PHẦN MỘT
NHỮNG NGUYÊN TẮC NUÔI DẠY TÂM THỨC
VÀO ĐỀSau hai mươi năm ở
Tây phương để dạy
thiền định, hay chỉ có những
lời khuyên cho những người đến hỏi, tôi đi đến
kết luận rằng điều nhiều người chờ đợi từ tôi không luôn luôn
hoàn toàn là cái họ cần. Họ đến gặp tôi, nói rằng họ muốn
nghiên cứu đạo Phật hay
thiền định. Nhưng khi hỏi những chuyện đó, hay
dần dần biết rõ họ hơn, tôi hiểu họ
cảm thấy một sự không
thỏa mãn nào đó đối với
cuộc đời của họ và
thế giới và họ thường không biết phải làm sao
đối diện với những khó khăn của đời thường.
Thật vậy, họ
tìm kiếm một
phương tiện để
vượt qua chúng, hay đôi khi một “bằng
chứng không phạm tội” để phớt lờ chúng đi. Hơn là cơn
mơ mộng, thứ
tâm linh mơ hồ,
triết học,
tôn giáo và những
lễ nghi, họ
cần phải hiểu : hiểu tại sao
cuộc đời họ không
thỏa mãn cho họ, hiểu tại sao đôi khi họ thấy quá khó khăn để sống với chính mình và với những người khác, trong
một thế giới đang bại trận tháo chạy. Và để thật sự hiểu điều đó,
trước tiên họ phải học để tự
biết mình, bởi vì chính từ
bản thân mình mà người ta
nhận biết thế giới.
Để tự
biết mình, phải đi đến cội rễ của
bản thể mình, nghĩa là
tinh thần mình,
tâm thức mình, bởi vì đó là nguồn gốc của tất cả những
kinh nghiệm của
chúng ta. Chính qua
tâm thức mà người ta
nhận biết, người ta
suy nghĩ, và người ta cảm nghiệm, điều đó muốn nói rằng
chính tâm thức đã tạo ra bản chuyển dịch riêng của
chúng ta về
thực tại. Nhưng chính đó là cái mà
hiện giờ phần đông
chúng ta không biết, hay thích không biết thì hơn ; quả là
thoải mái, dễ dàng khi nghĩ rằng mọi cái khó chịu đến với
chúng ta là do lỗi của những người khác, của
xã hội hay của nhà cầm quyền, hơn là tự hỏi
phải chăng cái
hình ảnh người ta tự tạo về những sự vật quả có
liên hệ với cái nhìn mà người ta chiếu rọi trên chúng. Một
vấn đề mà
chúng ta sẽ có dịp
khám phá chi tiết bởi vì đó là một
chủ đề chính của sự chuẩn bị “nuôi dạy con cọp”. Con cọp là một
ẩn dụ về
tình trạng hoang dã và không
hợp lý của
tâm thức chừng nào nó không
nhận biết bản tánh chân thật của nó là gì.
Vậy thì phải dạy cho thuần tính cái
năng lực hoang dã và bất kham này để hiểu cái gì xảy ra trong chính mình, và trong những tương quan với những người khác và
thế giới bao quanh
chúng ta. Chính khi nuôi dạy con cọp, nghĩa là khi học làm chủ
tâm thức mình để
nhận ra sự
toàn thiện vốn có của nó, mà người ta sẽ có thể sống an vui với chính mình và với
thế giới.
Vậy thì cần yếu phải biết
tâm thức, vừa như nó
xuất hiện trong
chức năng bình thường của nó, mà cũng như nó
hiện hữu trong
bản tính thật sự của nó. Cái
hiểu biết này nằm ở ngay tâm của
đạo Phật và
đạo Phật đã đề nghị
vô số phương tiện và kỹ thuật để nắm được cái
hiểu biết đó. Có đủ loại
phương pháp thích hợp với những nhu cầu của mỗi người, theo những ước muốn
cá nhân, mức độ
trưởng thành, những
vấn đề và những bổn phận riêng của họ. Nhưng tôi muốn
nhấn mạnh một điểm quan trọng : những dụng cụ này góp phần vào gia sản của
loài người, cùng một
danh nghĩa như sự sáng chế ra bánh xe hay sự
khám phá những
định luật hấp dẫn, chúng không chuyên biệt là “Phật giáo” hay dành riêng cho những người “Phật giáo”. Thật vậy, Phật nghĩa là “thức tỉnh” –
thức tỉnh khỏi giấc ngủ của
vô minh về
bản tánh thật sự của
tâm thức. Và trong
ý nghĩa đó, một người
Phật tử là người thí nghiệm theo cùng
con đường ấy để cùng đến sự
hiểu biết ấy về chính mình. Nếu người ta
chỉ quan niệm “đạo Phật” như một
tôn giáo được tổ chức, người ta
nhấn mạnh những
yếu tố phân chia ; trong khi nói đến một
con đường dẫn đến sự
thức tỉnh của
tâm thức, người ta làm mạnh những
yếu tố hợp nhất. Luôn luôn trong
ý nghĩa đó mà tôi dùng những danh từ Phật và
đạo Phật trong cuốn sách này. Những dụng cụ được
thừa hưởng từ
đạo Phật chỉ tạo thành một
hệ thống hiểu biết cao cấp về
tâm thức con người và về những cơ cấu
vận hành của nó, bất cứ ai cũng có thể dùng – mà không cần nhãn hiệu “Phật tử” hay nhãn hiệu nào khác – để học tự
biết mình, hầu sống
tốt hơn với chính mình và với
mọi người. Vả lại đó chính là điều tôi luôn luôn
đặc biệt nhớ cho riêng tôi : tôi nghĩ rằng
tính tâm linh (đạo) không phải ở trong nhà thờ
tôn giáo này hay
tôn giáo nọ, mà nó là một sự đóng góp
sống động đem đến cho
xã hội hiện thời, bằng cách
cung cấp cho những ai muốn có
phương tiện để sống
cuộc đời hạnh phúc hơn và bừng nở hơn, bởi vì ít
ích kỷ và
vật chất hơn, và có
phương tiện để giúp đỡ những người khác cũng làm như thế. Chính trong
tinh thần đó mà Nghệ thuật nuôi dạy con cọp bên trong đã được tạo thành, để cho những người
sử dụng nó
cảm thấy hoàn toàn tự do với mọi sự phục tùng một
hệ thống hay một
tín điều đã được
ban cho.
Vậy tôi cũng đi đến chỗ đề nghị cho những ai đến với tôi làm theo những bài
thực tập căn cứ trên
hiểu biết của tôi về “Phật tử” – theo nghĩa tôi đã định nghĩa ở trên – và về người
trị liệu, cũng như trên
kinh nghiệm của tôi về việc dạy
thiền định, và cũng trên sự
đánh giá của tôi về những nhu cầu và những khó khăn
đặc biệt của người
Tây phương sống trong
xã hội hiện thời. Phần đông người ta có
đời sống đã khá đầy ắp,
phức tạp và
căng thẳng ; vậy tôi đã đề nghị với họ những bài
thực tập đơn giản và
cụ thể, đặt nền trên sự thư giãn,
buông xả,
thích hợp với
cuộc đời hành nghề và
gia đình của họ.
Việc này hình thành trên một nền tảng
cá nhân, trong nhiều năm, và rồi càng ngày người ta càng rút được
lợi lạc từ bước đi này và rồi nhiều người khác cũng muốn tự mình
thực hành, tôi đã
tìm cách hệ thống hóa một ít những bài
thực tập trong một
chương trình “trị liệu” mà những bài
thực tập được trình bày ở đây trong Nghệ thuật nuôi dạy con cọp bên trong là một phần trong số đó. “Trị liệu” là nói đến “chăm sóc,
điều trị,
phương cách để chữa lành” ; ở đây phải hiểu nó trong nghĩa
đồng thời phòng ngừa và chữa bệnh. Đó là tự chữa lành khỏi sự tha hóa của chính mình, khỏi sự không tự biết chính mình, điều này là gốc rễ của tất cả những
vấn đề phiền não khác của
chúng ta, như
chúng ta có dịp xác định nó suốt trong cuốn sách này. Chữa lành nhưng cũng là
phòng ngừa, bằng cách rút được cái
sức mạnh và những
phương tiện để đối mặt với mọi thứ có thể đến với
chúng ta sau đó từ sự
hiểu biết về
tâm thức.
Những
thực tập mà tôi đề nghị ở đây có
mục đích dẫn dắt những người
thực hành chúng đến một mức độ nào đó của sự
thức tỉnh tâm linh bằng cách học
điều phục tâm thức họ để
loại bỏ những méo mó thức tình luôn luôn
ngăn cản tâm thức thấy biết
thế giới và những người khác như chúng thật sự là. Một khi
tâm thức đã
nhận biết bản tánh toàn thiện của nó, cái
tri giác của nó về
thế giới phản ánh cái nó
tri giác về chính nó, bấy giờ tất cả đều được
chuyển hóa,
mặc dầu xung quanh bên ngoài, tất cả mọi sự không có gì thay đổi.
Thông điệp rõ ràng và cốt yếu : chính nơi mình mà sự
chuyển hóa xảy ra, hơn là
tìm cách làm thay đổi
con người và
thế giới quanh ta. Nếu người ta thay đổi bên trong mình, bên ngoài sẽ tự động được
chuyển hóa,
biến chất. Người ta mở con mắt với cái đẹp bên trong của chính mình và của
thế giới, để
cuối cùng người ta
khám phá toàn thể cái đẹp trong sự
toàn thiện nội tại của nó.
Việc
hệ thống hóa những bài
thực tập được làm
dần dần, với sự
hợp tác của Edie Irwin, một nhà
trị liệu Hoa Kỳ cũng đã hình thành những kỹ thuật khác nhau về
xoa bóp mà bà đã
thực hành ở Edimbourg. Từ năm 1984, dưới sự
chỉ huy của tôi bà đã
trông coi những nhóm người muốn
thực hành hệ thống này, ở Anh, Ái Nhĩ Lan, Thụy Sĩ, Bỉ, Tây Ban Nha, Ý, Nam Phi và Hoa Kỳ.
