NUÔI DƯỠNG BỒ ĐỀ TÂM
Chagme Rinpoche - Thanh Liên Việt dịch
Nếu bạn hỏi ta
tham dự vào việc lắng nghe, suy niệm và
thiền định về
giáo lý như thế nào thì câu
trả lời là ta cần làm những điều đó không chỉ
vì lợi ích của ta, nhưng bởi
lợi lạc của tất cả
chúng sinh. Như vậy bạn phát triển
Bồ Đề tâm ra sao? Trước hết
bạn thiền định về
lòng từ ái, và sau đó là
lòng bi mẫn. Làm thế nào bạn biết là mình có
Bồ Đề tâm hay không? Người không
phân biệt giữa bạn và thù, người ấy có
Bồ Đề tâm. Điều này rất khó khăn đối với người mới bắt đầu, bạn nghĩ thế phải không? Vậy tại sao khó khăn? Từ
vô thủy chúng ta đã bám chấp vào
ý niệm sai lầm của cái tôi và đã lang thang suốt trong
sinh tử.
Rốt cuộc vào lúc này, cho dù
bạn thiền định về
Bồ Đề tâm nhưng nó không dễ dàng
phát khởi. Vậy ta làm thế nào để có thể phát triển
Bồ Đề tâm? Nó giống như việc nuôi con. Bạn bắt đầu bằng cách cho chúng
thức ăn mềm, dễ tiêu. Khi lần đầu tiên ngài
Xá Lợi Phất phát triển
Bồ Đề tâm, một người đàn ông đã hỏi xin nhãn cầu (mắt) của ngài.
Xá Lợi Phất trao nó cho ông ta và người đàn ông để nó trên mặt đất rồi đạp lên. Khi
Xá Lợi Phất hỏi
lý do tại sao thì ông ta nói khi đạp lên một nhãn cầu, nó tạo nên một
âm thanh thật hay. Vì thế thay vì phát triển
Bồ Đề tâm Xá Lợi Phất đã
quyết định đi theo con đường Thanh Văn. Jigten Sumgon nói rằng khi bạn
thực hành tonglen bạn không nên
lập tức nhảy vào phòng tuyến
cuối cùng. Khi
thực hành tonglen ta nhận vào mình bệnh tật,
đau khổ, và sự
bất hạnh của những người khác và hiến tặng họ
hạnh phúc của ta. Tonglen là như thế. Nếu
chúng ta thực hành tận
đáy lòng mình thì sẽ xảy ra việc ta có thể nhận bệnh tật của những người khác vào mình. Nếu điều này xảy ra và bạn đã đi quá nhanh, bạn có thể
hối tiếc việc
thực hành, nó sẽ bị uổng phí. Khi ấy mọi
lợi ích của việc
thực hành của bạn sẽ mất đi.
Vì thế khi nào là lúc
thích hợp để bắt đầu
thực hành tonglen? Nếu bạn biết tâm bạn sẽ không
xao động cho dù
kinh nghiệm tiêu cực nào
xuất hiện thì bạn nên
thực hành tonglen. Những người mới bắt đầu nên
thực hành tonglen như thế nào? Họ có thể nhìn thấy nỗi khổ của những người khác, có
lòng bi mẫn và sự
cảm thông đối với họ và
cầu nguyện cho họ. Những lời
cầu nguyện này có thể có rất nhiều
năng lực. Chỉ ngồi xuống và nói rằng bạn đang
thực hành tonglen thì không đủ. Nó đòi hỏi một
tâm thức kiên cố để có đủ
năng lực hoàn thành thực hành này. Nếu bạn khao khát mang lại
lợi ích cho người khác thì những lời
cầu nguyện của bạn sẽ
thành công. Nhưng nếu bạn thiếu sự
nhất tâm thì những lời
cầu nguyện ấy không có
lợi lạc.
Như vậy
chúng ta phát triển
Bồ Đề tâm ra sao? Tôi đã giảng điều này trước đây vì thế nó đã trở nên
quen thuộc.
