor did he leave the work to those under him: he took a personal part in the giving of the gifts—and nearly every day came himself to the Alms Hall to see that none went away empty-handed.

But one morning, as he lay meditating on what he still might do for his people, he began to feel that, after all, he had done no very great thing, and he said: “I have given to my people only outside things—the mere gold and silver and raiment and food that I can well spare, and lo! this giving brings me no joy. If I could only give my people part of myself—some precious thing which would show my love for them—whatever it might cost me! And if to-day, when I go down to the Alms Hall, one should say, 'Give me thy heart,’ then, in truth, I will cut open my breast with a spear, and, as though I were drawing up a water-lily from a calm lake, I will pull forth my heart. If he asks my flesh and blood, behold I will give it to him. If he complain that there is no other to do his work, then I will leave my royal throne, and, proclaiming myself a slave, I will do the work of a slave—and, indeed, should any man ask for my eyes, the most precious gift of the gods, then will I tear them out as one might tear the pith from the palm-tree.”

Then he bathed himself, and, mounted upon a richly caparisoned elephant, he rode down to the Alms Hall, his heart filled with love for his people.

Now Sakka, the King of the Gods, heard the resolve of the King, and he thought to test him, whether his words were vain; whether it were a sudden mood which would pass away when the moment came to carry out his stern resolution.

So, when the King came down to the Alms Hall, Sakka stood before him, in the guise of an old blind Brahmin, who, stretching out his hands, cried out: “Long live the King!”

And the King made sign for him to say what was in his heart.

“O great King,” said the blind Brahmin—“in all the inhabited world there is no spot where the fame of thy great heart has not spread. I am blind, but thou, O King, hast two eyes—I therefore beseech thee, give me one, that I too may behold the glories of the Earth!”

Then did the King rejoice greatly that this opportunity should have come to him so quickly, but not wishing to show at once the joy he felt in his heart, he said: “O Brahmin, I pray thee tell me, who bade thee wend thy way to this alms-house? Thou askest of me the most precious thing that a man possesses, and lo! it is very hard to give!”

And the Brahmin made answer: “Behold, a god has sent me hither, and has told me to ask this boon.”

And the King said: “Thy prayer is granted: thou didst ask for one eye, behold I will give thee both eyes.”

And then the news spread quickly through the town that the King was about to give his eyes to a blind Brahmin, and the Commander-in-Chief and all the officials gathered together that they might turn the King from his purpose.

And they said: “O great King, are there not other gifts which thou canst bestow upon this sightless Brahmin—money, jewels, elephants with cloth of gold? Why shouldst thou give to him that most precious of gifts, thy royal eyes?”

And the King said: “Behold, I have taken this vow, and I should be sinful if I were to break it.”

And the courtiers said: “O King, why doest thou this thing? Is it for Life, or Beauty or Strength?”

The King answered: “It is for none of these things: it is for the joy of giving.”

Then the King bid the Surgeon do his work. And when one of his eyes was taken out, he gave it to the Brahmin, and it remained fixed in his socket like a blue lotus flower in bloom. And the King said: “The eye that sees all things is greater than this eye,” and, being filled with ecstasy of joy, he gave the second eye.

And after many days and much suffering, the King’s sight was restored to him—not the natural eyes which see the things around—but the eyes which see perfect and absolute Truth.

And he reigned in righteousness and justice, and the people learnt of him pure wisdom.

.... o ....
 
Truyện 8:
CON BÒ MUỐN ĐƯỢC ĐỐI XỬ TỬ TẾ
 
Vào một thơi rất xưa, Bồ Tát (một tiền thân Đức Phật) là một con bò đực. Các vị Bà-la-môn thời đó sau khi phục vụ một số nghi lễ, thường được tặng bò. Bấy giờ, khi Bồ Tát còn là một chú bê con được tặng cho một Bà-la-môn. Vị này đặt tên Bồ Tát là Nandi Visāla, và rất yêu quý bò, đối xử với bò như con trai, và cho bò ăn cháo và cơm.