Hiện giờ bà đã để
thời gian của mình cho việc tiến hành
chương trình trị liệu này. Chính từ
kinh nghiệm thực tiễn này có được trong nhiều năm, đã sinh ra
chương trình những
thực tập trong nhiều giai đoạn, mà Nghệ thuật nuôi dạy con cọp bên trong là
chương trình thứ hai (cái đầu là “Trở về nơi khởi đầu”).
Bản thân cuốn sách
đáp ứng cho sự
mong mỏi của nhiều nhóm và những
cá nhân để có thể dùng một
thực hành cẩm nang hướng dẫn họ giữa những khóa
tham thiền và
theo đuổi công việc.
Tôi muốn nói đến “trị liệu” hơn là
thiền định, dù cho những kỹ thuật được
sử dụng đôi khi là như nhau, bởi vì điều đó
cho phép tránh một số
quan niệm sai lầm và những
ám ảnh. Tôi luôn
cố gắng làm cho những người đến
tham vấn tôi hiểu rằng
tâm linh không phải là một
phương tiện để
trốn tránh thực tại, mà ngược lại để học giáp mặt với nó, để học không
trốn tránh trong chính mình hay ngoài mình ; bằng cách trở nên thăng bằng hơn và ít quy ngã hơn, người ta đóng góp trực tiếp vào sự an vui của những người khác và tôi
cầu chúc Nghệ thuật nuôi dạy con cọp bên trong có thể mang lại sự đóng góp khiêm
tốn của tôi trong chiều hướng đó.
Akong Rinpoche
Samye-Ling, tháng tám 1989
CHƯƠNG I
NGHỆ THUẬT NUÔI DẠY
CON CỌP BÊN TRONGSự điều phục tâm thức tán trợ cho hạnh phúc.
Đức Phật Thích CaTâm thức là chìa khóa của mọi
kinh nghiệm của
chúng ta, vì chính nó
quyết định cái nhìn của
chúng ta về
thế giới,
mặc dầu thường thì người ta không
biết điều đó. Không biết cái cơ cấu
vận hành này làm cho
chúng ta có một
tri giác khá lầm lộn về những sự vật, bởi vì tính
chủ quan của
chúng ta có khuynh hướng làm méo mó
đáng kể thực tại, cũng hơi giống với những người bị những
rối loạn thị giác hay những người mắc chứng hoang tưởng luôn luôn tin rằng
mọi người đều tấn công mình.
Hiện thời, nơi phần đông
chúng ta,
tâm thức giống như một con cọp
hoang dã gieo rắc kinh hoàng và tàn phá cho những thôn làng.
Chúng ta hoàn toàn bị cái
tâm trí điên cuồng này
thống trị, nó lôi kéo
chúng ta đi mọi hướng, theo những
tham muốn và những ghét bỏ của nó,
phá nát trên đường đi mọi cái có thể ngăn ngại nó, không
ý thức gì về những xung động
của riêng nó cũng như
thực tại bao quanh nó. Nó dẫn dắt cuộc múa nhảy theo ý nó và
chúng ta phải trả đền cho những đổ vỡ, không hiểu điều gì đã xảy ra : chính đó là nơi
chúng ta phải
tìm kiếm lý do cho những khổ nhọc và những
thất vọng của
chúng ta.
Để
tìm thấy lại sự
tự do đã
bị giam hãm, phải bắt con cọp
hoang dã này và
thuần hóa nó : nó phải
phục vụ chúng ta mà không phải ngược lại. Điều đó không dễ dàng gì, vì
trước tiên phải
tìm ra vị trí của nó, và
thường thường người ta quá đỗi
mù quáng để biết rằng con cọp đang
xỏ mũi chúng ta kéo đi. Phải
biết mình đã bị bệnh trước khi
quyết định tự chăm sóc mình.
Vậy mà người ta không biết chút gì về
tình trạng rối loạn mà người ta đang lâm vào. Khi những sự việc xấu đi, người ta đặt
nguyên nhân của sự việc lên lưng của những người khác hay những
hoàn cảnh, nhưng người ta không bao giờ nghĩ đến việc quét tước trước cánh cổng của chính mình – nhìn vào chính mình. Khi người ta muốn
thoát khỏi thế lực của cái
tâm thức hoang dã này mà những trò ngông cuồng của nó làm
cuộc đời nhiễm độc, phải bắt đầu bằng cách xem thẳng mặt nó. Điều đó sẽ khó khăn và nhọc mệt
lúc đầu, nhưng
chúng ta bắt buộc phải đi qua đó. Phải phóng tới, dầu người ta không
cảm thấy có đủ tầm cỡ để chạm trán với nó, bởi vì chính làm như thế mà người ta sẽ
tìm thấy sức mạnh để
tiếp tục.
Nghệ thuật nuôi dạy con cọp bên trong nhằm giúp đỡ những ai muốn có chủ quyền đối với cái
tâm thức nổi loạn này mà những
trở chứng của nó gây ra biết bao
tai hại trong đời chúng ta. Đó không phải là một cuốn sách dành riêng cho những người
Phật giáo và người
Đông phương, cho dù tôi là một người như vậy. Những
vấn đề và những khó nhọc của
cuộc đời là như nhau một cách
căn bản cho tất cả, không
liên hệ gì đến màu da, dòng giống hay
tín ngưỡng của họ, bởi vì
sự kiện chỉ
hiện hữu thôi đã tự động phơi bày
chúng ta cho sự khổ đau.
Bản chất con người là phổ quát :
từ ái hay
ác độc, cũng gây ra những
phản ứng không sai chạy trong bất cứ
xã hội nào, vì những tình cảm là như nhau, dầu mỗi nền
văn hóa diễn tả mỗi khác.
Tâm thức thì chẳng phải
Tây phương,
Đông phương, vàng, đen hay trắng, nó là
nhân loại : mỗi
chúng ta đều muốn
hạnh phúc và tránh khổ đau.
Cuộc đời một người thường theo cái luận lý của
tham muốn : tôi muốn, tôi
ham thích, tôi không muốn, tôi ghét. Những
tham muốn của
chúng ta mâu thuẫn hay không
thỏa mãn làm sao, và người ta
cảm thấy bị lừa dối và
bất hạnh ; nhưng ngay dù người ta có thể có cái người ta muốn,
hạnh phúc đó cũng quá ngắn ngủi, vì người ta đã muốn một cái khác.
Tham muốn là không thể
thỏa mãn, không có
giới hạn : khi người ta
thỏa mãn nó, nó mang lấy một
hình thức khác và lao vào một đối tượng khác. Và
tuy nhiên, người ta không bao giờ từ chối
ý nghĩ phải
thỏa mãn nó một ngày nào đó : đứa trẻ
chạy theo mống cầu vồng để bắt những màu sắc
đẹp đẽ của nó, nhưng càng
đến gần, mống cầu càng có vẻ rời xa và
thoát khỏi tầm tay.
Tham muốn là động cơ của cuộc sống
chúng ta, luôn luôn thay đổi và
thường trực được làm mới. Khi người ta còn nhỏ, người ta muốn cái đồ chơi ấy ; rồi khi có nó, phải có một cái khác, rồi một cái khác nữa, để lại chuyển qua một cái khác. Về sau người ta sưu tầm giữ lấy và nuối tiếc những đồ chơi khác : bạn bè, bằng cấp, du lịch, áo quần, xe cộ,
âm nhạc, truyền hình, rượu, những
bữa ăn ngon, những chế độ
ăn uống... Điều đó không cùng.
Tham muốn luôn luôn
mâu thuẫn : vừa khi có cái người ta muốn người ta lại không mong có nó. Chẳng hạn khi đói, người ta muốn bất cứ giá nào lấp đầy bao tử trống rỗng, nhưng khi đã ăn – thường là quá nhiều – người ta lại muốn
trở lại cái
bụng trống. Đấy là vì luôn luôn có một
tham muốn mới
lập tức đến thay thế
tham muốn cũ : một khi
thỏa mãn tham muốn được
cảm thấy no nê, tức thì nó được thay thế bằng
tham muốn được
cảm thấy nhẹ nhõm.
Tham muốn cũng là một con tắc kè đổi màu rất
ranh mãnh : người ta có thể muốn vẫn
đẹp đẽ, trẻ trung và
hấp dẫn suốt
cuộc đời, nhưng người ta cũng có thể để cho ngã bệnh để lôi kéo sự chú ý và những chăm sóc của những người khác vào chính mình ; và nếu người ta đã
thành công làm cho mình bệnh, người ta chỉ còn nghĩ đến một cuộc
phục hồi kỳ diệu. Và cứ như thế... Hãy chú ý, một
tham muốn luôn luôn
che dấu một
tham muốn khác, như những con búp bê Nga. Vả lại không có cái gì
thoát khỏi sự thèm ăn không thể
thỏa mãn được này :
cho đến cơn khao khát
tâm linh cũng có thể là một
hình thức vi tế do
tham muốn bao bọc, nó
thúc đẩy chúng ta sưu tầm – mà không
thực hành – những
giáo huấn có
nhiệm vụ giải tỏa
bí mật công việc tìm cầu huyễn mộng này về một
hạnh phúc không thể nào
tìm thấy...
Không thể
tìm thấy, bởi vì thật ra có sự lộn sòng.
