PHẦN BA
NHỮNG THIỀN ĐỊNH CỦA ĐẠO PHẬT :
CON ĐƯỜNG ĐẾN RỘNG MỞ, RỖNG RANG
12
NHỮNG THIỀN ĐỊNH CHỈ VÀ QUÁNNhững bài tập chữa bệnh trong quyển sách này có nghĩa giúp
chúng ta hạnh phúc và
an bình hơn
trong đời sống
hằng ngày. Đây là
mục tiêu hoàn toàn tốt, nhưng có lẽ là một
mục tiêu giới hạn vì
đạo Phật tin rằng sự chữa lành
tối hậu là vượt lên
hạnh phúc “của tôi”, để
chứng ngộ trí huệ chân thật và
giải thoát, siêu vượt khỏi sự bám chấp vào những
tư tưởng và
cảm xúc. Những chương
cuối cùng này phác thảo một số
thiền định căn bản có thể mở ra cho
chúng ta sự
chứng ngộ này.
Mô tả thiền định luôn luôn là một sự khó khăn, vì
từ ngữ chỉ phỏng chừng
kinh nghiệm thực tế của một
cá nhân. Rồi nữa, sự
chứng ngộ có nhiều giai đoạn. Là dễ dàng cho bất kỳ thiền giả nào, thậm chí một người với nhiều
kinh nghiệm và sùng mộ, đi lòng vòng trong bám chấp vào loại này hay loại khác. Bởi thế tại sao, ở một điểm nào đó,
cẩn thận tìm ra một vị thầy hướng dẫn là điều rất quan trọng.
Với một số người
thông tuệ, bất kỳ bài tập chữa lành hay
kinh nghiệm nào cũng có thể dẫn đến
giác ngộ. Ở
Tây Tạng, có những
câu chuyện về những người
sơ học thiền định về “những
thực hành tiên khởi” và đã
kinh nghiệm sự
chứng ngộ cao nhất, trong khi những người khác
thực hành những
tu tập cấp cao nhất và mong muốn
trí huệ có
thể không có một manh mối về
ý nghĩa thật sự của những
giáo lý.
Những
thực hành Chỉ và Quán (hay
An định và
Quán chiếu)
phổ thông với tất cả trường phái của
đạo Phật, là những
phương pháp đã từng được nhiều người đi qua và
chứng nghiệm. Những
phương pháp đó có
mục tiêu tối hậu là rỗng rang và “vô ngã” – tức là
sự giải thoát khỏi
đau khổ gây ra bởi
chấp ngã.
Mặc dù những
thực hành này có thể dẫn đến
chứng ngộ cao hơn, chúng có thể
lợi ích cho bất kỳ ai bất kể
tình trạng tâm thức hay cấp độ
tâm linh của y. Tất cả những
thiền định trong chương cuối này có thể
cung cấp hạnh phúc và chữa bệnh “thông thường”, cũng như những bài tập chữa bệnh được
mô tả ở phần trước, trong một số
trường hợp chúng có thể dẫn đến
chứng ngộ.
Mặc dù
chúng ta có thể
tu tập tâm thức trong
thiền chỉ, bằng cách đem tất cả sự chú ý tới bất kỳ
hiện tượng nào, nhưng ở đây là sự
chú tâm vào
hơi thở.
Hơi thở của
chúng ta là đối tượng
đơn giản của sự chú ý, không có màu sắc và
hình dáng. Hơn nữa,
hơi thở gắn chặt
thân thiết với tâm và thân, đến độ việc đem
tỉnh giác của
chúng ta vào nó sẽ
tự nhiên làm
chúng ta vững chắc trong
chánh niệm, và như thế
mở rộng con đường đến
nhất thể.
Thêm vào sự
tham thiền về
hơi thở, nhiều trường phái
Phật giáo cũng
dựa trên những
thực hành thiền quán mạnh mẽ. Nhưng không
nghi ngờ gì,
thiền định đơn giản về
hơi thở chứa đựng
hạt giống giác ngộ. Sự
nhấn mạnh vào
chánh niệm và tỉnh giác về
hơi thở là
con đường đi đến
chỉ và quán.
Thiền chỉ là sự
vững chắc của tâm,
phương tiện đến
nhất thể, sự tẩy sạch bùn nhơ
thành sự rộng mở.
Thiền quán là
tỉnh giác và
nhất thể,
bản thân sự rộng mở, không có khái niệm hay
phân biệt giữa “bản ngã” và đối tượng đang được
kinh nghiệm.
Với những người
sơ học, có thể mất nhiều tháng, thậm chí nhiều năm
rèn luyện thiền chỉ trước khi
thích hợp với
thực hành thiền quán, thì những
ranh giới giữa những
thiền định này có thể rất không
rõ ràng. Vậy, đừng
lo nghĩ quá nhiều về những định nghĩa.
Đơn giản hãy ngồi, trong một tư thế tốt và
thực hành tỉnh giác về
hơi thở.
Đặc biệt vào
lúc đầu,
tâm trí chúng ta có thể giống như nơi chốn tả tơi và
hỗn loạn, bị quấy phá bởi những
âm thanh,
tư tưởng hay sự
kích thích nhẹ nhất. Nhìn thấy
tính chất chuyển động, không ngưng nghỉ của tâm là
bước đầu hướng đến sự tập trung. Bằng cách đem tâm bạn
trở lại với
hơi thở của mình,
dần dần nó có thể
trở thành vững chắc hơn.
THIỀN CHỈTập trung vào một đối tượng mà không có bất kỳ sự
xao động nào là
tu tập thiền chỉ. Khi nói
chúng ta tập trung vào một điểm là một cách để
mô tả điều này, có nghĩa là
chúng ta tập trung
tỉnh giác của mình chỉ trên một đối tượng, trong
trường hợp này là
hơi thở của
chúng ta. Nhẹ nhàng mà
chắc chắn lập lại nhiều lần hãy đem
tỉnh giác của bạn vào
hơi thở.
Nhiều người
sơ học được
ích lợi khi
chú tâm trên
hơi thở tại một điểm
đặc biệt như đầu mũi, hay
nhân trung là chỗ có thể
cảm thấy hơi thở.
Tuy nhiên bạn không
cần thiết xác định
vị trí hơi thở bạn theo cách này,
miễn là bạn
cảm thấy thoải mái và có thể tập trung sự chú ý của mình.
Một cách
áp dụng thông dụng khác là đếm
hơi thở. Đếm trong tâm bạn “một” khi
hít vào, “hai” lúc
thở ra, ...
cho đến “mười”
tiếp tục nhưng không được
gián đoạn những chuỗi này, đếm từ một đến mười, lập lại tiến trình này càng lâu
nếu có thể được.
Buông lỏng vùng bụng có thể giúp bạn thở bình lặng. Một số người có khuynh hướng thở cao trong vùng ngực, nhất là khi họ
căng thẳng,
chúng ta nên thở
tự nhiên, khi
hít vào bụng phình ra nhẹ nhàng,
hơi thở trở nên đầy và
thoải mái.
Trong lúc tập trung vào
hơi thở, nếu
cảm thấy khó chịu – như thể
hơi thở trở nên ngắn hơn hay co thắt – hãy tập trung nhiều hơn trên
hơi thở ra trong một lúc.
Thở ra vào khoảng không vô tận
giải phóng áp lực của sự tập trung. Nhìn chung, sự
hít vào ngắn hơn sự
thở ra. Sau một lúc,
thời gian kéo dài của
hơi thở bạn sẽ
tự nhiên trở nên dài hơn, nhưng bạn phải không có bất cứ
cố gắng nào làm
hơi thở dài hơn.
Khi tâm bạn
vững chắc và
cảm thấy ít
xao lãng, hãy đem sự
nhận biết đến
hơi thở vào và ra, không đếm. Hãy
nhận biết hơi thở bạn khi nó khởi lên, trụ lại và tan biến. Sự
thực hành thiền chỉ này tạo dễ dàng hơn trong việc đem một
chánh niệm thư giãn đến bất cứ những gì
chúng ta làm, ngoài lúc
thiền định.
Ngay khi
chúng ta cảm thấy như muốn tự
chúc mừng vì sự
thực hành thiền chỉ tuyệt vời, có thể đột ngột
chúng ta gần như rơi vào giấc ngủ.
Hôn trầm là
tác dụng phụ
tự nhiên của sự yên tĩnh
dễ chịu. Không nên chán nản mà nên
tỉnh thức ! Có thể là một cuộc đấu tranh để đem tâm ý
mơ mộng, lan man
trở lại hơi thở của mình. Nhưng, không khô cứng hay hùng hổ,
chúng ta phải
trở về với
hơi thở của mình. Bấy giờ
chúng ta có thể tĩnh lặng và
trong sáng.
Trong khi
thiền định, có thể có những
kinh nghiệm an bình và
vi tế khác nhau. Bạn có thể
cảm thấy ánh sáng nhẹ như một cọng lông.
Toàn thân bạn có thể được tắm trong
phúc lạc,
sinh động với một
cảm giác như một làn gió mát mềm mại,
mơn trớn tiếp xúc thân bạn. Một số người thấy những
hình ảnh đáng yêu trong con
mắt tâm của họ như những
tinh tú,
mặt trời,
mặt trăng, ngọc ngà,
châu báu,
tràng hoa... Nếu có bất cứ những gì giống như vậy xảy ra, hãy xem đó như sự
tiến bộ của tập trung.
