LÒNG BI MẪN LÀ CÁCH ĐỐI TRỊ
VỮNG BỀN DUY NHẤT CHO NỖI KHỔ ĐAU
Jetsunma Ahkon Lhamo – Liên Hoa Việt dịch
Một
Giáo lý của Jetsunma Ahkon Lhamo
Trong
Phật Giáo Kim Cương thừa – là
hình thức Phật Giáo được
bảo tồn ở
Tây Tạng và
Mông Cổ và là một
tông phái được
tu hành ở chùa của tôi – một trong những
giáo lý căn bản làsự
hiểu biết và
thực hành lòng bi mẫn.
Cá nhân tôi
nhận ra rằng một
triết học tôn giáo được đặt nền trên
lòng bi mẫn vô ngã mang lại cho ta một sự
hài lòng sâu xa và tôi tin rằng nó đánh trúng tình cảm của nhiều người Mỹ.
Tuy nhiên, mặc dù có nhiều người
chấp nhận ý niệm bi mẫn như
lòng từ ái và một sự
quan tâm sâu xa đối với người khác, họ không
nhận ra rằng để
thể nhập tâm
Đại Giác ngộ thì phải cần có một
con đường cẩn trọng và kỷ luật.
Con người không được sinh ra mà tự động
chứng ngộ lòng
đại bi. Vì thế,
Con Đường Kim Cương có thể được
mô tả như một kỹ thuật để phát triển
tâm linh.
Đứng ở
quan điểm Phật Giáo thì có hai cách thức
chính yếu để tiếp cận
lòng bi mẫn: bi mẫn
ước nguyện và bi mẫn
thực tiễn. Khi bắt đầu
thực hành Con Đường Kim Cương, ta
lập tức bắt đầu lập những nguyện ước,
nuôi dưỡng ý tưởng làm
lợi lạc cho
chúng sinh đang
quay cuồng bất lực
trong vòng luân hồi sinh tử. Đây là
lòng bi mẫn ước nguyện.
Mỗi
thực hành ta
thực hiện, mỗi
giáo lý ta nghe, mỗi
quán đảnh ta nhận lãnh, mỗi lời
cầu nguyện ta tụng đọc, tất cả có thể được
hồi hướng cho
sự giải thoát của tất cả
chúng sinh khỏi mọi
hình thức đau khổ.
Như thế,
lòng bi mẫn ước nguyện được
thực hành vào lúc bắt đầu bằng cách lập đi lập lại những
lời nguyện ước. Những
lời nguyện này có
ý hướng làm
lợi lạc chúng sinh bằng cách phát triển ước muốn
chân thành sử dụng toàn bộ các
hoạt động của ta – từ
hoạt động thế tục cho tới
siêu phàm – như một
phương tiện để
giải trừ những nguyện nhân của
đau khổ trong mọi
hình thức của nó. Ta nguyện cầu ngừng dứt chiến tranh,
nghèo đói, bệnh tật, sự chết và
tái sinh, sự
cô đơn, tham, sân, và si. Ta
chấp nhận một
thái độ ý hướng trong sạch được đặt nền trên
ý tưởng là mỗi số phận của
cuộc đời này, cũng như những
hóa thân trong tương lai sẽ tới, bằng cách này hay cách khác có thể mang lại
lợi ích cho
chúng sinh.
Như một ví dụ của loại nguyện ước này, tôi sẽ giảng rộng một
thực hành nổi tiếng:
Nếu cần chất dinh dưỡng, tôi nguyện là
thực phẩm.
Nếu cần một bóng mát, tôi xin là một tàng cây.
Nếu cần nơi trú ẩn, nguyện tôi là một căn nhà.
Nếu cần vượt sông suối, tôi nguyện là một cây cầu. Nếu phát sinh bệnh tật, nguyện tôi là
bác sĩ, thuốc men hay y tá
phục hồi sức khỏe. Cầu mong tôi là
đất liền cho người cần có nó, một
ngọn đèn cho những ai ở trong tăm tối, một chỗ trú cho kẻ không nhà, và một đầy tớ cho
thế giới.