Ý tưởng người ta có về
hạnh phúc y cứ trên một lầm lộn
điên đảo : người ta chờ đợi thấy nó ở bên ngoài mình, mà không hề biết rằng nó bắt đầu ở chính trong mình. Người ta có thể
tìm cách thỏa mãn cho những tham cầu của mình đến
vô tận, nhưng chẳng bao giờ
thỏa mãn, vì sự
thỏa mãn không đến từ bên ngoài, mà là từ bên trong. Đó là một
vấn đề thái độ :
tham muốn thì không cùng, và không phải cứ để cho nó dẫn dắt không cùng mà người ta sẽ
tìm ra hạnh phúc. Để có được
thái độ đúng,
cần thiết phải học
nhận diện sự có mặt của
tham muốn trong mình và
chấp nhận nó – sự đè nén không phải là một
giải pháp – mà không hiến dâng cho nó cả thể xác lẫn
tâm hồn.
Nếu
tham muốn là không cùng, đó chính bởi vì mạch nguồn của nó
cũng thế :
tham muốn phát xuất
từ tâm thức mà
bản thân tâm thức thì
thoát khỏi mọi
giới hạn, mọi định nghĩa theo
không gian hay
thời gian.
Tham muốn chỉ là một
hiện tượng phụ, một
biểu lộ của
tâm thức ; nếu người ta muốn
thoát khỏi sự chuyên chế của nó, phải đi ngược lại đến nguồn cội, bởi vì không phải chăm sóc cho những
triệu chứng một căn bệnh mà người ta có thể chữa lành
nguyên nhân gây bệnh.
Chúng ta hãy biết
nhận diện chính xác con cọp
gieo rắc kinh hoàng trong cuộc sống
chúng ta : không phải là
bản thân tham muốn, mà chính là
tâm thức làm phát sanh
tham muốn một cách
liên tục. Không có cái gì có thể dùng để đè nén một cách
hệ thống tất cả những
tham muốn ; có lẽ người ta
sai lầm khi tin rằng
giải thoát được khỏi chúng,
cho đến một ngày nào tất cả những
tham muốn bị dồn nén này nhảy lên trên bề mặt với sự hung dữ còn mạnh hơn.
Vô ích khi cắt những cỏ dại trong vườn, chúng sẽ
tiếp tục mọc
chừng nào người ta chưa nhổ sạch gốc. Thế nên chỉ có một cách để ra khỏi
tình trạng không
thỏa mãn thường trực mà
tham muốn ném
chúng ta vào :
chế ngự con cọp
tâm thức này
chừng nào nó còn không biết
bản tánh thật sự của nó.
Sẽ
sai lầm khi nói rằng
chúng ta không có sự
điều phục tâm thức nào, vì
chúng ta đều có một
hiểu biết về một quá trình tập sự dài lâu. Thật vậy có
một thế giới kinh nghiệm giữa em bé khóc oa oa
theo bản năng thuần túy và người lớn
chúng ta : người ta đã thâu hóa mọi cái
cần thiết cho sự sống của
con người, rồi cuộc sống trong
xã hội. Lớn lên, người ta học tự biết chính mình ít nhiều và
xử sự với chung quanh
tốt hơn. Trong một nghĩa nào, người ta đã bắt đầu một ít huấn luyện con cọp, nhưng rất bề mặt, vì người ta chưa thấy tận mặt nó.
Bản chất hoang dã của nó vẫn không được
chế ngự,
tuy nhiên người ta có thể làm cho nó
chấp nhận tạm thời, một
thỏa hiệp ngấm ngầm và
giới hạn, chẳng hạn
như không ăn thịt những người trong vườn nhà
chúng ta : một loại
quy ước chừng mực nó không đặt
vấn đề với sự
thống trị của con cọp.
Người ta không thể
hy vọng thuần dưỡng một con cọp mà không biết khía cạnh
hoang dã của
bản chất nó ; như thế sẽ nguy hiểm cũng
như không hiệu quả. Sự việc như vậy cũng đúng với
chúng ta :
cần phải tự thấy mình và tự
chấp nhận như mình là vậy.
Tố cáo,
buộc tội toàn thể thế giới là
nguyên nhân của những
rắc rối khó khăn của
chúng ta thì chẳng có nghĩa gì cả : đến một lúc nào người ta phải tự nhìn mình mặt đối mặt và đảm trách chính mình như mình thực sự là, toàn khối,
không ma mãnh chọn lựa giữ lấy cái
hình ảnh mà người ta thích thấy về chính mình và
che dấu mọi thứ còn lại. Người ta không thể ném tất cả những thứ mình không thích vào một bao rác và dấu nó vào một góc : cái bao sẽ đầy ứ đến độ
nổ bùng. Sự dồn nén có
hệ thống không bao giờ là một
giải pháp, mà ngược lại : nó có thể thành một
nguyên nhân của tâm bệnh. Phải chơi
thẳng thắn với chính mình : người ta đặt tất cả lá bài của mình trên bàn – cái tốt và cái kém tốt, cái tốt nhất và cái rất
đáng ghét. Vâng,
chắc chắn đó không phải là những con bài
lý tưởng, những con bài người ta chọn lựa cho một ván
ngon lành ; mà đấy chỉ là những cái người ta thật sự có trong tay, và chính đối với chúng mà ta phải chơi phần mình, dù có ra sao. Dù sao, không có ai khác làm điều đó nơi chỗ ngồi của bạn, và chính bạn phải sống trò chơi đó trong bàn tay.
Người ta bắt đầu
trưởng thành khi thôi tạo những
ảo tưởng và
chạy theo những
giấc mộng hão huyền, thôi cho những
tham muốn của mình là những
thực tại. Người ta có
nhận xét đơn giản : “Tôi là thế đó ; điều này không làm tôi khoái, nhưng đó là tất cả những gì tôi có.
Tốt hơn tự
xoay xở để rút ra phần tốt nhất có thể có từ cái trò chơi khập khiễng này.” Nếu người ta có thể tự
chấp nhận mình như người ta là vậy, người ta sẽ có thể
chấp nhận mọi cái còn lại – những người khác,
thế giới,
cuộc đời. Dù sao, không có cái gì là
mãi mãi lý tưởng : mỗi thời, mỗi
hoàn cảnh đều có những khó khăn của nó : tuổi nhỏ,
thiếu niên,
trưởng thành và
tuổi già.
Vậy thì không phải là
nổi loạn với
hoàn cảnh của
chúng ta mà sự việc trở nên
tốt hơn : nguồn của
hạnh phúc và khổ đau không nằm ở đâu khác ngoài chính mình, người ta đã thấy điều đó. Khi
chấp nhận hoàn cảnh như nó là, người ta
tác động lên
thực tế của những sự việc, thay vì bì bõm trong những
ý niệm thành kiến. Phần lớn thì người ta không thể thay đổi gì cả những
hoàn cảnh, vì chúng
độc lập với
ý chí của
chúng ta. Cái mà
chúng ta có thể thay đổi chính là cách
phản ứng của
chúng ta.
Nếu người ta không
hiểu lầm,
chúng ta không đang
tán dương cho sự
thụ động ! Có một sự
quân bình giữa sự không
hoạt động có
hệ thống và sự
hoạt động cưỡng bách : sẽ là
ngu si nếu không cải thiện cái có thể làm, nhưng cũng
vô ích để
hết thời gian
chạy theo những
điều kiện lý tưởng của cuộc sống mà dù sao cũng chỉ
hiện hữu trong đầu óc
chúng ta : danh từ “lý tưởng” chẳng phải đến từ danh từ “ý tưởng” sao ?
Ý thức rõ ràng hoàn cảnh con người và những
giới hạn của nó, người ta
chấp nhận chúng.
Tiếp theo, người ta đối mặt với cái hàng ngày theo cách tốt nhất người ta có thể mà không chờ đợi
thế giới phù hợp với những
tham muốn hay những
ước mong của
chúng ta. Đã biết chỗ của con cọp và
ý thức bản chất hoang dã của nó, người ta sắp học cách nuôi dạy nó.
Dù người ta
so sánh tâm thức không
trưởng thành với một con cọp hay một con ngựa hoang, như Gurdjieff ví von, thì những nguyên tắc nuôi dạy vẫn như nhau : người dạy phải
tìm thấy chỗ ở giữa của cái
quá độ bắt buộc và
quyền uy, và quá
tự do, như
chúng ta sẽ thấy
chi tiết khi nói đến sự phát triển
chú tâm. Nhưng cũng phải
yêu thương nó,
biểu lộ thiện cảm với nó,
nếu không nó không để cho
chúng ta nuôi dạy. Chắc hẳn người ta biết rằng con cọp chịu
trách nhiệm về mọi
vấn đề khó khăn của
chúng ta,
nếu không người ta chẳng cần huấn luyện nó làm gì. Nhưng không phải với sự
cau có gắt gỏng và
hiềm oán mà
chúng ta nuôi dạy nó ; phải
tỏ ra thông hiểu,
chấp nhận nó như nó là, với những phẩm tính và những khuyết điểm của nó, và tiềm năng người ta
cảm thấy nơi nó. Như vậy,
chúng ta biết rằng
chính tâm thức
chúng ta là nguồn của
tham muốn,
nguyên nhân của sự không
thỏa mãn căn để và những khổ đau của
chúng ta. Điều đó không có nghĩa là người ta
cảm thấy phạm tội và tự
trừng phạt mình, mà chỉ là có được đủ sự nắm quyền trên
tâm thức để không gây ra những khổ đau cho riêng mình nữa, chứ chưa nói đến những khổ đau của người khác. Phải
tỏ ra thông cảm với chính mình. Loại
chấp nhận với
tình thương này phát xuất từ lòng bi, một trong những động cơ
chính yếu của sự
tiến bộ tâm linh, như người ta sẽ thấy, và chính
trước tiên với chính mình mà người ta
áp dụng lòng bi đó : sự
nhân từ có
trật tự phải bắt đầu từ chính mình... Rồi nhờ
kinh nghiệm có được khi
thuần hóa con cọp của mình, người ta sẽ hiểu sự
cần thiết tất yếu
biểu lộ cùng một lòng bi ấy và cùng một sự
thông cảm ấy đối với những người khác.
