B- Nội dung I.
Lịch sử Mật tông Mật giáo được
thành lập vào thế kỷ thứ VII ở vùng Nam Ấn với sự
xuất hiện của
bộ kinh Đại Nhật (Mahàvairocana sùtra). Đây là
bộ kinh căn bản của
Mật tông. Ở
Ấn Độ, giai đoạn mà
Mật giáo phát triển mạnh mẽ nhất là dưới thời các vương triều Pàla (750-1150) ở Bengale. Nhà vua Dharmapala (thế kỷ VII), người đã nhiệt thành
ủng hộ xây dựng tu viện Vikramasilà, làm
trung tâm truyền bá Mật giáo.
Ngài
Long Thọ (Nagarjuna, 600-650) được coi là vị
Tổ sư của
Mật giáo. Ngài thuộc dòng
Bà la môn,
thọ giới tại Nalanda, sau đó đến
Vương Xá tu 12 năm đắc
thánh quả Đại thủ ấn tất địa (Mahamudràsiddhi). Theo
truyền thuyết, có lần Ngài gặp đứa trẻ chăn cừu giúp Ngài qua sông; để
đền ơn, Ngài thi triển
thần thông giúp đứa trẻ làm vua. Tranh tượng vẽ về Ngài có hình rắn phủ quanh đầu.
Phật giáo Tây Tạng cho rằng
Long Thọ (thế kỷ VII) và
Long Thọ luận sư (thế kỷ II) là một, tức
Long Thọ đầu thai trở lại. Ngài có
đệ tử truyền pháp là
Long Trí.
Long Trí (Nagabodhi) là truyền nhân của ngài
Long Thọ. Ngài
dòng dõi Bà la môn, nhưng lại thường đi
ăn trộm, khi ngài
Long Thọ đang ở
tịnh xá Suvarna,
Long Trí đến rình xem thấy ngài
Long Thọ đang ăn bằng một cái bát vàng, bèn nảy ý trộm lấy cái bát. Ngài
Long Thọ biết tâm ý của
Long Trí, liền ném cái bát cho Ngài. Ngài
kinh ngạc và
cảm phục bèn xin
đi theo tu học. Ngài
Long Thọ làm phép
quán đỉnh cho Ngài
nhập môn. Sau 12 năm
tu luyện, Ngài
chứng ngộ thánh quả.
Kim Cương Trí (Vajrabodhi, 663-723) người Nam Ấn,
tu học ở Nalanda. Năm 15 tuổi qua Tây Ấn học về
Nhân Minh luận với ngài
Pháp Xứng, sau đó
tham học về Luật,
Trung Quán luận,
Du Già luận,
Duy Thức luận..., sau cùng
tu học và
nghiên cứu Kim Cương Đỉnh (Vajra-Sekhàra) và các kinh
Mật giáo với ngài
Long Trí ở Nam Ấn 7 năm. Năm 720, Ngài qua Trung Hoa, đến
Lạc Dương truyền bá Mật giáo. Ngài được coi như vị Tổ đầu tiên của
Mật tông Trung Hoa
đồng thời với ngài
Thiện Vô Úy.
Bất Không Kim Cương (Amoghavajra, 750-774) là
đệ tử xuất sắc của ngài
Kim Cương Trí. Ngài người Bắc Ấn, thọ
Sa di năm 15 tuổi, theo thầy đến
Lạc Dương thọ
Tỳ kheo giới năm 20 tuổi.
Tu học 12 năm
thông suốt Mật giáo. Sau khi thầy mất, Ngài cùng với các
đệ tử qua
Tích Lan nghiên cứu giáo lý Kim cương đỉnh du già và Đại Nhật thai tạng.
Trở về Trường An với số
kinh điển đồ sộ, Ngài khởi công dịch thuật. Ngài
Bất Không Kim Cương là
Quốc sư của ba triều vua
Huyền Tông, Túc Tông và Đại Tông.