Sự thiền định của bạn có thể thực sự
hoan hỷ, nhưng đừng
cố gắng bám giữ hay nắm lấy
hỷ lạc.
Cố gắng nắm giữ, “đóng băng” hay nhân đôi những
kinh nghiệm hỷ lạc này có thể
trở thành một
chướng ngại cho sự
tăng trưởng tâm linh.
THIỀN QUÁNĐể
kinh nghiệm bản tánh chân thật của bất cứ đối tượng nào của sự
tham thiền, đúng
y như nó là, là sự
rèn luyện của quán. Qua sự
tham thiền về
hơi thở,
chúng ta trở nên
nhận biết được những
vận động và
vi tế của
hơi thở như nó là.
Trong
tỉnh giác, hãy
trở thành một với
hơi thở. Trong sự hợp nhất của tâm và
hơi thở, không có
bản ngã để bám chấp. Sự thấu hiểu
đơn giản này về
bản tánh thật sự của
hơi thở có thể giúp
chúng ta chứng ngộ bản tánh tuyệt đối của tất cả
hiện tượng là không có
bản ngã (
vô ngã).
Trong
thiền chỉ,
chúng ta theo dõi và phải
thực hành tập trung vào
hơi thở. Trong
thực hành quán sát,
chúng ta ở trong
tỉnh giác về
hơi thở mà không
suy nghĩ tại sao hay nó ở đâu hoặc bất cứ những
ý niệm nào khác, chẳng hạn “cảm thấy sự
an bình của
hơi thở.”
Quán là
thực hành sự
sáng tỏ trong
nhất thể. Ví dụ
chúng ta có thể
nhận biết hơi thở dài, ngắn, lúc bắt đầu, khoảng giữa, và
chấm dứt hay sự tĩnh lặng của
hơi thở.
Hơi thở chúng ta đến, đi và thay đổi,
thoát khỏi mọi
vướng mắc hay bám chấp. Trong
tỉnh giác không cần một cái ‘Tôi” để nghĩ và
nhận xét về điều này.
Đơn giản là ở trong
tỉnh giác về
nhất thể.
Một tiếp cận với
thiền quán là bắt đầu với sự nhìn ngắm
hơi thở, và tới một điểm nào đó
buông bỏ sự tập trung hay kỹ thuật. Đối tượng của
thiền định sau đó là bất kỳ đối tượng nào khởi lên, hay
hoàn toàn không có đối tượng.
Chúng ta có thể
nhận biết hơi thở, hoặc có thể
đơn giản an trú trong khoảng không gian bắt đầu
mở rộng ra giữa những
tư tưởng.
Trong việc
thực hành quán chiếu rỗng rang này, hãy để bất cứ gì khởi lên trong tâm đến và đi, không
bám víu. Tất cả những loại
tư tưởng,
cảm giác,
hình ảnh, cảm nhận và
kinh nghiệm có thể khởi lên. Không xua được chúng đi và cũng không
chạy theo chúng.
Chúng ta có thể
cảm thấy sự
len lỏi của một “cái tôi” đang
theo dõi sự thiền định.
Tuy nhiên, không cần thấy điều này như một sự
len lỏi ;
đơn giản hãy để nó khởi lên và tan biến đi. Hãy để mọi sự như vậy,
tích cực hay
tiêu cực, không
vướng mắc. Sự yên lặng giữa những
tư tưởng là
bản tánh rỗng rang của
chúng ta. Những
tư tưởng như chúng khởi lên là
hoàn toàn lành mạnh, nhưng không nên chấp vào chúng.
Trong khi
thiền định,
chúng ta có thể
kinh nghiệm những làn sóng
cảm giác đau khổ, nhưng khi
chúng ta để cho chúng đến, không nắm bắt, bấy giờ chúng có thể trở nên
an bình. Sự không
hoàn hảo không phải là một
vấn đề khi
chúng ta rỗng rang, nó
tốt đẹp đúng như nó là. Với
tỉnh giác của
thiền quán, những cảm nhận không phải là
dễ chịu hay khó chịu mà được
kinh nghiệm một cách rỗng rang và như thế được
siêu thoát.
Thực hành thiền định về quán đem lại khả năng nhìn thấy
tính cách của khoảnh khắc thoáng qua,
vô ngã, của sự khác nhau
vô tận và những hình dạng của
hiện tượng, tại điểm chúng khởi lên và tan biến đi. Một
chứng ngộ như vậy vén lên bức màn của những
ảo giác tâm thức và của những giả tạo thuộc
cảm xúc để bày lộ khuôn mặt của
bản tánh bổn nguyên của sự vật như chúng vốn là.
Thèm khát khoái lạc hay ghét sợ
đau khổ, đã mọc rễ trong sự
chấp ngã, bấy giờ sẽ
tự nhiên tan biến giống như những hình vẽ trên mặt nước.
Trong
thiền định, có thể thấy
thân thể không phải
thanh tịnh mà cũng không phải không
thanh tịnh, mà chỉ như sự mở trống
bao la.
Tâm không phải
vĩnh cửu mà cũng không phải không
hiện hữu, mà chỉ là sự rỗng rang
thanh tịnh. Tất cả
hiện tượng không phải có
ngã tính mà cũng không phải không có
ngã tính, một
hiện hữu thực sự, mà là rỗng rang,
an bình và
thoát khỏi tạo tác.
Bất cứ một
thoáng thấy rỗng rang nào cũng có thể giúp
chúng ta trong cuộc sống. Nếu
chúng ta có một
hiểu biết và
kinh nghiệm nào đó về sự rỗng rang, sẽ khôn ngoan khi làm cho sự
thực hành của
chúng ta sâu và rộng hơn, trong
thiền định và
trong đời sống.
Có thể những
mô tả về
thiền quán và sự rỗng rang khiến cho
chứng ngộ có vẻ là không
thể đạt được.
Suy nghĩ điều này có thể là tốt. Sau đó
chúng ta có thể
buông xả ý niệm sở đắc một số “kinh nghiệm” như đã
mô tả theo một cách nào đó, và điều này tự thân nó có thể giúp
chúng ta thiền định một cách rỗng rang.
13
THIỀN ĐỊNH SÙNG TÍN CHỮA BỆNHTất cả mọi sự là một trong
Phật tánh : tâm, trái đất,
tinh tú,
thời gian và
không gian. Mọi thứ đều
hoàn thiện trong cái
nhất thể này, ngay cả những gì ta thường thấy
như không hoàn hảo.
Phật tánh đang
hiện hữu trong tất cả
chúng sanh, và trong những
sự kiện của cuộc sống hàng ngày. Rốt lại,
Phật tánh vượt khỏi những
hình ảnh ngôn từ, hay khái niệm được tạo tác bởi tâm
phân biệt,
nhị nguyên.
Đây là điều
đạo Phật tin tưởng. Khi một số người phương Tây
quan tâm đến
Phật giáo, họ có thể
thất vọng với việc
thực hành sùng tín. Họ nói
đại loại như : “Cầu nguyện một
quyền năng cao ở ngoài
chúng ta, đây là điều
chúng tôi đã muốn bỏ lại.” Thật là một
hoàn cảnh buồn cười,
chạy trốn sùng tín, chỉ để
tìm thấy niềm tin và
cầu nguyện chờ đợi ở góc
kế tiếp !
Vâng, thực sự là tất cả
vũ trụ là
Phật tánh và
an bình nằm ngay trong
chúng ta. Vậy tại sao phải
thực hành sùng tín ? Nó là một cách
chúng ta buông bỏ ý niệm về
bản ngã.
Tin tưởng giúp
chúng ta rộng mở. Nó là sự
thoát khỏi những
nghi ngờ và
sợ hãi. Rộng mở và
tiếp thu là một cách
cầu khẩn sự giúp đỡ mà
chúng ta cần.
Một số trường phái
Phật giáo nhấn mạnh hành động
lễ lạy như một
thực hành sùng tín. Đây là một cách
đơn giản để
từ bỏ bản ngã. Nó
chấp nhận niềm tin rằng việc bám chấp và
cố gắng chế ngự mọi sự sẽ dẫn
chúng ta xa cách khỏi
trí huệ.
Niềm tin cũng có thể ở ngoài
hệ thống tôn giáo. Ví dụ,
chương trình Mười Hai Bước của Alcoholic Anonymous
nhấn mạnh từ bỏ cái ngã bé nhỏ và
trói buộc đang
cố gắng để
kiểm soát. Nó
công nhận sự
cần thiết được giúp đỡ từ một “năng lực cao hơn” trong bất cứ cách nào mà
cá nhân hiểu được.
Trong
đạo Phật, sự
sùng tín là phát triển
niềm tin vào Phật như
vị Đạo sư, tin vào Pháp, những
giáo lý của
đạo Phật, như
con đường đạo, và tin vào
Tăng Đoàn,
cộng đồng Phật tử như sự nương
dựa trên hành trình tâm linh.
