TÔN GIÁO :
CON ĐƯỜNG ĐỂ THAM VẤN
Con người có rất nhiều
quan điểm khác nhau về
tôn giáo nói chung và
Phật giáo nói riêng. Những người chỉ hiểu
tôn giáo và
Phật giáo một cách
bề ngoài hay
thuần lý trí, cả hai đều không thể hiểu được
ý nghĩa chân thật của nó. Những người
quan niệm tôn giáo một cách
dễ dãi hơn thì lại coi
Phật giáo không phải là một
tôn giáo.
Trước nhất, trong
Phật giáo,
chúng tôi không muốn chỉ nói về
Đức Phật. Ngay cả Ngài cũng vậy, Ngài không muốn
chúng ta chỉ tin vào Ngài, vì
thế cho đến ngày hôm nay,
Phật giáo không bao giờ khuyên
phật tử chỉ
đơn giản tin vào
Đức Phật.
Chúng tôi luôn luôn coi
vấn đề tìm hiểu tâm lý con người,
tìm hiểu tâm bản nhiên của
con người là quan trọng hơn cả. Do đó, những người thật sự
thực hành Phật giáo luôn luôn
cố gắng tìm hiểu những
thái độ tinh thần, những
ý niệm, những
tri giác và những
ý thức của riêng chính họ. Đó là những
vấn đề thực sự quan trọng.
Ngoài ra, nếu
chúng ta bỏ quên chúng ta, những
ảo tưởng, những
sai lầm của
chúng ta mà chỉ
chú tâm đến những
tư tưởng cao siêu - như “ Phật là gì? ” - thì cuộc
hành trình tâm linh sẽ giống như một giấc mơ, đầy
huyễn ảo. Điều đó có thể có, hãy thận trọng! Nếu như vậy, ở trong tâm
chúng ta sẽ chẳng có một mối
liên hệ gì giữa Phật, Chúa và
chúng ta. Chúng
hoàn toàn cách biệt:
chúng ta ở tận dưới này; Phật, Chúa ở mãi tận trên kia. Không
liên lạc được. Không thực chút nào cả, nếu
chúng ta cứ mãi
suy nghĩ theo kiểu này. Nó quá
cực đoan.
Chúng ta đặt một vật ở dưới tận cùng này, còn vật kia lại ở tột đỉnh trên kia.
Phật giáo gọi đó là tâm tách biệt, tâm
nhị nguyên.
Nói
xa hơn nữa, nếu
con người tự
bản tính, tự căn để đã có tội rồi thì cái
căn bản, cái khả năng đi
tìm kiếm những
tư tưởng cao thượng là gì? Nhưng dầu sao đi nữa,
tư tưởng là
không thật.
Con người có khuynh hướng luôn luôn muốn biết tất cả những gì về sự
giác ngộ tối thượng hay những gì là
bản tính của
Thượng Đế, nhưng những sự
hiểu biết đó không giúp thay đổi được gì
trong đời sống của
chúng ta và chẳng
chuyển hóa được gì trong tâm của
chúng ta. Một
tôn giáo đúng nghĩa,
chân thật nên tự tìm một
sự thật cho chính nó, hơn là cứ đi trau dồi,
thực hiện,
sử dụng và
thi hành trong việc góp nhặt những
hiện tượng xẩy ra.
Trong
Phật giáo,
chúng tôi không chỉ
thích thú đến những việc
tìm kiếm sự
hiểu biết cao xa, những
tư tưởng siêu hình, mà
chúng tôi đặc biệt lưu ý,
đặc biệt thích thú trong
lãnh vực tìm hiểu những gì đang xẩy ra ở đây, ngay bây giờ, trong sự
nhận thức kinh nghiệm hiện tại của chính
chúng tôi,
chúng tôi là gì ngay trong lúc này,
bản tính tự nhiên của
chúng tôi ngay bây giờ là gì?
Chúng tôi muốn biết làm thế nào để
thỏa mãn, làm thế nào để
hạnh phúc, để
an lạc, thay vì bị
đau khổ, bị trầm uất, làm thế nào để vượt thắng được những cảm
nghĩ tội lỗi nói ở trên kia?
Chính
Đức Phật cũng dạy về những
vấn đề căn bản này,
tự tính của
con người thì
trong sáng,
vô ngã, như
bản tính của bầu trời là
trong sáng, không mây. Mây đến rồi đi nhưng bầu trời trong xanh vẫn luôn luôn ở đó, mây không làm thay đổi được
bản tính tự nhiên của bầu trời. Cũng giống như vậy, tính bản nhiên của
con người luôn luôn
trong sáng, không có một “cái tôi” nào ở đó. Dù
chúng ta theo một
tôn giáo hay không theo một
tôn giáo nào, nếu
chúng ta không
buông bỏ “cái tôi” thì
chúng ta luôn luôn bị hướng dẫn
sai lạc;
chúng ta sẽ luôn luôn
sáng tạo ra những triết lý sống không đúng với
sự thật và cũng chẳng bao giờ
chúng ta đối diện được với
sự thật.
Thay vì dùng
trí thông minh để
chiếm hữu,
tranh giành, để tìm biết những triết lý xa vời, những
lối sống siêu thực,
tốt hơn chúng ta hãy
cố gắng tìm hiểu tâm bản nhiên của
chúng ta và làm thế nào
thường xuyên trực diện với nó. Làm sao để
thực hành giáo lý tôn giáo có
hiệu quả: tất cả mọi
tôn giáo cần phải có những
phương pháp thực hành, những
phương pháp tu tập.
Phương pháp tu tập là chiếc chìa khóa
cần thiết cho
tôn giáo ! Đó là
vấn đề quan trọng.