Đức Phật đã dạy rằng bạn có thể bắt đầu
thực hành sự
rộng lượng (
bố thí) bằng cách
chuyển vật nào đó từ bàn tay này sang bàn tay kia. Bạn có thể bắt đầu bằng cách biếu tặng những vật không có
giá trị lớn, như cho đi những rau trái úa vàng. Nếu bạn đi từng
bước một thì sự
bố thí của bạn sẽ càng lúc càng phát triển. Jigten Sumgon nói rằng trước khi bạn
củng cố tâm bạn thì bạn không thể nào hiến tặng
thân thể bạn. Một vài
truyền thống nói bạn nên bắt đầu với pháp tonglen và cho đi càng nhiều càng tốt trong khả năng của bạn. Nhưng nếu bạn
thực hành con đường từng
bước một thì bạn sẽ thấy rằng bạn không thể bắt đầu với tonglen hay hiến tặng
thân thể bạn. Nếu
chúng ta tham dự vào việc
bố thí từng
bước một bằng cách cho đi những rau trái úa vàng thì ta sẽ đạt tới chỗ có thể hiến tặng
thân thể ta. Vào lúc đó bạn sẽ không
tham luyến thân thể hơn những rau trái úa vàng. Nếu bạn đạt tới chỗ này thì bạn có thể dấn mình vào việc
bố thí thân thể.
Khi bạn
tham dự vào những
thực hành này tâm bạn trở nên
trong sáng và bạn đạt tới chỗ không có
đau khổ. Vào lúc này việc chặt đứt chân tay sẽ không làm bạn
đau khổ. Một
tu sĩ hiến tặng
thân thể mình trong khi
thực hành.
Trời Đế Thích hỏi ông có
hối tiếc điều gì không.
Tu sĩ trả lời: “Không, bởi tôi không
tham luyến. Và nhờ
năng lực của
sự thiền định của tôi, tôi có thể thay thế chân tay tôi bằng những lời
cầu nguyện.” Có
một lần Jigten Sumgon mắc bệnh cùi rất nặng. Ngài nói rằng ngài không
quan tâm tới cái chết nhưng chết vì một bệnh tật
kinh hãi như thế làm ngài buồn bã. Sau đó ngài
thiền định về
lòng bi mẫn và
nhận ra rằng bệnh tật
của riêng ngài thì thật nhỏ bé nếu
so sánh với những
đau khổ của tất cả
chúng sinh. Ngài bắt đầu
thiền định vào buổi sáng khi những
thú vật được
đưa tới cánh đồng cỏ. Vào buổi tối khi đàn thú
trở về thì ngài đã
thành tựu một
lòng bi mẫn không thể bị lay chuyển đối với tất cả
chúng sinh và được chữa lành bệnh. Đó là điều được nói tới trong
tiểu sử bí mật của ngài. Trong
tiểu sử thông thường của ngài có nói rằng ngài được chữa khỏi bệnh trong ba ngày, bởi ngài nghĩ rằng
mọi người sẽ không tin ngài nếu ngài nói ngài lành bệnh trong một ngày. Khi ta bắt đầu
thiền định về
lòng bi mẫn, trước hết ta nên phát triển
lòng bi mẫn đối với bà mẹ của ta
trong đời này. Tôi đã giảng cách nhớ lại
thiện tâm của bà mẹ của ta trong những bài giảng trước đây.
Vào lúc bắt đầu ta cần có
giáo huấn của
Lạt Ma của
chúng ta, cần
đọc Kinh điển và lắng nghe
giáo lý. Nhưng chỉ
nghiên cứu thì không đủ. Những gì
chúng ta học cần được cất giữ trong tâm ta. Nếu
bạn thiền định về việc bà mẹ của bạn
quý báu ra sao thì bạn sẽ cảm nhận được điều đó từ tận
đáy lòng bạn. Nếu bạn không
thực hành thì
giả sử có ai
xuất hiện và
phê bình mẹ bạn, bạn có thể bị lung lay bởi
ý kiến đó. Đó là bởi tâm bạn không
kiên cố. Bạn cần
thiền định từng
bước một, bắt đầu với những thành viên trong
gia đình bạn. Vậy
chúng ta đang
nỗ lực để đạt tới cái gì? Để tới một thời điểm khi ta không thể
phân biệt được ai là
kẻ thù và ai là bằng hữu của ta. Vào lúc đó có thể nói rằng bạn thực sự có
Bồ Đề tâm.