Sự nuôi dạy con cọp bên trong là một công việc dài hơi mà người ta không thể dấn mình sơ sài. Đó không phải là có một kỹ thuật ngoại quốc, như một đồ vật đẹp người ta để trong tủ kính, giữa những chiến lợi phẩm và những bộ sưu tập khác.
Trái lại, người ta
chấp nhận ngừng sưu tập, chơi đùa và đi
quanh co để nhìn thẳng vào mắt con cọp. Để tự nhìn mình. Người ta có thể
hoàn toàn có
văn hóa và bằng cấp, và có một huyết thống
tốt đẹp về nghề nghiệp, nhưng điều đó không khỏi có lúc họ thấy
hoàn toàn không có vũ khí và bất lực đối mặt với những
vấn đề của cuộc sống
cá nhân, bởi vì
kiến thức và những
danh hiệu cuộc đời không
ích lợi gì lắm trong việc
thuần hóa con cọp bên trong. Đó là cả một nghệ thuật, nó đòi hỏi nhiều
kiên nhẫn và
kiên trì để
tìm ra chỗ con cọp, nhiều
can đảm và khôn khéo để giáp mặt với nó, nhiều
sáng suốt để nhìn rõ nó và học cách
nhận biết nó. Phải
luân phiên chuyển đổi cách êm dịu rồi mạnh mẽ, theo từng lúc, nhưng luôn luôn đầy đủ sự
kính trọng và
tình thương để tạo thành những mối
liên hệ bạn bè
với nhau và để cho con cọp
chấp nhận người dạy nó và điều người dạy muốn làm với nó. Một ngày kia nó sẽ được
thuần hóa đến nỗi người ta sẽ tự hỏi làm thế nào mà người ta đã có thể sợ nó như vậy...
CHƯƠNG II
GIÁ TRỊ CỦA ĐỜI SỐNG :
ĐỜI NGƯỜI QUÝ GIÁCũng hiếm hoi như một ngôi sao giữa ban ngày,
Cuộc đời làm người quý giá như vậy.
Gampopa
(Trang Hoàng của sự Giải Thoát)Phẩm chất của cuộc sống là một trong những
quan tâm lớn lao của những
xã hội hiện đại giàu có nhất, những
xã hội nơi đó có những
ưu thế được cái bụng đầy để đòi hỏi làm sao làm đầy nó
thoải mái hơn. Để
biết điều đó
chính xác là gì, đó là một chuyện khác, vì mỗi người
giải thích nó theo cách riêng.
Tuy nhiên người ta rút ra
cảm tưởng chung về một
ý chí muốn sống
tốt hơn,
lợi dụng tốt hơn những khả tính mà
đời sống ban cho. Trong
ý nghĩa đó,
quan niệm “phẩm chất đời sống” đã
quen thuộc với
chúng ta có thể giúp
chúng ta tiếp cận với
quan niệm “đời người quý giá”, một
quan niệm Phật giáo chúng ta chưa quen. Nhưng sự giống nhau không đi
xa quá : những
giá trị mà người ta
theo đuổi khi nói đến phẩm chất
đời sống không phải như nhau với những
giá trị ẩn dưới
ý tưởng một đời làm người là
quý báu.
Khi người ta
lưu tâm đến phẩm chất
đời sống, người ta
mặc nhiên nhận ra giá trị của những sự vật nào đó : giản lược một cách
thô thiển, người ta thích – và cứ mãi – luôn luôn trẻ, đẹp,
thông minh, khỏe mạnh,
giàu có, được yêu và
sung sướng, trong một môi trường
dễ chịu, yên lành.
Vậy thì người ta có một
ý nghĩ nào đó về cái quý giá, nhưng tiếc thay, người ta lại cho một mớ tạp nhạp là
kim cương. Hầu hết những sự vật mà
chúng ta cho là
đáng giá đều phù du và dễ vỡ
kinh khủng, thế mà người ta đầu tư
năng lực lớn lao cho sự
theo đuổi một cái gì cũng không thể nắm bắt như cầu vồng.
Ý tưởng phẩm chất
đời sống trở thành một nguồn
thất vọng thường xuyên khi người ta biết rằng người ta không thể làm cho nó
vững bền. Thế mà người ta để suốt cả
cuộc đời mình mong
đạt đến đó.
Đấy
rõ ràng là một cách nhìn vào
hiện hữu, nhưng nó
giới hạn đáng kể tiềm năng của
chúng ta. Tổng quát nếu mọi
nỗ lực của một
cuộc đời chỉ dùng để sống
tiện nghi càng nhiều càng tốt, người ta cũng không hơn gì một con côn trùng hay một con thú.
Đời sống như vậy bị hạ giá, so với những khả tính mà
cuộc đời một người đàn ông hay đàn bà mang lại. Một
con người có thể rút được phần tốt nhất của sự
hiện hữu của nó, về
phương diện phát triển
cá nhân cũng như sự đóng góp cho sự phát triển của
nhân loại. Đó không phải là một phẩm chất
giả thiết đem lại
giá trị cho
đời người, đó là tiềm năng
kinh khủng mà
đời người mang giữ. Mỗi người
chúng ta giàu có những
tài năng và phẩm chất và chính khi phát triển tốt nhất những khả tính của chúng mà người ta
tìm thấy hạnh phúc và đóng góp tốt nhất vào
hạnh phúc của người khác. Chỉ một người
thành tựu chính mình, những
lợi lạc từ người đó tuôn trào trên tất cả những người khác. Vả lại, người ấy càng
không chấp thủ và
vị tha trong đường tiến của mình, thì càng có nhiều người hưởng
lợi lạc từ những kết quả trong
nỗ lực của người đó. Không phải
ngẫu nhiên mà
cuộc đời và những lời dạy của Phật, của Chúa hay của
Tiên Tri Mahomet đã gây
cảm hứng, đã hướng dẫn và giúp đỡ bao nhiêu người qua các
thời đại. Ngoài lĩnh
vực tâm linh, những
con người như khoa học như Pasteur hay Edison cũng có một đóng góp rất
giá trị cho
nhân loại. Nếu
mọi người không hẳn được kêu gọi đến một số phận như vậy, thì mỗi người
vẫn có thể
nỗ lực để phát triển tốt nhất tiềm năng của mình, để tự
thực hiện theo
bản chất của mình.
Tốt đẹp biết bao nhiêu khi
đạt được một sự làm chủ
tâm thức đủ để không còn là
nguyên nhân cho những khổ đau
của riêng mình và của những người khác. Và một khi người ta đã học cách
thu xếp những
vấn đề của mình, người ta có thể thật sự giúp đỡ những người khác
thoát khỏi những
vấn đề của họ.
Chính khi nuôi dạy con cọp bên trong mà người ta có thể biến
đời người thành cái gì thật sự
quý báu.
Chắc chắn chúng ta tự do không
sử dụng tiềm năng này và cứ
ngoan cố chạy theo mống cầu vồng ; người ta sẽ giống như một người ăn xin đói rách chìa tay xin trong khi ngồi ngay trên một đống vàng. Ngược lại, người ta kiếm được tất cả khi
điều phục tâm thức : người ta sẽ
tìm thấy trong đó một phẩm chất
bình an bên trong nó sẽ
chuyển hóa một cách
hạnh phúc cuộc đời và những mối tương quan của người ta với những người khác.
Bình thường, nếu có ai
nổi giận với ta, ta có khuynh hướng làm cùng một việc như vậy. Nhưng khi người ta dấn thân vào việc
điều phục con cọp, người ta không để cho con cọp đó
tức thời chụp lấy cổ của người khác nữa, dầu
chính y đã tấn
công chúng ta. Người ta có sự
nhẫn nhục không
phản ứng một cách
bản năng và biết
tình trạng rối rắm của người kia đang tệ hại khi không
chế ngự nổi mình. Khi
hiểu rõ, người ta thậm chí có thể
biểu lộ một sự bi mẫn nào đó đối với kẻ
rõ ràng đang còn rất khốn khổ trong những
vấn đề khó khăn của y, và như vậy rất
bất hạnh so với
chúng ta, những người bắt đầu – và rất
dịu dàng – thấy
mọi việc rõ ra.
Nếu
toàn bộ đời người là có
giá trị, thì người ta càng biết rút
lợi lạc từ đó, nó càng có
giá trị hơn. Rất tốt
nếu có thể tự
đảm đương một mình, không là
gánh nặng cho những người khác. Nhưng
đời sống có thể mở ra một chiều hướng khác khi người ta
quyết định thay vì tự
giới hạn trong việc
gỡ rối cho chính mình, người ta thử giúp đỡ những người khác
thoát khỏi rối rắm của họ. Một
cuộc đời như thế quả thực là
quý báu vì nó
phụng sự cho số lượng đông người, không chỉ cho một
cá nhân. Và người ta càng biết dùng đời mình, nó càng
phong phú giàu có và có
giá trị. Đấy cũng giống như bình điện của một chiếc xe hơi càng được sạc điện khi người ta lái xe nhiều, và sẽ
không hữu dụng nếu xe luôn luôn ở trong ga-ra. Người ta chẳng mất gì khi rút được
lợi lạc lớn nhất từ
cuộc đời mình,
trái lại người ta càng ngày càng trích chiết được
sức mạnh từ nó.
Có lẽ người ta đặt ra câu hỏi là khi
vị tha, người ta có
bỏ quên an vui
lợi lạc của mình không.
Chúng ta hãy
rõ ràng điều đó : có một
lý tưởng vì người khác không có nghĩa là chểnh mãng sự chăm lo cho chính mình. Không phải vì cớ giúp đỡ những người khác mà phải thôi
ăn mặc đúng cách,
lơ là hình thức bên ngoài hay
sức khỏe mình ; như thế người ta chỉ làm cho những người
lân cận báo động và
lo âu – một cách giúp đỡ họ thật buồn cười... Không
cần phải hy sinh và
hành hạ mình để làm những điều
tốt đẹp cho những người khác. Một khi người ta có thể tự
đảm đương một cách
đúng đắn, người ta có thể dùng những
sức mạnh,
tài năng, và những tài nguyên
bản thân để
phục vụ cho người khác, để giúp đỡ họ bằng sự
tốt đẹp nhất của mình, không
ưu đãi cho ai, không loại trừ ai.
