MẬT TÔNG VẤN ĐÁP
Mật Nghiêm
LỜI TỰA
Phần I: MẬT TÔNG LÀ GÌ?
Phần II: NGƯỜI TU MẬT PHẢI LÀM GÌ?
Phần III: QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI TU MẬT TÔNG.
PHÁT NGUYỆN
LỜI BẠT
Nguyện cưỡi thuyền Pháp Nhẫn
Nguyện vào biển Luân Hồi
Làm vô biên Phật sự
Cứu độ hết chúng sanh,
Đang trầm luân sanh tử.
LỜI TỰAThế kỷ 21 là bước vào
thời kỳ phát triển
tâm linh của
nhân loại trên trái đất. Các
tôn giáo sẽ phải làm tròn
sứ mạng của mình trong việc dẫn dắt
con người tiến hóa vào giai đoạn này. Trong vườn hoa muôn màu của các
tôn giáo hiện nay,
Phật giáo đã đóng góp một phần không nhỏ.
Từ lâu, trong
Phật giáo có những
pháp môn mật truyền được trao dạy cho các
đạo hữu nhưng không được
quảng bá nhiều vì chưa đúng
thời kỳ của nó.
Gần đây, theo với đà
tiến hóa của
nhân loại, cũng có nhiều
pháp môn được đưa ra để
thích ứng với nhu cầu đòi hỏi của
tâm linh và có nhiều
tôn giáo đã phải
tìm cách hiện đại hóa
tín ngưỡng của mình.
Phật giáo đã từ lâu hướng dẫn hàng tỉ
con người đi vào con đường giải thoát mọi khổ đau trong kiếp sống, để biến trái đất này thành một
thiên đàng hạ giới. Và
Phật giáo quan niệm rằng, nếu ta không tìm được
thiên đàng ngay trong cuộc sống này thì việc đi tìm một
thiên đàng khác trên một
cõi giới nào đó chỉ là mong chuyện xa vời,
không tưởng.
Phật giáo chú trọng vào việc
xây dựng ngay
con người đích thực để tìm nơi mình một sự
tự do thực sự. Sự
tự do đó có được là vì cởi bỏ được những
ràng buộc phức tạp trong cái
xã hội đang
quay cuồng phát triển về
vật chất hiện thời. Trên chiều hướng đó, Mật môn của
Phật giáo là
phương tiện thích hợp có thể
đáp ứng được nhu cầu
thời đại. Sau hai mươi năm tìm học và
hành trì về
pháp môn này, tôi đã
nhận ra được điều đó.
Ngày nay bên
thế giới Tây phương đang hướng về
Đông phương để
đi vào con đường phát triển
tâm linh. Việc này đã được xác chứng qua hai thập niên
gần đây về sự hoằng dương của
Lạt ma giáo Tây Tạng cùng khắp Châu Âu và Châu Mỹ, mà
Lạt ma giáo lại là một ngành của
Phật giáo chuyên về khai triển các
pháp môn mật truyền.
Đối với
Việt Nam ta,
Mật tông đã
thịnh hành từ đời Đinh, Lê, nhưng rồi sau đó chìm sâu vào dòng
tiến hóa của
Đạo pháp,
cho đến ngày nay gần như thất truyền. Giờ đây, mỗi khi nói đến
Mật Tông thì đối với phần đông
Phật tử gần như
xa lạ và chẳng hiểu gì về
môn phái này. Thậm chí có những người tự nhận là tu Mật, nhưng đã không
hiểu rõ lý Mật và cũng chẳng có chút
kiến thức nào, dù là rất nhỏ về
Mật Tông nữa. Cũng
vì vậy mà một số lớn
Phật tử đã coi
Mật Tông như một ngành chuyên về bùa phép, cầu phước,
giáng họa, sai phái
quỷ thần,
trừ khử tà ma,
dị đoan mê tín. Nếu hiểu một cách phiến hiện như
vậy thì thật là oan cho
Mật Tông quá!
Thật ra
Mật Tông là một hướng đi gồm nhiều
pháp môn chuyên tu giải thoát, với những
phương tiện thiện xảo, có thể đưa
hành giả đạt được những
quả vị lớn hay nhỏ,
chắc chắn thành tựu ngay trong
hiện kiếp này.
Chúng tôi, sau một
thời gian nghiên cứu và
tu học đã thấy được cái xâu xa và cao vời của
pháp môn này, rồi càng vào thì càng thấy được những
hoa thơm cỏ lạ trong khu rừng cấm mà
xưa nay ít người đặt chân vào đó.
Hôm nay, trên
tinh thần thấy miếng bánh ngon muốn chia phần cho các bạn, tôi đã không quản tài sơ, trí thiển mà viết ra đây một số câu
vấn đáp nhằm
mục đích giới thiệu với các bạn có duyên với Mật môn về một ngành học của
Phật giáo mà ít người biết rõ.
Tập sách này tuy mỏng nhưng
tương đối đầy đủ và cô đọng, có thể nói lên được “Thế nào là Mật Tông”, người tu mật đứng ở
vị trí của mình sẽ phải nhìn đời thế nào, cũng hành xử làm sao.
Đây chỉ là cuốn sách đầu tiên trong tủ sách Mật mà
chúng tôi giới thiệu cùng quí vị. Rồi đây
chúng tôi sẽ
lần lượt trình bày một số
vấn đề chuyên biệt, một vài
pháp môn trong
Mật giáo với
nghi thức hành trì để giúp quí vị làm quen với Mật.
Chúng tôi nghĩ rằng sự đóng góp nhỏ bé của mình
chắc chắn có nhiều
thiếu sót, xin
chân thành kính mong các bậc
cao minh tha thứ và
vui lòng chỉ dạy cho.
Chúng tôi xin
hồi hướng công đức này về
Nhất Thiết Trí cùng
Pháp giới chúng sanh. Nguyện cho
chúng hữu tình sớm
thành chánh giác.
Nam Mô Tỳ Lô Giá Na PhậtMẬT NGHIÊM CỬA MỞCửa
MẬT GIÁO ngày hôm nay đã mở,
Không khoa trương,
không giới thiệu
ồn ào.
Ai có duyên thì xin cứ bước vào,
Vườn hoa lạ chờ đón chào
lữ khách.
Đến với mật phải là người
trong sạch,
Tâm
bao la và chẳng thấy còn TA.
Vũ trụ đây ấy mới thật là nhà,
Và
vạn vật ấy mới là bạn hữu.
Con đường mật là
con đường Vĩnh Cửu,
“Bản bất sanh” bừng sáng tự nơi Tâm.
Đến và đi đều
lặng lẽ âm thầm,
Làm Phật sự không thấy mình trong đó.
Cũng chẳng thấy
chúng sinh muôn vật có,
Vì
duyên sanh nên
vô ngại lâu rồi
Bởi người đời
chấp trước đó mà thôi,
Nên
mãi mãi luân hồi trong biển khổ,
Cửa
Mật Giáo ngày hôm nay đã mở,
Rộng
thênh thang đường
thất bảo rõ ràng,
Chuyển mục
thân thành Phật chẳng
mơ màng.
Cứ tiến bước chẳng
bàng hoàng sợ sệt.
Đường
luân hồi chúng ta đi đã mệt,
Hãy dừng chân và
quyết định ngừng thân.
Đừng mê trần và cuộc sống
phù vân,
Phải
chuyển hóa để chở về
thể tánh.
Đừng đem trí
thế gian ra
so sánh,
Đường Mật thừa
rực rỡ ánh
hào quang.
Bước ngay đi đừng
lúng túng ngỡ ngàng,
Chỉ một bước là qua ngay bến giác.
Cửa giải thoát là
KHÔNG VÔ TƯỚNG TÁC,
Là vượt trên cả
thiện ác bình thường.
Là
trở về ngay cuộc sống miên trường.
Nhập
vũ trụ thật
bao la bát ngát.
Đến
nhân thế với lời ca tiếng hát,
Khi đi rồi mà tiếng hát còn vang.
Thế nhân ơi! Sao
chìm đắm mơ màng…
PHẦN I
MẬT TÔNG LÀ GÌ?Hỏi:
Mật Tông là gì?
Đáp:
Mật Tông là một
tông phái của
Đạo Phật dùng các “MẬT NGỮ” của chư Phật làm
phương tiện tu hành.
Hỏi:
MẬT NGỮ là gì?
Đáp:
Mật ngữ có nghĩa là “lời nói kín”.
Mật ngữ còn gọi là “Chân ngôn” (
lời nói chân thật).
Mật ngữ còn gọi là “Chú”, đây là tiếng thông thường người đời hay dùng nhất.
Chú cũng có nghĩa là
lời nói bí mật.
Hỏi:Tại sao nói là bí mật?
Đáp: -
Bí mật vì nó không được
giải nghĩa.
-
Bí mật vì chỉ có chư Phật mới hiểu
trọn vẹn.
-
Bí mật vì tùy
trình độ,
căn cơ và sự
ứng dụng mà mỗi người một khác, đạt một kết quả khác.
-
Bí mật vì nó chỉ được
thông đạt qua
Tâm truyền Tâm, giữa thầy trò, giữa chư Phật (hoặc người nói ra
chân ngôn) với
hành giả. Điều này chỉ người nào tu Mật rồi mới
chứng nghiệm được).
-
Bí mật vì kết quả
đạt được tùy Tâm hành giả.
Hỏi: Tại sao lại dùng “Chú” làm
phương tiện tu hành?
Đáp: Tu theo
đạo Phật có rất nhiều cách để đi tới “cứu cánh giải thoát”, có người
niệm Phật, có người
tụng kinh, có người
ngồi Thiền,
vậy thì dùng “Chú” cũng chỉ là mượn xe đi đến đích mà thôi.
Hỏi: Tại sao lại chọn “Chú” mà không dùng các cách
niệm Phật, tụng kinh?
Đáp: Trong một cuộc
hành trình muốn đi tới một điểm nào đó, người ta thường thích chọn xe nào đi cho nhanh và thỏa mái.
Vậy thì việc chọn “Chú” mà không dùng các
phương tiện khác là như thế.
Hỏi: Tại sao lại nói dùng “Chú” là
phương tiện đi nhanh?
Đáp: Vì dùng “Chú” thì ngoài “tự lực” của mình còn nhờ “tha lực”, giống như đi thuyền biết trương buồm nên nhờ được gió đẩy mà đi nhanh hơn.
Hỏi: Thế nào là “tự lực” và “tha lực”?
Đáp: “Tự lực” là
dựa vào sức của chính mình mà thành việc. “Tha lực” là nhờ vào sức khác ở ngoài mình trợ giúp. Người tu
Mật Tông nói đến
tha lực là nói đến sức hỗ trợ vô hình từ các cõi
xuất thế gian đưa đến.
Hỏi: Tại sao lại phải nhờ vào tha lực?
Đáp: Bởi vì sức người có hạn mà sức ngoài thì vô hạn, nếu ta biết nương vào sức đó thì sẽ giúp ta sớm đạt kết quả.
Hỏi: Nhờ đâu ta có
tha lực hỗ trợ?
Đáp: Nhờ ở
chân ngôn tức “Chú”.
Hỏi:
Căn cứ vào đâu mà nói “Chú” có
tha lực giúp ta mau thành tựu?
Đáp: Điều này thuộc về
bí mật, mà chỉ có thể
chứng minh được bằng:
-
Đức tin của mình,
- Sự
chứng nghiệm, và
- Cảm nhận.
Kết quả chỉ được
chứng minh khi đã
hành trì.
Hỏi: “Chú” do đâu mà có?
Đáp: “Chú” do
TÂM Phật mà có. “Chú” do lòng
thương xót chúng sinh mà có. Chư Phật, chư
Bồ tát hoặc các vị khác khởi
từ tâm chân thật, từ lòng
thương xót chúng sinh mà nói ra “Chú” để
cứu độ. Vì “Chú” phát xuất
từ TÂM CHÂN THẬT nên mới gọi là “Chân ngôn”.
Hỏi: Đọc “Chú” có
lợi ích gì?
Đáp: Vì “Chú”
xuất phát từ chỗ vô hạn là
Tâm Phật nên
lợi ích của nó cũng
vô cùng, không thể kể hết.
Tuy nhiên, đối với người tu thì
lợi ích đứng đắn và
thiết thực nhất là: “Chú” giúp ta được tìm cầu
giải thoát mau chóng và giúp người khác cùng tiến với ta. Còn các
lợi ích khác như có
thần thông,
trừ tà ma, chữa bệnh chỉ là phụ, không nên nhìn “Chú” bằng con mắt hạn hẹp đó.
Hỏi: Những ai đọc “Chú” được?
Đáp: “Chú” là
phương tiện của Phật cho mượn nên ai mà chẳng có quyền đọc.
Tuy nhiên khi ta mượn một cái xe thì điều
cần thiết là ta có biết
sử dụng nó hay không.
Nếu không thì xe sẽ
trở thành một trở ngại, một khó khăn cho ta, làm cho ta dừng lại với xe mà không tiến được trên đường Đạo. Bởi vậy, những người biết lái xe, hiểu bệnh của xe, phải là những người được huấn luyện chuyên môn. Do đó đọc “Chú” thì ai cũng có thể đọc được, nhưng có kết quả hay không, nhiều hay ít, đó mới là
vấn đề, ấy là chưa nói đến cái hại có thể đến nữa.
Nói thế không hẳn là chỉ những người
tu chân ngôn mới được đọc “Chú” mà bất cứ ai nếu với
tâm thành thật, hướng đến sự
tốt lành cho mình, cho người,
vẫn có thể dùng “Chú” mà vẫn thấy
linh nghiệm.