Từ
tiểu sử của Jigten Sumgon
chúng ta có thể thấy được
năng lực của
Bồ Đề tâm. Nó là cội gốc của 84.000
Pháp môn. Nếu bạn không có
Bồ Đề tâm, cho dù bạn
thực hành điều gì thì bạn cũng không thể
giác ngộ.
Năng lực của
Bồ Đề tâm thật vĩ đại.
Không gian không thể bị cạn kiệt, nhưng
năng lực của
thần chú thì còn vĩ đại hơn thế.
Sức mạnh đứng sau
thần chú là
Bồ Đề tâm. Có một
câu chuyện về một
pháp sư có
năng lực vĩ đại bằng cách
sử dụng thần chú và trở nên thật
giàu có và
nổi tiếng. Những vị
pháp sư có thể dùng
năng lực của các
thần chú để gây
tổn hại cho những người khác. Có
một lần ông ta bao quanh một torma ba vòng xích và bằng
năng lực của việc trì tụng
thần chú, ông làm đứt tung sợi dây xích. Nhưng bởi vị
pháp sư này không có
Bồ Đề tâm nên ông bị
tái sinh làm một con cá lớn trong một cái hồ. Tất cả
đệ tử của ông bị sinh làm những con cá nhỏ
ăn thịt con cá lớn. Vì sao xảy ra điều này? Nếu bạn chỉ
phán đoán từ
quan điểm thực hành các sadhana thì ông ta đã
thực hành Pháp, nhưng ông không có
Bồ Đề tâm, vì thế ông ta rớt xuống
con đường lầm lạc. Tất cả những yoga và tantra đều có những
năng lực vĩ đại, nhưng nếu bạn không có
Bồ Đề tâm thì nó giống như những
thực hành của một
truyền thống phi-Phật Giáo. Nếu bạn không có
thời gian để ngồi xuống và
thiền định về
Bồ Đề tâm, bạn có thể
thực hành nó
trong đời sống hàng ngày của bạn. Nếu bạn làm việc với ước muốn giúp đỡ những người khác, bạn có thể phát triển
Bồ Đề tâm theo cách này.
Chúng ta không
thành tựu Phật Quả là bởi ta bám chấp vào một cái “tôi.” Cách
đối trị siêu việt cho điều này là
Bồ Đề tâm. Bằng cách
thực hành Bồ Đề tâm, sự bám chấp của ta càng lúc càng bớt đi. Sự
đau khổ xuất phát từ việc bám chấp vào một cái ngã. Nhờ
thực hành Bồ Đề tâm sự
chấp ngã này
giảm bớt. Nguồn mạch của
hạnh phúc là
Bồ Đề tâm. Khi
chúng ta có sự
may mắn và
tiện nghi, ta nghĩ rằng ta
hạnh phúc. Nhưng đây không phải là
hạnh phúc bởi những
hoàn cảnh của ta có thể thay đổi. Nhưng nếu ta có
Bồ Đề tâm thì
hạnh phúc của ta sẽ
tồn tại từ đời này sang đời khác.
Bây giờ
chúng ta sẽ có những câu hỏi.
Hỏi: Chúng con có thể
tu hành tâm thức ra sao
để tâm không bị
ảnh hưởng bởi những nỗi khổ và những
vấn đề của thân xác?
Đáp:
Thân thể chúng ta là kết quả của những hành
động trước đây của ta và tâm ta
phụ thuộc vào chúng.