Thí dụ,
chúng ta nghe nói có một kho tàng quí báu dành cho
mọi người nhưng
chúng ta không có chìa khóa để mở cửa thì tất cả
thời giờ đi
tìm kiếm kho tàng chỉ là
huyễn ảo xa vời,
vô ích,
không thật. Cũng vậy, một
tôn giáo được
đánh bóng, được hứa hẹn đến đâu đi nữa mà không mang lại một
lợi ích thiết thực, không có một
phương pháp thực hành hướng dẫn tới một
sự giải thoát,
giác ngộ thì đó
hoàn toàn là giả tạo, không có thật. Nếu
tôn giáo mà
chúng ta đang theo không có một
phương pháp rõ rệt, không có một chiếc chìa khóa, không có một
con đường dẫn
chúng ta vào
đời sống thực tế hạnh phúc hàng ngày thì
tốt hơn chúng ta hãy uống, hãy
thưởng thức một lon Coca cho rồi. Ít ra cũng đã khát! Nếu
tôn giáo mà chỉ có triết lý,
tư tưởng thôi thì cũng rỗng
như không khí.
Chúng ta nên
thận trọng để
hiểu rõ tôn giáo của
chúng ta là gì và sự
thực hành, sống đạo như thế nào.
Chính
Đức Phật đã nói, “
Niềm tin không quan trọng. Đừng tin những gì ta nói, đừng tin chỉ vì ta nói!” Đây là những lời dậy bảo tâm huyết của Ngài: “ Thầy đã dậy rất nhiều
phương pháp, bởi vì
chúng sinh có quá nhiều
trình độ, cá tính khác nhau. Trước khi con
thực hành chúng, con hãy dùng
trí tuệ của con để
kiểm soát xem nó có
thích hợp với cá tính của con không, nó có hợp với
tâm hồn của con không. Nếu
phương pháp của thầy
thích hợp và mang lại ơn ích cho con, con hãy chăm chú
thực hành nó. Nhưng nếu nó không
thích hợp, không mang lại kết quả gì cho con, con hãy rời xa nó, mặc dù nó nghe
hợp lý, xuôi tai; nó được dành cho người khác.”
Ở
thời đại này,
chúng ta không thể nói
mọi người nên tin và nghe theo chỉ vì đó là
Phật bảo, Chúa dạy. Những
lời nói đó không đủ để họ tin. Họ sẽ từ chối, họ muốn bằng chứng. Những người đó không hiểu tâm bản nhiên của họ
trong sáng, họ không nhìn ra được cái khả năng
khám phá sự
tiềm ẩn trong sáng của chính họ thành ra họ đã làm mất rất nhiều cơ hội. Nếu
chúng ta nghĩ rằng từ
nguyên thủy chúng ta đã có tội thì
chúng ta đã mất
hết hy vọng.
Dĩ nhiên, tâm của
con người có hai phần tốt và xấu,
tích cực và
tiêu cực,
trong sạch và
ô nhiễm. Phần
tiêu cực thì
nhất thời, rất ngắn ngủi. Những
cảm xúc lên xuống của
chúng ta cũng giống như mây bay trong bầu trời; phía bên kia của chúng là một
sự thật hiển nhiên: tâm của
chúng ta hoàn toàn trong sáng!
Rất nhiều người đã
hiểu lầm Phật giáo. Ngay cả một số giáo sư
Phật học, họ nhìn vào những gì Phật dạy rồi
diễn dịch một cách
vô cùng văn chương, bóng bảy. Họ đã không hiểu gì về những
phương pháp của Ngài, họ đã không hiểu được những
ý nghĩa thâm sâu của những lời
dạy bảo. Theo
ý kiến của riêng tôi, điều
vô cùng quan trọng của mỗi một
tôn giáo là ở những
phương pháp của nó: làm thế nào để chuyển
tôn giáo thành những
kinh nghiệm sống
của riêng mỗi người. Tốt nhất
chúng ta nên hiểu để
thực hành nó, như vậy
tôn giáo mới có ích, mới có
hiệu quả. Sự
thực hành sẽ trở nên
tự nhiên hơn, thật hơn; nó sẽ giúp
chúng ta hiểu được
bản tính nguyên thủy của
chúng ta, tâm bản nhiên của
chúng ta và
chúng ta sẽ chẳng còn
ngạc nhiên khi biết được có những gì ở trong đó. Rồi, khi đã hiểu được tâm bản nhiên,
chúng ta có thể
kiểm soát, có thể
theo dõi nó một cách rất
tự nhiên;
chúng ta sẽ không phải
cố gắng quá độ, sẽ không còn cần một sự
thúc đẩy nào, sự
hiểu biết tự nhiên sẽ mang lại sự
kiểm soát tự nhiên, sự
tỉnh thức tự nhiên.
Nhiều người tưởng rằng sự
kiểm soát tâm là một
việc làm chặt chẽ lắm,
nghiêm chỉnh lắm, mãnh liệt lắm.
Thực ra, việc
kiểm soát là một tiến trình đến rất
tự nhiên. Nhưng quý vị không
đồng ý, phải không? Quý vị sẽ nói rằng
tâm không kiểm soát được bởi sự
tự nhiên vì quý vị tin rằng
tình trạng tự nhiên của tâm là không có sự
kiểm soát. Thật ra không phải vậy. Khi
chúng ta nhận thức được sự
tự nhiên của một cái
tâm không kiểm soát, thì sự
kiểm soát đang đến một cách
tự nhiên, như
tình trạng không
kiểm soát hiện tại của
chúng ta đang xẩy ra cũng một cách rất
tự nhiên. Hơn nữa, chỉ có một cách để
nhận ra sự
kiểm soát đang tràn qua tâm
chúng ta là
chúng ta nên
hiểu rõ bản tính của nó.