Sùng tín nghĩa là
cầu khẩn sức mạnh trên đường đạo. Sự
đáp ứng những nhu cầu
tâm linh của
chúng ta có
thể không luôn luôn ở dạng
chúng ta ước muốn hay
mong đợi hoặc
phù hợp với thời khóa biểu của
chúng ta. Điểm quan trọng của
niềm tin là sự rộng mở, đó là cách
tiếp nhận những
ban phước và giảm nhẹ
đau khổ. Trích
dẫn Đạo sư
Liên Hoa Sanh (Padma-sambhava), Ngài Patrušl Rinpoche viết :
Nếu tâm bạn
thoát khỏi những
nghi ngờ, những ước muốn sẽ
đạt được.
Nếu bạn
hoàn toàn tin vào sự
sùng tín,
gia hộ ban phước sẽ vào trong bạn.
Sự
sùng tín giống như
mặt trời, làm chảy tan sự
chấp ngã và để
thật tánh của
chúng ta chiếu rọi. Trích dẫn Ngài Drigung Kyobpa Rinpoche, Ngài Patrušl Ripoche viết :
Từ vị thầy, giống như ngọn núi tuyết...,
Mà không có sự chạm xúc của những
tia sáng mặt trời của
lòng
sùng tínSự
ban phước như dòng suối sẽ không tuôn chảy.
Thế nên hãy
nỗ lực đưa tâm bạn vào việc
tu tập sùng tín.
Nếu
chúng ta không có
lòng tin hay sự
sùng tín, cho dù
đức Phật đứng ngay
trước mắt chúng ta bằng xương bằng thịt,
chúng ta sẽ khó
tiếp nhận được bất cứ
lợi lạc nào cho tâm mình, mà những
lợi lạc đó là chìa khóa
duy nhất cho việc
tăng trưởng tâm linh của
chúng ta, lại không được sẵn sàng khi có cơ hội. Đó là việc tại sao một
ngạn ngữ Tây Tạng nói :
Từ bất cứ ai mà người ta thấy như một
đức PhậtNhững
ban phước sẽ được
tiếp nhận như từ một vị Phật.
Từ bất kỳ ai mà người ta thấy như một người
ngu siNhững
hiệu quả sẽ đến như từ một người
ngu si.
Như vậy
Phật tánh ở khắp nơi, nhưng cũng có thể
rèn luyện lòng
sùng tín bằng việc
thiền quán đức Phật, chẳng hạn ở dạng tượng hay một
hình ảnh tâm thức. Tự thân tượng sẽ không thay đổi cuộc sống
chúng ta,
chính tâm chúng ta có thể
mở rộng ra qua hành động
sùng tín. Điều này là
tinh túy của
phương tiện thiện xảo. Những đối tượng
tâm linh có thể tạo
cảm hứng cho
chúng ta, nhưng
yếu tố chánh không phải là ở đối tượng mà là cách
chúng ta nhìn nó, một cách
tích cực, và cách
chúng ta cảm nhận, với
sùng tín và
niềm tin, chúng giúp
chúng ta trên
con đường đạo.
Dựa vào một đối tượng
tâm linh hay
hình ảnh tâm thức nào là một cách
tự quán đảnh cho mình với
hoan hỷ phát sinh từ vị Phật bên trong tất cả
chúng ta.
Cho đến bây giờ, tôi
nhấn mạnh người ta có thể
thiền quán về một nguồn
sức mạnh mà họ
lựa chọn như
mặt trời,
mặt trăng hay một vài
hình ảnh cá nhân. Nhưng ở đây, tôi sẽ
mô tả một nguồn
sức mạnh đặc biệt Phật giáo, một
sự thiền định sùng mộ về đấng
Đạo sư Rinpoche Padmasambhava, Người đặt nền tảng cho
Phật giáo Tây Tạng ở thế kỷ thứ chín, Người là
hiện thân của tất cả các bậc
giác ngộ – chư Phật, chư Bổn tôn, các vị thánh và các nhà
hiền triết.
Có nhiều
biểu tượng tâm linh có thể tạo hứng khởi cho
chúng ta như nguồn
sức mạnh. Ví dụ,
chúng ta có thể
thiền quán đức Phật Thích Ca Mâu Ni để giúp
chúng ta có được
trí huệ, hay
đức Phật Dược Sư để chữa bệnh, hoặc đức Tara,
đức Phật trong thân người nữ, làm lặng tất cả
sợ hãi và nguy hiểm. Tôi đã chọn Guru Rinpoche (được biết như đức Padmasambhava) vì lòng bi
vô biên của Ngài, đã giúp nhiều người
cầu khẩn Ngài qua nhiều thế kỷ và vì tôi được
tu tập trong
dòng truyền thừa của Ngài. Sự
hiện diện oai nghiêm của Guru Rinpoche là sự biểu hiện
kim cương của
Phật tánh tuyệt đối, một
sức mạnh và
phúc lạc tràn ngập của
vũ trụ làm an lặng tất cả
phiền não.
Để làm nền cho của
sự thiền định này, tôi sẽ
đi vào một cách khá
chi tiết về việc
chúng ta có thể
quán tưởng hình ảnh Guru Rinpoche như thế nào. Mỗi một
chi tiết của
hình tượng thánh
kết hợp với một
hình ảnh thiêng liêng cho
chúng ta một lời dạy, và những dấu hiệu,
biểu tượng, màu sắc và tư thế có thể khởi dậy những cảm nhận
tích cực trong
chúng ta như tấm gương
phản chiếu những lời dạy đó, từng cái một, như chúng được thấy và cảm nhận như một phần của
toàn thể.
Những
chi tiết có thể giúp cho một thiền giả có
kinh nghiệm an trú trong
tỉnh giác về một
hình ảnh tâm thức trọn vẹn và
phong phú. Nhưng đừng
lo nghĩ nếu bạn thiếu
kinh nghiệm và khéo léo
thiện xảo ; hãy
đơn giản quán tưởng như thế nào mà bạn
cảm thấy thoải mái. Trong
sự thiền định được hướng dẫn sau đây,
vấn đề thật sự là những cảm nhận mà
ngôn từ nỗ lực để
truyền đạt. Hãy dùng những cảm nhận để cầu gọi trong
tâm thức bạn một
hình ảnh của Ngài Padmasambhava
đơn giản nhưng
cảm thông sâu sắc. Nếu bạn chỉ cảm nhận sự ấm áp và sự
hiện diện của Đức Padmasambhava, thì trong
bản thân sự ấm áp và
hiện diện này có thể là sự chữa lành rất
hiệu quả.
Cũng nên nhớ rằng những
hình ảnh thể hiện trong sách này có nghĩa như một trợ giúp. Một bức hình hay bức tượng có thể tạo
cảm hứng,
dạy bảo hay giúp đỡ bạn như một điểm khởi đầu cho
thiền định, nhưng đừng
cảm thấy bị
giới hạn bởi nó. Điều cốt yếu trong
quán tưởng là
hình ảnh trong
tâm thức bạn, và sự nhiệt thành, rộng mở có thể đến qua sự
sùng tín.
CẦU KHẨN HÌNH ẢNH UY NGHI CỦA
ĐỨC PADMASAMBHAVAGiống như một bông hoa nở rộ từ
tánh không, sự
hiện diện y nghi của Đức Padmasambhava
hiển lộ từ
sự quán tưởng. Trong ánh sáng
hào quang đẹp đẽ, Ngài Guru Rinpoche trẻ trung và rựïc rỡ ngồi trên một
mặt trăng chiếu sáng
trong trẻo, ở trên một vầng
mặt trời sáng chói.
Mặt trăng và
mặt trời ở ngay trên một
hoa sen khổng lồ, tỏa hương thơm ngát, tươi mát với hơi nước.
Hoa sen có ngàn cánh hoa chiếu sáng đầy màu sắc.
Mặt trời,
mặt trăng và
hoa sen là
biểu tượng sinh ra của Ngài. Ngài được sinh ra bởi “sự sanh vô nhiễm” trong “Liên hoa Phật bộ”, từ sự hợp nhất giữa
trí huệ (
mặt trời) và
đại bi (
mặt trăng).
Đức Padmasambhava
Mặt của Ngài Guru Rinpoche trắng hơi hồng luôn luôn trẻ trung và minh triết, vượt khỏi
phạm trù thay đổi và tuổi tác. Nụ cười
hoan hỷ của Ngài vượt lên
đau khổ. Đôi mắt
từ ái,
trong sáng không chớp đem lại
phúc lạc cho
vũ trụ, chữa lành tâm
chúng ta trong mỗi một
vận động và mỗi
trạng thái của nó và
thân thể chúng ta trong từng tế bào và nguyên tử.
Áo choàng của Ngài tỏa chiếu ánh sáng.
Áo choàng trắng bên trong và áo phủ bên trong màu đỏ biểu hiện sự
giác ngộ của một
Bồ tát, người giúp đỡ tất cả
mọi người đau khổ trong
thế giới này. Áo phủ bên ngoài màu xanh dương của Ngài biểu hiện sự
hoàn thiện trong những
chứng đắc mật truyền, và Ngài mang một cái y của một vị tăng đã thọ
đại giới.
Áo choàng ngoài không tay thêu kim tuyến là một
biểu tượng rằng tất cả những
tu tập tôn giáo đều là một trong
chân lý của
vũ trụ.