Chắc chắn người ta không
cảm thấy tức khắc một tình cảm về lòng bi
trùm khắp vũ trụ, nhưng người ta có thể thử vươn đến đó. Trong
giả thiết tệ nhất, điều đó sẽ giúp ta
ít nhất là không rơi vào sự
trói buộc của thói
ích kỷ.
Để làm cho đời mình thành “quý báu”, người ta không cần trở nên một người tử đạo ; chỉ cần biết
quan tâm đến cái gì khác với
con người nhỏ bé của mình. Người ta có thể
lợi lạc từ
cuộc đời ;
đơn giản, người ta sẽ tránh dấn mình vào những
lạc thú có thể
đe dọa sự
toàn vẹn cơ thể hay
đạo đức của mình, hay sự
toàn vẹn của những người khác, như
ma túy, hút thuốc hay uống nhiều rượu.
Cũng xứng đáng
chịu khó suy nghĩ một lát về
giá trị của
đời người, người ta không luôn luôn thấy rõ
giá trị đó bởi vì người ta
đánh giá thấp sự hiếm có của nó. Có lẽ hơi lạ lùng khi nói đến sự hiếm có trong khi
thế giới có hơn ba tỷ người ! Phải hiểu sự hiếm có đó theo
nghĩa tương đối : con số người trên hành tinh này
hoàn toàn là
thiểu số so với số lượng
thú vật và côn trùng ở khắp
mọi nơi. Chỉ cần nhớ đến những con nòng nọc lúc nhúc trong một cái ao nhỏ, hay những
đám mây muỗi trong bầu trời
mùa hạ là hết
nghi ngờ về điều này.
Con người thuộc về một
thiểu số trên hành tinh này, và hơn nữa, một
thiểu số được
đặc ân : khác với loài có lông, nó không
hoàn toàn nằm dưới sự
thống trị của một
quyết định luận sinh học hay môi trường. Nó được phúc bẩm một khả năng
suy nghĩ và một
ý chí tự do cho phép chọn lựa : chẳng hạn
quan niệm cuộc đời nó khác với một
lịch sử đơn giản của sự
thỏa mãn những nhu cầu và sản sinh loài giống.
Đời người là hiếm hoi ở nhiều mặt : trong
liên hệ với những
hình thức sống khác trên hành tinh
chúng ta, và trong tương quan với mức độ
tự do cho
cá nhân chọn lựa
cách sống mình thích. Đó là cái làm cho
đời người có
giá trị riêng biệt. Nhưng nó trở nên thật sự “quý báu” khi có một ai đó
quyết định thực hiện tiềm năng
con người của nó, điều mà trong tương quan với
toàn thể nhân loại còn lại, cũng hiếm hoi như thấy một ngôi sao
giữa ban ngày. Theo sự
phán đoán này, người ta
chắc chắn sẽ
đánh giá cao sự
may mắn của
cuộc đời làm người và người ta
cảm thấy được động viên hơn để
thực hiện tiềm năng của nó.
Thật
vô ích khi
điên cuồng lên nếu người ta có
cảm tưởng rằng đời họ chẳng đáng gì trong lúc này và những
cứu cánh của nó không có gì
rõ ràng. Những khó khăn và khổ nhọc trong đó người ta đang vùng vẫy
hiện giờ không nên làm cho
chúng ta quên cái tiềm năng mà người ta đang mang trong
bản thân mình, bởi vì chính từ đó người ta sẽ
tìm thấy những
phương cách để
giải quyết những
vấn đề của họ và đem đến sự đóng góp, dù khiêm tốn, vào
thế giới người ta đang sống. Phẩm chất thì quan trọng hơn số lượng. Chẳng hạn, sự
tốt đẹp mà người ta có thể làm không
tùy thuộc duy chỉ vào số tiền được đưa vào : có thể
thực hiện những việc lớn lao với rất ít tiền bạc, khi người ta biết dấn thân với tấm lòng và sự
thông minh, như công việc kiểu mẫu của mẹ Teresa hay của
tu viện trưởng Pierre, trong khi người ta vẫn thấy luôn luôn có hàng triệu đô la được đầu tư vào những
công trình đem lại sự
sai lầm hơn là điều
tốt đẹp. Vậy chớ để cho mình nản lòng khi có
cảm tưởng mình chẳng có gì lớn lao để dâng tặng cho
thế giới ; điều đó sẽ
trở thành một nguyên cớ cho sự ù lì
bất động, trong khi một việc nhỏ mà người ta làm với tấm lòng và sự
thông minh sẽ đem đến những kết quả tốt.
Một khi người ta
hiểu rõ giá trị của
cuộc đời mình, người ta không phải chờ đợi những
điều kiện giả thiết lý tưởng hội tụ đầy đủ để làm một cái gì đó.
Cuộc đời và phẩm chất của nó
tùy thuộc vào
chúng ta, và chính bây giờ mà điều đó xảy ra, trong cuộc sống hàng ngày : trong tàu điện, trong
văn phòng, trong bếp, trong một phòng nhỏ
tu viện, ở bệnh viện hay trong tù.
Mọi người đều có cái gì để cho ; hãy dừng lại để
tìm thấy đó là cái gì và làm thế nào để
thực hiện – một trong những
cứu cánh của việc nuôi dạy con cọp.
CHƯƠNG III
CHỈ MỘT CÁI THƯỜNG HẰNG :
SỰ VÔ THƯỜNGNhư những vì sao, sương mù và ngọn lửa,
Những ảo ảnh, hạt sương và bong bóng nước,
Như những giấc mộng, tia chớp và những đám mây,
Những hiện tượng hợp tạo như vậy, và tôi học nhìn thấy chúng như vậy.
Lời cầu nguyện của truyền thống KagyupaTỉnh thức về
vô thường, về sự
mong manh nội tại của
mọi vật, là một giai đoạn
cần thiết của sự phát triển của
chúng ta. Nếu người ta
lơ là với sự thực này, người ta sẽ chỉ làm chậm sự
tiến hóa cá nhân của mình, dù cho người ta có biết tiềm năng của
trí huệ người ta đang mang trong
bản thân. Thế nên
trước tiên phải
tìm hiểu vô thường này là gì, để học đối mặt với sự hợp tạo không thể tránh được của
đời sống và
tiếp theo áp dụng một cách có ích sự
hiểu biết này vào cuộc sống hàng ngày.
Vô thường là một
hiện tượng phổ quát
tác động lên mọi mặt của
hiện hữu. Người ta có thể chẳng hạn
xem xét những
hậu quả của nó trong môi
trường vật chất của
chúng ta – tất cả những cái là đối tượng của
tri giác chúng ta. Mỗi năm mỗi mùa
liên tục nối tiếp nhau, mỗi mùa có những thay đổi đặc trưng : sự
chuyển đổi của nhiệt độ, dài ngắn của ngày đêm,
phong cảnh thiên nhiên. Những thay đổi ấy không thể tránh, dù có thích mùa hè, cái lạnh
mùa đông cũng tới. Không ích gì
mơ mộng cái không thể.
Tốt hơn là thử nếm hương vị và vẻ
kiều diễm của mỗi mùa. Và chu kỳ cứ thế lại bắt đầu.
Vô thường hoạt động khắp nơi, vì tất cả thay đổi không ngừng nghỉ một khoảnh khắc. Đối với người biết
nhận ra nó, thậm chí có một vẻ đẹp vĩ đại trong sự
biến chuyển thường hằng này.
Sự
chuyển biến cũng
cảm thấy trong
cuộc đời chúng ta. Giàu hôm nay có thể chuyển sang nghèo ngày mai và ngược lại. Người ta
mất việc làm, rồi kiếm lại chỗ khác, chủ rồi thợ, thợ rồi chủ. Không có cái gì
bất động.
Đời sống bên trong và những tình cảm của
chúng ta cũng không
thoát khỏi những cơ chế của
vô thường.
Tính khí chúng ta thay đổi không ngừng từ sáng đến tối ; có những sự việc người ta
thích thú nhiều, những cái khác người ta e ngại, những cái khác người ta
thản nhiên. Nhưng cách gì đi nữa,
trạng thái tâm thức chúng ta bập bềnh
xao động với điều xảy ra quanh
chúng ta. Chẳng hạn chỉ cần gặp một người bạn
xa cách nhiều năm, thế là có niềm vui. Rồi phút
tiếp theo, thấy một người mình ghét đi đến, điều đó đủ làm
chúng ta đảo ngược hẳn lại. Để biết
tâm thức chúng ta hiện giờ giống cái gì,
chúng ta hãy tưởng tượng một con khỉ bị nhốt trong một căn nhà trống, nó không ngừng
nhảy nhót mọi phía và chạy đến hết cửa sổ này đến cửa sổ nọ để xem cái gì xảy ra ngoài kia. Như con khỉ, những xúc tình của
chúng ta không ngừng
cử động, không ngừng ném
chúng ta từ những đỉnh cao xuống những vực sâu và ngược lại.
Không có gì
thường hằng. Người ta sinh ra, lớn lên, đến trường, làm việc, già đi và sớm hay muộn cũng
chấm dứt bằng cái chết. Vài ba vòng nhỏ rồi đi mất.