Hỏi: Đọc “Chú” đòi hỏi những
điều kiện gì?
Đáp: Đương nhiên là cần một số
điều kiện. Thông thường ta phải có:
- Sự
tin tưởng vững chắc vào “Chú”,
-
Lòng thành khẩn khi đọc,
- Hướng về làm
lợi ích cho
tha nhân hay các
chúng sanh.
Đối với người tu
Mật Tông thì còn cần nhiều điều khác nữa như:
- Phải xả thế nào.
- Phải
dụng tâm ra sao
- Phải
dụng ý thế nào
- Phải
dụng lực làm sao
- Phải trì tụng thế nào trong bốn
oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi.
- Phải làm thế nào
Tam mật tương ứng- Phải làm
lợi ích cho
chúng sanh thế nào, và
- Phải
hồi hướng công đức ra sao.
Tất cả những điều đó, nói riêng cho người tu Mật, sẽ được
giải đáp trong phần II, nói về người tu
Mật Tông phải làm gì?
Hỏi: Khi nào nên đọc “Chú”, khi nào không nên đọc?
Đáp: Nên đọc những lúc
tâm thanh tịnh, hướng về làm
lợi lạc cho người khác, cho
chúng sanh.
Tuy nhiên lúc Tâm
rối loạn thì “Chú” cũng giúp cho tâm được
an ổn. Không nên đọc “Chú” khi tâm ác, có ý hại người.
Đối với những người tu
Mật Tông thì không lúc nào là không nên đọc “Chú”,
vấn đề là nên đọc “Chú” nào và vào
trường hợp nào để làm
lợi lạc chúng sanh.
Hỏi: Đối với người tu
Mật Tông thì việc trì “Chú” là gì?
Đáp:
Mục đích tối hậu là
giải thoát cho mình và để
cứu độ người khác.
Mục đích là phải tu
thành Phật bằng
phương tiện trì “Chú” ngay trong
hiện kiếp này.
Hỏi: Muốn tu
thành Phật bằng
phương tiện trì “Chú” thì phải làm sao?
Đáp: Thì người
hành giả tu
Mật Tông phải
thực hiện được “Tam Mật tương ưng”, nghĩa là làm sao cho “Thân, Khẩu, Ý giống như Phật”.
Hỏi: Làm thế nào để được “Tam Mật tương ưng”?
Đáp: Muốn được “Tam Mật tương ưng” thì phải qua một quá trình
tu tập hành trì. Đi nhanh hay chậm là do sự
tự ngộ và mở Tâm của mình.
Hỏi: Người tu
Mật Tông đối với GIỚI, ĐỊNH, HUỆ như thế nào?
Đáp: Tu theo
Phật đạo mà muốn
thành tựu thì chẳng
Tông Phái nào mà không có GIỚI – ĐINH - HUỆ cả.
Đối với
Mật Tông, GIỚI là
Tâm giới,
tịnh giới. Như vậy có nghĩa là tự lòng mình thấy cần
giữ giới, tự mình
trở về với cái tịnh, cái sạch, đó là “thân tương ưng”,
nếu không giới tịnh thì việc tu không kết quả. Khi đã giới rồi thì vào ĐỊNH chẳng khó, vì tự
giữ giới đã sinh Định, rồi lại còn nương vào oai lực của
chơn ngôn nữa thì kết quả phải đạt. Do Định đó mà Huệ phát là chuyện tất nhiên vậy.
Tuy nhiên, nếu nhìn sâu hơn thì
ĐỊNH HUỆ là một, không có rời nhau. Do đó, nếu
giữ giới rồi sau đó nương vào
chân ngôn mà
hành trì thì
tự nhiên đủ cả Định, Huệ.
Hỏi:
Mật Tông thuộc
Tiểu thừa hay Đại thừa?
Đáp:
Phân chia Tiểu thừa,
Đại thừa chỉ là tạm tách ra cho
dễ hiểu về đường hướng
tu tập và qua niệm
hành trì mà thôi.
Mật Tông không nằm trong thừa nào kể trên cả, mà đường đi của
Mật Tông là
con đường ngắn nhất, nhanh nhất, một bước đến
giải thoát mà người ta gọi đó là “TỐI THƯỢNG THỪA”.
Hỏi: Thế nào là “Tối thượng thừa”?
Đáp:
Tối thượng thừa là một bước
đi lên “thành Phật”.
Tối thượng thừa là:
vạn pháp thông đạt,
vạn pháp đầy đủ, tâm
vô cấu nhiễm, lìa các
pháp tướng đi thẳng vào
TÂM Phật.
Hỏi: Đường lối của
Mật Tông ra sao?
Đáp: Đối với
Mật Tông tu là để “cứu độ”
chúng sinh chứ không phải là để “giải thoát” cho riêng mình. Do đó, đường lối của
Mật tông là: ở
mọi nơi, trong mọi lúc đều nhằm làm
lợi lạc cho
chúng sinh.
Hỏi:
Mật Tông khác với các
tông phái khác như thế nào?
Đáp: Về
mục đích sau cùng của các
tông phái đều
đạt đến Giác ngộ giải thoát.
Vậy thì Mật Tông cũng không đi ra ngoài
mục đích đó, nếu có khác chăng chỉ khác trên
phương diện hành trì đối với các
Tông phái khác mà thôi,
hay nói khác đi là chỉ khác nhau về cách dùng
phương tiện để
đạt đến mục đích “cứu cánh”. (
Vấn đề này sẽ được bàn rộng hơn ở phần III nói về “Quan niệm của người tu Mật”). Còn về sự khác nhau trên
phương diện độ sanh thì tôi không nói đến, vì tất cả đều “tùy duyên” mà
đáp ứng.
Hỏi: Tu
Mật Tông có khó không?
Đáp: Khó hay dễ là do mình. Các cụ thường nói “Vạn sự khởi đầu nan”, nghĩa là
mọi việc khi bắt đầu đều khó, nhưng lúc quen rồi thì thấy dễ thôi.
Hỏi: Người nữ có tu được
Mật Tông không?
Đáp: Đạo không
phân chia nam, nữ. Phật không chọn nam, nữ để độ riêng. Vậy tại sao ta lại phân biệt? Đã là đi tìm
giác ngộ thì già, trẻ, lớn, bé, trai gái gì mà không được!
Hỏi: Người ta thường nói “Tự Tu Tự Độ” vậy
Mật Tông có như vậy không?
Đáp: Nên hiểu nghĩa “Tự Tu Tự Độ” là mình phải tự tu cho mình, không ai tu giùm hoặc tu mướn cho mình được, đừng hiểu là “tu không cần Thầy”. Các cụ đã dạy “Không thầy đố mày làm nên”.
Vì vậy, dù là
thế gian hay
xuất thế gian, làm việc gì muốn
đạt đến mục đích mau chóng và
toàn mỹ thì đều phải có học và có Thầy cả.
Mật Tông cũng như vậy thôi.
Hỏi: Người ta thường thấy đọc chú, bắt ấn cho là
mê tín và hành tà giống như mấy ông thầy pháp. Vậy
Mật Tông thì sao?
Đáp: Khi nào tin một cách
mù quáng thì là
mê tín thật, còn người tu
Mật Tông thì biết rõ việc mình làm, thẩy rõ
mục đích mình đi tới, vậy sao gọi là
mê tín được.
Còn việc
tà chánh thì phải hiểu là Đạo không có
phân chia Tà, Chánh. Mà Tà hay Chánh là do TÂM ý người
hành Đạo. Nếu ta tu theo
Chánh đạo, nhưng ta dùng
phương tiện đi làm việc xấu, cướp đoạt tiền bạc,
vợ con của người, lòng đầy tham, sân, si, thì đó là ta hành tà. Còn nếu như thầy Pháp mà người ta làm việc cứu người không nghĩ đến
lợi ích cá nhân, không hại người lành, ngăn chặn kẻ ác thì đó là chánh chớ đâu phải tà.
Về người tu
Mật tông thì là “Tu để thành Phật” vậy tà làm sao được? Phật và
Ma chỉ khác nhau ở lòng “Từ Bi Cứu Độ” mà “Từ Bi Cứu Độ” là
tôn chỉ của
Mật Tông đấy.
Hỏi: Tu
Mật Tông có cần
ăn chay giữ giới không?
Đáp: Nếu
ăn chay được thì tốt, vừa ít bệnh tật lại mau
tiến tu hơn, vì
thân thể thanh tịnh. Còn
như không ăn chay được thì cũng vẫn tu được, chỉ có điều là ta đã không
thể hiện lòng từ bi của Phật, vì ta đã dùng
thân mạng của một
chúng sanh khác nuôi sống
thân mạng của ta.
Về
giữ giới thì người
Phật tử nào đã
quy y rồi thì đều phải giữ
năm giới:
- Không
sát sanh- Không trộm cướp
- Không
tà dâm- Không nói sai,
nói dối, nói đôi chiều, nói đâm thọc
- Không uống rượu.
Người tu
Mật Tông cũng vậy thôi, và
vấn đề này sẽ được bàn đến trong phần sau, khi nào người tu
Mật Tông đã
hành trì tự nhiên không nói đến
giữ giới mà lại tự
giữ giới hơn ai hết.
Hỏi: Biệt làm sao để chọn “Chú” nào mạnh, “Chú” nào yếu, “Chú” nào linh, “Chú” nào không?
Đáp: Mạnh hay yếu khi nào học và
hành trì thì sẽ rõ, còn linh hay không là ở mình. Các cụ thường nói: “Linh tại ngã bất linh tại ngã” ta không nên quên điều đó.
Hỏi: Người
Phật tử khi
đọc kinh sách gặp một câu “Chú” thấy ghi những kết quả lớn nên đem trì tụng, như vậy có
ích lợi gì không?
Đáp: Có lợi nhưng rất nhỏ nhoi, không
đáng kể so với
lợi ích đã ghi chép trong kinh sách.
Hỏi: Vì sao
lợi ích lại nhỏ?
Đáp: - Vì lòng còn tham, muốn
cầu lợi ích riêng mình,
- Vì tâm còn nhỏ hẹp nên sự
linh ứng không lớn
- Vì không biết dùng “Chú” nên sự
đáp ứng chẳng được
như ý,
- Vì thiếu ấn pháp nên chưa
trọn vẹn,
- Vì
công đức chưa đủ mà lại muốn được
thành tựu lớn.
Hỏi: Vì sao đọc “Chú” lại cần bắt ấn?
Đáp: Ấn là
bí pháp thuộc về “thân mật”, khi nào tu lâu sẽ hiểu. Đại để có thể tạm
giải thích: khi ta bắt ấn thì làm phát huy cái lực của “Chú”, cũng
ví như mở đài, tivi mà có thêm cây ăngten vậy.
Đối với người tu Mật thì việc bắt ấn còn là một sự “thể nhập” vào
pháp thân Phật nữa.
Hỏi: Tại sao người tu
Mật Tông lại gọi là “Trì Chú”?
Đáp: Trì có nghĩa là nắm giữ lấy. Nếu ta chỉ đọc không thôi thì nó sẽ theo gió mà bay đi. Còn khi nói “Trì” thì phải nghe rõ “Chú” , phải theo
âm thanh của “Chú”
mãi mãi không rời. Đó là sự khác biệt giữa “ĐỌC” và “TRÌ”.
Hỏi:
Trì chú, bắt ấn bao lâu thì có kết quả?
Đáp: Người tu
Mật Tông nói đến “thành tựu” để
cứu độ chúng sanh chớ không mong cầu kết quả cho mình. Còn
thành tựu lâu hay mau, lớn hay nhỏ đều do ở mình, chỉ có hai
điều chắc chắn cò thể nói được: Một là tu
Mật Tông thì tiến từng giờ, từng ngày. Hai là đã tu thì sẽ có
thành tựu, chỉ khác nhau ở chỗ lớn hay nhỏ mà thôi.
Hỏi: Thế nào là tiến từng ngày, từng giờ?
Đáp: Điều này thuộc về
chứng nghiệm, chỉ khi nào tu mới thấy rõ được.
Tuy nhiên có thể nói rằng nương vào
chân ngôn,
hành giả tiến được rất nhanh. Giờ sau khác giờ trước, ngày sau khác ngày trước.
Hỏi:Tại sao
thành tựu lại khác nhau lớn hay nhỏ?
Đáp: Đối với một
hành giả, thì sự
thành tựu lớn hay nhỏ là do tâm mình. Còn nếu đem
so sánh giữa hai
hành giả tùy theo căn cơ,
phước đức và sự mở tâm của mỗi người mà có sự khác biệt.
Tuy nhiên, nếu gắng công tu để
đạt được sự “tương ưng” thì cái
thành tựu ban đầu nhỏ sau cũng sẽ lớn lên vô hạn. Do đó người
hành giả đừng sợ là không
thành tựu và cũng đừng buồn khi
thành tựu nhỏ.
Hỏi: Muốn tu
Mật Tông thì cần có những
điều kiện gì?
Đáp:
Cửa Phật rộng mở không ngăn chê ai nên không cần
điều kiện. Chỉ cần người tu thực lòng muốn “cứu độ chúng sanh” là tu được thôi. Nếu ta đã sắn
đức tin và có
lòng từ thì ta tu đâu có gì trở ngại.
Hỏi: Điểm nào là điểm mà
Mật Tông hơn hẳn các
tông phái khác?
Đáp:
Mật Tông chỉ đem
so sánh với các
tông phái khác để biết sự khác biệt thôi, chứ không phải để
phân biệt hơn kém.