Áo choàng này, nón và giầy của Ngài cũng nhắc nhở
thần lực huyền diệu của Ngài. Chúng là tặng phẩm từ vị vua của Zahora đã
ngạc nhiên trước những
thần lực của Ngài. Vị vua
cố gắng thiêu cháy Ngài, nhưng Guru Rinpoche
đơn giản chuyển hóa ngọn lửa thành nước, bây giờ được biết là hồ Rewalsar ở
Ấn Độ.
Guru Rinpoche nắm giữ những
biểu tượng của
giáo lý. Một chày
kim cương (vajra) bằng vàng trong tay phải Ngài
biểu tượng cho sự khéo léo
thiện xảo không thể hủy hoại và
thần lực, nguyên lý của nam. Trong tay trái Ngài cầm một sọ người, giữ một bình đầy nước
cam lồ của sự
bất tử. Sọ người
biểu tượng sự hợp nhất giữa
tánh không và
phúc lạc (bliss) là nguyên lý của nữ. Cái bình và nước
cam lồ biểu tượng sự
trường thọ và
chân lý vô
thời gian của
Phật tánh.
Trong
đạo Phật, những vị thầy mật truyền thường
kết hợp một cách
tâm linh với một người nữ phối ngẫu.
Trí huệ của
nữ tính được
tượng trưng ở đây là một cây đinh ba,
dựa vào khuỷu tay trái của Ngài Guru Rinpoche. Ba mũi sắc bén của cây đinh ba biểu hiện ba
bản tánh chân thật của tâm : sự rỗng rang,
trong sáng và
sức mạnh của
đại bi. Ba
trang hoàng cho cây đinh ba
đại diện cho
ba thân Phật : bộ xương đầu là
toàn thể sự rỗng rang,
hình ảnh trưởng thành sung mãn là
hình tướng thanh tịnh của Phật, và sự trẻ trung là
hình ảnh không
thanh tịnh của
đức Phật dưới cái thấy của
tâm thức bình thường.
Giữa những biểu hiện khác là lọn tóc treo ở cây đinh ba. Đây là sự nhắc nhở việc
thực hành trong nghĩa trang việc
thiền định về sự tan biến của thân xác và
sự giải thoát do
chứng ngộ chân lý của sống và chết.
Trong
trí huệ vô hạn của Ngài, Guru Rinpoche biết một cách
đồng thời từng sự việc xảy ra trong
vũ trụ, mà không rời lìa khỏi
bản tánh rỗng rang,
tuyệt đối của Ngài. Lòng
đại bi vô biên của Ngài
mở rộng tới toàn
pháp giới và đến tận mỗi một
chúng sanh, như một người mẹ
gieo rắc tình thương yêu cho đứa con
duy nhất.
Bây giờ
chúng ta đã khá
quen thuộc với
hình ảnh này, đây là một
thiền định sùng mộ
mở rộng.
CẦU KHẨN SỨC MẠNH VÀ LÒNG ĐẠI BI CỦA
ĐỨC PADMASAMBHAVAHãy
quán tưởng rằng bạn đang ngồi ở một nơi cao ráo như một đỉnh núi, nhìn vào bầu trời trong xanh
bao la.
Thưởng thức cái nhìn trong vài phút,
an trú trong sự rộng mở.
Hình ảnh đang ở tại một điểm cao nâng
tâm thức bạn lên trên sự ồn náo của mình. Bầu trời rộng mở làm sạch những
hình ảnh,
cảm xúc và
tư tưởng ồn ào khỏi tâm bạn.
Từ sự rộng mở này, đầu tiên
hình dung một chỗ ngồi trên
hoa sen với những cánh hoa
đẹp đẽ, sau đó là một đĩa
mặt trời và phía trên nó là đĩa
mặt trăng.
Cuối cùng, Guru Rinpoche
hiện ra rực rỡ.
Hãy cảm nhận sự
an bình và ấm áp
vô biên của bổn tôn rất
thương yêu linh thánh này và
an trú thoải mái trong những cảm nhận này một lúc. Hãy để sự sùng mộ tan vào trái tim bạn. Khi bạn đem
tỉnh giác của bạn đến
hình ảnh, hãy
hoàn toàn hiến mình vào nó, không phải chỉ như một
hình tướng do
tâm thức bạn tạo ra, mà như là vị Guru thật sự và chữa lành,
thuần khiết.
Bây giờ tưởng tượng toàn trái đất đầy những khuôn mặt
hoan hỷ, những đôi mắt
hạnh phúc tràn đầy những tấm lòng sùng mộ của tất cả
các loại sinh linh. Tất cả đều nhìn chăm chú vào khuôn mặt
thương yêu,
đẹp đẽ và đầy
sức mạnh của Ngài Guru Rinpoche, nguồn của tất cả sự chữa lành. Hãy tưởng tượng rằng bạn nghe tất cả họ cùng tụng
thần chú trong cùng một giọng với một âm điệu
dịu dàng và mạnh mẽ như
sấm sét.
Thần chú (mantra) là một lời
cầu nguyện đến Ngài Guru Rinpoche, một
phương tiện chữa lành cho những
vấn đề của
chúng ta, một
biểu lộ hân hoan của những
năng lực tinh thần và thân xác, một tôn vinh sự
hiện diện của bậc
thiêng liêng này, một
sự thiền định về
âm thanh thanh tịnh mà
bản thân nó là
bản tánh của
nhất thể.
Từ những chiều sâu của lòng mình, hãy hát
chân ngôn của Ngài Guru Rinpoche, hoặc một trong hai dạng dưới đây :
Trong âm Sanskrit được
Tây Tạng hóa
OM AH HUNG BEDZAR GURU PEMA SIDDHI HUNG
Trong
Phạn ngữOM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
Một
phiên dịch của
mật chú này là : “Hiện thân của thân, ngữ, tâm của chư Phật, Ôi Padma(sambhava), mong Ngài
ban cho tất cả sự
gia hộ ban phước.”
Như một kết quả của lời
cầu nguyện và sự rộng mở là những
tia sáng của ánh sáng
ban phước nhiều màu sắc từ Guru Rinpoche chạm đến bạn đem đến sự ấm áp và rộng mở trong thân và tâm. Những ánh sáng này không chỉ
đẹp đẽ,
thanh tịnh mà còn là
năng lực của sự
an bình, ấm áp,
phúc lạc và rỗng rang. Hãy để cảm nhận này thấm nhập vào bạn qua mỗi một lỗ chân lông và khiếu, xua tan tất cả
lo nghĩ và
phiền não, như ánh sáng
mặt trời xua tan bóng tối. Hãy cảm nhận
toàn thân bạn
chuyển hóa thành ánh sáng và
năng lượng chữa lành.
Lập lại
chân ngôn nhiều lần, đem
toàn bộ con người bạn vào
âm thanh.
Hình dung rằng những lời
cầu nguyện của bạn làm
mở rộng tâm thức của tất cả
chúng sanh vào niềm vui sùng mộ và ánh sáng từ Guru Rinpoche tỏa chiếu trong mọi hướng, xua tan tất cả
đau khổ,
phiền muộn và
mê lầm. Tất cả
chúng sanh được giải thoát trong một dàn đồng ca hùng lực. Lời hát tràn đầy
vũ trụ,
trở thành một trong
âm thanh, ánh sáng và
hoan hỷ.
Hãy
hoan hỷ trong sự ấm áp và rộng mở này. Để cho tất cả
ý niệm và
cảm giác tan vào một
đại dương của sự
an bình sùng mộ, trong đó không có những
phân biệt hay
ranh giới, vượt trên
đau khổ và kích động, xấu và tốt, đây và kia, anh và tôi, mà nơi đó tất cả là một và cùng như nhau.
Mặc dù
mục đích cao hơn của
sự thiền định này là
chứng ngộ tâm linh, bạn cũng có thể
thiền định về Đức Guru Padma-sambhava như một nguồn
sức mạnh cho sự chữa lành thông thường những
vấn đề cảm xúc hay thân xác, bằng việc
quán tưởng bất cứ dạng
năng lượng chữa lành nào đều bắt nguồn từ
hình ảnh, giống như
tia sáng laser. Hoặc tưởng tượng
cam lồ chữa lành từ cái bình của Ngài Guru Rinpoche chảy vào trong bạn,
thoạt tiên tẩy sạch tất cả
đau khổ của
tâm thức,
cảm xúc và
thân thể, rồi làm tràn đầy
toàn thân, tâm bạn với
an bình và
sức mạnh. Ngài Guru Rinpoche cũng có thể là nguồn
năng lực trong khi
thiền định, trong đó Ngài
hoạt động như là người chữa lành cho bạn.
Bất
cứ sự quán tưởng nào, bạn có thể lập lại nó trong một thời khóa
cho đến khi
cảm thấy thích hợp thoải mái. Khi bạn tụng ca hàng ngày,
thỉnh thoảng đem
cảm giác rộng mở của
thiền định vào trong cuộc sống của bạn. Bạn có thể tụng ca
chân ngôn lớn tiếng hoặc niệm thầm khi bạn ở nơi
công cộng.