Tư tưởng “tôi mệt” do tâm tạo ra. Khi ta già đi, ta mắc bệnh và ta nghĩ “Tôi đau yếu,” điều này làm những
đau khổ của ta
tăng trưởng. Bởi ta bám chấp vào những
kinh nghiệm, ta phóng đại những nỗi khổ của ta. Nếu một
hành giả không bị
tác động bởi những
tư tưởng này thì họ sẽ không
đau khổ. Một
tu sĩ trong
tu viện của tôi mất vào năm 88 tuổi, nhưng khỏe mạnh cho tới lúc mất. Hai tháng trước đó ông nói: “Hôm nay là một
ngày lành.” Ông dùng bữa và qua đời. Những
hành giả cao cấp này không bị rơi vào sự
thống trị của
thân thể họ. Khi tôi đang
nhập thất ở
Ấn Độ thì một
ni cô mất.
Chúng tôi đưa cô vào bệnh viện và cô rất
an định và nói: “Nếu chết thì chết.” Cô giải tán
mọi người, ngồi thẳng lên và
thị tịch. Nếu
chúng ta có một
thực hành mãnh liệt ta sẽ không quên nó khi chết và nhờ đó ta làm chủ được những
đời sau của ta.
Hỏi: Trong tonglen nếu có ai nhận lãnh bệnh ung thư của người khác thì họ có cảm nhận sự
đau đớn của bệnh ung thư đó không?
Đáp: Khi
thích hợp để
thực hành tonglen, bạn sẽ nhận
đau khổ của những người khác. Nhưng nếu bạn đã phát triển
Bồ Đề tâm, tâm bạn sẽ có sự
tự do,
tự chủ và bạn sẽ
kiên trì trước nỗi khổ đau. Bạn có thể bị
đau khổ và bệnh tật
dữ dội xuất phát từ
thực hành này. Ví dụ như khi Milarepa bị đầu độc, người làm điều đó
yêu cầu được nhận nỗi
đau đớn của ngài. Milarepa nói: “Ông không thể
chịu đựng nổi điều đó. Tôi sẽ chỉ cho ông một phần của nó.” Chỉ sau vài phút ông ta xin ngài
thu hồi sự
đau đớn ấy. Ông ta
sám hối và
ăn năn về hành động của mình.
Hỏi: Thầy thuốc
Tây Tạng có
sử dụng tonglen?
Đáp: Tôi đoán là một số vị có
sử dụng. Jigten Sumgon đã dạy rằng đó là một cơ hội
đúng đắn cho
thực hành này.
Hỏi: Sự
đau đớn có thể
xuất hiện với một
bác sĩ chỉ bởi
lòng bi mẫn của họ đối với bệnh nhân?
Đáp: Nếu bạn không
thiền định về tonglen, bạn sẽ không nhận nỗi khổ của người khác một cách
tự nhiên. Nếu điều này xảy ra khác đi, nó là
kết quả của nghiệp của bạn. Nhưng bạn có thể
thực hiện những sự
cầu nguyện và nguyện ước khi bạn bị bệnh và
bao gồm cả
chúng sinh khác trong lời
cầu nguyện của bạn.
Có hai loại
thiền định:
thiền định phân tích (vipashyana, quán) và
thiền định an tĩnh (shamatha, chỉ.) Với
thiền định phân tích
chúng ta xem xét quan điểm Trung Đạo, nhìn những đối tượng và
xem xét bản tánh của chúng. Đây là một
phương pháp để
chứng ngộ tánh Không.
Thiền định an tĩnh được
phân chia thành
thiền định có sự hỗ trợ và
thiền định không có sự hỗ trợ. Khi ta
thiền định có sự hỗ trợ, ta có thể
sử dụng bất kỳ điều gì
thích hợp với ta, như một cây gậy hay một hòn đá. Hoặc ta có thể dùng một
tượng Phật và tập trung vào sợi lông giữa cặp lông mày của Ngài. Sau đó ta
kiểm tra xem sự
chú tâm của ta có đi trệch khỏi điểm này không.