Khi Bồ Tát lớn lên, ngài tự nhủ: “Người Bà-la-môn này đã nuôi dưỡng ta rất chu đáo; và không có con bò nào khác trên khắp lục địa Ấn Độ có thể kéo được sức nặng như ta. Giá như ta cho người Bà-la-môn này biết về sức mạnh của ta, và để đến lượt ta giúp nuôi ông ấy!”
 
Và một ngày nọ, Bồ Tát nói với người Bà la môn: “Bây giờ, hỡi Bà la môn, ngài hãy đến gặp một vị điền chủ giàu có về gia súc và đề nghị cược với ông ta một ngàn đô la rằng con bò của ngài có thể kéo một trăm chiếc xe ngựa chất đầy hàng.”
 
Người Bà la môn đến gặp một người nông dân giàu có và bắt đầu cuộc trò chuyện như thế này: “Ông nghĩ những con bò đực ở đây của ai là khỏe nhất?”

“Của một người đàn ông nào đó,” người nông dân nói, rồi nói thêm: “Nhưng, tất nhiên, không có con nào ở khắp vùng quê này có thể so với con bò của tôi!”
 
“Tôi có một con bò,” người Bà la môn nói, “nó giỏi, có thể kéo một trăm xe chở đủ thứ!”
“Vậy a!” người kia nói. “Trên đời này có con bò nào như thế không?”

“Ngay trong nhà tôi!” người Bà la môn nói.
“Vậy thì hãy cược đi!”
“Được thôi! Tôi cược với anh một ngàn đồng.”
 
Vậy là cuộc cá cược đã được thực hiện. Và ông ta chất đầy một trăm chiếc xe (loại xe nhỏ dành cho hai con bò đực kéo) dầy cát, sỏi và đá, xếp chúng thành một hàng, và buộc chặt chúng lại với nhau, từ thanh ngang đến trục xe.
 
Sau đó, ông ta tắm cho Nandi Visāla, đưa cho nó một đấu gạo thơm, đeo một vòng hoa quanh cổ nó, và tự mình buộc nó vào chiếc xe phía trước. Sau đó, ông ta ngồi trên cột, giơ cao cây roi và hét lớn: "Đi lên! Bò ơi! Kéo chúng đi, Đồ khốn nạn!"
 
Bồ Tát tự nhủ: “Ông ta gọi ta là đồ khốn nạn. Ta không phải đồ khốn nạn!” Và, giữ bốn chân vững như nhiều cây cột, bò đứng im phăng phắc.

Lúc đó, người kia đòi cược, và bắt vị Bà la môn đưa một ngàn đồng. Và Bà la môn, mất đi một ngàn đồng, dắt con bò của mình ra, về nhà và nằm xuống, chìm đắm trong đau buồn.

Lúc đó, Nandi Visāla, đang lang thang khắp nơi, đi đến và thấy vị Bà la môn đang đau buồn ở đó, và nói với ông: “Sao thế, Bà la môn! Ông ngủ à?”
 
“Ngủ à! Làm sao tôi có thể ngủ được sau khi mất một ngàn đồng?”
 
“Bà la môn ơi! Tôi đã sống trong nhà ông lâu như vậy, và tôi đã bao giờ làm vỡ bất kỳ chiếc bình nào, hoặc cọ vào tường chưa?”

“Không bao giờ, cưng à!”

“Vậy tại sao ngài lại gọi tôi là đồ khốn nạn? Đó là lỗi của ngài. Không phải lỗi của tôi. Hãy đi và cược với anh ta hai ngàn; và đừng bao giờ gọi tôi là đồ khốn nạn nữa—tôi, không phải là đồ khốn nạn chút nào!”
 
Khi vị Bà-la-môn nghe những lời Bồ Tát nói, liền ra đặt cược hai ngàn, buộc các chiếc xe lại với nhau như trước, trang hoàng Nandi Visāla, và buộc ông vào chiếc xe đầu tiên.
.
Ông đã làm theo cách sau: ông buộc chặt cây sào và thanh ngang lại với nhau, buộc chặt Nandi Visāla vào một bên; bên kia, ông cố định một miếng gỗ nhẵn từ đầu ách đến đầu trục, và quấn nó quanh bằng các dây buộc của thanh ngang, buộc chặt lại, để khi làm xong, ách không thể di chuyển theo hướng này và theo hướng khác, và một con bò có thể kéo chiếc xe bò đôi về phía trước.
 