Hỏi:
Vậy thì sự khác biệt ra sao?
Đáp: Điểm
nổi bật và dễ
nhận thấy nhất, đó là
Mật Tông lấy “Chú” làm
phương tiện, và do
phương tiện này đem đến những
lợi ích đặc biệt lớn lao.
Hỏi:
Lợi ích đặc biệt thế nào?
Đáp: “Nghiệp” là cái đem
con người trôi lăn trong
sanh tử luân hồi, nay nhờ “Chú”, ta chuyển được Nghiệp, giải được Nghiệp để sớm
giải thoát. Đó là điểm khác biệt quan trọng nhất của
Mật Tông so với
tông phái khác.
Hỏi: Còn điểm nào khác nữa?
Đáp: “Chú” còn giúp
hành giả lập công bồi đức và tiêu tội nữa.
Đấy là chỉ kể những
lợi ích thiết thực cho
vấn đề giải quyết sanh tử luân hồi thôi, chứ chưa nói đến
lợi ích chữa bệnh, tăng thêm thọ mạng…
Hỏi:
Phật tử theo
tông phái khác, nay xem kinh sách rồi tự mình “trì CHÚ” và “bắt ẤN” như vậy có được không?
Đáp: Được chứ, có ai cấm đâu!
Tuy nhiên,
tu học kiểu đó cũng giống như người mù chơi dao, lợi bất cập hại (lợi ít hại nhiều).
Hỏi: Tại sao lợi ít mà hại nhiều?
Đáp: Vì “Chú” là con dao hai lưỡi, nếu biết xài thì rất nhạy bén còn không biết xài thì dễ bị đứt tay.
Hỏi: Vậy là thế nào?
Đáp: Đã gọi là “Thần chú” vì có những
linh nghiệm lớn, thì cũng có những
tác hại không nhỏ cho người
hành giả nếu không biết
sử dụng.
Hỏi: Hại ra sao?
Đáp: Đã có biết bao nhiêu
tu sĩ cũng như
Phật tử trì chú lâu ngày
trở thành khùng điên hoặc bất
bình thường. Đó là
phản ứng tất nhiên của “Chú”.
Hỏi: Như vậy, muốn “trì CHÚ” và “bắt ẤN” phải làm sao?
Đáp: Phải được
truyền pháp một cách
đúng đắn qua các
tu sĩ Mật Tông, hoặc những người
tu học Mật, chứ không nên tự mình làm ẩu.
Hỏi: Muốn được
truyền pháp thì phải làm sao?
Đáp: Thì phải
gia nhập dòng
pháp Mật Tông.
Hỏi: Nhập dòng pháp là thế nào?
Đáp: Là xin theo nhập học, tu theo
Mật Tông.
Hỏi:
Gia nhập dòng pháp cần
điều kiện gì?
Đáp:
Cửa Phật rộng mở,
pháp môn thì nhiều, ai hợp môn nào thì theo môn ấy, không có gì đòi hỏi ở người
phát tâm tu hành cả.
Mật Tông cũng giống như các
tông phái khác là muốn xin học thì phải được làm lễ ra mắt với chư Phật, với Tổ Pháp bằng một lễ “Quy y Quán Đảnh”.
Hỏi:
Phật tử đã
quy y rồi, thuộc
tông phái khác, nay theo
Mật Tông được không?
Đáp: Đã
quy y rồi thì không cần
quy y nữa, nhưng phái làm lễ “Quán đảnh”. Đang theo
tông phái khác mà nay muốn theo
Mật Tông thì phải xin phép “Sư Môn”, tức xin phép thầy mình đã, khi được
chấp thuận thì mới xin
gia nhập được.
Hỏi: Xin
cho biết sơ qua về
lịch sử Mật Tông.
Đáp:
Mật Tông là một
tông phái của
Đạo Phật đã có từ lâu, nhưng ít
phổ biến như các
tông phái khác vì nhiều
lý do (xem phần III nói về
quan niệm của người tu
Mật Tông sẽ rõ). Đại để, có thể nêu ra một vài điểm:
- Vì Mật nên không truyền rộng được,
- Vì rất ít người có đủ
căn cơ để
tu học và có duyên để gặp,
- Vì
nhân duyên của
chúng sinh khi nào hội đủ thì
Mật Tông mới có mặt.
Do đó
lịch sử của
Mật Tông không có một sự
truyền thừa tuần tự từ vị tổ này đến vị tổ khác, đời này tiếp đời khác như
Thiền Tông hay
Tịnh Độ.
Mật Tông đi chìm, chỉ nổi khi cần
cứu độ chúng sanh, sau lại chìm đi không để ai biết. Đó cũng là
đặc điểm của
Mật Tông vậy.
Tuy nhiên,
Mật Tông khi truyền qua Nhật thì ở đây cũng tạm lập một
hệ thống truyền thừa như sau:
Tổ Pháp là đức
ĐẠI NHẬT NHƯ LAI, sau truyền cho ngài
KIM CANG TÁT ĐỎA, Ngài
KIM CANG TÁT ĐỎA truyền cho ngài
LONG MÃNH vv.. theo
hệ thống dưới đây:
1.
Đại Nhật Như Lai2.
Kim Cang Tát Đỏa3.
Long Mãnh tức
Long Thọ4.
Long Trí5.
Kim Cang Trí6.
Bất Không7.
Huệ Quả (
Trung Quốc)
8.
Không Hải (
Nhật Bản)
Ở
Việt Nam thì đời nhà Lý có các
Pháp sư nổi tiếng như:
- Từ
Đạo Hạnh- Nguyễn
Minh Không.
Đời Trần, đời Lê sau này cũng có nhưng không
hiển lộ và không lập
môn phái.
Hỏi:
Mật Tông thịnh hành nhất ở đâu?
Đáp: Như trên đã nói,
Mật Tông không
phổ biến nên ở nước nào cũng có, nhưng đem
hành sử một cách
rộng rãi thì rất khó thấy được, nhất là ở trong các nước mà
Phật giáo chiếm
đa số dân chúng.
Tuy nhiên có thể nói đến một nước
tiêu biểu nhất có nhiều người tu
Mật Tông, đó là
Tây Tạng trước năm 1950, và bây giờ là ở Nhật.
Hỏi: Đức
Đại Nhật Như Lai thành Phật bao giờ, lại gọi là Tổ Pháp?
Đáp: Đức
Đại Nhật Như Lai thành Phật trên
cõi trời Vô Sắc,
thuyết pháp độ sanh từ ở đó. Ngài là một
hóa thân của đức TỲ
LÔ GIÁ NA. Ngài là
pháp thân.
Vì ngài
thuyết kinh Đại Nhật, Ngài dạy về
pháp Mật nên tôn ngài là Tổ Pháp của
Mật Tông.
Hỏi:
Mật Tông có kinh riêng à?
Đáp: Kinh chỉ là
phương tiện hướng dẫn
tu hành. Những kinh thuyết riêng về
Mật Pháp cho người tu
Mật Tông hành trì gồm có:
- Kinh Đại Nhật
-
Kinh Kim Cang Đảnh- Kinh
Tô Tất Địa- Kinh Mật Nghiêm…
Kinh Đại Nhật tức là kinh “Tỳ
Lô Giá Na thành Phật”.
Và Tạng cũng có bộ “Mật Tạng”.
Nhưng đại để những kinh sách này hầu như chưa được dịch sang tiếng Việt, nếu có chăng, chỉ là những phần “trích dịch” mà thôi, phần đông còn là chữa Hán. Đây cũng là một khó khăn không nhỏ cho người tu Mật thời nay, nhưng đây không phải là một trở ngại.
HÀNH GIẢ MẬT TÔNGDu già hành cước khắp nơi,
Không nơi ngừng nghỉ chẳng dời
chân tâm.
Đi vào cuộc sống âm thầm
Quên mình vì đạo chẳng nhằm lợi danh.
Hàng ngày trong việc
độ sanh,
Sống vì
trần thế đấu tranh chẳng ngừng.
Đi hoài chẳng có chỗ dừng,
Nơi nào cần tới
vui mừng đến ngay.
Thời gian chẳng kể đêm ngày,
Cứ đi, đi mãi như say tình đời.
Làm tròn “Mật Hạnh”
sáng ngời,
Ra vào cuộc thế như chơi ván cờ.
26-10-1986
MẬT NGHIÊMPHẦN II
NGƯỜI TU MẬT PHẢI LÀM GÌ?
Hỏi: Người tu
Mật Tông phải làm gì?
Đáp: Người tu
Mật Tông phải “vừa tu vừa cứu độ”. Thế có nghĩa là hàng ngày trong mọi lúc, ở
mọi nơi đều phải nghĩ đến
việc làm lợi lạc cho
chúng sinh.
Hỏi: Thế nào là mọi lúc mọi nơi?
Đáp: Trong mọi lúc là khi ngủ cũng như khi thức, khi làm việc cũng như khi nghỉ ngơi, khi ăn cũng như khi uống…
Tóm lại là bất cứ lúc nào.
Hỏi: Thế nào là ở mọi nơi?
Đáp: Ở
mọi nơi có nghĩa là ở nhà cũng như khi ra đường lúc ngồi trên xe cũng như khi vào nhà quen, lúc đến
công sở cũng như khi
đi vào nhà thương…
Tóm lại là trong mọi cuộc
tiếp xúc hàng ngày.
Hỏi: Làm
lợi lạc là thế nào?
Đáp: Làm
lợi lạc có nghĩa là đem lại sự
lợi ích và niềm an vui cho kẻ khác. Sự
lợi ích và niềm an vui về
tâm linh và
tinh thần, đây là một điều mà chỉ có những người tu
Mật Tông là có thể làm được.
Hỏi: Làm
lợi lạc cách nào và bằng cái gì?
Đáp: Làm
lợi lạc bằng cách “Chú nguyện”, dùng “Chân ngôi Chú pháp”. Đây là một
hình thức bố thí có thể được xếp vào loại “Pháp thí”. Kinh Phật dạy: “Pháp thí cao hơn tài thí”, có nghĩa là cao hơn cho người ta tiền bạc. mà sự
bố thí này lại là
Ba la mật, nghĩa là
tuyệt đỉnh, ở chỗ mình đem cho mà chẳng cần người được
cho biết đến, và cũng không cần họ
đền ơn.
Hỏi:
Chúng sinh là ai?
Đáp:
Chúng sinh đây phải hiểu theo nghĩa rộng, là mọi loài
hữu tình cũng như vô tình ở trong
thế gian cũng như ngoài
thế gian. Tùy
trường hợp, tùy
hoàn cảnh mà
cứu độ.
Hỏi: Như
vậy thì việc chính của người tu
Mật Tông là làm gì?
Đáp: Là
cứu độ.
Lẽ dĩ nhiên người tu
Mật Tông cũng phải lo cuộc sống hàng ngày như những người khác. Nhưng khác người thường ở chỗ vừa làm việc vừa tu, mà tu là “cứu độ”.
Sách có nói: “Những người tu
Mật Tông là những người
bình thường đi giữa
cuộc đời, mang
lý tưởng Bồ tát, trên tiếp thông với các bậc
Giác Ngộ, dưới cứu giúp chúng sanh”.
Hỏi:
Cứu độ thế nào?
Đáp: Cũng giống như người thường, trong những
hoàn cảnh mà mình có khả năng giúp đỡ người khác, thì người tu
Mật Tông không từ nan mà thật tình giúp đỡ một cách
vô vị lợi. Có thể giúp bằng tài vật, bằng
sức lực, trị bệnh… Nhưng khác người thường ở chỗ, kèm theo sự giúp đỡ đó, người tu
Mật Tông dùng
phương tiện mình có, đó là: “Nguyện lực và Chơn ngôn”
cộng thêm vào nữa. Đây là sự giúp đỡ siêu hình, có
ảnh hưởng tâm linh không nhỏ.
Thường thì nói “cứu độ”, đây là về mặt siêu hình nhiều hơn.
Hay nói khác đi là dùng “Pháp thí” chứ không phải là “Tài thí”.
Hỏi: Xin nói rõ hơn và cho
thí dụ.
Đáp: A.
Thí dụ, khi cho tiền một người ăn xin, ngoài việc cho tiền, người tu
Mật Tông còn phải
chú nguyện:
- Để
đồng tiền của mình và của những người khác
bố thí giúp cho người
hành khất đó no đủ, hết bệnh tật,
- Để cho người
hành khất đó giải được nghiệp đi xin,
- Để cho những người
cùng khổ như người
hành khất này ở khắp
mọi nơi đều được giải nghiệp…
B.
Thí dụ đi thăm bệnh, thì ngoài việc biếu quà,
hỏi thăm,
an ủi người bệnh, người tu
Mật Tông còn phải dùng
phương tiện của mình để
chú nguyện cho:
- Người bệnh được mau lành, được
bình an,
- Giải bệnh căn, bệnh nghiệp cho người bệnh,
- Xin tăng thêm phước thọ cho người bệnh,
- Xin cho những người bệnh khác đều được qua khỏi…
C.
Thí dụ đi ăn đám giỗ, ngoài những
lễ nghi, quà cáp thông thường, người tu
Mật Tông phải
chú nguyện cho:
-
Vong hồn người
quá cố và những vong khác được
siêu thoát,
- Các người sống đều được khỏe mạnh và bình an…
Tóm lại, trong mọi
tiếp xúc,
mọi nơi đều phải làm lợi cho người khác bằng
phương tiện mình có.
Lời nguyện thì
tùy tâm của mỗi người, miễn sao nhắm đúng
mục đích làm lợi cho người ta.
Hỏi: Tại sao
Mật Tông lại chủ trương
cứu độ là chính?