Chúng ta đừng bao giờ
cưỡng bức, đừng bao giờ bắt buộc tâm -thế
giới nội tại- của
chúng ta phải thay đổi. Cũng như
chúng ta không thể thanh tẩy tâm của
chúng ta bằng sự
hành xác, bằng sự đánh đập
thân thể. Điều đó
chắc chắn không thể được.
Nghiệp chướng,
ô trược,
tội lỗi, hay bất cứ cái gì
chúng ta gọi cho những
hiện tượng tâm lý này đều không thể
chấm dứt bằng những
sự kiện vật lý. Sự thanh tẩy đòi hỏi một sự
hợp tác của cả
trí tuệ lẫn
phương pháp.
Để thanh tẩy
tâm hồn,
chúng ta không
cần phải tin vào những gì
đặc biệt ở mãi tận trên kia như
Thượng Đế, Phật. Đừng quá
quan tâm về những
vấn đề đó. Một khi
chúng ta đã thật sự
nhận thức được những
đặc tính lên xuống
trong đời sống hàng ngày của
chúng ta, thật sự thấu hiểu được những
bản tính tự nhiên của
thái độ tinh thần chúng ta, thì
chúng ta sẽ tự động ước muốn
hoàn thành một
giải pháp.
Ở
thời đại này, có rất nhiều người muốn xét lại những
vấn đề của
tôn giáo, hình như họ nghĩ rằng
tôn giáo không còn
giá trị.
Thực ra tôn giáo vẫn có giá trị.
Tôn giáo giúp
cải thiện đời sống.
Tôn giáo có những
phương pháp tuyệt hảo giúp
giải quyết những
vấn đề của
xã hội.
Vấn đề là
con người đã không hiểu được những
đặc tính căn bản của
tôn giáo, vì thế họ không thể có được những ước muốn
hoàn thành sự
thực tập những
phương pháp của
tôn giáo dạy bảo.
Hãy thử nhìn vào
đời sống vật chất. Đó là
một thế giới của
bạo động và
xung đột.
Chúng ta không bao giờ thay đổi được chúng
như ý muốn của
chúng ta. Mỗi buổi sáng
thức dậy,
chúng ta không thể xác quyết một cách
chắc chắn rằng hôm nay tôi muốn
mọi việc phải như thế này, thế kia.
Chúng ta không thể xác định trước một ngày đừng nói chi đến trước một tuần, một tháng, một năm. Nếu tôi
yêu cầu qúy vị ngay bây giờ hãy cho tôi biết cái gì sẽ xẩy ra hôm nay, chuyện gì sẽ xẩy ra cho
chúng ta, qúy vị sẽ
cảm thấy những giây phút sắp tới như thế nào ...
vân vân... Qúy vị có thể nói cho tôi biết không?
Chắc chắn là không.
Chúng ta không thể
trả lời được, phải không qúy vị?
Không cần biết
chúng ta sẽ tạo cho
chúng ta một đời sống
vật chất thoải mái như thế nào, cũng không cần biết
chúng ta trang hoàng nhà cửa của
chúng ta như thế nào -tôi có cái này, tôi có cái kia, tôi đặt cái này ở đây, cái kia ở đó...-
Chúng ta vẫn không thể
xếp đặt tâm của
chúng ta giống như vậy.
Chúng ta không thể qủa quyết ngày hôm nay tôi phải như thế này. Làm thế nào
chúng ta có thể sắp xếp tâm của
chúng ta như vậy được? Làm sao
chúng ta có thể nói được: “ ngày hôm nay tôi sẽ như thế này?” Tôi có thể nói cho qúy vị biết
chắc chắn một điều, cho tới khi nào tâm của
chúng ta còn ở ngoài tầm
kiểm soát, còn
loạn động và còn
phân biệt chia rẽ thì
chúng ta sẽ không bao giờ làm được điều đó, không thể được. Nói vậy không có nghĩa là tôi chê bai qúy vị, tôi chỉ muốn nói lên một
vấn đề là: tâm của
chúng ta làm việc như thế nào!
Tất cả những điều nói ở trên chỉ
nhấn mạnh một
vấn đề: không cần biết
chúng ta có
một đời sống
vật chất thoải mái,
tiện nghi như thế nào; không cần biết
chúng ta tự
an ủi: “ồ, điều này tôi
hài lòng, điều này làm tôi vui, tôi sẽ
hạnh phúc cả ngày hôm nay!” như thế nào,
chúng ta vẫn không thể xác định được
đời sống của
chúng ta sẽ xẩy ra
y như vậy. Những
cảm xúc luôn luôn thay đổi, thay đổi, tự động thay đổi một cách
liên tục không ngừng nghỉ.
Sự kiện này nói lên
đời sống vật chất không giúp gì được trong tiến trình thay đổi
tâm lý đó.
Tuy nhiên, tôi không có ý khuyên qúy vị phải
từ bỏ đời sống vật chất mà hãy sống
khổ hạnh. Tôi
hoàn toàn không muốn nói như vậy.
Quan điểm của tôi là nếu
chúng ta thực sự hiểu được
vấn đề tâm linh và sống theo nó thì
chúng ta sẽ tìm được những sự
thỏa mãn lớn lao hơn, cao cả hơn, sẽ có
một đời sống
ý nghĩa hơn là cứ
chạy theo những
cảm xúc trần gian.
Hạnh phúc trần gian không bao giờ
thỏa mãn được tâm của
con người.
Vì thế, sự có mặt của
tôn giáo với
mục đích chính của nó là giúp
chúng ta thấu hiểu được tâm bản nhiên của
chúng ta và những cảm tính riêng của
chúng ta.