Sau đó, Bà-la-môn ngồi lên cây sào, vuốt ve lưng Nandi Visāla và gọi: “Đi lên! Người đẹp của ta!! Kéo nó đi, người đẹp của ta!!”
 
Bồ Tát, với một nỗ lực phi thường, kéo về phía trước một trăm chiếc xe chất đầy hàng, và đưa chiếc xe sau cùng lên nơi chiếc xe đầu tiên đã đứng.
 
Sau đó, người chủ gia súc thừa nhận mình đã bị đánh bại, và trao cho Bà-la-môn hai nghìn đồng; những người đứng xem cũng tặng Bồ Tát một số tiền lớn, và toàn bộ trở thành tài sản của vị Bà-la-môn. Như vậy, thông qua Bồ Tát, vị Bà La Môn đã có được khối tài sản lớn.
 
.. .. ..

Story 8:
THE BULL THAT DEMANDED FAIR TREATMENT

Long ago the Bodisat came to life as a Bull.

Now, when he was yet a young calf, a certain Brahmin, after attending upon some devotees who were wont to give oxen to priests, received the bull. And he called it Nandi Visāla, and grew very fond of it, treating it like a son, and feeding it on gruel and rice.

When the Bodisat grew up, he said to himself: “This Brahmin has brought me up with great care; and there’s no other ox in all the continent of India can drag the weight I can. What if I were to let the Brahmin know about my strength, and so in my turn provide sustenance for him!”

And he said one day to the Brahmin: “Do you go now, Brahmin, to some Squire rich in cattle, and offer to bet him a thousand that your ox will move a hundred laden carts.”

The Brahmin went to a rich farmer, and started a conversation thus:

“Whose bullocks hereabout do you think the strongest?”

“Such and such a man’s,” said the farmer, and then added: “But, of course, there are none in the whole country-side to touch my own!”

“I have one ox,” said the Brahmin, “who is good to move a hundred carts, loads and all!”

“Tush!” said the Squire. “Where in the world is such an ox?”

“Just in my house!” said the Brahmin.

“Then make a bet about it!”

“All right! I bet you a thousand he can.”

So the bet was made. And he filled a hundred carts (small wagons made for two bullocks) with sand and gravel and stones, ranged them all in a row, and tied them all firmly together, cross-bar to axle-tree.

Then he bathed Nandi Visāla, gave him a measure of scented rice, hung a garland round his neck, and yoked him by himself to the front cart. Then he took his seat on the pole, raised his goad aloft, and called out: “Gee up! you brute!! Drag ’em along, you wretch!!”

The Bodisat said to himself: “He addresses me as a wretch. I am no wretch!” And, keeping his four legs as firm as so many posts, he stood perfectly still.

Then the Squire that moment claimed his bet, and made the Brahmin hand over the thousand pieces. And the Brahmin, minus his thousand, took out his ox, went home to his house, and lay down overwhelmed with grief.

Presently Nandi Visāla, who was roaming about the place, came up and saw the Brahmin grieving there, and said to him: “What, Brahmin! Are you asleep?”

“Sleep! How can I sleep after losing the thousand pieces?”

“Brahmin! I’ve lived so long in your house, and have I ever broken any pots, or rubbed up against the walls?”

“Never, my dear!”

“Then why did you call me a wretch? It’s your fault. It’s not my fault. Go now and bet him two thousand; and never call me a wretch again—I, who am no wretch at all!”

When the Brahmin heard what he said, he made the bet two thousand, tied the carts together as before, decked out Nandi Visāla, and yoked him to the foremost cart.

He managed this in the following way: he tied the pole and the cross-piece fast together, yoked Nandi Visāla on one side; on the other he fixed a smooth piece of timber from the point of the yoke to the axle-end, and wrapping it round with the fastenings of the cross-piece, tied it fast, so that when this was done the yoke could not move this way and that way, and it was possible for one ox to drag forwards the double bullock-cart.