Đáp: Chẳng riêng gì
Mật Tông mà các
tông phái khác trong
đạo Phật cũng đều
thực hiện việc
cứu độ, nhưng dưới nhiều
hình thức và
hoàn cảnh khác nhau, riêng
Mật Tông đặt nặng
vấn đề này hơn.
Hỏi: Vì sao đặt nặng
vấn đề này hơn?
Đáp: Vì người tu Mật là người mang
lý tưởng Bồ Tát! Trong chủ trương “Thượng cầu hạ hóa”, người tu Mật
quan niệm rằng đó là thực tu.
Hỏi: Vì sao nói đó là thực tu?
Đáp: Vì đó là làm tròn “cái sự” để đủ
hai mặt tự lợi và tự tha.
Hỏi:
Tự lợi ở chỗ nào?
Đáp:
Tự lợi ở chỗ
hằng thường mở rộng TÂM mình.
Hằng thường ở trong thiện niệm.
Hằng thường làm các
nghiệp lành.
Hỏi: Xin nói rõ hơn về thực tu.
Đáp: Tu thì phải hành, không hành thì chẳng chứng được “Cái lý”. Có
vậy thì “Lý - Sự mới viên dung”.
Các Tổ đã dạy 4 bước
tu hành là Tín, Giải, Hành,
Chứng nghĩa là Tin thì phải Hiểu, Hiểu thì phải Làm, Làm thì mới thấy kết quả.
Hỏi: Xin
giải nghĩa hai chữ “Cứu độ”.
Đáp: Cứu là giúp đỡ, đem ra khỏi chỗ nguy hiểm,
tai hại. Độ là
dìu dắt, nghĩa là chính là chở bằng đò qua sông.
Vậy “Cứu độ” là giúp đỡ,
dìu dắt người qua biển khổ, từ bên này bờ mê sang bên kia bờ giác.
Hỏi: Xin
cho biết tinh thần cứu độ của người tu Mật.
Đáp: Người tu Mật muốn làm tròn hạnh
cứu độ phải
thực hiện 2 điểm sau đây:
1.
Cứu độ không
phân biệt,
2.
Cứu độ mà không độ
Hỏi: Thế nào là
cứu độ không phân biệt?
Đáp: Nghĩa là không
khởi tâm phân biệt:
-
Thiện ác- Giàu nghèo,
- Sang hèn,
- Tốt xấu…
Hỏi: Thế nào là
cứu độ mà không độ?
Đáp: Nghĩa là không thấy mình
độ người, và không thấy có người được độ. Nghĩa là không vì danh, không vì lợi, không mong cầu đền đáp.
Hỏi:
Sâu xa hơn,
vấn đề cứu độ còn
ý nghĩa gì?
Đáp:
Sâu xa hơn ta phải hiểu hành động
cứu độ là
giải thoát.
Giải thoát cho mình và cho người.
Hỏi: Chủ trương
cứu độ là hay, nhưng làm sao để làm được dễ dàng?
Đáp:
Vạn sự khởi đầu nan, bạn cứ
thực hành đi sẽ thấy không khó, nếu mình có
quyết tâm và tự tin thì sẽ vượt
chướng ngại.
Hỏi: Người tu Mật có hành
lục độ không?
Đáp:
Cứu độ là
con đường làm tròn
quả vị, có cả 6 độ nằm trong đó.
Hỏi:
Cứu độ là
bố thí, sao lại nói có cả 6 độ nằm trong đó?
Đáp: Đúng vậy. Nếu bạn làm
hằng thường thì thấy “LỤC ĐỘ” trong đó cả. Vì sao? Vì khi
BỐ THÍ bạn đã đem
TRÌ GIỚI không sân, tham. Nếu bạn làm bằng thường thì đó là hạnh
TINH TẤN, cho mà không
cầu lợi, không mong đền đáp đó là hạnh
NHẪN NHỤC. Cho mà trong tâm luôn luôn
bình đẳng, không
phân biệt thân trù, trụ nơi
chánh niệm, đó là
THIỀN ĐỊNH. Cho mà
niệm niệm giải thoát đó là
TRÍ HUỆ.
Đây là
con đường đi đến
thành PHẬT đó bạn!
Hỏi: “Cứu độ” là “Ngoại công phu” còn “Nội công phu” người tu
Mật Tông phải làm gì?
Đáp:
Mật Tông không phân
nội ngoại, mà “tức nội tức ngoại”. Có thể tạm gọi là “Nội công phu” tức là những lúc
hành trì ở
Đạo Tràng hay khi
nhập thất. Đây là
đi vào phần kỹ thuật của
nghi thức chuyên biệt sẽ được trình bày trong phần III. Nhưng thật ra trong những giờ phút đó cũng có ngoại đấy.
Hỏi: Ngoài
cứu độ, người tu Mật còn chủ trương gì?
Đáp: Chú trương nhập cuộc. Chủ trương vào đời để đem lại
an lạc cho
mọi người, mọi vật…
Hỏi: Vì sao lại vào đời mà không tìm nơi
thanh vắng, hay
tu viện mà tu hành?
Đáp: Vì
Mật Tông chủ trương Đạo và Đời là Một. Đạo chính là Đời, xa Đời không có Đạo.
Hỏi: Nếu
vậy thì hành giả Mật Tông vào đời như thế nào?
Đáp: Vào đời bằng cách dấn thân,
quên mình để
cứu độ bằng
phương tiện thực tiễn, cả
vật chất lẫn
tinh thần, nhằm
mục đích tối thượng là cùng nhau
giải thoát. Nhưng phải luôn luôn:
-
Thức tỉnh tức là
sáng suốt,
- Xả kỷ tức là bỏ “cái Ta”, cái ngã,
-
Không chấp tức là
linh hoạt tùy duyên,
- Giữ
con đường Trung Đạo.
Hỏi:
Quan niệm của người tu Mật về “Tứ
Vô Lượng Tâm”, Từ, Bi, Hỉ, Xả?
Đáp: Người tu Mật lấy “XẢ” làm đầu, lấy “BI” làm
căn bản, lấy “TÙY HỶ”
chúng sanh làm hành động
tiếp xúc, lấy “TỪ” làm môi
trường sinh hoạt,
Hỏi: Người tu Mật, ngoài việc “trì CHÚ” có
đọc tụng kinh sách không?
Đáp: Có chứ! Như ở trên phần I đã trình bày, Mật môn lấy
Chơn ngôn làm
phương tiện, còn về phần
giáo lý là chung cho tất cả
mọi người, ai học Phật cũng đều phải
tìm hiểu.
Hỏi: Như vậy
Mật Tông không có kinh sách riêng à?
Đáp: Đây là câu hỏi lại vào phần chuyên biệt rồi. Thật ra thì có nhưng chưa được bao nhiêu. Trước đây cố
Thượng Tọa Thích Viên Đức đã dịch và cho phát hành một số kinh như:
-
Hiển Mật Viên Thông-
Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương,
-
Chuẩn Đề Đà La Ni-
Mật Pháp Nhất Tự Đà La Ni-
Quán Thế Âm Thập
Nhất Diện Thần Chú Kinh
- Kinh Tạp Tập
Đà La Ni- Kinh
Tô Tất Địa …
Thượng Tọa Thiền Tâm có dịch:
-
Đại Bi Kinh-
Tôn Thắng Phật Đảnh Kinh
Thượng tọa Thích
Quảng Trí có dịch:
-
Quán Thế Âm Bồ Tát A Lợi
Đà La Ni Kinh
-
Tô Bà Hô Đồng Tử Kinh
Thượng tọa Thích Đồng Hạnh có dịch:
-
Pháp yếu căn bản của
Mật Tông -
Thủ hộ Quốc Giới Chủ
Đà La Ni- …
Cư sĩ Phi Bằng dịch:
-
Thánh Cứu Độ Phật Mẫu Tu Trì Pháp
Cư sĩ Hồng Đức dịch:
- Đa rị
Tâm Kinh-
Đại Phật Đảnh Như Lai Phóng Quang Tát Đát Đa Bát Đát Ra
Đà La Ni Kinh
- …
Và giờ đây các vị
tôn túc còn đang
tiếp tục dịch để
hoằng dương Phật Pháp. Tôi xin
cung kính vọng bái và
tán thán công đức các ngài.
Hỏi: Kinh sách Mật môn nhiều như vậy sao nói là ít?
Đáp: - Ít là vì so với rừng
kinh điển Phật Giáo- Ít là vì chưa nói lên được
thực chất của Mật Thừa
- Ít là vì những
bộ kinh lớn chưa được dịch.
Hỏi: Kinh lớn là kinh nào?
Đáp: Hai
bộ kinh lớn của
Mật Tông hiện giờ ở
Việt Nam chưa ai dịch, đó là:
-
Đại Nhật Kinh-
Kim Cang Đảnh KinhHỏi: Tại sao vậy?
Đáp: Vì các vị
tôn túc chưa hội đủ
nhân duyên để làm. Đây là cả một
công trình lớn, cần sự đóng góp của nhiều người, và tốn nhiều
công phu cùng với
thời gian …
Ngoài ra, còn đòi hỏi người dịch phải có
trình độ thực tu,
thực chứng nữa.
Nhưng bạn đừng lo, chỉ với số ít ỏi được
giới thiệu trên kia, nếu bạn chọn lấy một pháp, rồi
chuyên nhất mà
tu hành, thì
chắc chắn cũng
được giải thoát.
Hỏi: Làm thế nào để chọn Pháp, và nên chọn Pháp nào?
Đáp: Phải cần có thầy, có bạn và phải được
thông suốt phần
căn bản Mật Tông.
Hỏi: Làm thế nào để tìm thầy Mật Tông?
Đáp: Có
nhân duyên thì gặp. Về Mật môn thì thầy đi tìm trò nhiều hơn là trò đi tìm thầy.
Hỏi: Ở
Việt Nam pháp Mật nào
phổ biến hơn cả?
Đáp:
Đại Bi và
Chuẩn Đề.
Hỏi:
Đại Bi và
Chuẩn Đề thì
đa số các nhà chùa theo
Bắc Tông đều có trì tụng, như vậy là
Mật Tông cả sao?
Đáp: Đúng!
Đa số nghi thức của những nhà chùa bên
Bắc Tông đều có trì
Đại Bi,
Chuẩn Đề và
Bát Nhã, nhưng đó chưa hẳn là Mật.
Hỏi: Vậy là Hiển hay sao?
Đáp: Người tu Mật không
phân biệt tách rời Hiển và Mật, mà
quan niệm là “Tức Hiển tức Mật”, có nghĩa là Hiển mà Mật đấy, Mật mà Hiển vậy.
Hỏi: Xin nói rõ hơn.
Đáp:Vì
đặc tính của dân tộc ta cương cường mà nhu hòa nên các
tôn giáo và
tư tưởng vào đây
dần dần bị
biến đổi để
thích ứng với địa phương.
Cũng vậy,
Đạo Phật phổ biến ở
Việt Nam từ đời Đinh rồi
cùng dân tộc này
trải qua bao nhiêu chìm nổi đổi thay, nên giờ đây các chùa
Bắc Tông cũng mang một sắc thái
đặc biệt khác hẳn chùa các nước
Trung Quốc, Nhật, Campuchia, Thái Lan, Ấn Độ… (mấy nước kể sau
đa số là
Nam Tông). Khác nhau ở chỗ
dung hòa trong
nghi thức không chia rõ chùa Thiền, chùa Mật hay chùa
Tịnh Độ Tông. Điều này có nghĩa là một sự
dung hòa các
Pháp Môn.
Bước vào chùa, đầu tiên vào nhà Tổ thì thấy thờ
Đạt Ma Tổ Sư là vị Tổ Thiền. Lên chùa thì thất cả tượng
Đức Di Đà, Đức
Thích Ca, Đức
Văn Thù,
Đức Phổ Hiền, Đức
Quan Âm, Đức Chuẩn Đề… Nghĩa là đủ tượng của
Tịnh Độ, của Mật, của Thiền… Sang phần
nghi thức hành lễ thì có đọc Chú, có
tụng kinh, đó là vừa hiển, vừa Mật đấy.
Đây cũng là điểm
đặc sắc của
Đạo Phật ở nước ta,
thường thường các thầy tu theo hai đường:
- Thiền Mật song tu
- Tịnh Mật song tu.
Ở
Việt Nam chưa có một chùa nào riêng của
Mật Tông , thờ theo đúng
Mạn Đà La, tức là
Đàn Pháp Mật, với các vị Phật
Mật tông như Tỳ Lô Giá Na… giống bên Nhật. Do đó
Mật Tông mà
chúng ta hành trì ở đây thường tự tu
tự chứng, không có một sự
truyền thừa rõ ràng và phần nhiều là “TẠP Mật” không phải “THUẦN Mật”.
Hỏi: Thế nào là tạp?
Đáp: - Tạp vì không
chuyên nhất,
thí dụ như tu
Tịnh Độ mà lại
trì chú Chuẩn Đề.
- Tạp vì tự học,
tự hành, không được
truyền thừa có
hệ thống.
- Tạp vì
giáo pháp tiếp nhận từ
ứng thân Đức
Thích Ca Mâu ni, thay vì
từ pháp thân Đức Tỳ
Lô Giá Na.
Nhưng dù sao tạp hay thuần thì cũng đều đi đến
cứu cánh là
giải thoát.
Hỏi: Mấy câu hỏi vừa nêu đã đi xa
tiêu đề của phần II là Người tu
Mật Tông làm gì? Giờ xin quay lại
chủ đề.