Chúng ta muốn gọi
con đường tâm linh của
chúng ta bằng tên gì cũng được, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là từ nó
chúng ta có thể
học hỏi được
kinh nghiệm cho riêng
chúng ta và có hiểu được cảm tính riêng tư của
chúng ta hay không. Vì
lý do đó,
kinh nghiệm của
Lạt ma về
Phật giáo là thay vì chú trọng đến
tín ngưỡng, các ngài lại
đặc biệt chú ý đến
vấn đề chứng nghiệm cá nhân,
thực hành đạo pháp trong đời sống và xác định được những kết qủa trong tâm của
chúng ta như:
phương pháp này có mang lại
lợi ích không? tâm
chúng ta có
chuyển hóa không hay vẫn ở ngoài vòng
kiểm soát như trước kia? Đó là
Phật giáo ! và cái
phương pháp để
kiểm soát tâm được gọi là
thiền định.
Đây là
vấn đề hoàn toàn cá nhân,
chúng ta không thể tổng quát hóa, không thể tập thể hóa
vấn đề này được. Nó
thuần túy là sự
hiểu biết cá nhân,
kinh nghiệm của từng người. Nếu
con đường chúng ta đang theo, đang
thực hành không mang lại cho
chúng ta một sự thay đổi nào,
không giải quyết được
vấn đề gì, không có câu
trả lời cho những khúc mắc của
đời sống, không
thỏa mãn tâm
chúng ta thì
chúng ta nên xét lại, nên đặt lại
vấn đề. Có một điều gì
sai lầm trong
con đường chúng ta đang theo hay không? hay là
chúng ta đã hiểu sai vấn đề?
Chúng ta không nên
vội vàng kết luận tôn giáo mà
chúng ta đang theo là
sai lầm bởi vì
chúng ta đã thử mà không
thành công. Cá tính khác biệt
mang đến những
tư tưởng khác biệt,
mang đến những
quan điểm khác biệt,
mang đến những sự
hiểu biết về
tôn giáo khác biệt nên có thể có những
nhận xét sai lầm. Vì thế, hãy
thận trọng, hãy
thấu triệt những
giáo lý và những
phương pháp mà
chúng ta đang theo, trước khi phê phán nó. Nếu
chúng ta thực sự nắm được những
căn bản giáo lý của nó,
chúng ta sẽ thực sự
kinh nghiệm và
hài lòng trong tận
đáy lòng của
chúng ta. Từ đó,
chúng ta sẽ
chứng nghiệm được sự
thỏa mãn của
tâm không phải từ những vật bên ngòai. Sự
thỏa mãn chân thật chỉ có ở bên trong, ở tâm bản nhiên của
chúng ta. Sự
an lạc chỉ đến từ bên trong!
Chúng ta thường
đau khổ và nhìn thấy
một thế giới
đảo điên, chỉ vì
chúng ta tin tưởng rằng
chúng ta có thể thay đổi được những sự vật bên ngoài theo
ý muốn của
chúng ta, theo
hoạch định của
chúng ta.
Chúng ta đòi hỏi sự vật phải thay đổi trong khi
bản tính của chúng không thay đổi; sự vật phải
tồn tại, phải
thường hằng trong khi
bản tính của chúng là
vô thường. Rồi, khi chúng đổi thay là
chúng ta không bằng lòng,
chúng ta nổi giận.
Chúng ta tức giận khi một vật nào đó trong nhà hư hại, bể vỡ, chỉ vì
chúng ta không hiểu được
bản tính vô thường của nó. Khi thời điểm đến,
mọi vật đều
biến đổi dù
chúng ta muốn hay không muốn.
Tuy nhiên,
chúng ta vẫn đòi hỏi sự vật phải
tồn tại, phải ở với
chúng ta. Điều đó không thể được, không có vật gì có thể
tồn tại mãi mãi. Do đó, để
tìm kiếm sự
thỏa mãn vĩnh cửu,
chúng ta nên
chú tâm vào sự
thực hành tâm linh và
thiền định hơn là đi tìm ở những sự vật chung quanh
chúng ta. Sự
thỏa mãn vĩnh cửu chỉ đến
từ tâm, từ bên trong
chúng ta.
Vấn đề then chốt và là căn nguyên của tất cả mọi
đau khổ,
buồn bực,
chán đời là
chúng ta có một cái
tâm không tỉnh thức, một cái tâm
bất mãn,
bám víu.
Biết như
vậy thì mỗi khi
rắc rối xẩy ra, thay vì
bực tức nóng giận vì những việc không
vừa ý, vì những hành động
bám víu bên ngoài,
chúng ta hãy thư dãn,
thoải mái, ngồi xuống và bắt đầu khám xét xem thực trạng nào đang diễn ra ở trong tâm ta. Hành động này rất có lợi để
đối trị những
rắc rối đang tràn đến
đồng thời làm êm dịu tâm ta. Hơn nữa, khi
chúng ta thực tập như vậy,
chúng ta giúp cho
trí tuệ ngày càng thêm lớn mạnh.
Trí tuệ không bao giờ phát triển trong một cái tâm bấn loạn,
lộn xộn và hay thay đổi !