Then the Brahmin seated himself on the pole, stroked Nandi Visāla on the back, and called out: “Gee up! my beauty!! Drag it along, my beauty!!”

And the Bodisat, with one mighty effort, dragged forwards the hundred heavily-laden carts, and brought the hindmost one up to the place where the foremost one had stood.

Then the cattle-owner acknowledged himself beaten, and handed over to the Brahmin the two thousand; the bystanders, too, presented the Bodisat with a large sum, and the whole became the property of the Brahmin. Thus, by means of the Bodisat, great was the wealth he acquired.


.... o ....
 
Truyện 9:
CON BÒ BÀY TỎ LÒNG BIẾT ƠN

Vào một thời rất xưa... Bồ Tát (một tiền thân Đức Phật) đã trở lại cuộc sống như một con Bò đực. Bấy giờ, khi vẫn còn là một chú bê con, chủ của nó đã dừng lại một lúc trong nhà của một bà lão, và đưa bò con cho bà khi họ thanh toán tiền trọ. Và bà cụ đã nuôi nó, đối xử với nó như một đứa con trai, và cho nó ăn cháo và cơm.

Nó sớm được biết đến với cái tên "Con bò đen của bà lão". Khi lớn lên, nó lang thang khắp nơi, đen như mực, với đàn gia súc trong làng, và rất ngoan ngoãnít nói. Những đứa trẻ trong làng thường nắm lấy sừng, tai hoặc yếm của nó và bám vào nó; hoặc tự giải trí bằng cách kéo đuôi nó, hoặc cưỡi trên lưng nó.
 
Một ngày nọ, anh tự nhủ: “Mẹ tôi nghèo khổ cùng cực. Bà cụ cũng đã mất rất nhiều công sức để nuôi mình, và đối xử với tôi như một đứa con trai. Giá mà tôi làm thuê, và như vậy sẽ giúp bà vơi đi nỗi đau khổ!” Và từ ngày đó, anh luôn tìm kiếm một công việc.

Một ngày nọ, chủ một đoàn xe  trẻ tuổi đến một bến cạn gần đó với năm trăm chiếc xe kéo. Và những con bò của anh ta không thể kéo những chiếc xe qua mà ngay cả khi anh ta buộc năm trăm cặp xe thành một hàng, chúng cũng không thể tự mình kéo một chiếc xe.
 
Bồ Tát đang gặm cỏ với đàn gia súc trong làng gần bến cạn. Người chủ đoàn xe ngựa trẻ tuổi là một thẩm phán nổi tiếng về gia súc, và bắt đầu nhìn quanh để xem trong số chúng có con bò đực thuần chủng nào có thể kéo xe qua không. Nhìn thấy Bồ Tát, vị này nghĩ bò này sẽ làm được, và hỏi những người chăn gia súc: "Ai có thể là chủ của anh chàng này, những người của tôi? Tôi muốn buộc anh này vào xe và sẵn sàng trả tiền công cho việc kéo xe qua."
 
"Vậy thì hãy bắt anh ta và buộc anh ta vào," họ nói. "Anh ta không có chủ ở đây."
 
Nhưng khi người này bắt đầu nhét một sợi dây vào mũi bò này và kéo đi, anh này không thể bắt Bồ Tát đi được. Vì người ta nói rằng Bồ Tát sẽ không đi cho đến khi được hứa sẽ có thưởng.
 
Người chủ  trẻ tuổi của đoàn lữ hành, thấy mục đích của bò này, nên đã nói với bò này: "Thưa ngài! Nếu ngài kéo năm trăm chiếc xe này cho tôi, tôi sẽ trả công cho ngài với mức hai xu cho mỗi chiếc xe - tổng cộng là một ngàn xu."

Sau đó, Bồ Tát tự mình đi theo, và những người đàn ông buộc Bồ Tát vào chiếc xe. Và với nỗ lực to lớn, Bồ Tát kéo nó lên và hạ cánh an toàn trên vùng đất cao. Và theo cách tương tự, bò này đã kéo tất cả các xe lên.
 