Đáp: Muốn biết làm gì thì cần nắm vững
vấn đề trước đã.
Tu Mật là
tu TÂM,
tu PHÁP, dùng Pháp làm
phương tiện, mà phải biết dùng “PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO” để đạt
cứu cánh giải thoát cho mình và người.
Hỏi: Thế nào là
phương tiện thiện xảo?
Đáp:
Phương tiện thiện xảo là
phương tiện thù thắng khéo léo,
phương tiện nhặm lẹ và
chắc chắn,
phương tiện vững vàng mà
hiệu quả,
phương tiện nhiệm màu và
thâm thúy nhất, để đưa người tu Mật vượt bể
khổ luân hồi đến được bờ
giải thoát ngay
trong đời này.
Phương tiện đó đối với Mật môn là
CHÂN NGÔN.
Hỏi:
Chân ngôn thì thật nhiều, nhưng biết dùng ra sao?
Đáp: Đó là
chúng ta bắt đầu
đi vào vấn đề thật sự.
Cũng như người lái xe, xe đi nhanh hay chậm
do nơi tài xế, lái khéo hay dở cũng bởi bác tài. Vậy có xe trong tay rồi, còn phải đòi hỏi những
điều kiện cần thiết khác nữa,
thí dụ như sự
lanh trí,
phản ứng nhặm lẹ và đôi
mắt tinh tường cùng
sức khỏe sung mãn… Người
tu Chân ngôn cũng như vậy.
Khi bạn đã có pháp trong tay rồi, chỉ cần một pháp thôi – thì bạn
cần phải có:
- Một
niềm tin không gì lay chuyển nổi
- Một
chí nguyện rộng lớn vô hạn,
- Một
nguyện lực mãnh liệt
vô biên.
- Một
nghị lực vững bền kiên cốĐó là tất cả sự chánh
tâm thành ý đòi hỏi, và cũng là
điều kiện để
ly sanh tử vậy.
Hỏi: Ngoài 4 điểm trên còn phải dọn Tâm thế nào?
Đáp: Muốn vào pháp và
chắc chắn đi đến
thành tựu thì người tu Mật phải:
a. Đối với mình:
- XẢ tất cả
- PHÁ tất cả
- LÀM tất cả
b. Đối với người:
- CHUYỂN tất cả
- THẮNG tất cả
- THÀNH tất cả.
Hỏi: Xin nói rõ 3 điểm đối với mình.
Đáp:
Thực hiện 3 điểm này để được
nhất tâm và luôn trong
chánh niệm:
XẢ TẤT CẢ là bỏ “cái TA” và “cái CỦA TA” tức là
Ngã và Ngã Sở.
PHÁ TẤT CẢ là phá cái ”TÂM PHÂN BIỆT” và “KIẾN CHẤP”.
LÀM TẤT CẢ là “LÀM CÁC THIỆN NGHIỆP” và
hằng thường giữ Thân, Khấu, Ý lành.
Hỏi: Xin
cho biết thêm về 3 điểm đối với người.
Đáp: Đối với người thì phải thường
tùy hỷ và lấy “BI TÂM” mà đối xử để:
CHUYỂN TẤT CẢ là:
Dựa vào bi nguyện của chư Phật, chư
Bồ Tát và đem tất cả
công đức lực của mình để
chuyển hóa cho người khiến nghiệp dữ thành lành, hướng về
chánh pháp tu hành.
THẮNG TẤT CẢ là: Bằng
phương tiện thiện xảo, bằng
nguyện lực bằng chánh tâm để thắng mọi
tà ngụy.
THÀNH TẤT CẢ là: Người
tu Chân ngôn mang tâm
Bồ Tát làm việc Phật làm nên “khởi niệm tất thành”, đó là chỗ thắng diệu của Pháp vậy.
Hỏi: Thật khó
thực hiện những điều vừa kể, xin cho thêm
ý kiến để
củng cố niềm tin.
Đáp: Người tu Mật là người sống trong
nhân quả mà vượt lên trên
nhân quả. Sống trong
nghiệp lực mà chuyển
nghiệp lực, do TÂM, do PHÁP và do HÀNH. Nếu bạn đã có
quyết tâm và biết pháp
giải thoát thì cứ hành đi
nhất định sẽ thành. Bạn đã có chìa khóa của sự
thành công rồi, giờ hãy vững tin mà tiến bước.
Hỏi:
Giả sử như bây giờ tôi đã
quyết tâm,
vậy thì còn cần thêm
gì nữa không?
Đáp: Đã quyết rồi phải cần
nhất tâm.
Đã
nhất tâm rồi cần
chuyên chú, siêng năng như gà ấp trứng thì mới đạt kết quả tốt.
Hỏi: Với
kinh nghiệm của người
đi trước, ông thấy còn khó khăn gì?
Đáp: Cái khó khăn nhất mà tất cả những người mới bước vào
con đường “Mật thừa” đều gặp đó là:
ƯA thích thần thông, hoặc
MUỐN mau chóng được một cái gì, thành một cái gì!
Tâm lý này cũng đúng thôi, nhưng nó lại
trở thành chướng ngại lớn cho
hành giả.
Hỏi: Tại sao mong cầu
hợp lý mà lại gây trở ngại?
Đáp:
Ưa thích thần thông tức mong muốn có
quyền năng hoặc là
siêu nhân, đó là phát triển tự ngã. Mong mau chóng kết quả là bạn còn tham, còn cầu, còn chưa làm chủ thật sự tâm mình. Và khi bạn vào “tu Pháp Mật” mà còn với
tư tưởng đó thì kết quả rất là
hạn chế, và khó mà
chuyên nhất.
Hỏi: Vì sao?
Đáp: Lại vì sao nữa! Tam tổ
Thiền Tông Tăng Xán đã viết trong
Tín Tâm Minh là:
“Đừng hỏi vì sao nữa,
Thì hết chuyện sai ngoa!”
Xin
trả lời cái “vì sao” của bạn nhé!
Vì
mục đích của bạn là đi tìm cầu, có khi cầu lớn lai, mà có khi chỉ là cầu
tri kiến. Vậy nếu cầu lớn lao thì là “tham”, mà cầu
tri kiến thì “sai”, là “lạc”, cả hai
trường hợp đều hỏng hết.
Tại vì muốn vào Pháp Phật thì phải lìa
TRI KIẾN, khi đó bạn sẽ hiểu hai câu này”
“Phật với
chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo
cảm thông không thể nghĩ bàn”.
Bạn cứ chuẩn bị
tinh thần sẵn sàng thì khó khăn nào chẳng
vượt qua, trở ngại nào mà chẳng khắc phục.
Hỏi: Thế thì phải chuẩn bị
tinh thần thế nào?
Đáp:
Tinh thần chân thực và
buông xả.
Hỏi: Nghĩa là thế nào?
Đáp:
Chân thực là:
TRỞ VỀ chính mình
HIỂU THỰC lòng mình
KHẨN THIẾT vào Đạo
Buông xả là:
BỎ HẾT
tri kiếnDẸP HẾT mong cầu.
Đó mới là
bước đầu của người
ngộ Đạo. Nếu bạn
đi tìm chân lý chỉ bằng
lý trí của bạn thì không thể thấy được “CÁI THỰC – LẼ THỰC”, vì theo
Phật pháp, những
hiểu biết nhiều quá sẽ là “sở tri chướng” làm ngăn
con đường vào Đạo.
Hỏi: Nãy giờ tôi nghe tu Mật cái gì cũng vì người, cho người, thế là “tu” mà chẳng được gì à?
Đáp: Chính cái chỗ “chẳng được gì cả” của bạn là được nhiều lắm đấy! Điều này chắc bạn không tin, vì bạn đã
đi vào đâu mà tin được!
Giờ nếu bạn đã
quyết tâm và có hành trang đầy đủ rồi thì xin bạn hãy
lên đường. Chúc bạn sớm gặp được duyên may.
Hỏi: Khoan! Xin cho hỏi câu
cuối cùng: Thế nào biết là thành tựu?
Đáp: Phật nói “Tự tu tự chứng”
vậy thì thành quả không ai giống ai. Có người
thành tựu lớn, có người
thành tựu nhỏ.
Tùy theo căn cơ,
phước đức,
công phu của mỗi người.
Tuy nhiên, bạn đã hỏi thì phải
trả lời:
Thành tựu nói chung của những người “TU GIẢI THOÁT” không phải ở chỗ “biến hóa
thần thông, hô phong hoán vũ” mà là tự thấy được:
TÂM PHÀM của mình ngày một mất,
NGHIỆP XẤU ngày một bỏ,
TỪ BI ngày một tăng,
TINH THẦN ngày một
an ổn,
TRÍ THẤY BIẾT ngày một sáng,
GIẢI THOÁT ngày một gần …
Bạn đã
an tâm chưa? Bây giờ
khởi hành chứ, kẻo trễ quá rồi,
vô thường đâu có đợi bạn?
Đừng để phí ngày này
Đừng để phí kiếp này
Sau này chắc gì gặp được
chánh phápCơ hội khó có lần thứ hai!
Chúc bạn
thành công.
Xin
hồi hướng công đức về
mười phương Tam Bảo, và tất cả
chúng sanh trong các cõi.
Sau khi đọc xong phần II này, nếu bạn thấy được điều gì hay, mới, thì đó là bởi căn nghiệp
phước đức của bạn đã có sẳn, nên
hồi hướng về “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”
TU MẬT
Đừng đòi những pháp nhiệm màu,
Hãy chờ những
pháp không cầu mà nên
Thần thông thì chẳng có tên,
Chẳng cần
tác ý tùy duyên hiện bày,
Tu mật phải hiểu lẽ này,
Còn tham, còn vọng còn đầy quỷ ma,
Phật thường vẫn nhắn nhủ ta,
Đừng đem quỷ tới thay ma trong người.
Hành giả tu Mật vào đời,
Cứu sanh độ chúng trời người đều thông
Con đường “Mật Hạnh”
cửa KHÔNGTrang nghiêm quốc độ Mật Tông thường làm,
Thênh thang chánh pháp rõ ràng,
Vào đời
cứu độ chẳng màng tử sanh,
Cởi mình khỏi trói lợi danh,
Chuyển
Thân Tâm biến mau thành
NHƯ LAI.
18-7-1992
MẬT NGHIÊMNói thì dễ lắm, nhưng làm thì thật khó “Thiên nan vạn nan” bạn hãy hành đi và thật sống trong đó thì mới
giải thoát được.
PHẦN III
QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI TU MẬT TÔNGHỏi: Còn
quan niệm của người tu Mật ra sao?
Đáp: Phần này trình bày về “cái nhìn” của người tu Mật với
nhân sinh và
vũ trụ. Điều này rất quan trọng, vì nó là mũi tên
chỉ đường, và là cây gậy chống cho
hành giả.
Hỏi: Thì cũng là
nhân sinh quan và
vũ trụ quan của
Phật giáo chứ gì?
Đáp: Đại thể thì như vậy, nhưng vì
Phật giáo quá
bao la nên mỗi
môn phái đều có một cái nhìn riêng, đứng từ
vị trí và hướng đi của mình.
Hỏi: Vậy cái nhìn của
Mật Tông ra sao?
Đáp: Người tu Mật
cần phải thể hiện những điều sau đây:
- Lấy
vũ trụ làm nhà
- Lấy
thiên nhiên làm bạn hữu
- Lấy
chúng sinh làm
quyến thuộc- Lấy
vạn hữu làm chơn thân
Và một vị tổ
Mật Tông bên
Tây Tạng đã nói:
- Tất cả mọi
hình tướng đều là
Niết Bàn,
- Tất cả mọi
âm thanh đều là
Chân ngôn,
- Tất cả mọi
chúng sanh đều là Phật.
Đó,
Mật Tông là thế đó, bạn đã hiểu chưa?
Hỏi: Thế là nghĩa làm sao?
Đáp:
Mật Tông là:
SỰ SỐNG
HIỆN THỰC,
hồn nhiên và tràn đầy.
GIÁO LÝ SỐNG ĐỘNG,
hàm súc và
phong phú rút ra từ cuộc sống, từ
kinh nghiệm hàng ngày.
LỜI THẬT, là
chân lý, xóa mọi
thành kiến, mọi danh xưng, khai thông dòng sống trào tuôn bất tận.
Hỏi: Nói nghe kêu lắm, nhưng tôi không hiểu gì!
Đáp: Gấp quá! Từ từ bạn sẽ hiểu và sẽ thấm. đạo vốn
tự nhiên, sao bạn lại muốn dồn ép vậy!
Bạn ơi! Như phần trên đã nói,
Mật Tông chủ trương vào đời và nhập cuộc mà! Nhập cuộc, ở phần tướng là vào sự sống
va chạm ở đời, và với “lớp áo thế tục” mà không bị cát bụi tình đời làm hoen ố. Vì sao? Vì tất cả cát bụi, tất cả cảnh vật đều là
diệu dụng của
Giác tánh Bồ Đề, nên mới nói “Mọi
hình tướng đều là Niết bàn”. Nhập cuộc, ở phần hình là vào trong cái
trật tự tự nhiên, không thủy không chung của trời đất mà
vô ngại. Thế mới lấy “vũ trụ làm nhà” được chứ!
Hỏi: Có vẽ
hấp dẫn đấy, thế rồi sao nữa?
Đáp: Câu
trả lời trên đã nói lên
vũ trụ quan của người tu Mật đấy.
Vũ trụ quan đó là “Pháp giới
dung thông, sự sự vô ngại”.
Quan điểm của
Mật Tông là
vũ trụ do:
-
Pháp duyên khởi, hay
-
Vô tận duyên khởi, hay
-
Trùng trùng duyên khởi.