THIỀN ĐỊNH TRONG SỰ RỘNG MỞ RỖNG RANGTrong
quan điểm cao hơn của
đạo Phật, những
hình tướng xuất hiện khởi lên từ
tánh không, và tan biến
trở lại trong
tánh không. Vậy
chúng ta bắt đầu
sự thiền định
sùng tín này bằng
cách đi vào
trạng thái rỗng rang, để cho
sự quán tưởng khởi lên giống như một sự
phản chiếu trong một tấm gương
trong sáng. Sau khi
an trú trong tĩnh lặng trên
sự quán tưởng,
chúng ta lại
kết thúc trong sự rỗng rang và
nhất thể. Nó là một tiến trình giống như việc sinh ra, sống và chết đi, một cách tốt để
thực hành việc để cho mọi sự đến và đi. Tại mỗi buổi
thiền định,
đơn giản hãy luôn luôn ở trong
trạng thái rộng mở rỗng rang của tâm bạn đúng như nó là vậy, mà không bám chấp.
Tùy thuộc vào
trạng thái của tâm bạn,
chúng ta có thể
an trú lâu hơn
trong khoảng không của sự rỗng rang.
Chúng ta có thể bắt đầu với một
quán tưởng, và sau đó buông kỹ thuật và
đơn giản thiền định trong một cách rỗng rang. Bấy giờ không kể gì đến
kinh nghiệm của
sự thiền định là sao. Nó có thể hòa tan tất cả sự
kinh nghiệm, người
kinh nghiệm và những cách thức để
kinh nghiệm vào
nhất thể.
Đừng
cố gắng định dạng sự rộng mở rỗng rang, hay thấy nó như một cái này hay cái kia hay
đạt được bất cứ điều gì trong nó. Hãy chỉ để sự vật là vậy. Điều này là cách để
tìm thấy trung tâm của bạn. Nếu bạn tin vào
thật tánh của mình, bạn không
cần phải tìm kiếm trung tâm nào khác. Hãy chỉ rỗng rang và
tỉnh thức.
Chừng nào mà chúng ta còn
lệ thuộc vào khả năng khổ đau, việc
thiền định có thể làm
chúng ta sâu xa và mạnh mẽ. Khi
chúng ta chứng ngộ bản tánh của sự rỗng rang,
thiền định hòa tan vào
đời sống hàng ngày.
Dựa vào những nguồn chữa lành bên ngoài cũng
ích lợi và thậm chí rất
cần thiết, khi nào
chúng ta còn chịu dưới sự
kiểm soát của những khái niệm
nhị nguyên và
tùy thuộc vào những đối tượng bên ngoài.
Tuy nhiên điều quan trọng là hiểu rằng sự chữa lành
rốt ráo thì vượt lên sự
phụ thuộc vào những lực bên ngoài. Nó là sự
bảo đảm cho
bản tánh rỗng rang,
an bình của
chúng ta khiến
chúng ta có
thể đạt đến trọn suốt sự rỗng rang và
an bình đó.
14
ĐÁNH THỨC NHỮNG NĂNG LỰC VÔ BIÊN BÊN
TRONG CỦA SỰ CHỮA LÀNHThở một hay hai
hơi thở sâu,
buông xả tất cả
căng thẳng lo nghĩ và hưởng thụ
cảm giác buông lỏng trong thân và tâm bạn. Sau đó từ từ và bình thản đi qua những bài tập sau đây
trong vòng một hay hai phút cho mỗi bước.
1. Khi bạn
thức giấc vào buổi sáng, hay bất cứ lúc nào trong ngày, hãy cảm nhận sự sùng mộ đến nguồn
sức mạnh. (có thể là
đức Phật, Guru Rinpoche, hay bất cứ nguồn
sức mạnh nào khác.) Sự
sùng tín đem đến ấm áp,
hỷ lạc,
sức mạnh và rộng mở.
2. Hãy
quán tưởng và cảm nhận rằng trái tim bạn,
trung tâm của thân bạn trong dạng một bông hoa ánh sáng lạ thường, nở rộ trong sự nhiệt thành
sùng tín. Như một kết quả, từ đóa hoa lòng
sùng tín đó khởi lên
trí huệ,
tâm bi,
năng lực, và những phẩm
tính giác ngộ của bạn trong dạng nguồn
sức mạnh. Nguồn
sức mạnh, trong dạng một thân ánh sáng với sức nóng và
phúc lạc, bốc lên qua kinh mạch trung ương – một kinh mạch trống không được làm bởi ánh sáng
trong suốt và
thanh tịnh – của cơ thể bạn. Bấy giờ nguồn
sức mạnh tô điểm bầu trời không
vết nhơ và vô hạn, như thể hàng ngàn
mặt trời khởi lên với một thân.
3. Hãy
tin tưởng rằng nguồn
sức mạnh là
hiện thân của
trí huệ, lòng bi và
năng lực của tất cả những bậc linh thánh và của
chân lý vũ trụ. Cảm nhận
toàn thể thân và tâm bạn tràn đầy sức nóng,
hỷ lạc, và
năng lượng vô biên do ở trong sự
hiện diện của nguồn
sức mạnh.
4. Bấy giờ hãy thấy rằng
toàn thể trái đất đầy những
chúng sanh khác nhau. Trái tim họ tràn đầy sự
sùng tín và khuôn mặt họ nở hoa với những nụ cười
hoan hỷ. Cặp mắt
mở rộng của họ nhìn
nhất tâm vào nguồn
sức mạnh với sự
tán thán. Cùng với bạn, tất cả họ
biểu lộ sức mạnh sùng tín của họ trong lời
cầu nguyện, ca hát một cách du dương với những âm vang khác nhau, giống như một bản giao hưởng vĩ đại. Hãy tụng ca lời
cầu nguyện với sự
tán thán lớn lao trong đó không có những
giới hạn hay bó hẹp
hạn chế nào.
5. Hát những lời
cầu nguyện, tưởng tượng những lời
cầu nguyện kêu cầu
tâm bi của nguồn
sức mạnh. Từ nguồn
sức mạnh,
trí huệ, lòng bi và
sức mạnh của nó đến với bạn dưới dạng
vô số tia sáng ban phước đầy màu sắc (hay những dòng
cam lồ). Những
tia sáng này chạm đến từng lỗ chân lông của thân bạn. Hãy cảm nhận sức nóng khi chúng
tiếp xúc. Hãy cảm nhận
bản tánh phúc lạc của sức nóng. Và cảm nhận
sức mạnh của sức nóng
phúc lạc này.
6. Sau đó những
tia sáng đi vào trong thân bạn. Hãy
quán tưởng và cảm nhận rằng tất cả những
thói quen tiêu cực, những
yếu đuối tinh thần, những
xung đột phiền não, thiếu
hài lòng,
sợ hãi, những bệnh tật hay những bế tắc
lưu thông hay
năng lực của bạn đều ở trong dạng bóng tối trong cơ thể. Chỉ việc
tiếp xúc với ánh sáng
ban phước, tất cả bóng tối đều
hoàn toàn tan biến, không còn bất cứ dấu vết nào trong thân và tâm bạn.
Thân thể bạn tràn đầy ánh sáng
rực rỡ lạ lùng, với
cảm giác sức nóng,
phúc lạc và
sức mạnh. Sau đó thấy và cảm nhận rằng
toàn thân bạn
chuyển hóa thành thân ánh sáng
ban phước. Hãy
cảm thấy mỗi một tế bào trong thân bạn được
chuyển hóa thành tế bào của ánh sáng
ban phước với sức nóng,
phúc lạc và
sức mạnh.
7. Sau đó hãy nghĩ về một tế bào ở trán bạn (hay bất cứ nơi nào khác trong
thân thể). Tế bào được làm bởi ánh sáng
rực rỡ ban phước. Nó
đẹp đẽ và
bao la. Hãy
đi vào tế bào một cách từ từ. Nó
vô biên và vô hạn như bầu trời. Hãy cảm nhận sự
bao la của tế bào trong một lúc.
8. Sau đó hãy thấy và cảm nhận thân bạn được
cấu tạo bởi hàng tỷ tế bào
bao la,
đẹp đẽ và
phúc lạc như vậy. Mỗi một tế bào được
trang hoàng với sự
hiện diện của nguồn
sức mạnh. Hãy
nhận biết sự
hiển bày và
năng lực lạ lùng của
thân thể kỳ diệu của bạn. Tất cả tế bào ở trong
tình thương và
hòa hợp với mỗi một tế bào khác. Cảm nhận
sức mạnh của hàng tỷ tế bào
phúc lạc trong thân bạn được
trang hoàng bởi những nguồn
sức mạnh.
9. Tất cả tế bào của những kinh mạch, bộ phận và cơ bắp của thân ánh sáng
ban phước của bạn đang thở. Chúng đang thở bằng sức nóng và
phúc lạc một cách rỗng rang và
tự nhiên như những ngọn sóng của
đại dương. Hãy cảm nhận sự chuyển động
phúc lạc của những ngọn sóng. Những cơn sóng
vuốt ve, thư giãn và hòa tan bất cứ nơi nào mà
chúng ta bị chai cứng hay khó khăn, mọi bám trụ của những
cảm xúc không giải quyết và những vết thương chưa lành với những vết tích của nó. Hãy cảm nhận
hào quang của
năng lượng. Hãy
cảm thấy sự cảm nhận. Hãy là một với sự cảm nhận.