Thiện Vô Úy (Subhakarasimha, 637-735) là
đệ tử của ngài
Long Trí, tức là
huynh đệ với ngài
Kim Cương Trí, từng là vua xứ Orissa,
tu học ở
tu viện Nalanda, thâm hiểu
Du Già,
chân ngôn và ấn quyết. Ngài đến Trung Hoa năm 716, đời vua
Huyền Tông, trước ngài
Kim Cương Trí 4 năm và cũng được coi là vị
Tổ sư của
Mật tông Trung Hoa, được vua
Huyền Tông trọng đãi. Ngài dịch nhiều kinh quan trọng của
Mật tông như
Đại Nhật kinh,
Tô Tất Địa Yết La kinh...
Đệ tử của Ngài có các ngài
Nhất Hạnh, Huyền Siêu,
Minh Trí, Nghĩa Lâm...
Ngài
Nhất Hạnh (638-727) quê quán ở Thuận Đức, tỉnh Nhật Lệ, Trung Hoa, là người
tinh thông Tam luận,
Thiền học,
Thiên Thai...,
đặc biệt tinh thông cả
thiên văn học. Khi ngài
Thiện Vô Úy đến Trung Hoa, Ngài được
truyền pháp "Thai tạng giới" của
Mật giáo. Ngài cùng với thầy
dịch kinh Đại Nhật và trước tác bản sớ
Đại Nhật kinh. Sau đó, Ngài cũng học với
Kim Cương Trí, được truyền cho
nghi quỹ của
Kim Cương giới. Ngài được
lãnh hội cả hai phái của
Mật giáo Ấn Độ.
Mật giáo Ấn Độ được khởi xướng và
truyền bá do các
cao tăng như
Long Thọ,
Long Trí,
Kim Cương Trí,
Thiện Vô Úy. Trên mặt
giáo nghĩa và
hành trì thì chia làm hai phái
Chân ngôn thừa (Mantrayàna) và
Kim cương thừa (Vajrayàna), dựa theo
tư tưởng của hai
bộ kinh Đại Nhật và
Kim Cương Đỉnh. Qua Trung Hoa, cả hai dòng hợp lưu ở
Nhất Hạnh, đường lối
Mật tông Trung Hoa tổng hợp của
lý luận và
thực tiễn.
Mật tông phát triển mạnh và đã tạo nhiều
ảnh hưởng đến nền
văn hóa nghệ thuật Trung Hoa, được các triều vua
ủng hộ nên rất hưng thịnh.
Công đức truyền bá Mật giáo Trung Hoa do các ngài
Thiện Vô Úy,
Kim Cương Trí,
Bất Không,
Nhất Hạnh,
Vô Hành...
Mật giáo được truyền vào
Tây Tạng thế kỷ VIII do ngài
Liên Hoa Sinh (Padmasambhava), người
Ấn Độ, sống cùng thời với vua
Tây Tạng Ngật Lật Song Đề Tán (755-797). Ngài đến
Tây Tạng, đem
Mật giáo truyền bá và
sáng lập tông phái Ninh Mã (Nuyingmapa), một trong bốn phái lớn của
Mật giáo Tây Tạng. Ngài được coi là
Đức Phật Thích Ca tái thế, có tài
chinh phục ma quỷ,
thiên tai và các
giáo phái. Ngài
xây dựng tu viện Tang Duyên (Samye) năm 775 và trước tác nhiều
tác phẩm quan
trọng như bộ
Tử thư... Ngài là
Tổ sư của
Phật giáo Tây Tạng.
Sự
truyền thừa của
Mật tông Tây Tạng không rõ nét và rất
phức tạp; những bậc
đại sư nổi bật đóng góp làm hưng thịnh và sáng rỡ
Phật giáo Tây Tạng sau
Liên Hoa Sinh có Atisa (
A Đề Sa, 982-1054), thế kỷ X, Ngài người Đông Ấn, được mời sang
Tây Tạng và sống ở đó 12 năm, đóng góp rất nhiều cho
Phật giáo Tây Tạng nói chung và
Mật giáo Tây Tạng nói riêng. Ngài
sáng lập ra trường phái Kadampa (
Cam Đan)
ảnh hưởng lớn
Phật giáo Tây Tạng, trước tác
Bồ đề đạo đăng luận,
đặc biệt công trình sắp xếp
hệ thống kinh sách
Phật giáo Tây Tạng, lấy
triết học Tánh không và
Duy thức làm
tư tưởng cho
Phật giáo Tây Tạng, điều đó
ảnh hưởng đến các hệ
tư tưởng Mật giáo Tây Tạng rất lớn.