Vậy là chủ đoàn lữ hành bỏ năm trăm xu vào một bó, tính là mỗi xe một xu, và buộc quanh cổ Bồ Tát. Con Bò tự nhủ: “Anh chàng này không trả công cho mình theo mức đã thỏa thuận. Mình sẽ không để anh ta đi tiếp!” Và thế là Bò bước đến và đứng chắn đường xe trước, và họ cố gắng đuổi anh ta đi nhưng vô ích.
 
Chủ đoàn lữ hành nghĩ: “Tôi cho là bò này biết rằng tiền công quá ít;” và gói một ngàn xu vào một tấm vải, buộc chúng lại thành một bó, và đeo quanh cổ  Bồ Tát. Và ngay khi bò này nhận được bó tiền có một ngàn xu bên trong, anh ta đã đi đến “mẹ” của mình.
 
Sau đó, những đứa trẻ trong làng gọi to: "Nhìn kìa! Cái gì quanh cổ con Bò Đen của bà cụ thế?" và bắt đầu chạy đến chỗ anh ta. Nhưng anh ta đuổi xua chúng, vì vậy chúng đã chạy mất trước khi chúng đến gần anh ta; và anh ta đi thẳng đến "mẹ" của mình. Và anh ta xuất hiện với đôi mắt đỏ ngầu, hoàn toàn kiệt sức vì kéo quá nhiều xe.

"Làm sao con có được thứ này, cưng ơi?" bà lão tốt bụng nói khi bà nhìn thấy chiếc túi quanh cổ Bò . Và khi bà nghe những người chăn gia súc nói về chuyện đã xảy ra, bà thốt lên: "Vậy thì ta có muốn sống bằng thành quả lao động của con đến vậy sao, cưng của ta! Tại sao con lại tự làm khổ mình như vậy?"

Và bà tắm cho Bồ Tát bằng nước ấm, xoa dầu khắp người anh ta, cho anh ta uống và cho anh ta ăn những thức ăn ngon. Và vào cuối cuộc đời, bà đã qua đời theo nghiệp của cụ bà, và Bồ Tát cũng ra đi theo bà.
 
.. .. ..

Story 9:
THE BULL THAT PROVED HIS GRATITUDE

Long ago ... the Bodisat returned to life as a Bull.

Now, when it was still a young calf, its owners stopped a while in an old woman’s house, and gave him to her when they settled their account for their lodging. And she brought him up, treating him like a son, and feeding him on gruel and rice.

He soon became known as “The old woman’s Blackie.” When he grew up, he roamed about, as black as collyrium, with the village cattle, and was very good-tempered and quiet. The village children used to catch hold of his horns, or ears, or dewlaps, and hang on to him; or amuse themselves by pulling his tail, or riding about on his back.

One day he said to himself: “My mother is wretchedly poor. She’s taken so much pains, too, in bringing me up, and has treated me like a son. What if I were to work for hire, and so relieve her distress!” And from that day he was always on the look-out for a job.

Now, one day a young caravan owner arrived at a neighboring ford with five hundred bullock-wagons. And his bullocks were not only unable to drag the carts across, but even when he yoked the five hundred pair in a row they could not move one cart by itself.

The Bodisat was grazing with the village cattle close to the ford. The young caravan owner was a famous judge of cattle, and began looking about to see whether there were among them any thoroughbred bull able to drag over the carts. Seeing the Bodisat, he thought he would do, and asked the herdsmen: “Who may be the owners, my men, of this fellow? I should like to yoke him to the cart, and am willing to give a reward for having the carts dragged over.”

“Catch him and yoke him then,” said they. “He has no owner hereabouts.”

But when he began to put a string through his nose and drag him along, he could not get him to come. For the Bodisat, it is said, wouldn’t go till he was promised a reward.

The young caravan owner, seeing what his object was, said to him: “Sir! if you’ll drag over these five hundred carts for me, I’ll pay you wages at the rate of two pence for each cart—a thousand pieces in all.”