Cuộc đời trốn thoát từng khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác mà người ta chẳng làm gì được. Và khi cái chết đến : phải
từ bỏ tất cả :
gia đình, bè bạn,
tài sản, những sự vật người ta giữ. Một số người
kinh hoàng, hay
tuyệt vọng khi chỉ nghĩ đến nó, và thế nên
văn hóa Tây phương cố công giãy dụa để
thoát hiểm khỏi câu hỏi
căn bản này, lấy cớ rằng nói đến nó là một việc
bệnh hoạn. Đó hầu như một điều húy kỵ, đến nỗi cả danh từ cái chết thường được ngụy trang : người ta thích nói “người ấy đã
từ bỏ chúng ta” hơn là “nó đã chết”. Một
phản ứng tự vệ vừa tức cười vừa
vô ích, bởi vì nó
tuyệt đối chẳng thay đổi được gì trước
vô thường.
Tốt hơn là nhìn những sự việc ngay thẳng mặt : tiến trình
biến dịch là không
tránh khỏi,
chúng ta hãy
lợi dụng nó để rút ra cái tốt nhất có thể từ những năm còn lại, không làm con đà điểu
vùi đầu vào cát và sống như người ta có cả
vĩnh cửu trước mặt mình. Ai lại không
cảm thấy sự mãnh liệt mà người ta đang sống từng khoảnh khắc vào giờ phút chia tay hay một cuộc ra đi
gấp rút : lúc đó người ta
ý thức mạnh mẽ
thời gian được tính như thế nào, và thường vào lúc đó người ta nói
với nhau hay làm những điều mà một cách
vô thức hay không, người ta luôn luôn muốn kéo dài. Đó là giờ của
sự thật – sự
biểu lộ là
đúng lúc ; chỉ còn ít
thời gian để
cuối cùng người ta đến cái
chính yếu, đến cái
tuyệt đối không thể cho qua trước khi rời xa. Không làm cho
tình thế nặng nề hay khó nhọc, tình cảm khẩn cấp này, nó thật ra chỉ là một
ý thức tức thời và sắc bén về
vô thường, đã cho một cường độ, một
sự thật và một sự
giàu có bất ngờ vào tình huống. Sự cảm nhận tính
vô thường,
tính cách độc nhất của khoảnh khắc người ta đang sống, làm mạnh thêm
tri giác về cái gì đang
trôi qua và
chuyển biến những sự vật tầm thường nhất. Đó cũng như luôn luôn là lần đầu tiên,
đồng thời là lần
cuối cùng. Hãy tưởng tượng rằng bạn biết rằng tất cả những cây cối trên trái đất sẽ chết hết trong một tháng hay vài tuần. Ngay khi
nghe tin này, bạn sẽ nhìn những cái cây với một con mắt mới ;
thình lình cái bóng màu lục
mơ hồ này mà
thói quen khiến bạn thu vào một cách tự động hầu như
vô thức sẽ tự rõ nét một cách
phi thường. Bạn sẽ thấy cây dầu ở góc đường, hay cây ổi trong vườn bạn như bạn chưa từng bao giờ thấy nó : bạn sẽ
tri giác sự hòa điệu tổng thể của nó,
hình dáng những chiếc lá, cách dệt của vỏ, kiến trúc của thân và những cành, tiếng
xào xạc của lá, sự
hiện diện nhẹ nhàng, bóng mát, những con chim nhỏ trú ngụ ở đó. Không gây
sợ hãi,
ý thức về sự phù du, sự
mong manh của sự vật và
con người làm cho bạn cảm kích hơn và gợi ra sự
kính trọng,
tình thương,
lòng bi mẫn. Biết bao đôi cặp thường
cãi nhau không thể khuây nguôi khi cái chết hay sự rời xa của một người khiến họ cảm thấu được chiều sâu của một tình cảm mà họ đã thường
lơ là không trau dồi, bởi vì họ đã sống như thể họ có cả
vĩnh cửu trước mặt. Khi người ta chết, tất cả
mọi người đồng thuận chỉ thấy những phẩm chất của người ấy, dù họ không ngừng bị
chỉ trích khi còn sống.
Tán dương họ và
thương yêu họ khi họ còn đó không
tốt hơn là cái tên
sau khi chết sao ? Hiểu
vô thường có thể giúp
chúng ta việc đó. Không chán nản và làm mình
bệnh hoạn,
trái lại nó gây
cảm hứng cho
chúng ta sống
trọn vẹn hơn và giúp đỡ tất cả những bạn
đồng hành mong manh này trên trái đất làm được như vậy.
Thời đại chúng ta khao khát sự rỗi rãnh, thường xem đó là cơ hội tốt nhất để
thỏa mãn sự
tham muốn. Trong khi người ta tràn ứ sự rỗi rãnh – ít nhiều
thỏa mãn – người ta để
con người bên trong mình
chết đói. Người ta
thích thú với tất cả ngoại trừ có một sự làm chủ nào đối với
tâm thức của họ, cái
sức mạnh man dã này – bao giờ mà
sức mạnh đó chưa tự biết chính nó –
tuy nhiên chính nó là động cơ của mọi
kinh nghiệm của
chúng ta. Và nếu người ta có nghĩ đến, người ta hỗn nó đến
vô hạn định.
Rõ ràng tất cả
chúng ta đều cần thư giãn và
vui chơi một ít, nhưng điều đó không phải là người ta phải
lưu tâm đến mọi cái
phóng dật.
Ý thức vô thường có thể cho
đời sống vị muối ; người ta sẽ muốn
lợi dụng tối đa
thời gian của mình và dùng nó theo cách tốt nhất, thay vì để nó
trôi qua một cách
ngu xuẩn, không biết đến
giá trị của nó.
Ý nghĩa thật sự của
vô thường luôn luôn bị hiểu sai. Một số người thử
giải thích nó có hơi
hư vô chủ nghĩa : vì mọi sự thế nào cũng qua đi, thì không có gì quan trọng cả. Ích gì mà làm việc và theo một nghề nghiệp ; không
tốt hơn là
buông bỏ hết cả sao ? Đó là một
thí dụ hoàn hảo của việc bẻ quặt một
chân lý căn bản để biến nó thành một cớ cho sự biếng, nhác, để tránh phải đương đầu với những
thực tế của
đời sống. Nếu người ta phải đi giặt và người ta tự nhủ : “Hơi đâu, biết đâu ngày mai tôi chết”, người ta
chắc chắn sẽ
tiến bộ nhiều trên
con đường lười biếng, mà chẳng bao nhiêu trên
con đường trí huệ.
Ý thức về
vô thường không có nghĩa là bỏ công
việc làm hay việc
học hành của mình ; chỉ
đơn giản là
nhận thấy những
sự kiện, biết rằng tất cả là sự
biến dịch mãi mãi.
Nghe nói đến
vô thường không phải là một
lý do để
sợ hãi hay có những
phản ứng thái quá ; sự
hiểu biết này
trái lại phải được dùng để làm cho
cuộc đời chúng ta có
giá trị. Người ta có thể
quan sát rõ ràng tình trạng biến dịch thường hằng của
đời sống, mà vẫn
tiếp tục thương yêu đời sống và hân thưởng nó.
Vô thường không phải luôn luôn là một
tin tức xấu, nó cũng có mặt tốt : nếu
hạnh phúc không tồn tại mãi, thì sự
bất hạnh cũng không
vĩnh cửu. Khi hết
hạnh phúc, người ta
bất hạnh ; và người ta trở nên
hạnh phúc khi hết
bất hạnh. Đi từ
trạng thái này qua
trạng thái kia xảy ra
tự nhiên. Không phải hãm lại sự chuyển động và biết nắm lấy những sự vật như chúng đến,
chấp nhận chúng như vậy, dù cho những xúc tình chúng khơi dậy nơi
chúng ta. Mỗi khoảnh khắc của
đời sống là
độc nhất vô nhị và không bao giờ
trở lại nữa, và người ta có thể làm giàu lớn lao
kinh nghiệm sống của mình bằng cách không
lẩn trốn bất cứ phần nhỏ nào của
kinh nghiệm. Một số thì khó nhọc, số khác
dễ chịu, nhưng mỗi cái có kết cấu và màu sắc riêng của nó, và người ta sẽ được nhiều khi không lẩn tránh chúng.
Đã rõ
bản chất vô thường của tất cả mọi
hiện tượng, trong và ngoài
chúng ta, người ta thôi
gán cho chúng một
hiện hữu vững chắc. Người ta càng làm cho
ý tưởng mà người ta tự tạo trên những sự vật
vững chắc bao nhiêu, người ta càng khổ đau bấy nhiêu khi chúng thay đổi, vì chúng tất yếu phải thay đổi. Nếu người ta có những
ý tưởng chấp cứng, người ta sẽ có khuynh hướng có những
tham muốn và ghét bỏ
rõ ràng và mạnh mẽ và chọn lựa những
kinh nghiệm của mình theo những
ý tưởng thành kiến, nắm lấy cái làm mình
ưa thích và chối bỏ cái còn lại. Nhất là người ta sẽ từ chối rằng những sự vật
biến đổi và người ta cố
chống lại điều đó.
Hoàn toàn thất bại,
rõ ràng thôi. Nhưng khi người ta bị nhốt kín trong một
thái độ ngưng đọng như vậy, chính những
phiền não sẽ dẫn dắt người ta : cứ không ngừng đi từ cực này sang một cực khác, và người ta tự làm cho mình bất ổn và mất sự
quân bình bên trong. Từ đó là sự quan trọng của việc học bớt bám níu – vào những sự vật, những
con người và điều người ta làm – bằng cách
chấp nhận sự thật của
vô thường. Bao giờ nó cũng
hiện hữu, dù người ta muốn hay không, thì
tốt hơn là bơi theo dòng chảy : người ta sẽ có lợi từ
sức mạnh đẩy tới của nước, thay vì
vật lộn với nó.
Tất cả
chúng ta đều có khuynh hướng nghĩ rằng người ta nên kiếm lợi từ
cuộc đời và từ những
tham muốn của mình, và rồi người ta sẽ có nhiều
thời gian để
suy nghĩ sau này.