10. Rồi bạn có thể hát OM AH HUNG (xem trang 183) như một chuyển động chữa lành để phát sinh
sức mạnh, sự rỗng rang và hợp nhất với chúng. Bạn có thể hát lớn, nhẹ nhàng, hay thầm lặng trong
tâm trí bạn.
Khi bạn hát lập lại
chủng tự OM chậm chậm và
liên tục, hãy
nhận biết những làn sóng
âm thanh vang dội mạnh mẽ như thế nào trong mỗi một tế bào, từ những dây thanh quản
xuyên qua toàn thân bạn giống như những làn sóng của
đại dương. Hãy
vui thích trong sự cảm nhận
năng lực và
sức mạnh, những phẩm tính của thân Phật.
Khi hát
chủng tự AH trong cùng một cách như vậy, hãy
nhận biết những
năng lực làm rỗng rang,
giải phóng và làm nở rộ, những phẩm tánh của ngữ Phật.
Khi hát
chủng tự HUNG, hãy
nhận biết sự hòa nhập của bạn với sự hợp nhất của
sức mạnh và rỗng rang, là
sức mạnh vô biên, những phẩm tánh của
tâm Phật.
11. Bạn cũng có thể kiết
thủ ấn như những
vận động chữa lành để phát sinh
sức mạnh và rỗng rang rồi hợp nhất với chúng.
Rất
chậm chạp và
liên tục, nắm những ngón tay bạn thành
kim cang quyền ấn đặt tại trái tim bạn (đặt đầu ngón tay cái vào dưới lóng thứ ba của ngón đeo nhẫn, sau đó ngón giữa và ngón đeo nhẫn nắm lại đè trên ngón cái, ngón trỏ và ngón út duỗi ra ngửa mặt lên). Đặt bàn chân bạn tại điểm nối giữa hông và đùi. Hãy
nhận biết sự
vận động vang dội liên tiếp từ mỗi một tế bào của bàn tay qua thân bạn giống như dòng chảy của một con sông. Hãy
hoan hỷ trong sự cảm nhận
năng lực và
sức mạnh là những phẩm tính của thân Phật.
Trong cùng một cách, tạo một
cử chỉ hoa nở tại trái tim bạn. Giữ nắm tay hướng lên, mở những ngón tay (từng ngón một, bắt đầu từ ngón út) và
mở rộng bàn tay và cánh tay và
nhận biết cảm giác hoan hỷ của sự rộng mở,
giải thoát, và nở hoa, những phẩm tánh của ngữ Phật.
Kiết ấn thiền định, đặt
hai lòng bàn tay ngửa lên trong lòng bạn, bàn tay phải trên bàn tay trái, hai đầu ngón cái vừa chạm nhau, và hãy
nhận biết sự tự hòa tan mình với sự hợp nhất của rộng mở và
sức mạnh, là
sức mạnh vô biên, những phẩm tánh của
tâm Phật.
Bạn cũng có thể
thực hiện những
thủ ấn (
cử chỉ) này trong lúc tụng ca OM, AH và HUNG.
12. Bạn có thể thấy
hào quang bao la lạ lùng của ánh sáng
ban phước sáng ngời tràn đầy
sức mạnh năng lực chung quanh thân bạn. Nó là một
hào quang bảo hộ ngăn ngừa bất cứ những
tác động tiêu cực nào xảy đến. Nó cũng có thể là một
hào quang của sự
chuyển biến khiến
chuyển hóa mọi thứ trong
hào quang năng lực thành ánh sáng
ban phước, giống như những bông tuyết rơi vào nước nóng.
Hãy
chia xẻ những
ban phước với tất cả những
chúng sanh là những bà mẹ của
chúng ta.
15
SỰ THIỀN ĐỊNH CHỮA LÀNH CỦA TÂM ĐẠI BINếu
chúng ta phát triển
tâm bi, những
kinh nghiệm tâm linh khác sẽ
tự nhiên khởi lên trong
chúng ta.
Tâm bi là gốc của tất cả
đức hạnh. Nó giúp
chúng ta thoát khỏi sự
chấp ngã.
Vì
Phật tánh luôn luôn
hiện diện trong
chúng ta, tất cả
chúng ta đều có khả năng khai mở
tâm bi to lớn, hào phóng và
rộng lượng.
Tâm bi mở rộng tâm thức khép kín và đông cứng của
chúng ta. Nó làm
an bình tâm thái
hoang dã và
chuyển hóa tính khí lạnh lẽo,
mục nát và
tiêu cực của
chúng ta. Nó đem
chúng ta ra khỏi
tối tăm, những tù ngục ngăn che được tạo tác bởi tính
ích kỷ và sự chán nản để
trở thành ánh sáng ban ngày. Thay vì
lôi cuốn người khác
phục vụ cho
bản ngã hoang dã của
chúng ta,
chúng ta có thể
tìm ra trung tâm thật sự của mình nhờ
lòng bi mẫn đối với những người khác.
Tâm bi là
bản tánh chữa lành của tâm ta, qua đó
chúng ta có thể
tìm thấy an bình.
Dù nếu
chúng ta hiểu rằng
lòng bi mẫn đặt
chúng ta trực tiếp trên
con đường đúng,
chúng ta vẫn thấy khó ngừng sự bám chấp
ích kỷ vào những mối
quan tâm của mình,
chừng nào chúng ta không kinh nghiệm được tâm rộng mở với người khác. Cách tiếp cận
căn bản của
đạo Phật là bắt đầu từ một cách
đơn giản và
mở rộng vòng của
tâm bi ra ngoài.
Vì vậy chúng ta nên
cảm thấy một
cảm giác lành mạnh của
tình thương cho chính mình,
thận trọng với những nhu cầu và tiện ích thật sự của mình và
hoan hỷ đón nhận niềm vui khi nó khởi lên trong
chúng ta.
Chúng ta nên cảm kích những ai gần mình và
quan tâm chăm sóc họ,
đạt được kinh nghiệm trực tiếp của
thái độ nồng nhiệt, hơn là chỉ
dựa vào những
ngôn từ hay những
cảm giác mơ hồ.
Dần dần,
chúng ta có thể
mở rộng việc
thực hành tâm bi của mình.
Tâm bi không có nghĩa là
lo lắng. Nó là
trí huệ chân thật cởi mở và là sự
quan tâm chăm sóc. Sự
lo lắng,
trái lại bị mọc rễ trong sự bám chấp. Nó làm
hao mòn sức mạnh của
chúng ta và khả năng giúp đỡ người khác.
Thường thường, khi
chúng ta quan tâm đến một ai,
chúng ta lo nghĩ. Điều này là
phản ứng không thể tránh được của một
tâm thức bình thường. Vậy, nếu bạn có thể, hãy
quan tâm, nhưng không
lo nghĩ. Nếu dù sao những
lo nghĩ cũng nổi lên, đừng
lo lắng về sự
lo nghĩ. Hơn nữa, hãy nhìn điều này như một
sự tích cực, và nghĩ : “Tôi
lo nghĩ vì
tình thương với người này.
Quan tâm là
thái độ tốt nhất.” Bằng việc thấy sự
lo nghĩ trong ánh sáng
tích cực này và
hoan hỷ vượt qua nó, sự
tác động tiêu cực sẽ được
chuyển hóa thành
năng lực xây dựng.
Chúng ta có thể cảm nhận
tâm bi hướng đến
kẻ thù hay những người ta không thích như thế nào ? Sự tiếp cận có
hiệu quả là thấy họ như những người mẹ, trên
thực tế họ
nhân từ, tử tế và có
tình thương, ngoại trừ việc
thật tánh của họ bị
che lấp ; hay có lẽ
chúng ta thấy khó khăn trong việc
nhận ra Phật tánh trong họ vì cái nhìn của
chúng ta bị ngăn che.
Trong
thiền định,
chúng ta có thể bắt đầu phá vỡ bức tường ngăn cách
chúng ta với những người khác. Đức Tsongkhapa nói điều này về
tâm bi và
thiền định :
Đặc tính của
tâm bi là
ý tưởng “Cầu cho tất cả
chúng sanh được
thoát khỏi đau khổ” và “Tôi sẽ dẫn họ đến
giải thoát.” Những giai đoạn của
tâm bi là
trước tiên người ta
thiền quán trên những người mình thương, sau đó trên người không thương, không ghét, và
kế tiếp là trên những
kẻ thù. Khi một người có
tâm bi nhìn người thương và kẻ địch cũng như nhau, hãy
thiền định tiếp trên tất cả
chúng sanh trong
vũ trụ.”
Tôi sắp
diễn tả một
thực tập tinh thần nhắm vào sự
thống khổ của người khác một
cách sinh động. Một số người
lo lắng rằng
thiền định trên những
đau khổ khủng khiếp có thể làm cho
tinh thần yếu đuối, nhưng trên
thực tế nó chữa lành
chúng ta bằng việc
giải thoát sự
chấp chặt bản ngã của mình. Vậy hãy
mở rộng trái tim bạn, và để cho
cảm giác của
tâm bi lớn lên.