Phạm vi tài liệu này không
cho phép giảng rộng hơn, nếu bạn muốn
tìm hiểu xin đọc thêm kinh sách.
Hỏi: Còn gì về
vũ trụ quan nữa không?
Đáp: Về
bản thể của
vũ trụ có hai
quan điểm phát xuất:
Đông Mật chủ trương “Lục đại thể”
Thai Mật chủ trương “A tự thể”
Đây là những từ chuyên môn nói ra thêm nhức đầu, khi nào bạn
đào sâu nghiên cứu sẽ rõ, hơn nữa, phần
vũ trụ quan bạn chỉ nên
tìm hiểu theo câu đáp trên về “Pháp giới duyên khởi”
ngoài ra không nên quá
quan tâm, mà cần chú ý đến phần “nhân sinh quan” tức là phần Hành nhiều hơn. Bởi vì
Mật Tông là “Hành”.
Hỏi: Chủ trương “Hành” thế nào?
Đáp: Người tu Mật là người:
- Đem sự về Lý
- Đem Nhân về quả
- Đem Phật về với
chúng sinhHỏi: Thế là thế nào?
Đáp: Đem SỰ về LÝ là chuyển tất cả những
sự tướng khác biệt của
thế gian và
xuất thế gian trở về với “LÝ THỂ BÌNH ĐẲNG”
duy nhất của mọi sự vật.
- Đem NHÂN về QUẢ là chuyển
nghiệp báo sanh tử luân hồi của
chúng sanh đến
thành quả vị Phật.
- Đem PHẬT về với
CHÚNG SANH là vận
dụng tâm Từ Bi rộng lớn, dùng
phương tiện nhiệm mầu để làm
lợi lạc, để
giải thoát cho tất cả
chúng sanh trong toàn
pháp giới.
Như vậy người tu Mật phải:
- Xoay SỰ về LÝ để có “LÝ SỰ VIÊN DUNG”.
Tác nhân thành quả để “VƯỢT LÊN NHÂN QUẢ” hay là có “NHÂN QUẢ ĐỒNG THỜI”.
- Đem Phật đến với
chúng sanh để được “TỨC
THÂN THÀNH PHẬT”!
Hỏi: Tôi nghe nói tu theo
Mật Tông là “TỨC
THÂN THÀNH PHẬT”, xin nói cho rõ.
Đáp: Đây là
đi vào yếu chỉ của
Mật Tông rồi.
Yếu chỉ đó là:
“ĐƯƠNG TƯỚNG TỨC ĐẠO”
“TỨC SỰ NHI CHÂN”
“TỨC
THÂN THÀNH PHẬT”
Tức là cái tướng
hiện hữu của
thế gian này là ĐẠO. Tất cả các
pháp hữu vi, sự vật đều là THẬT, và thân này là PHẬT.
Đây là phần
nhân sinh quan sâu sắc, và cũng là điểm quan trọng khác biệt giữa cái nhìn của
Mật Tông và
Thiền Tông.
Hỏi: Nhìn khác nhau thế nào?
Đáp: Nói ra thì dài dòng lắm, viết thành cả cuốn sách mới hết,
tuy nhiên, có thể tóm lược những điểm chính
căn bản để dễ
phân biệt:
Yếu chỉ của Thiền là:
“TRỰC CHỈ
NHÂN TÂMKIẾN TÁNH THÀNH PHẬT”
Do đó cái nhìn của Thiền là
trở về nội quan, cho nên:
- Thiền chủ trương “PHÁ Tướng nhập TÁNH”
-
Mật chủ trương “DỤNG Tướng nhập TÁNH”,
Ngoài ra:
- Thiền chủ trương “TỪ TĨNH vào Định”
-
Mật chủ trương “TỪ ĐỘNG vào Định”
Hỏi: Còn gì thêm nữa?
Đáp: Còn nhiều lắm chứ, nhưng trước khi nói thêm, xin mở ra đây một dấu ngoặc, để nói ra ngoài một chút. Đó là ở
Việt Nam ta,
quan điểm của Thiền thường được
phổ biến nhiều hơn cả, do đó các
đạo hữu Phật tử thường nhìn các
pháp môn khác qua cặp kính Thiền, thế có nghĩa là đứng ở góc cạnh Thiền mà nhìn Mật, nhìn
Tịnh Độ, nhìn Nguyên Thủy… nên
thường có kiến chấp sai lầm, nhất là thường chấp vào hai
quan điểm trên, đòi hỏi “PHÁ TƯỚNG” và
đạt được “TĨNH”
kiến chấp như vậy làm trở ngại lớn cho người tìm Đạo. Xin đóng ngoặc lại để
tiếp tục trình bày và xin bạn, nếu có
kiến chấp nào hãy bỏ đi nhé!
Hỏi: Vâng, xin cứ
tiếp tục.
Đáp: Xin
lần lượt kể:
1. Thiền là
trở về nội tâm, mọi tướng đều phá. Mật là
nội ngoại dung thông, tướng tâm đồng dụng.
2.
Tinh thần Thiền là
phá chấp triệt để,
tinh thần Mật là chẳng
chấp tướng mà cũng không phá tướng, nhưng từ
hữu tướng vào
vô tướng.
3. Chỗ ngồi của Thiền là “Đương sứ”, là ở đây, chỗ này, không
quá khứ không
vị lai. Chỗ ngồi của Mật là
TỰ TẠI VÔ NGẠI, ra vào
dung thông nhiếp cả
Tam Thế.
4. Thiền cho rằng:
Một giờ Thiền là một giờ Phật
Một ngày Thiền là một ngày Phật
Một đời Thiền là
một đời Phật
Mật cho rằng:
Phật ở trong ta
Phật ở ngoài ta
Phật hằng có đó
Phật chính là Ta
5. Thiền
quyết định :
Gặp Phật cũng đuổi
Gặp ma cũng đuổi
Xua đi hết cả
Chỉ còn tâm ta
Mật
quyết định :
Ta gửi ta nơi Phật
Phật gửi Phật trong ta
Cùng nhau đều
cứu độChẳng còn Phật còn ta
6. Thiền chủ trương :
Ngoài chẳng nhờ
trợ duyênTrong không móng
khởi tâm tạo tác
Mật chủ trương :
Ngoài
cần cầu tha lựcTrong
tự lực khởi sanh
Tự - Tha đều là một
Mọi việc mới
viên thànhĐó, tóm lược trên đây là những điểm khác biệt
chính yếu.
Hỏi: Tôi đã khái quát thấy sự khác biệt, vậy tóm lược như thế nào?
Đáp:
Tóm lại, người tu Mật:
Đi từ
Sanh Diệt Môn vào
Chân Như Tánh,
Đi từ TƯỚNG DỤNG vào THỂ, và chuyển “Phước
nghiệp hữu lậu” thành “Công đức vô lậu” nhờ
phương tiện là
CHÂN NGÔN.
Hỏi: Mấy câu hỏi trên đã làm một sự
so sánh giữa Thiền và Mật, giờ xin
trở về phần
quan niệm của Mật.
Đáp: Vâng, Mật khẳng định là:
“Đời Đạo không hai,
Đạo nằm
trong Đời,
Đời không xa Đạo”.
Do đó địa bàn
hoạt động của người tu Mật là ngay trong cuộc sống hàng ngày, đó chính là “Đương tướng tức Đạo” .
Ngoài ra, người tu Mật
quan niệm là chính
việc làm hàng ngày sẽ làm tròn “cái Sự”, và hiển “cái Lý” để có “Lý Sự viên dung”.
Hỏi:
Đồng ý điểm này, nhưng tại sao lại “Tức sự nhi chân”.
Đáp: Sự là muôn
pháp hữu vi,
Sự là cái tướng bày ra muôn
hình tượng. tất cả đều là “Diệu Hữu”, đó là thấy
thực tướng.
Bởi vậy cho nên mới “Sự sự vô ngại”
Lại nữa, người tu Mật
hiểu rõ Sự là “THỂ” nên thấy được cái thực nằm trong đó.
Hỏi: Đối với
Mật Tông, giữa Sự và Tướng
liên quan ra sao?
Đáp: Như trên đã nói, Sự là Thể, là Tướng. Mà Tướng do
nhân duyên sanh, bởi
diệu hữu mà thành thế nên “TỨC SỰ TỨC TƯỚNG”. Sự tức là Tướng vậy.
Hỏi: Tại sao lại “DỤNG TƯỚNG NHẬP TÁNH”
Đáp: Điểm này là
căn bản,
nếu không nắm được thì dễ lầm giữa Thiền và Mật, Thiền thì từ “KHÔNG” vào “CHÂN NHƯ TÁNH”. Mật thì từ “DIỆU HỮU” vào “CHÂN NHƯ TÁNH”. Vì như trên đã nói, Tướng do “DIỆU HỮU” thành, mà “DIỆU HỮU” là “CHÂN NHƯ”, là cái DỤNG của
CHÂN KHÔNG cho nên thường nói “CHÂN KHÔNG DIỆU HỮU”.
Mật Tông vì “KHÔNG PHÁ TƯỚNG” và thấu được “THỰC TƯỚNG CỦA TƯỚNG”, nên dùng “TƯỚNG” mà
đi vào.
Hỏi: Có
tu Tiên đâu mà “lấy
thiên nhiên làm bạn hữu”?
Đáp:
Trở về với
thiên nhiên là
trở về với sức sống tràn đầy, với cái thượng hằng
hiện hữu. Người tu Mật nhìn
thiên nhiên để thấy
vũ trụ, để thấy
vạn pháp, để làm bạn tu, chứ không để an trụ, để
thưởng thức như một Tiên Ông.
Hỏi: Hay quá! Xin khai triển thêm nữa.
Đáp: Người tu Mật hiểu rằng bên ngoài
thiên nhiên hay
vũ trụ là một dòng sống
luân lưu không ngừng nghỉ, nó
vận hành liên tục, không bao giờ lập lại. Còn bên trong
con người thì mang đầy
kiến chấp, nó là một
ao tù chứa những
thói quen,
kinh nghiệm và khuôn thức định sẵn, do đó, phải bỏ cái trong để mở ra mà nhập vào cái ngoài. Khi đã
hiểu rõ sự sống, đã nhập vào sự sống thì mới thấy được cái “DIỆU HỮU” để thấy cái “TÁNH KHÔNG” của
Bát Nhã. Và
thực hành trọn vẹn câu “NGŨ UẨN
GIAI KHÔNG độ nhất khổ ách” trong
Tâm Kinh.
Vậy thì thiên nhiên là người bạn
đồng hành, là kẻ
chỉ đường cho ta đến chỗ
chánh giác.
Hỏi: Sao lại “lấy
chúng sanh làm quyến thuộc”?
Đáp: Phật dạy: “Ta là Phật đã thành,
chúng sanh là Phật sẽ thành”.
Vậy thì bạn đã
quyết định làm Phật hiện kiếp này,
chúng sanh là
Phật vị lai, vậy không là
quyến thuộc là gì?
Nhưng câu này còn có
ý nghĩa nhắc nhở
nhiệm vụ của người tu Mật là
chúng sanh đang cần
cứu độ, vì là người đồng
hội đồng thuyền với ta, và muốn người tu Mật không quên ơn
chúng sanh, biết
phục vụ chúng sanh là
cúng dường chư Phật. Và sau cùng nó mang
ý nghĩa đầy đủ nhất là “Một là Tất Cả, Tất Cả là Một”.
Hỏi: Còn “lấy
vạn hữu làm chân thân”?
Đáp:
Vạn hữu là thân ta trong cái nhìn đồng
nhất thể. Trong cái nhìn hiểu Đạo của người tu Mật.
Vì thật ra mình có mặt trong các
thực thể khác, và các
thực thể khác cũng có mặt nơi mình trong dòng chuyển lưu của
vũ trụ.
Ngoài ra còn nói lên cái tâm
đại bi thương
vạn hữu như thương chính thân mình không khác.
Hỏi: Thế nào là “Tất cả
âm thanh đều là chân ngôn”?
Đáp: Đây là câu nói của bậc chứng lý và đạt Đạo rồi. Đối với
chúng ta thì không thấy được như vậy.
Tuy nhiên ta có thể
giải thích tóm lược như sau:
Vì
chân ngôn phát ra từ
chân như thể tánh, mà các
âm thanh của
vũ trụ cũng từ tánh
hiện tướng, do đó nó
đồng thể.
Đây còn nói thêm cái phần bí nhiệm của
chân ngôn, mà nếu bạn muốn thấy, muốn hiểu thì xin
thực hành, thực tu sẽ thấy.
Hỏi:
Quan niệm của người tu Mật đối với
chân ngôn thế nào?
Đáp: Là
phương tiện để
giải thoát cho mình. Để
độ thoát chúng sinh.
Hỏi: Làm thế nào để trì “Chân ngôn” cho có hiệu quả?
Đáp: Câu này bạn sẽ được Thầy chỉ cho bạn khi nào bạn thực sự vào
pháp hành, vì nó thuộc mật truyền. Thường bên
Mật Tông khi một vị Thầy truyền cho
đệ tử một câu
chân ngôn là vị Thầy đó đã hành quan, đã giàu
kinh nghiệm và đã nắm được yếu quyết của nó.