Một
tinh thần bấn loạn là một
chướng ngại lớn cho việc phát triển
trí tuệ. Cũng giống như vậy,
ngã chấp là
chướng ngại cho việc phát hiện tâm bản nhiên. Nếu vì những
quan niệm sai lầm mà
chúng ta cho rằng
bản ngã và tâm là một, giống như nhau, thì
chúng ta sẽ không bao giờ tách chúng ra được và cũng không bao giờ
khám phá ra được phía bên kia của
bản ngã là gì. Cho tới khi nào
chúng ta còn tin vào sự
sai lầm này thì
chúng ta và tội
nguyên tổ là một và sẽ chẳng bao giờ
chuyển hóa được chúng. Tin vào cái gì thì cái đó trở nên quan trọng và nó sẽ
ảnh hưởng muôn đời đến tất cả những
quan niệm sống của
chúng ta. Người
Tây phương thường
quan niệm rằng nếu
chúng ta không là một với
bản ngã thì
chúng ta không thể có
một đời sống, không thể có công ăn
việc làm và không thể
hoàn thành một việc gì. Đó là một ảo nghĩ
vô cùng nguy hiểm - họ tưởng rằng
chúng ta không thể tách cái tôi ra khỏi tâm, cái tôi ra khỏi
đời sống. Họ cho đó là điều
vô cùng rắc rối. Nếu mất cái tôi,
chúng ta sẽ mất hết cá tính, mất cả
bản tính tự nhiên của
con người. Điều đó
hoàn toàn sai lầm,
chúng ta không nên
lo lắng về những
vấn đề này. Thật ra, nếu bỏ mất cái tôi
chúng ta sẽ thực sự
hạnh phúc.
Chúng ta nên có hạnh phúc! Nhưng “cái tôi” là gì? Người
Tây phương có rất nhiều danh từ nói về cái tôi, nhưng người ta có thực sự hiểu cái tôi là gì không? Không cần biết sự
hoàn hảo của những danh từ đó như thế nào, cái tôi không phải là
ngôn từ,
ngôn ngữ chỉ là một
biểu tượng. Họ nghĩ có một “cái tôi” thực đang ở trong
chúng ta. Đây là một
quan niệm hoàn toàn sai lầm về một cái “tự ngã
độc lập,
thường hằng và
hiện hữu.” Trong
thực tế, những cái gì
chúng ta tin tưởng về cái tôi đều không
hiện hữu, không có thực.
Nếu tôi hỏi tất cả
mọi người có mặt ở đây đi
tìm kiếm tận trong đáy sâu thẳm, phía bên kia của
ngôn ngữ, cái tôi là gì, thì mỗi người sẽ có một câu
trả lời khác nhau. Tôi không nói đùa đâu, đây là
kinh nghiệm của tôi, qúy vị nên tự
tìm hiểu lấy.
Chúng ta vẫn thường nói một cách bao quát: “đó là cái tôi của anh”, nhưng
chúng ta thực sự không có một
ý niệm gì về
bản tính đích thực của cái tôi là gì ? Đôi khi
chúng ta còn dùng một câu rất ư là
châm biếm: “Ồ, không sao, đó chỉ là cái tôi của anh thôi mà !” hay những câu
đại khái như vậy. Nhưng nếu
chúng ta tìm hiểu sâu xa hơn,
chúng ta sẽ nhìn thấy những người trung
bình thường nghĩ rằng đó là cá tính của họ,
đời sống của họ. Đàn ông có
cảm tưởng rằng nếu họ làm mất
bản ngã họ sẽ mất hết cá tính, họ sẽ không còn là đàn ông nữa;
nữ giới có
cảm tưởng rằng nếu họ làm mất cái tôi của họ, họ sẽ mất hết phẩm cách của đàn bà. Điều đó
hoàn toàn không có thật,
hoàn toàn sai lầm. Còn nữa, vẫn
dựa trên căn bản diễn dịch về
đời sống và
bản ngã của người
Tây phương, thì nó còn tệ hơn nữa : họ nghĩ
bản ngã là một
thái độ tích cực cần phải có cho
đời sống xã hội,
nếu không có
bản ngã, không thể sống hòa đồng với
xã hội. Nếu
chúng ta cứ
tiếp tục tìm hiểu một cách
sâu xa hơn trong
lãnh vực tinh thần,
chúng ta sẽ còn
khám phá ra nhiều điều
thích thú hơn nữa.
Ngay cả những
nhà tâm lý học cũng định nghĩa
bản ngã một cách rất nông cạn, hời hợt, làm
chúng ta có
cảm tưởng nó
hoàn toàn có
tính cách vật chất. Theo
quan điểm của
Phật giáo, “bản ngã” hay “cái tôi” là một
ý niệm thuộc
phạm vi tinh thần, không phải
vật chất.
Dĩ nhiên, những
hoạt động của một
biểu tượng “tôi” có thể được
thị hiện ra bên ngoài,
thí dụ, khi một người
giận dữ thì thân xác của họ
phản ảnh những
rung động giận dữ chứ không phải có một “cái dữ ” tự nó
hiện hữu, tự nó
xuất hiện. Đó chỉ là một biểu hiện của sự
giận dữ. Cũng giống như vậy, “cái tôi” không phải là sự
thị hiện từ bên ngoài mà là những
yếu tố,
động lực của
tinh thần, một
thái độ tâm lý ở bên trong.
Chúng ta không thể nhìn thấy chúng từ bên ngoài.
Trong lúc
thiền định,
chúng ta có thể
nhận ra hôm nay
chúng ta lên
tinh thần, ngày mai xuống
tinh thần : những
hiện tượng chao đảo là do tâm. Một người không
theo dõi bên trong của họ sẽ có những
ý kiến rất nông cạn, như “ hôm nay tôi
không vui vì
mặt trời không sáng.” Tất cả những
hiện tượng lên xuống của
chúng ta đều phát xuất từ những
yếu tố tâm lý, ở bên trong.
Khi một làn gió mạnh thổi qua, mây tan đi và bầu trời trong xanh
trở lại.
Tương tự như vậy, khi
trí tuệ -sự
hiểu biết về tâm bản nhiên- đến,
đám mây đen tối bản ngã liền tan biến. Phía bên kia của “bản ngã”, của “cái tôi” -sự
loạn động,
tâm không kiểm soát,
tâm không tỉnh thức- là sự
an lạc vĩnh cửu, là sự
thỏa mãn hoàn hảo bất tận. Đó là tất cả sự
dạy bảo của
Đức Phật, đó là tất cả sự diễn giảng, phân tích của Ngài về cả
hai mặt tốt xấu,
tích cực và
tiêu cực của
chúng ta.