Hãy
quán tưởng một
cách sinh động và đồng cảm với một người bị
hành hạ vô
hy vọng,
kinh hoàng, đang
cầu cứu. Bạn cũng có thể dùng
hình ảnh của một người đang hấp hối
đơn độc với những
đau đớn nhức nhối không còn
hy vọng sống sót, từng giây treo trên niềm
hy vọng được sống, đang kêu gọi giúp đỡ và nhìn chăm chú vào
thế giới của những người đang sống với những dòng nước mắt. Hoặc bạn có thể
quán tưởng một ai đó đang bị những người hành hình kéo lê đến cái chết bằng những bàn tay
thô bạo trước đôi mắt
sợ hãi, đầy nước mắt
vô vọng của những người thân. Hay thấy một con vật
vô hại,
hiền lành đang
bị giết thịt bởi con dao bén nhọn của những người đồ tể giữa những tiếng cười
sấm sét hãi hùng. Hoặc
hình dung một người bị kẹt trong lửa, lũ lụt hay động đất liếc nhìn
thế giới yêu dấu lần
cuối cùng qua những giọt nước mắt lẫn máu.
Sau đó, hiểu rằng
sinh linh đau khổ đó không ai khác hơn là
cha mẹ, con hay người thân của bạn.
Đạo Phật tin rằng, tất cả
chúng sanh đã từng là người thân của
chúng ta, tại lúc này hay lúc khác trong rất nhiều kiếp
quá khứ của
chúng ta. Và rồi hãy nghĩ, “Lúc bà ấy là mẹ tôi, bà đã cho tôi tất cả
tình thương và chăm sóc lúc tôi cần, sưởi ấm trái tim tôi với
lòng từ ái và
hy sinh hạnh phúc, giấc ngủ
vì lợi ích cho tôi. Nhưng hôm nay không ai giúp bà ấy
thoát khỏi nguy hiểm này. Bà không có cơ hội phát triển
trí huệ và
sức mạnh cần có tại lúc
cuối cùng này. Tôi là đứa con
duy nhất làm sao có thể tiêu tốn tất cả
sinh lực vào những trò
tiêu khiển ngớ ngẩn của cuộc sống này,
thờ ơ với nỗi
đau khổ và
sợ hãi của bà ?” Bây giờ hãy
quyết định đi theo con đường của
tâm bi,
suy nghĩ rằng, “Ngay từ khoảnh khắc này, tôi nguyện trước
toàn thể thế giới,
hồi hướng từng phút của
đời sống tôi để phát triển
tâm linh nhằm chữa lành tất cả
chúng sanh những người mẹ đang
đau khổ của tôi.”
Bạn cũng có thể bắt đầu
tu tập tâm bi bằng việc
an trú vào những
hình ảnh tích cực. Nghĩ về
lòng nhân từ và bi mẫn của một bậc
cha mẹ, một người bạn hay một
cố vấn tinh thần đã
bộc lộ cho bạn, và gợi lên
cảm giác tuyệt diệu của những ký ức ấm áp đó với bạn. Sau đó tự bảo mình phải chuyển tặng phẩm lớn lao đó của lòng
đại bi đến những người khác, và
cho không một cách
rộng rãi, giống như ánh sáng sưởi ấm
toàn thể thế giới và
vũ trụ.
Hoặc bạn có thể dùng
cảm giác đau khổ và
sợ hãi sâu xa của mình để phát sinh
tâm bi.
Đa số chúng ta cố gắng che dấu một cách
vô ích khi
đau khổ đến với
chúng ta, nhưng nó có thể là một tài nguyên
vô giá. Với
thái độ đúng đắn,
mùi vị cay đắng của
đau khổ khiến dễ dàng hiểu hơn sự
đau khổ của người khác.
Thấy và cảm nhận
đau khổ đem lại một sự
hiểu biết mạnh mẽ về
sanh tử luân hồi,
hiện hữu trần thế ngắn ngủi của
chúng ta. Điều này có thể phát sinh một
năng lực đầy
sức mạnh, không chỉ
thương xót hay mong muốn tốt cho người khác, mà là một nguyện vọng và cam kết
hết lòng nhận
trách nhiệm giải thoát cho tất cả
chúng sanh khỏi hầm lửa của
sanh tử.
Bằng việc phát triển
tâm bi mạnh mẽ cho tất cả
chúng sanh là người mẹ,
chúng ta sẽ mất đi sự thù hận,
ghen tỵ,
đố kỵ và
thèm khát.
Tâm bi làm
tiêu tan bức tường phân cách bạn bè và
kẻ thù, anh và tôi, tốt và xấu. Nó
cung cấp khoảng không cho
hạnh phúc và
an bình.
Ngài Asanga (
Vô Trước) một
triết gia Đại thừa vĩ đại của
Ấn Độ thời xưa, đã
thiền định về
Đức Phật Di Lặc (Maitreya) vị Phật của
lòng từ ái, trong một hang động mười hai năm.
Tuy nhiên Ngài đã thất bại để thấy bất cứ dấu hiệu của
thành tựu thực sự nào
cho đến ngày rời hang động, và thấy một con chó rên rỉ
gần chết trên đường. Khi Ngài
cố gắng giúp đỡ con vật,
đột nhiên tâm bi vô biên bùng mạnh và con chó chuyển
thành thân chói lọi của
Đức Di Lặc. Ngài Asanga than khóc, “Đức Phật Ngài ít lòng bi với con, tại sao
đã lâu Ngài không cho con thấy mặt.”
Đức Di Lặc nói : “Ta luôn luôn ở cùng với con không ngăn cách. Nhưng con không thể thấy ta vì những
chướng ngại tâm thức của con.
Tâm bi đã tịnh hóa tất cả chúng.”
Khi
tâm bi của ta
tăng trưởng, nó dễ dàng
buông bỏ hơn sự
vật lộn của tâm
phân biệt liên tục của
chúng ta. Trong sự rộng mở của
tâm bi,
chúng ta có thể
chuyển hóa những
mê lầm của mình thành
tri giác thanh tịnh,
trí huệ bổn nguyên của tâm. Phần lớn
chúng ta khó
quan niệm về sự
chứng ngộ sự rỗng rang
trường cửu, toàn triệt.
Tuy nhiên nếu
chúng ta thực hành tâm bi, những
ảo giác, bám chấp, và những
thói quen của nghiệp xấu sẽ bắt đầu rơi rụng.
Khi
chúng ta thành Phật,
tâm bi tự nhiên khởi lên trong
chúng ta như một
sức mạnh tỏa khắp,
hiện diện khắp của
Phật tánh. Như Ngài Longchen Rabjampa nói :
Từ
bản tánh chân thật (
Phật tánh),
Trong tất cả mọi hướng, khởi dậy
sức mạnh của
đại bi,
Hoàn thành sự
lợi lạc cho
mọi người qua sự
hiển bày của nó.
CẦU KHẨN ĐỨC PHẬT CỦA TÂM ĐẠI BI ĐỂ
MỞ RỘNG TRÁI TIM TAThiền định trên bất cứ nguồn
sức mạnh nào cũng có thể giúp
chúng ta rộng mở
tâm bi, giống như gieo hạt trên mảnh đất màu mỡ.
Đặc biệt mạnh mẽ là
thiền định về một vị
thiêng liêng, như
hình ảnh của sự
cảm hứng. Bài tập
đặc biệt tôi sẽ
mô tả việc
cầu khẩn Ngài
Quán Thế Âm (Avalokiteshvara),
đức Phật của tâm
đại bi. Sự tiếp cận và nội dung của
sự quán tưởng này
tương tự với những bài tập khác có thể dẫn
chúng ta đến sự rộng mở. Điều
then chốt ở đây là
ý định mở rộng tâm
chúng ta. Dù đôi khi
chúng ta khó cảm nhận
tâm bi trong cuộc sống hàng ngày, thì tự thân
ý định đã là sự chữa lành
hiệu quả.
Khởi dậy
quán tưởng này với càng nhiều
chi tiết nếu bạn có khả năng,
thiền quán về
hình ảnh với một sự thư giãn nhưng tập trung nhiệt thành. Hiến mình vào
thiền định, sao cho
tỉnh giác và
hình ảnh là một.
Hãy tưởng tượng bạn ở một chỗ cao như là ngọn núi, nhìn vào bầu trời vô hạn. Hít một
hơi thở sâu, và
an trú với sự rộng mở này trong bao nhiêu lâu tùy bạn muốn,
giải thoát khỏi tất cả những
căng thẳng tâm lý và
lo nghĩ.
Đức
Quán Thế Âm hiện ra từ bầu trời rộng mở trước bạn, trong sự
an bình và tạo
cảm hứng nhất, và trong một hình dạng
đẹp đẽ cho bạn có thể tưởng tượng được. Thân Ngài màu trắng, chiếu sáng
rực rỡ, giống như một núi tuyết hay
pha lê chiếu sáng hàng ngàn
tia sáng mặt trời.
Ngài
trang hoàng bằng lụa và
châu ngọc, ngồi trên một đĩa
mặt trăng giữa một
hoa sen đẹp đẽ.
Đức Phật ngồi
vững chãi,
biểu tượng trạng thái bất động của
Phật tánh.