Trước tiên tâm bạn sẽ lang thang, nhưng nó không thành
vấn đề. Đây là bởi ta đang
nhận ra rằng tâm ta không yên tĩnh. Điều
tương tự như thế cũng
xuất hiện trong đời sống hàng ngày của ta nhưng ta không
ý thức về nó. Như thế nếu
tiếp tục thực hành tâm ta sẽ có thể an trụ trên đối tượng
thiền định. Khi bạn có thể làm điều này, bạn nên
thực hành thiền định không có sự hỗ trợ. Khi tâm bạn có thể
thiền định mà không có
ý niệm, mọi loại
kinh nghiệm hỉ lạc sẽ
xuất hiện trong thân bạn. Một vài người nói rằng điều này rất
kỳ diệu và ước muốn an trụ trong đó. Một số người có thể an trụ trong
trạng thái hỉ lạc này bao lâu theo
ý muốn của họ. Nhưng đây không phải là
mục đích của việc
thiền định, và bạn không nên bám chấp vào điều đó. Nếu bạn không dính mắc vào sự hỉ lạc, bạn sẽ có
kinh nghiệm về sự
trong sáng của tâm. Sau đó bạn sẽ có những
kinh nghiệm về sự
vô niệm, ở đó bạn thấy
toàn bộ sinh tử là
tánh Không.
Thuật ngữ chỉ
sự thiền định trong tiếng
Tây Tạng có nghĩa là thâu hoạch những
kinh nghiệm. Nói mọi sự trống không thì không đủ. Sự
thực hành đòi hỏi phải
nhận ra nó. Một số người bị lạc trong cái thấy
đức hạnh và
ác hạnh đều không
hiện hữu. Bởi cái thấy này họ thâu nhận rất nhiều
ác hạnh. Vì thế bây giờ
chúng ta sẽ
thực hành shamatha trong năm phút. Nếu thân bạn khỏe mạnh thì tốt nhất là ngồi trong tư thế bảy điểm. Nhưng
vấn đề là đừng bị dính mắc trong tư thế, nó có thể
hoàn toàn thư thản. Nó giống như việc cắt đứt sợi dây cột một bó cỏ. Bó cỏ nằm yên khi rơi xuống. Hãy để thân và tâm bạn
tự nhiên và thư dãn.
Trước đây
chúng ta đã nói về
lòng từ ái và bi mẫn. Có một mối
liên kết giữa
lòng từ ái và bi mẫn với
thiền định shamatha không?
Nyima đã
trả lời: “Nếu bạn không
nuôi dưỡng Bồ Đề tâm thì khi bạn
cố gắng thiền định tâm bạn sẽ ngập đầy những
cảm xúc tiêu cực.” Pete đã nói rằng: “Khi bạn
thực hành shamatha tâm bạn rộng mở và bạn bi mẫn một cách
tự nhiên.” Michael nói rằng: “Khi bạn thấy
tánh Không và
nhận ra rằng những người khác không thấy và
đau khổ vì điều đó, tâm bạn
tự nhiên phát triển
lòng bi mẫn đối với họ.”
Như thế tất cả các bạn có một vài
kinh nghiệm thiền định. Giống như các bạn đã đề cập, có hai loại
Bồ Đề tâm, là
Bồ Đề tâm tương đối và
tuyệt đối.
Tánh Không là
Bồ Đề tâm tuyệt đối. Điều quan trọng nhất là vị
Lạt Ma có
lòng bi mẫn đối với tất cả
chúng sinh. Khi đã
chứng ngộ tánh Không,
Lạt ma cảm thấy lòng bi mẫn đối với
chúng sinh không
chứng ngộ nó.
Lòng bi mẫn và
tánh Không thì bất khả phân. Nếu ta nghĩ rằng ta không phải
lo lắng về hành động (hạnh) sau khi
chứng ngộ tánh Không, thì điều đó không đúng. Nếu bạn muốn xác định một người có
chứng ngộ tánh Không hay không, hãy xem họ nói về nhân và quả ra sao. Nếu họ đã
chứng ngộ tánh Không, họ nói về điều đó rất
thận trọng. Jigten Sumgon đã nói rằng nếu bạn
tham gia vào
ác hạnh, thì ngay cả một
Bồ Tát thập địa cũng sẽ phải chịu
nhân quả.
Vấn đề chính là
nhận ra sự hợp nhất của
tánh Không và
lòng bi mẫn.