Then the Bodisat went along of his own accord, and the men yoked him to the cart. And with a mighty effort he dragged it up and landed it safe on the high ground. And in the same manner he dragged up all the carts.

So the caravan owner then put five hundred pennies in a bundle, one for each cart, and tied it round his neck. The Bull said to himself: “This fellow is not giving me wages according to the rate agreed upon. I shan’t let him go on now!” And so he went and stood in the way of the front cart, and they tried in vain to get him away.

The caravan owner thought: “He knows, I suppose, that the pay is too little;” and wrapping a thousand pieces in a cloth, tied them up in a bundle, and hung that round his neck. And as soon as he got the bundle with a thousand inside, he went off to his “mother.”

Then the village children called out: “See! what’s that round the neck of the old woman’s Blackie?” and began to run up to him. But he chased after them, so that they took to their heels before they got near him; and he went straight to his “mother.” And he appeared with eyes all bloodshot, utterly exhausted from dragging over so many carts.

“How did you get this, dear?” said the good old woman, when she saw the bag round his neck. And when she heard, on inquiry from the herdsmen, what had happened, she exclaimed: “Am I so anxious, then, to live on the fruit of your toil, my darling! Why do you put yourself to all this pain?”

And she bathed him in warm water, and rubbed him all over with oil, and gave him to drink, and fed him up with good food. And at the end of her life she passed away according to her deeds, and the Bodisat with her.

.... o ....
 
Truyện 10:
CON NGỰA CHỊU ĐỰNG ĐẾN CÙNG
 
Và rồi Bồ Tát (một tiền thân của Đức Phật) đã ra đời dưới hình dạng một con Ngựa—một con ngựa nhỏ thuần chủng, và ngài được phong làm Chiến Mã của Nhà vua, được bao quanh bởi sự xa hoa và vương giả. Ngài được nuôi bằng loại gạo ba năm hảo hạng luôn được phục vụ cho ngài trong một chiếc đĩa vàng trị giá một trăm ngàn đồng tiền, và mặt đất của chuồng ngựa của ngài được tẩm bốn mùi hương.

Quanh chuồng ngựa của ngài được treo những tấm rèm màu đỏ thẫm, trong khi phía trên là một tán cây khảm những ngôi sao vàng. Trên tường là những vòng hoavòng hoa thơm, và một chiếc đèn được thắp bằng dầu thơm luôn cháy ở đó.
 
Bây giờ tất cả các vị vua xung quanh đều thèm muốn vương quốc Benares. Một lần, bảy vị vua đi qua Benares và gửi một bức thư cho Nhà vua, nói rằng: "Hoặc là giao vương quốc của ngài cho chúng tôi hoặc là giao chiến".
 
Tập hợp các bộ trưởng của mình, Vua xứ Benares trình bày vấn đề trước họ và hỏi ông phải làm gì. Họ nói: "Ngài không nên đích thân ra trận, thưa Bệ hạ, ngay từ đầu. Hãy phái một Hiệp sĩ nào đó ra chiến đấu với anh ta trước, và sau đó, nếu anh ta ngã xuống, chúng tôi sẽ quyết định phải làm gì".
 
Sau đó, nhà vua đã cho gọi Hiệp sĩ đó đến và nói với anh ta: "Ngươi có thể chiến đấu với bảy vị vua không, Hiệp sĩ thân quý của ta?"
 
Hiệp sĩ nói: "Hãy cho tôi một con Chiến Mã cao quý của ngừai, và sau đó tôi có thể chiến đấu không chỉ với bảy vị vua mà là với tất cả các vị vua ở Ấn Độ."
 
"Hiệp sĩ thân quý của ta, hãy lấy Chiến Mã của ta hoặc bất kỳ con ngựa nào mà ngươi muốn, và chiến đấu."

"Rất tốt, thưa Đức Vua của tôi," Hiệp sĩ nói, và với một cây cung, anh ta  xuống từ các phòng trên của cung điện.

Sau đó, anh ta ra lệnh dẫn Chiến Mã cao quý ra ngoài và mặc áo giáp, cũng tự trang bị vũ khí và đeo kiếm.
 