Trong khi điều này nghe có vẻ rất
tốt lành và
từ ái thì ở đây
ý hướng còn
sâu xa nhiều hơn
chữ nghĩa bề ngoài bởi ta phải
nỗ lực làm
lợi lạc không chỉ để
đáp ứng những nhu cầu
trước mắt của
chúng sinh, mà cũng mang lại
lợi ích trong tương lai. Việc
cung cấp những thứ như
thực phẩm, nhà ở, và thuốc men
dĩ nhiên là tạo nên
lợi ích, và loại
thiện tâm này thì
vô cùng tốt lành. Tất cả
chúng ta nên
nỗ lực đáp ứng những nhu cầu của người khác bằng những
phương cách này.
Tuy nhiên từ một
viễn cảnh Phật Giáo, ta sẽ không mang lại
lợi ích tối thượng nếu chỉ
thực hành loại bi mẫn này. Ví dụ
nếu có thể nuôi dưỡng toàn thể một
quốc gia hay thậm chí cả
một thế giới và
hoàn toàn diệt trừ nạn đói và sự vô
hy vọng,
chúng ta vẫn
không giải quyết được cội gốc của
vấn đề.
Theo
Đức Phật thì không có
điều kiện hay
hoàn cảnh nào mà không có một
nguyên nhân. Giống
như không có trái cây nào
xuất hiện mà trước hết không
hiện ra trên một thân cây đến từ một
hạt giống, cũng không có
hoàn cảnh nào, dù xấu hay tốt, mà ta thấy
xuất hiện không có một
nguyên nhân. Những
nguyên nhân ấy có
thể không chỉ được
tìm thấy trong đời này, mà còn có thể đến từ những đời trước.
Không thể có việc người ta
ngẫu nhiên bị sinh vào một
hoàn cảnh khó khăn hay
thình lình trải nghiệm sự bắt đầu của nỗi khổ hay một
biến động khủng khiếp. Những
sự kiện này luôn luôn là kết quả của một tấm thảm thêu của những mối quan hệ nhân-và-quả (nghiệp) được dệt
xung quanh ảo tưởng bao hàm sự xác định và
duy trì một
bản ngã. Như vậy, việc
giải quyết những nhu cầu
lập tức của
chúng sinh có thể mang lại một sự
thuyên giảm nào đó, nhưng không có gì
bảo đảm là họ sẽ không trải nghiệm những khó khăn to lớn trong tương lai, bởi nó không phá vỡ được sự
tương tục của nhân và quả chín mùi bất ngờ và
liên tục. Sự
tương tục này bắt nguồn từ
niềm tin vào một
bản ngã và sự
tham muốn là kết quả của
niềm tin đó. Chính bằng cách làm nguôi dịu sự
tham muốn mà ta có thể bắt đầu
chuyển hóa nghiệp của ta. Khi
ảo tưởng bản ngã bắt đầu tan biến thì nghiệp cũng bắt đầu biến mất. Nhưng nếu
dòng tâm thức không được lọc sạch nghiệp của sự
đau khổ thì tiềm năng cho sự
đau khổ vẫn còn
tồn tại.
Chúng ta được
nuôi dưỡng để tin rằng
thực tại đó có thể được vận dụng. Những thư viện của
chúng ta chất đầy những quyển sách thuật lại sự
thành công của các vĩ nhân người Mỹ. Những
câu chuyện này có khuynh hướng nói về những
thành công về mặt
vật chất. Nhưng người khao khát
tâm linh phải hỏi:
Thành công này liệu có kéo dài không? Cho dù nó kéo dài suốt
một đời, nó có
sống sót qua cái chết? Nếu
chúng ta có quyền mang lại hòa bình cho
thế giới,
giải trừ quân bị các
quốc gia và
duy trì trật tự cùng sự
hòa hợp, thì liệu nền hòa bình đó có
tồn tại lâu hơn
cuộc đời ta? Nhiều vị
lãnh đạo đã cạn kiệt
cuộc đời họ trong việc tạo lập những cường quốc và đế chế chỉ để
bị hủy diệt không lâu sau khi họ chết.