Người
cải cách nổi tiếng của
Mật giáo Tây Tạng là
Tông Khách Ba (1357-1419), Ngài sinh tại Amdo, thuộc vùng Đông bắc
Tây Tạng.
Xuất gia khi còn nhỏ,
tham học với nhiều vị
đại sư khác nhau,
tư tưởng của Ngài
ảnh hưởng của Atisa. Ngài
sáng lập tông phái Gelugpa (Hoàng Mạo phái), một
tông phái quan trọng nhất của
Tây Tạng hiện nay. Ngài chủ trương xét lại
toàn bộ kinh điển và
tổng kết thành hai
tác phẩm chính: Lamrin Chenmo (
Bồ đề đạo thứ đệ)
tiêu biểu cho đường
lối tu tập
Hiển giáo, Ngagrim Chenmo (
Chân ngôn đạo thứ đệ)
tiêu biểu cho đường
lối tu tập của
Mật giáo.
Phật giáo Tây Tạng được
chấn chỉnh và phát huy
rực rỡ nhờ
Tông Khách Ba. Trước khi mất, Ngài
phó chúc cho hai
đệ tử là Dalai Blama và Panchen Blama, tức
Đạt lai Lạt ma và
Ban thiền Lạt ma; theo
truyền thuyết thì hai vị này
chuyển sinh để
tiếp tục cai trị
Tây Tạng, được dân chúng coi là hai vị Phật sống.
Mật tông được
Phật giáo Tây Tạng bảo tồn và phát triển, còn ở các
nơi khác không phát triển mấy.
II.
Giáo nghĩa Mật tông 1- Mandala
Xuất phát từ
tư tưởng của hai
bộ kinh Đại Nhật và
Kim Cương Đỉnh,
Mật giáo thiết lập hai Mandala:
Thai tạng giới Mandala và
Kim cương giới Mandala.
Mandala, Hán dịch là
luân viên cụ túc, nghĩa là vòng tròn đầy đủ. Đây là
biểu tượng của
vũ trụ và
năng lực trong
vũ trụ được trình bày bằng các hình vẽ. Mandala, về mặt triết lý, là cơ sở hợp
nhất thế giới
hiện tượng và
thế giới bản thể, là đối tượng của
thiền quán. Trong
ý nghĩa thực tiễn thì Mandala là
đàn tràng bằng đất để
hành giả bày biện các
lễ vật hay
pháp khí phục vụ cho
nghi thức hành lễ,
cầu nguyện,
tu luyện...
Thai tạng giới Mandala (Garbhadhàtu mandala) là
yếu tố thụ động tâm linh, cũng có nghĩa chỉ cho
vũ trụ về mặt tĩnh, mặt lý tánh.
Tác dụng lý tánh như thai mẹ chứa đựng đứa con, từ lý tánh thai tạng mà
xuất sinh mọi
công đức.
Kim cương giới Mandala (Vajradhatu mandala) là
yếu tố tác động, biểu hiện cho
trí tuệ viên mãn, còn gọi là trí
thủy giác.
Kim cương giới là
trí tuệ nội chứng của Phật.
Bí tạng ký nói: "Thai tạng là lý,
Kim cương là trí".
Như vậy,
Thai tạng giới biểu hiện cho
bản thể Phật tính của mọi
chúng sanh và
Kim cương giới biểu tượng cho
trí tuệ viên mãn. Từ
Thai tạng giới mà
xuất sinh Kim cương giới theo tiến trình
nhân quả. Sự hợp nhất
Kim cương giới và
Thai tạng giới là sự
chứng ngộ tối thượng.