Cưỡi trên con ngựa quý tộc của mình, chàng  ra khỏi Cổng Thành, và với một cú tấn công chớp nhoáng đã phá tan trại đầu tiên, bắt sống một vị vua và đưa ông ta trở về làm tù binh cho những người lính canh giữ.

... Và điều này tiếp tục cho đến khi sáu vị vua bị bắt làm tù binh. Sau đó, con Ngựa Chiến Mã bị thương, máu chảy ròng ròng và khiến nó đau đớn vô cùng. Nhận thấy rằng con Chiến Mã đã bị thương, Hiệp sĩ bảo nó nằm xuống ở cổng Thành, nới lỏng áo giáp của nó và bắt đầu trang bị vũ khí cho một con ngựa khác.

Nhưng Chiến Mã nhận ra điều này, đã nói: "Con ngựa kia sẽ không thể phá vỡ trại thứ bảy và không bắt được vua thứ bảy: nó sẽ mất tất cả những gì ta đã đạt được. Hiệp sĩ vô song sẽ bị giết, và Đức Vua sẽ rơi vào tay kẻ thù. Chỉ có ta và không có con ngựa nào khác có thể phá vỡ trại thứ bảy và bắt được vua thứ bảy."

Vì vậy, Chiến Mã gọi Hiệp sĩ và lặp lại những lời này, và nói thêm: "Tôi sẽ không rời bỏ những gì tôi đã làm. Chỉ cần tôi đứng dậy, và mặc lại áo giáp của mình, và tôi sẽ hoàn thành công việc của mình."

Hiệp sĩ đã đặt Chiến Mã đứng dậy, băng bó vết thương của ngựa chiến hoàng gia và trang bị lại cho anh ta để chứng minh. Cưỡi trên Chiến Mã, Hiệp sĩ phá vỡ trại thứ bảy và bắt sống vị vua thứ bảy.
 
Họ dẫn Chiến Mã đến cổng của Nhà vua, và Nhà vua tiến đến nhìn nó. Sau đó, Đấng Vĩ đại nói: “Đức Vua, xin đừng giết bảy vị vua này: hãy trói họ bằng lời thề và thả họ đi. Hãy để Hiệp sĩ tận hưởng vinh dự mà cả hai chúng tôi đều được hưởng. Còn Đức Vua, xin hãy thực hành lòng từ bi, giữ gìn các bảo vật và cai trị vương quốc của ngài trong sự công bằngchính trực.” Khi Chiến Mã đã khuyên nhủ Nhà vua như vậy, người ta cởi áo giáp của Chiến Mã ra, nhưng khi họ đang cởi từng mảnh, Chiến Mã đã qua đời.
 
Nhà vua đã chôn cất thi thể Chiến Mã một cách tôn kính, ban tặng những vinh dự lớn cho Hiệp sĩ, và cho các vị vua tù binh về nhà, sau khi yêu cầu mỗi người tuyên thệ sẽ không bao giờ gây chiến với ông nữa. Và vị vua đã cai trị vương quốc của mình trong sự công chínhchính trực, qua đời khi cuộc đời khép lại, để sau đó thuận theo nghiệp đã làm.

Câu chuyện được Đức Phật kể lại về một thiện hữu đã từ bỏ sự tinh tấn. “Các thiện hữu, trong những ngày đã qua, những người thiện tri thức đã kiên trì tinh tấn ngay cả trong môi trường thù địch, và ngay cả khi họ bị thương, họ vẫn không đầu hàng. Trong khi quý vị đã cống hiến hết mình cho một con đường giải thoát như vậy, tại sao quý vị lại từ bỏ sự tinh tấn?”

.. .. ..

Story 10:
THE HORSE THAT HELD OUT TO THE END

And it came to pass that the Buddha (to be) came to life in the shape of a Horse—a thoroughbred small horse, and he was made the King’s Destrier, surrounded by pomp and state. He was fed on exquisite three-year-old rice which was always served up to him in a golden dish worth a hundred thousand pieces of money, and the ground of his stall was perfumed with the four odors. Round his stall were hung crimson curtains, while overhead was a canopy studded with stars of gold. On the wall were festooned wreaths and garlands of fragrant flowers, and a lamp fed with scented oil was always burning there.