Tuy nhiên, có thể
trả lời bạn tổng quát như thế này:
1 Trước hết đừng nôn nóng cầu đắc, cầu chứng,
2 Tâm ý phải
thanh tịnh, không mưu tính
bất chánh,
3 Không dùng
chân ngôn trong những
trường hợp thiếu
tâm Bi,
4 Không
nói dối, xảo trá, lừa dối,
ngụy biện,
5 Phải
thành khẩn , siêng năng,
Sau nữa còn những điểm dành cho người tu Mật đó là:
6 Phải biết nguyện với thành
7 Phải có ấn mới quyết định…
Đa số các bạn của
chúng ta thường bị cái
lỗi lầm là nghe thấy một câu chú “hay”, có “công năng lớn” là đem ra
hành trì, không cần có Thầy
chỉ dẫn. Như vậy chỉ
uổng công mà chẳng đem lại kết quả gì. Nếu
tu chân ngôn mà dễ như thế thì ai tu chẳng được! Rất đáng buồn là đã có những bạn bỏ phí cả những năm tháng dài, để
chạy theo sự
tham mê vô vọng đó, rồi khi không được gì đâm ra chán nản, mất
tin tưởng và quay ra
phỉ báng. Lỗi đó tại ai?
Đây cũng là chỗ bí nhiệm của “Mật Môn”. Đừng tưởng coi sách là đủ đâu! Những gì được viết ra sách là không còn mật nữa, là thuộc về “công truyền”. Những gì không được viết ra, do Thầy truyền mới là “Mật truyền”,
tâm truyền đấy bạn ạ!
Bạn ơi!
Chân ngôn là một chén thuốc bổ, nhưng đối với người nào đó nó
trở thành thuốc độc, và đối với người khác nó là
thuốc trường sanh. Tôi đã
trả lời bạn câu này hơi dài rồi, bạn hãy tự
tìm ra câu
giải đáp cho mình, xem mình đã
áp dụng đúng chưa.
Hỏi: Khó quá, ông làm tôi nản chí, biết bao giờ mới gặp được Thầy, biết bao giờ mới tìm được Pháp?
Đáp: Bạn ơi,
Phật Pháp bất khả tư nghì, có duyên rồi sẽ gặp. Bạn cứ
chân thành cầu thì sẽ được!
Hỏi: Ông có
kinh nghiệm gì giúp tôi trong
vấn đề này?
Đáp: Câu đáp chỉ có thể là “Tùy phước duyên” của bạn! Theo
kinh nghiệm thì thời này thật ít, giả nhiều, nên phải
hết sức thận trọng, đừng vội dễ tin, chính
Đức Thế Tôn dạy ta như thế, thà một ngàn ngày không ngộ còn hơn một ngày vấy ma, đừng đuổi ma đi để đón quỷ về!
Có “đi” thì có “tới”, có “cầu” thì có “ứng”. Theo
kinh nghiệm của tôi, quý bạn cần
hết sức chân thành khẩn cầu gặp Mật thì sẽ được
đáp ứng. Tôi xin tặng quý vị một
bài kệ để
khởi tâm chí thiết khẩn cầu:
1
Con
chắp tay cầu Phật
Đức Bổn Sư Thích Ca
Xin cho con hiểu Mật
Để
chuyển hóa Ta Bà2
Con
chắp tay cầu Phật
Phật Tỳ Lô Giá NaXin cho con gặp Mật
Để
cứu độ Ta BàHỏi: Người tu
Mật Tông quan niệm về “Lý” thế nào? “Sự” thế nào?
Đáp:
Lẽ dĩ nhiên là “tức lý tức sự,
lý sự viên dung”, nhưng về hành thì:
Lý là
tự giác để
giải thoát mình bằng
Trí Huệ. Sự là
đại nguyện cứu độ chúng sanh bằng
Từ Bi.
Hỏi: Còn phương tiện?
Đáp:
Phương tiện là
cứu cánh – vì dùng ngay
phương tiện này để
giải thoát cho mình và cho người.
Hỏi: Có
giới hạn,
phạm vi gì không?
Đáp: Đối tượng là
chúng sanh vô lượng.
Phạm vi là không có bờ mé, không
phân biệt.
Thời gian là
mãi mãi không ngừng nghỉ,
hay nói khác đi,
phạm vi là
vô biên,
thời gian là
vô tận vậy.
Hỏi: Nhưng vậy e rộng quá làm không nổi!
Đáp: Tu Mật phải có “TÍN TÂM” vững,
“NGUYỆN LỰC” lớn mới thành.
Hỏi: Vì sao?
Đáp: Vì
quyết định thành Phật thì phải có
tâm Phật chứ! Do đó người tu
Mật Tông quan niệm là:
-
Việc làm của chư Phật là
việc làm của mình,
- Nguyện của chư Phật là nguyện của mình,
-
Chúng sanh của chư Phật là
chúng sanh của mình,
- Cái gì của chư Phật là của tất cả
chúng sanh.
Hỏi:
Vậy thì nhìn sự việc ở đời cũng phải khác chứ?
Đáp:
- Nơi nào cũng là “DIỆU HỮU”
- Nơi nào cũng là “TAM BẢO”
- Nơi nào cũng là “NHƯ LAI PHÁP THÂN”.
Hỏi:
Quan niệm hằng thường ra sao?
Đáp:
-
Hằng thường tri ân,
-
Hằng thường thương xót,
-
Hằng thường chân thật,
-
Hằng thường quán chiếu,
-
Hằng thường xả kỷ,
-
Hằng thường hồi hướng,
-
Hằng thường giải thoát.
Hỏi: Người tu Mật
trụ tâm ở đâu?
Đáp: Trụ ở niệm
giải thoát, và
giải thoát luôn niệm đó.
Hỏi: Thế nào là trong niệm giải thoát?
Đáp: Trước hết người tu Mật phải “dán” chữ “không” ngay trên trán đã.
Nếu không dán được thì đừng
lý luận đến
giải thoát.
Trụ trong
giải thoát là:
- Làm
muôn vàn hình tướng nhưng vẫn từ NHƯ
hiện ra,
- Làm
muôn vàn đối đãi nhưng vẫn
hằng thanh tịnh.
Hỏi:
Quan niệm về phước trí?
Đáp:
Phước trí đồng hành song tu. Người tu Mật
quan niệm “Hạnh ở đây, Trí bên kia” nghĩa là làm hạnh
cứu độ để đạt lý tánh.
Hỏi: Như vậy cũng lấy “LỤC ĐỘ” làm
căn bản phải không?
Đáp: Người tu
Mật Tông hành
đại hạnh của
Bồ Tát gồm 10 độ Ba – La – Mật. Đó là:
1.
Bố thí Ba – La – Mật,
2.
Trì giới Ba – La – Mật,
3.
Nhẫn nhục Ba – La – Mật,
4.
Tinh tấn Ba – La – Mật,
5.
Thiền định Ba – La – Mật,
6.
Bát nhã Ba – La – Mật,
7.
Phương tiện thiện xảo Ba – La – Mật,
8. Nguyện Ba – La – Mật,
9. Lực Ba – La – Mật,
10. Trí Ba – La – Mật.
Trí sau cùng là
trí huệ rốt ráo.
Hỏi: Từ trước tới giờ chỉ thấy nói “Lục độ Ba – La – Mật”
ít nói tới
Thập độ Ba – La – Mật. Xin nói cho rõ chỗ khác nhau.
Đáp: Khác nhau ở chỗ:
- Hành
lục độ đến
quả vị Đẳng giác,
- Hành
thập độ đến
quả vị Diệu giác.
Thường thì
Bồ Tát từ
Bát địa trở lên mới
thường hành Thập độ, vì lúc đó đã
tự tại trong pháp rồi.
- Dùng “phương tiện thiện xảo” để
cứu độ rộng rãi chúng sanh, để
trang nghiêm quốc độ.
- Dùng “Nguyện Ba – La – Mật” để
trang nghiêm thân.
- Dùng “Lực Ba – La – Mật” để
thanh tịnh pháp thân.
- Dùng “Trí Ba – La – Mật” để vào
Diệu giác.
Hỏi: Xin
cho biết sự khác nhau giữa độ thứ sáu là “Tuệ” hay “Trí Tuệ Ba – La – Mật” và “Trí Ba – La – Mật” trong độ thứ 10.
Đáp: Độ thứ sáu là
trí tuệ Ba – La – Mật, tiếng Phạn là Prajna paramita hay
Bát Nhã Ba – La – Mật, chỉ
sự quán thấu
chân lý, thấy
tánh Không của các pháp và
Diệu Lý Bình Đẳng.
Độ thứ 10 là Trí Ba – La – Mật, tiếng Phạn là Jnãna paramita, chỉ
sự quán thông
vạn pháp, giữ vững
Trung đạo, thấu suốt tất cả,
thị hiện vô biên,
y báo chánh báo tròn đủ.
Đúng ra độ thứ sáu phải dịch là
Bát Nhã, độ thứ 10 mới dịch là
Trí huệ, nhưng từ trước đến giờ đã quen dùng theo
nghĩa Trí tuệ là chỉ độ thứ sáu thì cũng được thôi. Độ thứ 10 là
Trí huệ rốt ráo,
Trí huệ Phật đó.
Hỏi: Bây giờ thì tôi đã thấy tu Mật có nhiều điểm khác rồi, xin
cho biết ý kiến về cái nhìn đối với
Tịnh độ.
Đáp: Không cứ đối với
Tịnh Độ, mà với bất cứ
pháp môn nào người tu
Mật Tông cũng đều “kính ngưỡng” cả. Người tu Mật không cho
pháp môn mình là nhất, không dám chê một
pháp môn nào, vì các pháp đều
bình đẳng, đều là
phương tiện để đi đến
giải thoát.
Người tu Mật thấy trong
pháp môn mình theo có đủ cả
Thiền và Tịnh Độ, ngược lại, các
pháp môn khác cũng có Mật nằm trong. Điều này khi nào các bạn
thực hành, đi sâu vào pháp sẽ hiểu và thấy rất rõ.
Đối với
tịnh Độ,
yếu chỉ là:
“Nhất tâm
bất loạn,
Vãng sanh Tịnh Độ”
Cần phải TÍN SÂU, NGUYỆN THIẾT và
HÀNH TRÌ miên mật. những điều này rất gần với Mật môn. Hơn nữa, sáu chữ “Nam Mô
A Di Đà Phật” là một
đại thần chú,
vô lượng lực,
vô lượng quang,
vô biên quang đấy.
Hỏi: Thế nào là
Tam mật tương ưng?
Đáp: Nghĩa
đơn giản của
Tam mật là:
-
Thân mật,
-
Khẩu mật,
-
Ý mật.
Tương ưng là ứng nhập cùng Phật,
Bồ Tát. Thông thường giải chữ
tương ưng là làm cho giống hay
thành Thân, Khẩu, Ý của Phật. đó là cái nói của người trụ nơi
lý thuyết không thật sự
hành pháp, có thể nói thế này cho bạn
dễ hiểu: người tu Mật dùng
phương tiện của mình để:
- Biến “SẮC THÂN”
hiện tại này thành “PHÁP THÂN”, đó là
Thân mật.
- Đưa cái
ngôn ngữ giới hạn này
trở lại với
thực tướng của nó, rời
danh tự, rời
ngôn ngữ, rời
tư duy, rời
phân biệt, về cái chỗ xuất sanh
vô lượng,
vô biên nghĩa, vì rốt cùng
âm thanh chính là
thực tướng, và
ngôn ngữ chính là
chân lý, đó là
Khẩu mật.
- Biến THỨC thành TRÍ
vô lậu đó là
ý mật. nói ra dài lắm, phải hành mới hiểu được bạn ạ!
Hỏi: Vậy còn
quan niệm nào tôi chưa hỏi?
Đáp: Còn chứ! Người tu Mật là:
- Dùng “NGHIỆP” giải “NGHIỆP”,
- Biến “SẮC THÂN” thành “PHÁP THÂN”,
- Lấy “MẠN ĐÀ LA” làm “NIẾT BÀN”
- Lấy “PHƯƠNG TIỆN” làm “CỨU CÁNH”
- Lấy “NIẾT BÀN” làm “LẠC”,
- Lấy “ĐỘ SANH” làm “NHIỆM VỤ”, là “SANH THÂN CÔNG ĐỨC”,
- Lấy “TRÍ HUỆ THÙ THẮNG” để
đi vào “PHÁP”.
Hỏi: Xin nói cho rõ.
Đáp: Có một vài câu bên trên đã giải rồi, giờ chỉ nói câu nào chưa đề cập thôi.
1. Lấy “Nghiệp giải Nghiệp” là làm “THIỆN NGHIỆP” để
giải hoặc chuyện “ÁC NGHIỆP”.
2. Biến “SẮC THÂN” thành “PHÁP THÂN” là dùng
phương tiện Mật môn, chuyển “THỨC” thành “TRÍ”, biến cái thân
tạp nhiễm, uế trược này
thành thân vô cấu thanh tịnh.
3. Lấy Mạn – Đà – La làm
Niết Bàn đồng nghĩa với câu “Mọi
hình tướng đều là Niết Bàn”, nghĩa là chỉ cuộc sống này
phiền não tức
Niết Bàn.
4. Lấy
phương tiện làm
cứu cánh đã giải ở trên rồi.
5. Lấy
Niết Bàn làm Lạc. Vui vì ra khỏi
sanh tử, vì vào chỗ
thường hằng.
6. Lấy
độ sanh làm
nhiệm vụ đã giải rồi.
7. Lấy
Trí huệ Thù Thắng để
đi vào Pháp. Đây là
ba nghiệp đều tùy
Trí Huệ hành, luôn lấy
Trí Huệ để
soi sáng hành động.
Hỏi: Tôi vẫn còn thắc mắc ở chỗ Mật môn “dụng tướng”, xin nói rõ thêm.