Đức Phật Đại Nhật (Tỳ Lô Xá Na) là
biểu tượng hợp nhất
tối thượng,
vũ trụ là sự hợp
nhất viên mãn.
Vì vậy, Đức Đại Nhật chính là
vũ trụ thân.
Mật tông dựa trên cơ sở ấy cho rằng
vũ trụ thân là
pháp thân và
pháp thân biểu hiện trong mọi
hiện hữu,
sở dĩ chúng ta không
nhận thấy được vì
tâm thức mê mờ,
chúng ta chỉ thấy
thế giới là
bất an và khổ đau vì thiếu
trí tuệ Kim cương;
trí tuệ Kim cương có
công năng là phá tan mọi
chướng ngại pháp.
Con đường trở về hợp nhất với
vũ trụ thân, nói cách khác, muốn
đi vào quỹ đạo của
pháp thân phải có những
tác pháp thiêng liêng,
thể hiện sự
gia trì giúp ta
thể nhập một cách
sâu xa và phổ quát của
pháp giới tính.
Lý thuyết này có phần
tương tự với
lý thuyết Bất tư nghì
giải thoát trong
kinh Duy Ma Cật.
Mạn đà la có nhiều loại, tựu trung có 4:
a)
Đại Mạn đà la (Maha mandala): vòng tròn hội tụ các
Đức Phật và
Bồ tát, trình bày bằng hình vẽ hoặc
điêu khắc.
Mạn đà la này
biểu tượng cho tự thân của Phật và mối quan hệ giữa tự thân Phật với
toàn thể vũ trụ nên gọi là Đại.
b)
Tam muội gia
Mạn đà là (Samaya mandala): vòng tròn
hội chúng với những
pháp khí trong tay
tùy theo bản nguyện của mỗi vị. Samaya dịch là bổn thệ, tức là
xu hướng và khả
năng hóa hiện
độ sanh của mỗi vị Phật,
Bồ tát.
c) Pháp
Mạn đà la (Dharma mandala): là
Mạn đà la của
văn tự lý giải
chân lý. Tất cả những
lời Phật dạy, những
chân ngôn của Phật và
Bồ tát đều bao hàm trong đó.
d)
Yết ma Mạn đà la (Karma mandala): là
Mạn đà la bằng
điêu khắc chạm trổ biểu hiện các động tác, các
hành trạng độ sanh của Phật và
Bồ tát.
Tóm lại, Đại mandala là tổng
thể pháp giới, là tự thân của Phật;
pháp môn mà chư Phật,
Bồ tát thuyết gọi là Pháp mandala; vũ khí mà
chư tôn cầm trong tay là
Tam muội gia mandala và những
hình ảnh của
chư tôn gọi là
Yết ma mandala. Bốn mandala này
biểu tượng cho
năng lực thiêng liêng của
Tam mật:
thân mật,
khẩu mật và
ý mật.
Trên đây là 4 mandala của chư Phật và
Bồ tát;
ngoài ra, tất cả muôn loài, mọi
hiện tượng đều có 4 mandala của chúng,
đại khái sắc tướng của chúng gọi là Đại mandala,
đặc tính - khả năng riêng của chúng là
Tam muội mandala, danh từ để gọi chúng là Pháp mandala,
hành vi của chúng là
Yết ma mandala. Điều cần chú ý là 4
mạn đà la không
độc lập, chúng có mối
liên hệ duyên sinh và mặc dù Phật,
Bồ tát có
mạn đà la riêng nhưng không tách rời mọi
mạn đà la của
pháp giới.
Vì vậy, Phật và
chúng sinh là một,
cùng chung thể tánh là
sáu đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Thức. Sự khác nhau giữa Phật và
chúng sanh ở chỗ Phật thì
tỉnh thức mà
chúng sanh thì
mê muội.