Để mang lại cho
chúng sinh lợi ích tối thượng của việc
thoát khỏi mọi
đau khổ, ta phải
áp dụng kỹ thuật
tối hậu. Nguyện ước làm
lợi lạc cho
chúng sinh,
nuôi dưỡng ý hướng trong sạch,
liên tục gìn giữ thiện tâm của
con người, lập những lời
ước nguyện, và từ tận sâu thẳm của
tâm hồn và trái tim ta,
thường xuyên hy vọng mang lại
lợi ích vững bền cho người khác, là những
thực hành để phát triển
lòng bi mẫn.
Tuy nhiên ở một thời điểm nào đó thì bước nền tảng phải được
thực hiện. Nó bắt đầu với việc
nhận ra rằng
hạnh phúc nhất thời thì không đủ, việc
nuôi dưỡng và
cung cấp y phục cho
chúng sinh cùng những hành động khác
xuất phát từ
lòng tốt thì không đủ. Những điều này không thể
phá hủy sự
tất định của cái chết là điều áp đặt lên
con người và
vượt quá khả năng của ta. Làm sao
chúng ta có thể theo họ
đi vào những
hóa thân trong tương lai để
bảo đảm cho sự
an toàn của họ?
Chỉ có một cách
duy nhất để làm ngừng lại sự chín mùi của những
hạt giống đau khổ, đó là sự
Giác ngộ, nó làm tan biến
niềm tin vào
bản ngã, làm nguôi dịu mọi mối quan hệ nhân-và-quả hay nghiệp, và
khám phá bản tánh nguyên sơ
chân thực của ta.
Con đường Kim Cương sử dụng nhiều kỹ thuật để tịnh hóa năm
giác quan và tự thân
dòng tâm thức. Khi ta dấn mình vào những
thực hành này, không chỉ vì
lợi lạc của riêng ta mà cũng để tịnh hóa nghiệp và nỗi khổ của người khác, thì
phương diện thực tiễn của
Tâm Giác ngộ –
lòng bi mẫn thực tiễn – được cam kết. Nó “thực tiễn” vì đó là kỹ thuật để
hoàn toàn giải thoát bản thân ta và những người khác khỏi những
nguyên nhân của sự
đau khổ. Những
Phật tử coi loại bi mẫn này như hành động của
thiện tâm tối thượng.
Mặc dù
thiện tâm thông thường là một công việc có
giá trị và nên là một phần của
hoạt động của tất cả những ai khao khát
tâm linh, ta phải
quan tâm tới
vấn đề lợi ích tối hậu,
vấn đề tiệt
trừ tận gốc nỗi khổ đau.
Ta nên
ghi khắc tận
đáy lòng những điều
Tôn giả Phật giáo Ấn Độ Shantideva vĩ đại đã viết một ngàn năm trước: “Cầu mong tôi hành động như trái đất vĩ đại hay như bầu trời
tự do và rộng mở để
nâng đỡ và
cung cấp không gian nhờ đó tôi và tất cả
chúng sinh có thể phát triển. Cho tới khi mọi
chúng sinh bị
phiền não bởi
đau khổ đạt được bờ bến
Niết Bàn, cầu mong tôi chỉ
phụng sự như một
điều kiện (duyên) để cổ vũ cho sự
tiến bộ và niềm hỉ lạc.”
Jetsunma Ahkon Lhamo
Nguyên tác: “Compassion is the only lasting antidote to suffering, A Teaching from Jetsunma Ahkon Lhamo”
http:// tara.org/teachings.htm
Bản dịch Việt ngữ của
Liên Hoa