Now all the kings round coveted the kingdom of Benares. Once seven kings passed Benares and sent a missive to the King, saying: “Either yield up your kingdom to us or give battle.”

Assembling his ministers, the King of Benares laid the matter before them and asked what he was to do. Said they: “You ought not to go out to battle in person, Sire, in the first instance. Despatch such and such a Knight out first to fight him, and, later on, if he fall, we will decide what to do.”

Then the King sent for that Knight and said to him: “Can you fight the seven kings, my dear Knight?” Said he: “Give me but your noble Destrier, and then I could fight not only seven kings but all the kings in India.” “My dear Knight, take my Destrier or any horse you please, and do battle.” “Very good, my Sovereign Lord,” said the Knight, and with a bow he passed down from the upper chambers of the palace.

Then he had the noble Destrier led out and sheathed in mail, arming himself too and girding on his sword.

Mounted on his noble steed he passed out of the City Gate, and with a lightning charge broke down the first camp, taking one king alone, and bringing him back a prisoner to the soldiers’ custody.

... And this went on until six kings had been made prisoner. Then the noble Horse received a wound which streamed with blood and caused him much pain. Perceiving that the Horse was wounded, the Knight made it lie down at the King’s gate, loosened its mail, and set about arming another horse.

But the Horse perceiving this, said: “The other horse will not be able to break down the seventh camp and capture the seventh king: he will lose all that I have accomplished. The peerless Knight will be slain, and the King will fall into the hands of the foe. I alone and no other horse can break down the seventh camp and capture the seventh king.”

So he called to the Knight and repeated these words, and added: “I will not throw away what I have already done. Only have me set upon my feet, and clad again in my armor, and I will accomplish my work.”

The Knight had the Horse set upon his feet, bound up his wound, and armed him again in proof. Mounted on the Destrier, he broke down the seventh camp, and brought back alive the seventh king.

They led the Horse to the King’s gate, and the King came up to look at him.

Then said the Great Being: “Great King, slay not these seven kings: bind them by an oath, and let them go. Let the Knight enjoy the honor due to us both. As for you, exercise charity, keep the Ornaments, and rule your kingdom in righteousness and justice.” When the Horse had thus exhorted the King, they took off his mail, but as they were taking it off piecemeal, he passed away.

The King had the body buried with due respect, bestowed great honors on the Knight, and sent the kings to their homes, after exacting from each an oath never to war upon him any more. And he ruled his kingdom in righteousness and justice, passing away when his life closed, to fare thereafter according to his deserts.

The story was told by the Master about a brother who gave up persevering.

“Brethren, in bygone days the wise and good persevered even in hostile surroundings, and even when they were wounded they did not give in. Whereas you who have devoted yourself to so saving a doctrine, how comes it that you give up persevering?”
.
SOURCE: Eastern Stories and Legends, By Marie L. Shedlock
Publisher: E. P. Dutton & Company, 1920
https://www.gutenberg.org/ebooks/57380
.
Tạo bài viết
23/07/2015(Xem: 13661)
Kính chia sẻ cùng chư Tôn đức, Pháp hữu và qúy Phật Tử lịch trình Hoằng Pháp, sinh hoạt tu học & Phật sự... với sự chia sẻ của Thích Tánh Tụê cùng với sự hiện diện của chư Tôn đức tham dự trong tháng 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, - 2025
Kính mời tham dự Nhạc Hội Mừng Phật Thành Đạo Saigon Grand Center vào Chủ Nhật 16 tháng 2 năm 2025 vào lúc 4 giờ chiều tại địa chỉ 16149 Brookhurst Street, Fountain Valley, CA 92708 Chương trình lại được nhạc sĩ Võ Tá Hân tham dự và cũng là nhạc trưởng của ban đạo ca Diệu Pháp. Kính mời quý đồng hương tích cực ủng hộ, đến dự thật đông.