2- Mantra
Mantra là một số âm chứa đựng
sức mạnh của
vũ trụ hay biểu hiện khía cạnh nào đó của Phật. Mantra chính là
thần chú, được đọc lặp đi lặp lại nhiều lần trong các buổi
tu tập hành trì. Định nghĩa về
thần chú, Lama Govinda nói: "Chữ "thần" là
tinh thần, tức
năng lực suy nghiệm; chữ "chú" là lời, là tiếng dùng làm công cụ biểu diễn. Như vậy, "thần chú" là công cụ để suy nghiệm, là
hiện tướng dẫn khởi một
ảnh tượng tinh thần.
Thần chú vang lên kêu gọi nội dung của nó nơi
thực tại trước mắt một cách trực tiếp.
Thần chú là
năng lực chứ không phải
đơn thuần là
ý kiến mà
tâm trí có thể tránh trớ hay cãi lại.
Thần chú phát lồ,
tự thị hiện như thế, như vậy đó. Chính ở nơi đây chứ không phải bất cứ nơi đâu,
lời nói là hành động mà sự
thực hiện thì trực tiếp và tức khắc" (Cơ sở
Mật giáo, Trần Ngọc Sinh dịch, tr.14).
Thần chú còn gọi là
đà la ni (Dhàranì), Hán dịch là
tổng trì, tức
bao gồm tất cả, đó là những
thần chú mang
sức mạnh siêu nhiên, thường thì
đà la ni dài hơn
thần chú (mantra).
Đà la ni là biểu hiện khía cạnh
chứng đắc của Phật hay
Bồ tát được thấy trong
thiền định,
biểu tượng hay ký hiệu hóa
hình ảnh, nội dung
chứng đắc ấy, được
lưu trữ và dễ dàng
hiện hành khi gọi chúng
trở lại.
Chức năng đà la ni không khác với
thần chú. Mặt khác,
tác dụng của
thần chú hay
đà la ni được coi như là
phương tiện để
đạt được thiền định.
Một
vấn đề cần nói rõ là
hình thức của
thần chú hay cách đọc
thần chú không phải làm cho ta
thoát khỏi khổ đau hay những nỗi
bất hạnh hoặc
tiêu trừ được
nghiệp chướng; mà chính là nhờ tâm
trong sạch và
thành thực mới cứu vớt được
chúng ta, như
Đại sư Milarepa nói: "Khi chư vị tự hỏi
ác nghiệp có được
tiêu trừ hay không, chư vị nên biết rằng: nó chỉ
tiêu trừ bằng sự
ước mong của thiện tâm" (Sđd).
Sự
hành trì và
đọc tụng thần chú là một trong ba khía cạnh
thân mật,
khẩu mật và
ý mật. Đọc
thần chú là
khẩu mật.
Thần chú thường được nhiều người
Phật tử đọc nhất,
tiêu biểu là
thần chú "OM MANI PAD - MEHUM" được coi là của ngài
Quán Thế Âm.
Thần chú không phải là một
công thức chết, cũng không phải là những sóng
âm thanh tác động vào
thế giới siêu hình để kêu gọi
năng lực trong
vũ trụ.
Thần chú là một công cụ để biểu diễn
tinh thần,
thái độ tâm lý,
tri thức,
ý chí và
thành thực mới là những
yếu tố quan trọng để biến
thần chú thành
năng lực hay mời gọi các
năng lực siêu nghiệm khác. Hơn nữa,
thần chú chỉ có
thần lực với những ai đã
trải qua kinh nghiệm do
thụ pháp và hành trí dưới sự hướng dẫn của một
đạo sư (Guru).
Tóm lại,
thần chú (mantra) là một
phương tiện trong những
phương tiện mà
Mật tông thực hành để thanh lọc
tâm linh và
đạt được thiền định, sau cùng là hợp nhất và
đồng hóa với
vạn hữu.
Thần chú được coi là "mật" vì nó
chứng tỏ mối
liên hệ mật thiết bên trong của sự vật
hiện tượng, nhất là sự nối kết giữa
vật chất và
tinh thần.