Đáp: Câu hỏi rất hay,đây cũng là phần
then chốt của Mật môn, và
trả lời cũng khó,
nếu không hiểu sâu
vấn đề.
Thật ra
con đường tu học Phật là “LÌA TƯỚNG”, “LÌA TRI KIẾN” và “KIẾN CHẤP”, Mật môn cũng không đi ra ngoài điều đó, nhưng
nhận định thế này:
Có TƯỚNG thì có TƯỞNG,
Có TƯỞNG thì có NIỆM.
Do đó, muốn
đạt được chỗ “VÔ TƯỚNG” thì phải đi từ chỗ “VÔ NIỆM”.
Thiền môn đã lấy điều này làm “Tông”. Mật môn thì thấy rằng, đã là
phàm phu mà
diệt Tướng thật là khó, do đó mới dùng
phương tiện là “Lấy Tướng chuyển Tướng”. Dùng “BIỂU TƯỢNG” để thay thế các tướng trong
nội tâm (phần này đi sâu vào
tiềm thức) nhập cái
thuần khiết để thay thế cái tạp nhạp. Cũng
ví như đứa trẻ đang chơi dao, nếu bạn, muốn nó bỏ dao đi kẻo sợ đứt tay thì
tốt hơn hết là cho nó một cái gì cho nó nắm, đẹp hơn cái nó đang cầm thì nó sẽ bỏ ngay, còn nếu
tự nhiên bảo nó bỏ thì khó quá! Đó là chỗ “Dụng Tướng để chuyển Tướng”, một cách
êm thấm,
ngoài ra, trong
vấn đề dụng tướng này nó còn mang một
ý nghĩa và
công dụng rất là sâu sắc trong việc thanh lọc
tâm thức của
hành giả mà chỉ những người thấu hiểu Mật môn mới rõ. Và khi mà cái
thuần khiết, cái
thanh tịnh đã nhập rồi thì nó dễ hòa vào tánh thể. Cho nên Mật môn “dùng tướng để lìa tướng”, “làm Thiện để lìa Ác”, khi
đạt được Thiện rồi thì
Thiện Ác đều bỏ, đó là chỗ
rốt ráo.
Tâm
chúng sanh thường “đa niệm” và “đa tướng” nên phải dùng “CHÂN NGÔN” và “BIỂU TƯỢNG” để phá “vọng tưởng” và “vọng niệm”, để sau cùng không còn
trụ tướng nữa.
Hỏi: Như vậy trong các môn tu, môn nào khó?
Đáp: Thật ra môn nào cũng khó mà cũng dễ,
tùy theo căn cơ mỗi người.
Hỏi: Vậy theo ông có nên chọn
con đường Mật thừa không?
Đáp: Người nào có duyên với môn nào thì nên theo môn đó, đừng đứng núi này trông núi nọ, môn nào cũng là
con đường đi đến
giải thoát.
Hỏi: Nhưng hẳn là phải có
con đường thù thắng chứ?
Đáp: Môn nào cũng
thù thắng cả, nếu nắm được chìa khóa để mở cửa vào.
Hỏi:
Vậy thì môn nào dễ tu nhất?
Đáp: Dễ tu nhưng khó nhập là
Tịnh Độ. Khó tu và khó nhập là Thiền. dễ tu mà khó nhập là Mật, nhưng nhờ có
Chân ngôn nên có
tha lực,
vì vậy dễ
thành tựu Pháp.
Tuy nhiên Mật môn đòi hỏi phải
khởi tâm Thiện và
mở rộng tâm Từ Bi,
nếu không, dễ lạc vào đường Tà. Mật là con dao hai lưỡi nên phải
hết sức thận trọng.
Hỏi: Về
hành trì Mật môn có khác các môn kia nhiều không?
Đáp: Khác rất nhiều, khi nào bạn
thực hành sẽ biết. Có điều cũng cần nói luôn với bạn là, muốn tu Mật thì phải có “ĐỨC TIN KIÊN CỐ”, phải có “TRÍ HUỆ ĐỂ NHẬN ĐỊNH” (đây là
trí huệ thế gian), tức là phải
sáng suốt, phải có “trực giác” nhạy bén,
cảm quan để thấy.
Còn một điều nữa là tu Mật dễ
đi vào mê tín dị đoan, dễ vào
ảo tưởng, nên luôn luôn phải
cảnh giác. Đó là điểm vì sao đòi hỏi
trí huệ để không bị
lạc đường.
Hỏi: Đã có thể
kết luận được chưa?
Đáp:
Tổng kết về
quan điểm của Mật môn như sau:
- Đại
bí mật làm TÔNG
-
Pháp giới chân như làm THỂ
- Bất tư nghì làm DỤNG
-
Tam Mật làm MÔN
-
Tối thượng thừa làm
GIÁO TƯỚNG.
Hỏi: Còn điều gì khác biệt trong Mật môn nữa không?
Đáp: Mật môn là giai đoạn chót, nên trước khi nhập Mật thì phải
hiểu rõ ĐẠI THỪA, vì MẬT là nằm ở chỗ “CHUNG GIÁO”.
1. Điểm khác thứ nhất của Mật môn là: 9
thức biến thành 5 trí thay vì 8
thức biến thành 4 trí như các luận của
đại thừa thường nói.
2. Điểm thứ hai là: 7 đại làm thành
vũ trụ thay vì 4 hay 6 như ta thường thấy.
3. Điểm thứ ba là:
thường hành thập độ Ba – La – Mật thay vì
Lục Độ.
4. Điểm thứ tư là: Dùng 4
pháp ấn thay vì 3
pháp ấn.
5. Điểm thứ năm là: Có Lục
Hoằng thệ nguyện thay vì Tứ.
Và một số điểm đã được nêu ở trên. Phần này
đi vào Pháp môn, khi nào bạn học Mật sẽ được giải rõ.
Hỏi: Có gì để khuyến cáo không?
Đáp: Bạn ơi!
Chân lý không phải cái gì cao xa mà nó
linh hoạt,
sống động và
vận hành quanh bạn và tôi.
Sống động do sự
hiện hữu của
chúng ta và
vạn vật vận hành qua muôn dạng tướng
hằng ngày ta gặp. Khởi điểm
con đường tu hành là
tự tâm ta. Do đó bạn
cần phải nhìn thấy thật tâm bạn trước đã. Nếu thiếu điểm này thì
tu pháp môn nào cũng chỉ là “tu giả” mà thôi!
Khi bạn đã thấy “THẬT TÂM” của bạn rồi – không
che đậy, không
gạt gẫm, không bào chữa, không tự lừa dối mình – thì hãy
quyết định tiến bước bằng
con đường “BUÔNG XẢ” đó là chìa khóa để
đi vào mọi
pháp môn.
Và khi
quyết định thì hãy
dũng cảm mà tiến bước như người chiến sĩ tuốt gươm vào trận, quên đi mạng sống của chính mình.
Lấy
trí huệ làm đèn soi, lấy
niềm tin làm
động lực, lấy nhiệt tình làm sức sống, bạn cứ bước vào đi, với bất cứ
pháp môn nào bạn cũng sẽ đến được bờ
giải thoát.
Đạo là chỗ
đơn sơ chân thật nhất, tôi mong bạn và tôi cùng
gặp nhau trong đó.
Chúc bạn thực tu, thực tiến tu!
Hỏi: Xin cho những
lời nói sau cùng.
Đáp: Trước hết, tôi phải
tri ân bạn đã bỏ nhiều
thì giờ để đọc
tài liệu này, kết đến là
tri ân các bậc Thầy đã dạy tôi bằng hành động hay qua sách vở. sau nữa là tôi xin dâng hiến
cúng dường Tam Bảo và
hồi hướng về
Nhất Thiết Trí cùng
toàn thể chùng sanh trong
tứ sanh lục đạo. tôi chỉ là “một người đầu bếp” dọn món ăn thôi! Và ở trên tôi đã tạm thời xào nấu lên một món ăn
tương đối có chất lượng để mời bạn dùng làm duyên
ban đầu.
Tất cả những gì tôi vừa nói trên, đều là những điều tôi đi vay mượn, rồi sắp xếp lại cho gọn gàng để “các bạn thiện duyên” suy ngẫm.
Tôi không ngại tài hèn, trí đoản mà dám làm một việc
quá sức mình, tôi
thành thực xin các Thầy, các
Thiện trí thức hiểu nhiệt tình của tôi mà
thương xót bỏ qua những
lỗi lầm khiếm khuyết.
Sau cùng tôi xin sự
chứng minh của:
- Tổ
Pháp Mật Tông
TỲ LÔ GIÁ NA Như Lai và các vị Tổ
thị hiện như:
-
Kim Cang Tát Đỏa,
-
Long Thọ Bồ Tát, và
-
Kim Cang Trí…
Xin cho mầm
Bồ Đề của
chúng ta còn mãi và mỗi ngày một
tăng trưởng.
Xin chào các bạn
Thiện duyên.
MẬT NGHIÊM OM
(Bài ca vào các
cảnh giới)
Ta hát lời ca OM vang trời
Ta hát lời ca OM chơi vơi
Ta hát lời ca OM xa vời
Ta hát lời ca OM khắp nơi,
Ta hát lời ca OM vào đời
Ta hát lời ca OM
vui tươi,
Ta hát lời ca OM cho người,
Ta hát lời ca OM
rong chơi,
Ta hát lời ca OM rạng ngời,
Ta hát lời ca OM không thôi…
OM – OM – OM
Tiếng hát nởi lên từ trong lòng
vũ trụ,
Là
âm thanh, là
hơi thở của muôn loài,
Là
thời gian, là cuộc sống
lâu dài,
Là
không gian, là
muôn vàn ánh sáng.
OM – OM – OM
Là
tình Thương và Trí sáng
OM – OM – OM
Là thân ta, là giấc ngủ muôn đời.
Ta hát lời ca OM
tuyệt vời,
Ta hát lời ca OM
tuyệt vời,
Ta hát lời ca OM tuyệt vời…
Ngọc châu tỏa sáng trên Sen rạng ngời,
Hồng, Hồng, hồng chiểu tỏa nơi nơi…
OM MANI PADME HUMDiệu âm tuyệt vời30-10-1986
MẬT NGHIÊMPHÁT NGUYỆNNguyện
thành chánh giácĐộ hết
chúng sanhNguyện là nguồn sống
Thường luôn hằng hữu
Không đến không đi
Không gì thay đổi
Khi chìm khi nổi
Cứu đô
tùy nghiCực lớn
cực viĐều cùng độ hết
Nguyện là
tình thươngChan hòa tất cả
Từ lớn chí nhỏ
Không bỏ một ai
Vô hình
hữu hìnhVô tướng hữu tướngVô
tình hữu tình
Đều cùng độ hết
Nguyện là
Chân NhưBao la vô tậnChân thật không hư
Trùm che cùng khắp
Chẳng thiếu chẳng dư
Chẳng hề
phân biệtThọ mạng lâu dàiBất sinh bất diệtNguyện luôn tự độ
Đồng cùng
độ thaPhiền não sinh ra
Là
Bồ Đề sáng
Vô minh là giác
Độ khắp quần ma
Trở về tinh ba
Thuần
chơn Phật tánh
Bặt đường
so sánhKhông thể nghĩ bàn
Soi sáng muôn vànĐại thiên thế giớiNguyện luôn
ứng hóaThành
vô biên thânĐến
vô lượng cõi
Đem tánh toàn chân
Độ khắp hết cả
Chẳng kể oán, thân
Đồng về biển giác
Báo bốn trọng ân
Nguyện thân tâm này
Là kinh vô tự
Là tiếng
vô thanhHoằng dương
chánh giáoĐộ khắp
chúng sanhTrí Bi đầy đủ
Chứng quả vô sanhLàm tròn
Phật sựĐạo cả
viên thành.
LỜI BẠTTrên
con đường đi tìm
phương tiện để mở cửa vào nhà
giải thoát, tôi đã chọn một
pháp môn tu không xa rời cuộc sống. Và với
tinh thần phụng sự Đạo pháp, tôi xin dâng hiến những điều
học hỏi được của mình qua soạn phẩm này gọi là để đóng góp
một phần nhỏ bé vào
biển Phật Pháp mênh mông.
Tôi rất
vui mừng vì giờ đây có
túc duyên để cuốn
Mật Tông Vấn Đáp ra mắt cùng các
đạo hữu gần xa.
Đây cũng chỉ là một sự giao duyên
ban đầu đối với các bạn có
căn cơ tu Mật. Tôi mong rằng quí bạn sẽ gặp được những điều hữu ích cho việc tìm tu và
tiến tu trên
con đường đi đến
giải thoát.
Tập sách này tuy ngắn gọn nhưng
tương đối đầy đủ để
giới thiệu con đường “Mật thừa”, mong bạn nào có duyên gặp được cũng sẽ rút tỉa hữu ích.
Đời người khó đọc,
Mật pháp khó gặp, xin quý bạn đừng bỏ phí kiếp này mà không
quyết định cho mình “TỨC
THÂN THÀNH PHẬT”.
Nhân đây tôi cũng xin
tán thán công đức của các
đạo hữu đã giúp
chúng tôi trình bày,
ấn hành và đóng góp
tịnh tài để ấn tống soạn phẩm này.
Xin
Tam Bảo mười phương hộ trì cho
chúng ta và tất cả
chúng sanh trong
pháp giới đều có đủ
cơ duyên học Đạo,
tinh tấn tu hành để sớm đạt
Phật quảNam Mô Bất Không Thành Tựu Phật.
MẬT NGHIÊMWP: Ngọc Anh