Đặc biệt, mỗi khi tâm
tiêu cực xuất hiện, thay vì
sợ hãi,
chúng ta nên phân tích nó, khám xét nó,
theo dõi nó một cách gần hơn nữa, một cách xác thực hơn nữa.
Đó, qúy vị thấy không,
Phật giáo không phải là một
tôn giáo thuần túy, nó luôn luôn
cố gắng tránh những sự
công kích,
xung đột.
Phật giáo chỉ chú trọng đến việc
tìm hiểu chúng ta là ai và tâm của
chúng ta hoạt động, làm việc như thế nào ngay bây giờ, ở đây. Điều đó làm cho
Phật giáo trở nên
hấp dẫn và
thích thú cho nhiều người.
Chúng ta không thể lúc nào cũng chỉ đòi hỏi nghe những điều
tốt đẹp, những điều
vừa ý, những
vấn đề tích cực. Tôi biết qúy vị là những người tốt,
chúng ta luôn
tích cực,
chúng ta thích đứng về phía ánh sáng, nhưng còn
bản tính tiêu cực -phần
tối tăm - của
chúng ta thì sao? Để có thể hiểu được cả hai phía một cách ngay thẳng
công bằng, để có thể
thấu triệt được
toàn diện bản tính của
chúng ta,
chúng ta phải
tìm hiểu, phải nhìn nhận cả hai, bên xấu cũng như bên tốt, phần
tích cực cũng như phần
tiêu cực, và một điều
vô cùng quan trọng là không
bảo vệ, không
thiên vị bên nào !
Tôi xin
chấm dứt ở đây và rất
hân hạnh được
trả lời những câu hỏi của qúy vị.
Hỏi: Thưa
Lạt ma, ngài nói rằng
chúng ta nên bày tỏ,
biểu lộ những hành động
tiêu cực của
chúng ta ra hơn là bưng bít,
che dấu nó ?
Phải chăng chúng ta nên để chúng đi ra?
Lạt ma:
Tùy theo. Có hai
vấn đề. Nếu những
cảm xúc tiêu cực đã lộ ra bên ngoài,
tốt hơn nên
tìm cách để
giãi bày nó ra nhưng tôi đề nghị nên
đối diện với nó trước khi để nó
xuất hiện ra.
Dĩ nhiên, với những
cảm xúc tiêu cực quá mạnh mà
chúng ta cố gắng chịu đựng, đè nén nó thì đây lại là
nguyên nhân cho một sự nguy hiểm sau này,
thí dụ, sự
bùng nổ một
cơn giận dữ
tích tụ lâu ngày có thể vác súng đi giết người.
Phật giáo có những
phương pháp để khảo sát những
cảm xúc này bằng
trí tuệ và bằng cách
tiêu hóa chúng qua
thiền định, hãy
thiền định để những
cảm xúc tan biến một cách êm thắm. Sự
giãi bày những
cảm xúc tiêu cực mạnh ra bên ngoài sẽ để lại những dấu ấn sâu đậm trong
tâm thức của
chúng ta. Những dấu ấn này, những
kinh nghiệm này sẽ giúp
chúng ta giải quyết một cách dễ dàng hơn khi những
cảm xúc tiêu cực đó
trở lại,
mặc dầu lần
trở lại này có thể còn mãnh liệt hơn lần trước. Những dấu ấn này tạo thành một chuỗi
nghiệp lực nhân quả mà nó sẽ
ảnh hưởng lâu dài trên những
hành vi tiêu cực của
chúng ta. Do đó,
chúng ta phải biết trau dồi bản lãnh và phải quyết liệt khi
đối diện với những âm lực này. Hãy
học hỏi để biết khi nào nên
giãi bày nó ra, làm thế nào để
giãi bày tâm sự và
đặc biệt làm thế nào để
nhận diện được nó trước khi nó
thành hình để
tiêu hóa nó trong
trí tuệ.
Hỏi: Xin Ngài
giải thích sự
liên hệ giữa
phương pháp thiền của
Phật giáo và Hatha yoga?
Lạt ma: Trong
Phật giáo chúng tôi chú trọng nhiều đến sự hòa nhập
nội tâm hơn là sự chuyển động của thân xác,
mặc dầu có những sự
thực hành thiền định qua việc
thực tập thân xác. Nói chung,
sự thiền định của
Phật giáo dạy
chúng ta nhìn vào bên trong xem
chúng ta là gì, để hiểu được
bản tính thực
của riêng chúng ta. Thiền
Phật giáo không
nhất thiết phải
ngồi yên một chỗ trong tư thế
liên hoa với đôi mắt nhắm lại, thiền có thể
thực hiện trong tất cả mọi
trạng huống của
đời sống. Điều quan trọng là phải
tỉnh thức trên từng công việc
chúng ta làm vì thế
chúng ta không nên làm buồn lòng chính mình và những người chung quanh một cách
vô ý thức.
Chúng ta có thể thiền trong lúc đang đi, đang nói chuyện, đang làm việc, đang ăn...trong bất cứ lúc nào, hãy
tỉnh thức trong từng hành động của thân, khẩu và ý của
chúng ta.
Hỏi:
Phật tử có
hoàn toàn kiểm soát khí lực (prana) của họ qua tâm không?
Lạt ma: Có. Nếu
chúng ta kiểm soát được tâm,
chúng ta sẽ
kiểm soát được tất cả mọi
sự kiện. Không thể
kiểm soát được thân xác
nếu không kiểm soát được tâm trước. Nếu
chúng ta cố gắng kiểm soát thân bằng
sức mạnh, nếu
chúng ta tự đưa
chúng ta lên mà không hiểu sự
liên hệ giữa tâm và thân thì đó là một
việc làm rất nguy hiểm mang lại nhiều điều
khổ tâm.