3)
Tam mật tương ứngNhư đã nói,
Tam mật là
thân mật,
khẩu mật và
ý mật. Theo
Mật tông, để
đạt được khả năng điều động
năng lượng vũ trụ hay
năng lượng tâm linh thì phải
thực hành nghi thức đúng phép gồm cả ba
lãnh vực của thân, khẩu, ý.
Thân thể tác động qua điệu bộ, nhất là của hai bàn tay, được diễn theo lời
thần chú sẽ tạo nên
thái độ tâm linh phù hợp theo một điểm. Miệng đọc các mantra (
thần chú),
âm thanh biểu tượng, là
hiện tượng thiêng liêng làm cho
rung động nội tâm của
hành giả. Tâm ý thì
quán tưởng mandala, tạo thành
một thể thống nhất để
thể nhập Tam mật của Phật.
Tam mật của
Như Lai bản thể bình đẳng,
không giới hạn, có mặt khắp
pháp giới,
hay nói cách khác: mọi
hình sắc đều là
thân mật, mọi
âm thanh đều là
khẩu mật, mọi lý đều là
ý mật. Như đã nói, thân Phật và thân
vũ trụ là một nên
quan điểm về
thân mật trong
Mật giáo lấy
tư tưởng trùng trùng duyên khởi của
Hoa Nghiêm làm cơ sở. Sự
hiện hữu của thân không
đơn giản là một
hữu thể độc lập, mà có các mối quan hệ
mật thiết với
thế giới bên ngoài,
hay nói cách khác là với cái không phải thân.
Điều kiện mà thên tồn tạo gồm cả
pháp giới, gọi là mọi
hình sắc là thân.
Tương tự trong
Trung Bộ kinh, Phật dạy quán
sắc uẩn bao gồm nội sắc, ngoại sắc, thô tế, liệt thắng,
xa gần đều không
hiện hữu (
vô ngã). Sự
mầu nhiệm hay
bí mật của thân là cái
mầu nhiệm của thân
vô ngã.
Tương tự như thân, về
ngữ mật thì mọi
âm thanh đều là
ngữ mật.
Thế giới mà
chúng ta đang sống là
thế giới được biểu hiện bằng
ngôn ngữ, mọi thứ đều có tên gọi, mọi thứ đều được khái niệm hóa qua ký hiệu
ngôn ngữ,
mọi vật đều được
nhận thức và
giải thích qua mẫu tự và
văn cú,
ngôn ngữ diễn biến
linh động để làm
hiển lộ cái
mầu nhiệm bên trong, đó chính là
sức mạnh của
âm thanh.
Mật tông cho rằng
thế giới được tạo ra bởi 14 nguyên âm và 33 phụ âm.
Thể nhập thực tại qua
ngôn ngữ âm thanh là một
phương cách đặc biệt của
Mật tông.
Ý mật là sự cảm nhận một cách trực tiếp của tâm. Đó là cái tâm
thuần túy, không bị
chi phối bởi các
kiến thức, không phải cái tâm suy nghĩa có đối tượng, mà tâm ấy nguyên vẹn
đơn sơ cảm nhận trực tiếp
thực tại vô ngã,
thực tại vô ngã ấy được cảm nhận qua nhiều khía cạnh khác nhau.
Thế giới tâm là một,
Duy thức học gọi là
thế giới tánh cảnh. Tâm
nhận thức trực tiếp những gì đang diễn ra như thường nói: "Đương thể tức không". Đó là
thực tại được cảm nhận một cách
tích cực.
Thực hành tantra (
nghi thức) là tạo thế cân bằng hòa điệu của
thân tâm, rồi tạo mối quan hệ hay sự nối tiếp
thân khẩu ý các vị
tương ứng với
Tam mật của Phật, Phật cũng chính là
vũ trụ thân. Đó là
sự thể hiện hòa điệu giữa
con người và
vũ trụ. Sự
gia trì Tam mật của Phật sẽ nhập vào
Tam mật của ta. Đó gọi là
Tam mật tương ưng hay
Tam mật du già.