Thời gian trôi đi,
tâm thức chúng ta không
chế ngự được
tiếp tục xỏ mũi dắt
chúng ta đi và người ta lại hỏi tại sao người ta khổ. Trong thời đó,
mặt trái nợ nần đi theo và không có gì
bảo đảm cho
chúng ta rằng ngày mai sẽ
tốt đẹp khi người ta trì hỗn tất cả cái gì làm cho người ta
phiền muộn. Dù sao đó là một tính toán tệ hại : người ta không
lập tức lo toan cho
tâm thức mình, lấy cớ rằng người ta muốn không bỏ qua
thời vận tốt và
lợi dụng cuộc đời.
Vậy mà chính
tình trạng hoang dã của
tâm thức chúng ta ngăn cản chúng ta thật sự
lợi dụng được
đời sống và nó làm
chúng ta phí phạm đời sống vì những trò
điên cuồng không
kiểm soát được của nó và những
thiệt hại mà các trò đó gây ra. Chẳng phải là do sự tính toán kiểu
khoái lạc chủ nghĩa này, người ta thích học thuần dưỡng con cọp của mình càng nhanh càng tốt sao ?
Chúng ta hãy biết nắm lấy
ân sủng khi nó đến : điều này không có nghĩa là người ta luôn luôn có cơ hội hay khả năng từ đó.
Một
tri giác lành mạnh về
vô thường có lẽ là món quà tốt nhất mà người ta có thể làm cho chính mình : trong ngắn hạn để
đánh giá tốt hơn những mặt
tốt đẹp của
hoàn cảnh hiện thời của mình, không quá bám níu, và để xem những mặt xấu với nhiều triết lý hơn, thậm chí những sự việc xấu nhất cũng có một
cứu cánh. Về dài hạn, để không
chậm trễ với cái không thiết yếu và đi trực tiếp đến cội nguồn của những sự vật bằng cách
thuần hóa con cọp bên trong của mình. Như thế người ta
thường có được nhiều khi đối mặt với một số
sự thật thanh tẩy cho mình...
CHƯƠNG IV
SỐNG ĐỂ CHO CÁI GÌ ?
“ĐỘNG CƠ CHÂN CHÁNH”Mong rằng tất cả chúng sanh được hạnh phúc và tìm thấy những nguyên nhân của hạnh phúc,
Được miễn khỏi khổ đau và nguyên nhân của khổ đau,
Rằng không ai thiếu hạnh phúc chân thật – mọi khổ đau dứt bặt,
Và họ luôn luôn cảm nghiệm sự bình đẳng vĩ đại không biết luyến ái những người thân, không ghét bỏ những người khác.
Bốn Đức Hạnh Vô LượngBài kệ này dùng làm lời
cầu nguyện và
tham thiền, xác định
thái độ thích hợp khi người ta muốn dấn thân vào
con đường hiểu biết bản tánh thật sự của sự vật. Nếu
hình thức của nó hơi khó hiểu, nhưng
thông điệp của nó
hoàn toàn rõ ràng và giản dị. Mỗi
chúng ta vốn có trong mình
tinh túy của sự
toàn thiện – cái
tột bực của
trí huệ và
tình thương này có thể gọi là “Phật tánh”, “tâm giác ngộ”, hay Chúa Trời bên trong theo
quan điểm Thiên Chúa giáo – nhưng
chúng ta không biết nó. Chính sự không biết này, cái
vô minh này – sự không nhìn ra
bản tánh thiết yếu của
tâm thức và
thực tại – làm cho những
tư tưởng, những
lời nói, và những
hành vi của
chúng ta rất thường trái nghịch với
thật tánh bên trong của
chúng ta và tạo thành một loại sương mù càng lúc càng che mờ nó và
ngăn cản nó được
tri giác.
Vậy thì có một sự tiến hành phải làm để đi từ
trạng thái tâm thức hiện thời của
chúng ta đến
trạng thái “giác ngộ” – sự
nhận biết thật tánh của mọi sự. Cuộc
du hành có thể dài, có lẽ với một số người hơn là với những người khác, nhưng cái
chính yếu là thật sự có những
phương tiện cho phép thành tựu một cách
trọn vẹn cái tiềm năng của
một đời người. Lời
cầu nguyện trích ra ở đây chỉ cho
chúng ta vừa
mục đích của cuộc
du hành –
trạng thái tâm thức người ta
tìm cách trau dồi – và
hành trình của nó – những
phương tiện để dùng.
Trong
thuật ngữ Phật giáo, có một “động cơ đúng” cốt ở mong muốn
hạnh phúc và sự
tốt đẹp cho tất cả, mong muốn họ
tìm thấy bình an và
thoát khỏi những
nguyên nhân của khổ đau. Đó là một
tham vọng cao cả, một nguồn
cảm hứng trong những giờ phút
tốt đẹp cũng như
xấu số.
Chắc chắn lời
cầu nguyện này nhắm rất cao, nhưng có lợi khi định nghĩa
rõ ràng, ngay từ bước
khởi hành, những
mục tiêu sẽ còn
giá trị và
phù hợp với mỗi giai đoạn của cuộc
du hành.
Bây giờ có nhiều người
quan tâm đến
thiền định, nhưng thường vì những động cơ tò mò. Phần còn lại của
nhân loại có thể đang sống trong lửa và máu hay chết vì đói, như người bên cạnh của họ đang chết vì
cô đơn, họ không
cảm thấy quan tâm. Tất cả cái mà họ chờ đợi từ
thiền định là một
phương tiện để vinh danh hơn cho
bản ngã của họ : họ muốn
trở thành những người có
thiên nhãn, xuất hồn đi
du hành, có mọi loại
thần lực siêu nhiên.
Tổng kết : cái ta mập ù ra một cách êm ả trong khi tấm lòng héo úa. Còn về phần
trí huệ thì... Sự phát triển
cá nhân và
tâm linh không cốt tạo ra những
kinh nghiệm dị thường, mà ở chỗ học
tâm thức mình
vận hành như thế nào và ở
quan tâm nhiều hơn đến những người khác. Nếu đôi khi người ta có vài
kinh nghiệm đến với mình, thì chúng không đáng để người ta lần lựa,
chậm trễ với chúng, trong mức độ chúng chỉ là một sự
sa ngã của những kỹ thuật điều
tâm thức mà không phải là một
mục đích tự thân – chưa nói đến
chướng ngại trầm trọng mà chúng có thể tạo ra nếu người ta bám luyến quá nhiều vào chúng.
Một
ý tưởng sai lầm khác là thấy trong
thiền định một
phương tiện, hay một sự
biện minh để tự cắt đứt với phần còn lại của
xã hội. Một
thái độ như vậy cho thấy có cái gì khập khiễng trong động cơ : người ta
tìm cách sử dụng thiền định để
duy trì và
củng cố sự
căm hờn của họ đối với
xã hội.
Nếu
hạnh phúc là một
trạng thái thường hằng và người ta không bao giờ cảm nghiệm những khó khăn hay khổ đau, có lẽ người ta không cần
tiến bộ về
tâm linh.
Thực ra, những
vấn đề và những khó nhọc người ta
chạm mặt hết ngày này qua ngày khác là
hậu quả của
vô minh chúng ta về những cơ cấu
vận hành của
tâm thức và về
bản tánh của nó. Chính vì thế người ta cần một
con đường, một
hành trình, và trong
nhận định này mà
chúng ta phải phát
động lực dấn thân vào chiều hướng này.
Hiếm khi người ta hành động mà không có động cơ : chính sự phát động của
chúng ta thúc đẩy chúng ta hành động. Nếu trời lạnh, người ta đốt lửa để sưởi ấm,
rõ ràng người ta không khó nhọc như vậy nếu người ta không lạnh. Trong chiều hướng này, người muốn
tìm ra một công việc tốt sẽ không
ngần ngại theo đuổi một sự huấn luyện
lâu dài và khó khăn để
đạt được. Và cũng như thế trong mọi lĩnh vực : trước hết phải
cảm thấy có
động lực để có
ý định hành động và để sẵn sàng
nỗ lực. Điều này cũng đúng với với
thiền định. Phải được phát động một cách nghiêm túc để phóng mình vào một công việc đòi hỏi
nỗ lực khổng lồ về phần mình : phải có một
lý do thật sự xứng đáng với khó nhọc. Đó là
trường hợp mà
chúng ta trù định ở đây : người ta sẽ không tự
giới hạn vào một
dự định cá nhân, mà thấy những sự việc lớn lao hơn. Vào cuộc chơi, người ta hiến mình trong
mục tiêu chính là giúp đỡ những người khác : người ta muốn
chế ngự con cọp bên trong, không chỉ để tự sống
tốt hơn, mà cũng bởi vì một khi người ta làm chủ
tốt hơn tâm thức mình, người ta sẽ có thể thật sự
ích lợi cho những người khác – giúp đỡ theo nhu cầu đích thực của họ mà không phải theo những phóng tưởng
ích kỷ của
chúng ta. Người ta đặt thanh ngang rất cao, nhưng
tốt hơn luôn luôn nhắm cao hơn một chút, phải tính đến sự
yếu sức của
chúng ta. Một khi
mục tiêu này được xác định
rõ ràng và được
chấp nhận, nó sẽ định hướng tất cả
cuộc đời chúng ta, hơi giống như một từ trường tổ chức, sắp xếp những
yếu tố phân biệt thành một
toàn thể cố kết. Một
ý tưởng như vậy sẽ thổi
sức mạnh của nó vào tất cả những gì người ta sắp
suy nghĩ, nói hay làm. Chỉ giữ trong tâm
ý định ban đầu cũng đủ để cho những lo toan bận rộn nhỏ nhất hàng ngày của
chúng ta góp phần hòa vào
mục tiêu của
chúng ta. Khi động cơ này rất mạnh,
biên giới giữa cái thường tục và cái
thiêng liêng tan biến và không còn sự phân tán
năng lực nữa : dù người ta làm việc, chăm sóc con cái hay
thiền định, từ nay tất cả đều góp phần vào sự
thực hiện mục đích của
chúng ta.