Trong
sự thiền quán này,
đức Phật có bốn tay, rải
từ bi vô biên cho tất cả
chúng sanh trong
vũ trụ. Hai bàn tay thứ nhất của Ngài chấp lại ở ngực trong một
cử chỉ biểu tượng nhất thể của
niết bàn và
luân hồi – sự hợp nhất giữa
giác ngộ và
đau khổ của
thế gian, sự
hoàn thiện của mọi sự vốn như vậy,
bao gồm những đấu tranh và sự
vô thường thế gian. Trong hai bàn tay chắp lại Ngài giữ một viên
ngọc như ý,
tượng trưng cho “những
phương tiện thiện xảo”
thỏa mãn những nhu cầu cho tất cả
chúng sanh rộng mở với cơ hội. Bàn tay phải thứ hai cầm một
tràng hạt pha lê biểu tượng tính
kiên định của tâm
đại bi của Ngài với tất cả. Tay trái thứ hai của Ngài cầm một bông sen trắng
biểu tượng trí huệ và
hiểu biết vô biên,
vô nhiễm của Ngài.
Đôi mắt Ngài tràn đầy lòng
quan tâm và
từ ái vô biên, nhìn chăm chăm không nháy mắt vào
mọi người trong một
tình thương vô
điều kiện và không ngừng nghỉ, Ngài là cả hai sự trẻ trung và không tuổi tác, vượt trên tất cả
đau khổ, và khuôn mặt đang
mỉm cười đầy
hoan hỷ giải thoát đau khổ cho
mọi người.
Hãy phát triển cảm nhận trong tâm bạn rằng điều này không chỉ là một
hình tướng do
tâm thức tạo ra, mà là
hình tướng thanh tịnh,
chân thật của
đức Phật đại bi,
hiện thân của tất cả chư Phật và những bậc
giác ngộ. Hãy
tin tưởng vào
hình ảnh này như là sự
phản chiếu của
bản tánh thanh tịnh của
tự tâm bạn,
xuất hiện như
đức Phật. Hãy cảm nhận sự
hiện diện của Ngài trong trái tim, thân và tâm bạn.
Hoan hỷ với những
ban phước Ngài đem đến nơi bạn đang sống, đến những người đang sống với bạn, và
toàn thể vũ trụ.
Trên mặt đất
đối diện Đức
Quán Thế Âm, hãy
quán tưởng tất cả mọi loại
chúng sanh vui mừng khôn xiết được
hiện hữu trong sự
hiện diện của
đức Phật. Bây giờ, với một cảm nhận nồng nhiệt, hãy nghĩ rằng tất cả
chúng sanh trên trái đất hợp cùng với bạn tụng ca
chân ngôn sau đây :
OM MANI PADME HUNG HRI
hay
OM MANI PADME HUNG
Chân ngôn này có thể dịch là “Đức Phật của ngọc báu và
hoa sen, chúng con
cầu khẩn Ngài”, hoặc rộng hơn là “Ôi,
đức Phật nắm giữ ngọc báu và
hoa sen của
đại bi và
trí huệ, mong Ngài
ban cho chúng con những
ban phước.”
Đức
Quán Thế Âm Hãy hiến mình
trọn vẹn vào
âm thanh của sự tụng ca ; nói hay hát
chân ngôn nhiều lần, trong một cách mà bạn
tìm thấy sự hứng khởi. Khi bạn làm như vậy, hãy làm tươi mới lại
sự quán tưởng của bạn. Với lòng nhiệt thành và sùng mộ, hãy
hình dung tất cả
chúng sanh ở
mọi nơi đều nhìn chăm chú vào
đức Phật với đôi mắt
mở rộng và
hoan hỷ.
Âm thanh êm dịu của
chân ngôn tràn đầy trong
vũ trụ như một bản giao hưởng làm
chuyển hóa mọi
sắc tướng,
âm thanh và
ý niệm trở thành sự
tán thán đức Phật Đại Bi.
Bây giờ, trong tâm bạn nghe giọng nói êm dịu của
đức Phật lập đi lập lại rằng : “Tất cả những
hành vi và cảm nhận
độc hại của con đều
hoàn toàn được chữa lành. Bây giờ con
thanh tịnh và
hoàn thiện. Hãy cảm nhận
hạnh phúc và
an bình.” Hãy để cho
ý nghĩa của những lời này thấm sâu vào lòng bạn, không chỉ như là
ngôn từ đến và đi mà là một
quán đảnh và
ban phước thật sự và được cảm nhận sâu sắc.
Bây giờ những
tia sáng rực rỡ của ánh sáng chữa lành chiếu ra từ đức
Quán Thế Âm và khi
tia sáng chạm vào bạn, lòng bạn
hoàn toàn rộng mở tới những người mẹ-chúng sanh chung quanh
đức Phật. Những ánh sáng không những có
sắc tướng đẹp đẽ,
thanh tịnh mà còn là
năng lực an bình, ấm áp,
phúc lạc và rỗng rang. Ánh sáng từ
đức Phật tuôn chảy qua bạn, tới tất cả
chúng sanh, xua tan tất cả
đau đớn, khổ sở. Hãy để cảm nhận về tĩnh lặng và rỗng rang lan tràn qua bạn. Cảm nhận rằng
toàn thể thế gian trở thành một trong tâm
đại bi. Sự rắn chắc và lạnh lẽo như băng giá trong
tâm thức chưa
thuần hóa của bạn được tan chảy, và bằng
sức mạnh ánh sáng của Phật
Đại Bi, thân bạn được
chuyển hóa thành ánh sáng
thanh tịnh. Ánh sáng của
đức Phật giống như một ngàn
mặt trời, nhưng không bao giờ làm
tổn thương cặp mắt của bất cứ ai ;
trái lại còn đem đến một
cảm giác an bình và
giải thoát. Khi ánh sáng
vô tận chiếu sáng
rực rỡ trong tất cả các phương,
vũ trụ hòa tan trong
an bình nhất thể.
Hãy cảm nhận sự
bao la và rỗng rang của
vũ trụ. Để cho tất cả
tư tưởng và cảm nhận của bạn tan biến vào trong
an bình và ấm áp
vô tận của
đức Phật, trong
tâm bi của Ngài không có
phân biệt đau khổ và
hạnh phúc, xấu hay tốt, đây hay kia, anh hay tôi. Tất cả là một và như nhau trong
an bình vĩ đại. Hãy
an trú trong sự rỗng rang của tâm chữa lành của bạn. Sau đó bạn có thể lập lại
sự thiền định này nhiều lần khi
thích hợp.
Sự thiền định này có thể đổi khác bằng việc
sử dụng những dạng của
năng lượng chữa lành khác như đã
thảo luận trong phần đầu sách này. Ngài Karma Chakme, một
đại sư về
nghi lễ, cô đọng nhiều
thực hành của và những
kinh điển phổ thông và
thiêng liêng, cũng như những lời dạy
bí truyền, trong cách
thiền định về
đức Phật Đại Bi có thể dùng để chữa lành những bệnh tật thông thường.
Hãy
quán tưởng đức Phật ở trên đầu của người bệnh, có thể là bạn hay người nào khác.
Đức Phật Đại Bi có hai tay, tay phải đưa ra trong
cử chỉ che chở, tay trái nắm một
hoa sen trắng tại trái tim. Trong nhiều khía cạnh
xuất hiện kỳ diệu của Ngài là
hình ảnh chân ngôn, OM MANI PADME HUNG, chuyển động trong một vòng tròn quanh trái tim Ngài. Từ
chân ngôn, ánh sáng
quang vinh chiếu ra
rực rỡ.
Hãy
cầu nguyện đức Phật Đại Bi, vị
Đại Bồ tát ban cho vô úy. Cầu cho
được giải thoát khỏi bệnh tật, và
tin tưởng rằng lời
cầu nguyện này sẽ được
đáp lại.
Phần sau của
sự thiền định được Ngài Karma Chakme
mô tả như sau :
Từ thân của
đức Phật, một dòng
cam lồ chảy xuống và cuốn trôi đi mọi bệnh tật và những
ảnh hưởng xấu của người bệnh và sau đó
cam lồ phúc lạc tràn đầy
thân thể người bệnh.
Sau đó lập lại nhiều lần
chân ngôn sau đây càng tốt : “OM MANI PADME HUNG SARVA SHANTING KURUYE SOHA.” (Có nghĩa :
Đức Phật của
đại bi và
trí huệ, mong sao tất cả (bệnh tật đó) được bình lặng.)
Bấy giờ
đức Phật ở trên đầu người đó tan
biến thành ánh sáng và hòa tan vào người bệnh.
Hãy nhớ rằng bạn luôn có thể đem cảm nhận và
năng lực từ bất
cứ sự thiền định về
đại bi nào vào
trong đời sống hàng ngày của bạn ; nó là một
ban phước luôn luôn sẵn sàng cho
chúng ta. Hãy chào đón tất cả mọi sự mà
đời sống đem lại cho bạn – tất cả là một cơ hội để
chúng ta chứng ngộ thật tánh của mình.
Khi bạn
hạnh phúc, hãy cảm nhận nó
trọn vẹn như
năng lực ban phước của
đức Phật, mà không bám chấp vào nó. Khi bạn
đau khổ, hãy nghĩ : “Mong sao sự
đau khổ này là một vật chuộc để giảm nhẹ
đau khổ cho tất cả những người mẹ-chúng sanh”, và xem sự
đau khổ như một lực
tích cực đem lại nguồn
cảm hứng và
tỉnh giác tâm linh,
mục đích tối thượng của
đời người.