Hỏi: Ngài có thể
đi vào đại định trong khi ngài đang đi, giống như trong lúc ngài
ngồi thiền không?
Lạt ma:
Chắc chắn được,
lý thuyết là như vậy nhưng
tùy theo mỗi
cá nhân. Với người mới tập, sẽ
đạt được cảnh giới này dễ dàng bằng cách
ngồi thiền.
Tuy nhiên, với người có
kinh nghiệm, họ có thể
duy trì tình trạng tâm tập trung này ở tất cả
mọi nơi, ngay cả khi họ đang đi.
Dĩ nhiên, nếu một người có
tâm hồn bấn loạn, dù có
ngồi thiền đi nữa họ cũng không thể giữ tâm
yên tịnh. Một điểm quan trọng trong
Phật giáo là
chúng ta không thể bắt tất cả
mọi người phải làm điều này, tất cả
mọi người phải như vậy, nó
tùy thuộc vào cá tính mỗi người.
Tuy nhiên,
chúng tôi cũng khẳng định
con đường thực hành thiền định như sau: bước thứ nhất
chúng ta nên phát triển như thế này,
kế tiếp đi theo con đường này rồi
tiếp tục tiến lên những giai đoạn tập trung khác nhau...
vân vân...
Tương tự như thế,
toàn thể con đường tu tập đến
giác ngộ -
chúng tôi gọi là lam-rim, từng bước
tu tập - được đặt ra từng cấp bậc, từng
lý thuyết thích hợp cho từng người, giúp họ có thể dễ dàng tìm được
trình độ của họ, rồi họ sẽ bắt đầu từ đó.
Hỏi: Thưa
Lạt ma, những
tư tưởng tiêu cực (xấu) xẩy ra trong tâm của
chúng ta, chúng có thể đến từ những
nguyên nhân bên ngoài
chúng ta, từ người khác hay từ
một thể tinh thần nào đó hay không?
Lạt ma: Ồ, đó là một câu hỏi rất hay.
Nguyên nhân chính, gốc rễ
thâm sâu của những căn
nguyên tiêu cực nằm ở trong tâm của
chúng ta, nhưng
điều kiện để nó
thị hiện ra bên ngoài
thường thường đòi hỏi một sự
tác dụng hỗ tương,
nguyên nhân bên ngoài, từ người khác hay từ những cảnh vật chung quanh.
Thí dụ, một vài người có những
kinh nghiệm về thuật phong thủy, chiêm tinh
bói toán quan niệm: khí lực (
chấn động của những hành tinh khi nó chuyển vận) thay đổi làm
ảnh hưởng đến
con người. Những
cảm xúc thay đổi vì những
kích thích tố trong người thay đổi. Những
kinh nghiệm này không chỉ đến
từ tâm của
chúng ta mà còn qua những
tác động vật chất hay
tinh thần.
Dĩ nhiên chúng ta cũng có thể nói rằng tất cả những
sự kiện trong cơ thể mà nó là
nguyên nhân của một đổi thay đều đến
từ tâm chúng ta. Nhưng tôi không nghĩ rằng
Đức Phật chấp nhận ý kiến cho rằng có
một thể tinh thần bên ngoài gây
đau khổ cho
chúng ta. Điều này cũng có thể xảy ra nếu
tâm lực của anh có
liên hệ đến một lực nào đó ở bên ngoài và đó chính là sự
tác dụng hỗ tương làm anh
đau khổ.
Qua những
kinh nghiệm trong cuộc sống,
chúng ta đã biết được
chúng ta bị
ảnh hưởng rất nhiều bởi những
sự kiện ở chung quanh. Trong bầu không khí
vui tươi,
an lành và
thương yêu,
con người tự
cảm thấy hạnh phúc. Trong bầu không khí nóng giận, gần những người
năng động, gần những người hiếu thắng
chúng ta dễ bị
lôi cuốn theo họ. Tâm của
con người như cái gương soi. Chiếc gương không
phân biệt, không kỳ thị, nó
phản chiếu tất cả những gì đàng trước nó, không kể tốt xấu. Giống như thế, tâm của
chúng ta nhận tất cả những cảnh
ở chung quanh, nếu
chúng ta không biết
kiểm soát, không
tỉnh thức với những
sự kiện xẩy ra, tâm của
chúng ta có thể sẽ nhận đầy rác rưởi. Vì thế, hãy
thận trọng, hãy
ý thức những gì xẩy ra
ở chung quanh ta và
nhận thức xem nó
ảnh hưởng đến tâm
chúng ta như thế nào.
Vấn đề mà
chúng ta cần phải hiểu về
tôn giáo là xem nó
liên hệ thế nào với tâm của
chúng ta, nó có thể hướng dẫn
đời sống của
chúng ta như thế nào. Nếu
chúng ta có thể
thực hành nó, điều đó thật
tuyệt diệu,
sự thật nằm ngay ở đó.
Chúng ta không
cần phải đặc biệt chú ý đến
lòng tin vào
Thượng đế, vào Phật hay
quan tâm đến
tội lỗi, đừng quá lo sợ về những
vấn đề đó. Hãy hành động đúng theo sự
hiểu biết của
chúng ta càng nhiều càng tốt, như vậy
chúng ta sẽ gặt hái được kết quả ngay ngày hôm nay. Hãy quên đi những
vấn đề siêu hình, siêu thực hay những gì vĩ đại cao xa như tình yêu
bao la --tình cao thượng,
lòng từ bi sẽ đến, sẽ lớn mạnh từ từ, một cách
chắc chắn nhưng từ từ.--
Tuy nhiên, nếu
chúng ta chỉ chú trọng đến những
vấn đề, như “ Ồ,
tuyệt diệu quá!
siêu việt quá! mãnh liệt quá!” là
chúng ta đang đi trong một cuộc
hành trình về
quyền lực.