Những gì bạn đã nói thì
tốt đẹp. Nó
tốt đẹp đối với việc
nghiên cứu Pháp, nhưng sau đó bạn phải đặt tâm bạn trong sự
quân bình thiền định. Pháp rất
quý báu.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói về việc nghe một câu kệ thì
quý báu ra sao. Trong
một đời trước
Đức Phật đã
cúng dường thân Ngài như một
ngọn đèn để được nghe một câu kệ
duy nhất. Trong
tiểu sử của Tilopa và Milarepa có nói về việc các ngài coi Pháp
quý báu ra sao. Nó
quý báu bởi nếu ta
thực hành thì ta cũng
thành công như thế. Tilopa nói: “Giáo lý của ta chỉ
quý báu nếu con
thực hành nó.” Khi bạn thấu hiểu sự hợp nhất của
tánh Không và
lòng bi mẫn thì nếu có ai hỏi mua nó, họ sẽ không thể mua được cho dù trả bao nhiêu chăng nữa. Nhưng với sự
thực hành bạn có thể tạo ra nó cho
bản thân bạn.
Tất cả
chúng ta đều nói ta muốn
hạnh phúc. Nếu có người
phát khởi Bồ Đề tâm, họ sẽ giúp đỡ
chúng sinh dù trong tình huống nào và những người khác sẽ
hài lòng về họ. Nếu có ai
nghèo khổ nhưng có
lòng từ ái và bi mẫn, họ sẽ không có những
vấn đề tinh thần bất kể
hoàn cảnh nào. Nếu bạn có
lòng từ ái và bi mẫn thì nếu bạn gặp một
kẻ thù bạn sẽ
thích thú vì có cơ hội
thực hành Bồ Đề tâm.
Như thế
chúng ta đã có được thân người
quý báu này với những sự
tự do và phú bẩm của nó và đã gặp và có một cơ hội để
thực hành Pháp. Việc
đạt được thân người này là một kết quả của
sự tích tập
công đức và
trí tuệ trong nhiều đời. Khi
chúng ta nói về tantra, là
giáo lý mang lại sự
Giác ngộ trong
một đời người,
nếu không làm việc
cực nhọc trong nhiều đời trước thì
chúng ta không gặp được tantra hay nếu
chúng ta có gặp thì ta cũng không có
niềm tin và lòng sùng mộ đối với nó. Vì thế
chúng ta đã
trải qua nhiều đời tích tập
công đức và
trí tuệ. Có thể
chúng ta được sinh ra vào thời này để
truyền bá Giáo Pháp tại Mỹ. Trước khi có
Phật Giáo ở
Tây Tạng, nhiều vị đã
tái sinh ở
Tây Tạng để
Phật Giáo có thể phát triển ở đó. Cùng cách thế đó, trong những đời trước của ta, hẳn
chúng ta đã từng lập những
ước nguyện và phát triển nghiệp khiến ta có thể
gặp nhau ở đây. Nếu các bạn lấy tôi làm một ví dụ thì tôi rời
Tây Tạng bởi có một nạn đói sau khi người
Trung Quốc tới đó. Vào thập niên 1980 tôi
cảm thấy Giáo Pháp quý báu nên tôi đi
Ấn Độ để
thực hành. Điều đó rất nguy hiểm nhưng tôi đã
thành công, nhờ đó tôi có thể
thực hành. Khi rời
Tây Tạng tôi không có
kế hoạch đi Mỹ, tôi
hoàn toàn bị nghiệp
mang đi.
Hỏi: Ngài có thể giảng về những sự
cúng dường torma cho những
tinh linh địa phương?
Đáp: Có nhiều loại sự vật
chúng ta cúng dường cho những
tinh linh này. Đó là những sự
cúng dường khói, những sự
cúng dường torma
đặc biệt, những sự
cúng dường sur (thịt) trắng và đỏ. Sự
cúng dường sur đỏ chỉ được
thực hiện bởi các
Lạt Ma cao cấp. Có những sự
cúng dường serkyim.
Hỏi: Ngài muốn nói gì khi nói
chúng ta nên có
niềm tin ở Pháp?
Đáp: Có những loại
niềm tin khác nhau. Đó là
niềm tin trong sáng,
niềm tin mong mỏi hay khát khao, và
niềm tin xác quyết.