Dĩ nhiên sức mạnh của
tinh thần sẽ đến nhưng chỉ có một cách mà
chúng ta có
thể đạt được là
chúng ta phải
thấm nhuần đạo pháp và
chuyên cần thực hành nó
trong đời sống.
Sức mạnh đến từ bên trong
chúng ta. Đừng nghĩ rằng
quyền năng thật phải ở trên kia, một chỗ nào đó trong bầu trời.
Quyền năng thật đang ở đây, tâm của chúng ta!
Hỏi: Theo
giáo lý Phật giáo,
tri giác (tưởng) là một trong
năm uẩn (
ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức), chúng
hòa hợp làm
thành thân tâm của
con người.
Tri giác làm việc như thế nào? Thưa Ngài.
Lạt ma: Lại một câu hỏi rất hay. Hầu như trong mọi lúc,
tri giác của
chúng ta đều
hão huyền,
huyễn ảo;
chúng ta không
nhận thức đúng
sự thật. Đúng vậy,
chúng ta nhìn
thế giới cảm giác -hình thể
hấp dẫn, mầu sắc đẹp, món ăn
tuyệt hảo...
vân vân... - nhưng
chúng ta không thực sự
nhận biết được
sự thật của chúng,
bản chất thực của hình thể, của mầu sắc và của
mùi vị.... Đó là
lý do tại sao
chúng ta luôn luôn có những
nhận xét sai lầm. Những
nhận biết sai lầm của
chúng ta là một tiến trình
cung cấp tin tức sai lạc từ năm
giác quan chuyển vào tâm, rồi nó được diễn lại dưới
ảnh hưởng của “cái tôi”. Kết quả là
chúng ta luôn luôn ở trong
huyễn ảo,
chúng ta không nhìn ra được
bản tính thực của sự vật,
chúng ta chỉ đứng bên lề của
sự thật, ngay trong
thế giới cảm giác.
Hỏi: Nghiệp
quá khứ có
ảnh hưởng đến
tri giác của
chúng ta không?
Lạt ma:
Dĩ nhiên là có. Nghiệp
quá khứ ảnh hưởng rất nhiều đến những
nhận thức của
chúng ta. Cái tôi của
chúng ta ôm giữ, nắm bắt tất cả những
nhận thức không được
kiểm soát và tâm của
chúng ta chỉ
chạy theo chúng:
toàn thể tình trạng không
kiểm soát đó được gọi là nghiệp. Nghiệp không chỉ
đơn giản là những
lý thuyết, đó chính là những
tri giác hàng ngày của
chúng ta trong cuộc sống.
Hỏi: Thưa
Lạt ma, sự
liên hệ giữa tâm và thân là gì? chẳng hạn như
thức ăn có
liên hệ gì không?
Lạt ma: Thân không phải là tâm, tâm cũng không phải là thân, nhưng cả hai có một
liên hệ rất
đặc biệt. Chúng rất gần nhau, rất
ảnh hưởng đến nhau.
Thí dụ, khi một người dùng
ma túy thì
vật chất không
ảnh hưởng đến tâm một cách trực tiếp, nhưng vì
tâm liên hệ với hệ
thần kinh của thân và những
cơ quan trong người, nên sự thay đổi vì thuốc khiến cho hệ
thần kinh không còn
hòa hợp, đó là
nguyên nhân để tâm có những
ảo giác. Vì biết có một sự
liên hệ sâu xa giữa thân và tâm nên
mật tông du già Tây Tạng mới
lợi dụng cơ hội này : tập trung sự chú ý vào những
trung tâm thần lực trong cơ thể để gây
ảnh hưởng tâm. Do đó, ngay cả
thức ăn thường ngày hay bất cứ gì thân xác đụng đến cũng đều có
ảnh hưởng đến tâm
chúng ta.
Hỏi: Thưa ngài, nhịn ăn có tốt không?
Lạt ma: Việc nhịn ăn không quan trọng lắm, trừ khi
chúng ta đang trong
thời kỳ thực tập một vài
phương pháp đặc biệt thì sự nhịn ăn lại rất cần. Đó là
kinh nghiệm của một số
lạt ma.
Thí dụ, nếu
chúng ta ăn uống cả ngày rồi
ngồi thiền vào buổi tối thì sự tập trung
thiền định rất khó. Vì thế, nếu muốn thiền một cách
đúng đắn,
chúng tôi chỉ ăn ngày một bữa. Buổi sáng
chúng tôi uống trà, ăn buổi trưa, buổi tối uống trà. Với
chúng tôi, sống như vậy để
cuộc đời đơn giản hơn, thân xác nhẹ nhàng hơn. Nhưng với những người không thấy
cần thiết phải luyện tâm thì họ lại cho đó là một
cực hình.
Thường thường chúng tôi không nhịn ăn.
Chúng ta không nên
tự hành hạ mình, nên sống
đơn giản,
vui vẻ và
hợp lý để giữ cho
thân thể luôn khỏe mạnh. Nếu
thân thể yếu đuối, tâm cũng trở nên
vô dụng. Khi tâm
vô dụng,
đời sống cũng trở nên
vô dụng. Trong một vài
trường hợp, nếu nhịn đói để thăng tiến việc
thực tập thiền định hay để tiến
xa hơn trong một vài
lãnh vực thì nhịn ăn là một điều tốt.
Xin cám ơn qúy vị,
nếu không còn câu hỏi nào khác, xin kính chào qúy vị.
Lama Yeshe
thuyết giảng tại Brisbane, Australia, ngày 28 tháng 4 năm1975