Niềm tin quan trọng nhất là
niềm tin xác quyết. Trước hết
chúng ta phải phân tích xem Pháp nó có
ích lợi hay không. Nó giống như việc bạn
kiểm tra vàng khi đi mua vàng. Sau khi
kiểm tra bạn có sự xác tín rằng nó là vàng. Cùng cách thế đó, sau khi khảo sát bạn
quyết định là Pháp thật
ích lợi. Đây là
niềm tin xác quyết.
Hỏi: Ngài có thể giảng làm thế nào chúng con có thể mang sự
thực hành theo mình vào công việc?
Đáp: Nói chung thì
lý do chính khiến
chúng ta làm việc là tiền bạc. Nhưng khi ta đi tới sở làm, ta nên
cố gắng hoàn thành mục đích của ông chủ của ta và ta nên làm điều này một cách
chân thành không
giả dối. Một vài ông chủ
tốt lành và một số thì không. Cho dù ông chủ của bạn không tốt nhưng nếu bạn
duy trì thiện tâm này thì bạn sẽ
chuyển hóa được ông ta.
Chúng ta không nên
phê bình những người khác, đó là điều chỉ mang lại những
đau khổ, mà hãy hành động khiến ta có thể
chuyển hóa thái độ của họ. Nếu có ai làm hại bạn, bạn nên
thực hành nhẫn nhục ba lần. Khoảng 90% những
trường hợp đó người khác sẽ bị
ấn tượng. Nhưng số còn lại thì họ sẽ không thay đổi
thái độ. Sau lần thứ ba, hãy
lên tiếng. Một vài người
bị tràn ngập bởi những
cảm xúc phiền não và không thể
sửa đổi.
Hỏi: Người ta nói suốt ngày: “Tôi thích cái này..,” điều đó chỉ làm tăng thêm tánh
ích kỷ (
chấp ngã)
của riêng ta. Ngài
xử sự ra sao với việc này?
Đáp:
Chúng ta cần có
lòng bi mẫn. Bạn hiểu
vấn đề chấp ngã, nhưng họ thì không. Hãy
cố gắng nhẫn nhục ba lần. Nếu ta
không nhẫn nhục thì sự
tiêu cực của người khác còn
tác hại hơn nữa trong
chúng ta và ngược lại.
Khi ta
thực hành Pháp, ta cần lập đi lập lại nhiều lần.
Cuối cùng thì tâm bạn sẽ trở nên
vững chắc.
Chúng ta phải làm cho
quen thuộc với tâm. Nếu ta không làm thế thì những
cảm xúc phiền não sẽ
nhập thất cùng
chúng ta. Nếu
thực hành ta sẽ gặp Bổn Tôn của ta trong ẩn thất. Nếu những niệm tưởng và
phiền não của ta mạnh mẽ thì trong ẩn thất những
tư tưởng của ta sẽ chỉ trở nên mạnh mẽ hơn. Trong ẩn thất ta sẽ nhìn thấy những người
chúng ta không thích và họ sẽ
trò chuyện với ta, mặc dù đây chỉ là một phóng chiếu của tâm. Tôi có biết một thiền giả có thể sống trong ẩn thất mà không cần tới
thực phẩm. Nhưng bởi ông
sân hận người
Trung Quốc nên việc
thực hành Pháp của ông không
vững chắc và ông mắc bệnh. Ông nói hiện nay các
gián điệp Trung Quốc ở khắp
mọi nơi, họ vào nhà
chúng ta vào ban đêm khi ta ngủ.
Vấn đề chính là không
kẻ thù nào có thể làm hại ta trong từng giây phút bởi họ có
cuộc đời của họ. Nhưng những
cảm xúc phiền não của ta làm hại ta trong mọi lúc, ngay cả trong những
giấc mộng khi
chúng ta ngủ./.
Nguyên tác: “Cultivating Bodhicitta”
by Chagme Rinpoche
http://buddhism.inbaltimore.org/bodhicitta.html
Bản dịch Việt ngữ của
Thanh Liên