Người ta có thể
cảm thấy những
lý tưởng vừa được gợi ra đó là hơi vượt cao : “Ích gì khi thử rút cái gì đó
từ tâm thức mình ? Làm sao tôi sẽ có thể
hy vọng thay đổi khi tôi có tham và sân chốt cứng trong thân ?”
Trái lại, đó là
lý do hơn nữa để
triệt để tận cùng. Nếu người ta có thể nhìn thấy những sự vật theo cách
trong sáng và
tích cực, mở mình ra với những người khác và luôn luôn hành động trong
ích lợi của họ, người ta sẽ ở trong
trạng thái đại bi tự nhiên vốn có và người ta không cần tập sự. Khi một
thái độ như vậy chưa là tự phát, phải làm việc trên động cơ của nó, động cơ này là nền tảng
cần thiết của nó. Người có
thái độ tự lo cho mình trước hết thì không luôn luôn
tự nhiên nghĩ đến những người khác.
Vậy thì một phản xạ
cần phải được
giáo dục và
nuôi dưỡng, dầu cho
ban đầu nó có vẻ hơi giả tạo. Khác đi, ích gì nói đến lòng bi nếu ít ra người ta không có
ý muốn giúp đỡ những người khác ? Chính điểm
khởi hành cần thiết này mà người ta nói là “động cơ đúng” : có
ý định giúp đỡ những người khác, không phải chỉ những người mà ta yêu mến.
Vào lúc này,
chắc chắn có một điều làm
chúng ta lưu ý :
thoát khỏi những khổ đau riêng của
chúng ta – một tình cảm rất
tự nhiên. Vả lại người ta có thể đến đó không cần
thiền định, ít ra với
danh nghĩa tạm thời. Nhưng ở đây
chúng ta nói tới một
tham vọng lớn lao hơn rất nhiều : thay vì chỉ lo cho những
tham muốn riêng của
chúng ta, sự an vui
hạnh phúc cá nhân của
chúng ta, không
lưu tâm gì đến cái có thể xảy ra cho những người khác, người ta sắp
tìm cách khai triển nơi
bản thân một tình cảm đích thực của sự
nhân từ và bi mẫn đối với tất cả
mọi người. Người ta sẽ thử trau dồi
nuôi dưỡng thái độ tích cực này bằng mọi
phương tiện và trong mọi cơ hội, và vẫn chú ý “không bước nhanh quá trước âm nhạc”. Mỗi sự có lúc của nó : một khi có thể có một
thái độ tích cực hơn đối với chính mình, người ta sẽ có thể trải rộng ra đến những người thân cận, rồi
dần dần càng lúc càng đến những người khác.
Tất cả
tiến bộ tâm thức thật ra bắt đầu bằng một công việc trên chính mình, và quan trọng phải biết công việc đó.
Trước tiên phải học tập trở nên
tự chủ, tự
đảm đương chính mình để không là
gánh nặng cho những người khác. Những
trách nhiệm và những khó khăn của họ sẽ nhẹ bớt bao nhiêu, và họ sẽ có một
không gian nào đó của
tự do cho chính họ. Dù sao, không ích gì khi đặt cái cày trước con trâu : người ta có thể làm nhiều cái
xấu hơn cái tốt khi
tìm cách giúp đỡ một ai trước khi đã
hiểu biết một ít người ta tự
vận hành mình như thế nào – một người mù dẫn dắt một người mù khác. Đó là cái người ta gọi là lòng bi
trói buộc,
giới hạn, nó không được
nuôi dưỡng bởi
trí huệ.
Rõ ràng phải biết bơi để có thể cứu người sắp chết đuối, còn không thì
tai hại cho cả hai.
Cũng thế, người ta chỉ có thể giúp đỡ thật sự những người khác – hơn những việc
phục vụ nhỏ nhặt
đơn giản hàng ngày – khi người ta đã
thuần hóa tâm thức mình và biết
quản lý khổ đau cũng như
hạnh phúc.
Cũng phải biết
tỏ ra một cảm thức
lành mạnh nào đó để không rơi vào sự
sốt sắng thái quá. Rất tốt khi muốn giúp đỡ những người khác, nhưng như thế không có nghĩa là phải không ngừng
quấy rối họ để
ép buộc họ nhận sự giúp đỡ bằng tất cả sức mình, dù họ có muốn hay không. Ngược lại, cũng không phải khó nhọc đợi
đạt được sự
toàn thiện rồi mới có ích. Đó là
vấn đề của cảm thức
lành mạnh, của
lương tri : người ta phải tìm một
biện pháp trung đạo, biết đầu tư
năng lực của mình với sự
tinh tế và
thông minh. Người ta không
cần phải là một
đại thánh để có thể mang giùm những cái bao bị của một
bà già đi đứng khó khăn, hay giúp bà
bước lên xe buýt hay để biết rằng
tốt hơn là không
dự phần vào những
cãi lộn của những người hàng xóm. Với một chút
trông nom cẩn thận, người ta có thể có ích, khi chờ đợi một ngày người ta sẽ biết hành động một cách
hoàn toàn trong sạch và tất cả điều người ta làm sẽ tự động
tốt đẹp cho những người khác. Trong
thời gian đó, người ta có thể ít ra thử làm ở mức độ tốt nhất, nhờ những khả năng
hiện thời của họ. Dầu việc đó không
rốt ráo, đó là một
phương tiện để làm sâu thêm sự
hiểu biết những sự vật và những
con người và làm
vững chắc động cơ của họ – ít ra đó là một
thái độ nó sẽ đổ ra lòng bi đích thực về sau.
Lòng nhân ái
chỉnh tề bắt đầu từ chính mình, người ta
trước tiên học
biểu lộ lòng bi đối với chính mình, trước khi có thể
áp dụng nó cho những người khác. Có lẽ vài người cho rằng người ta có thể miễn giai đoạn
trung gian này nếu người ta đã tự
cảm thấy có thể
thương yêu và
nhân từ với những người khác. Nhưng nếu quả đúng là đôi khi có những
liên hệ sâu xa và mãnh liệt giữa vợ chồng, anh em hay giữa bạn bè, thì
tình thương đích thực
chúng ta nói ở đây nhằm khiến cho
chúng ta có thể
thương yêu mạnh mẽ bất kỳ ai. Những
xã hội hiện đại có một
quan niệm kỳ quặc về
thương yêu : người ta dễ dàng yêu – bạn bè, tình nhân, hay thậm chí những vật người ta có – nhưng
tình thương yêu này có cái gì chật hẹp và
giới hạn, bởi vì
căn bản là
ích kỷ và
sở hữu. Hẳn rằng không có gì xấu khi
yêu thương bạn bè và
gia đình mình,
trái lại đó luôn luôn là điều tốt, vì đó là điểm
khởi hành để khai triển
tình thương thật sự. Nhưng nếu người ta giữ sự
đặc biệt của những yêu mến của mình cho những người đó, người ta sẽ chỉ rèn thêm những xiềng xích. Những mối
liên hệ của người đó luôn luôn có
hai mặt : chúng có thể làm ngạt thở cũng như khích lệ.
Thế nên
tốt đẹp là thử
không giới hạn
tình thương và lòng bi vào một
phạm vi những người nào, vì sẽ
thiệt hại cho tất cả những người khác. Dễ dàng để cho mình
xúc động bởi những người nghèo và người đói, nhưng có lẽ người ta sẽ khó
cảm thấy lòng bi đối với những người
sung túc và được
nuôi dưỡng no đủ.
Vậy mà những người này cũng có khổ đau riêng phần họ, có lẽ kém
rõ ràng hơn, vì khổ đau ấy thuộc về
tâm thức hơn là thân xác, nhưng không hề kém nặng nề khổ nhọc : những
lo âu, những
căng thẳng,
sợ hãi mất mát sụp đổ chẳng hạn.
Điều đó
đơn giản muốn nói rằng mỗi người đều có những
vấn đề riêng và những khổ đau riêng của mình, và phải học
cảm thấy cùng phẩm chất lòng bi cho tất cả, giàu hay nghèo, trắng hay đen – bất cứ ai. Một
con đường tiến bộ như vậy có thể
chuyển hóa cuộc đời chúng ta : người ta sẽ
cảm thấy sung sướng hơn và
quân bình hơn, và tất cả những ai bao quanh
chúng ta cũng sẽ được
thọ hưởng một cách tự động sự bừng nở trong
chúng ta một lòng bi hiến tặng
rộng rãi cho tất cả. Cái gì đến trong một người trong
chúng ta sẽ tự động
ảnh hưởng mọi người khác. Về
cá nhân, người ta sẽ thấy tiềm năng và những
năng lực của mình
tăng trưởng : người ta sẽ đến chỗ tự đầy đủ với chính mình hơn và ít cần đi kiếm sự trợ giúp và
an ủi của những người khác. Nhưng chú ý không bị cái đầu cứng lừa gạt và rơi vào cái bẫy của
kiêu ngạo !
Người ta có thể bị
thử thách nghĩ rằng một sự dấn
thân tâm linh như vậy đưa
chúng ta vào một giới
thượng lưu – những người hơi tách biệt một tí, hơi cao hơn
cộng đồng người thường. Vậy chớ
bỏ quên cái thấy rằng nếu
chúng ta tiến hành một bước đường như vậy, đó chính là để
chúng ta phụng sự cho những người khác, mà không phải để cho
chúng ta được họ
phụng sự : điều này đã được xác định lúc
khởi hành. Không phải vì người ta thử làm nảy sinh nơi mình lòng bi mà phải tự cho mình là một loại vua chúa hay hoàng hậu nào đó xứng được nằm dài nghỉ ngơi và để người khác nuông chiều. Sự
kiêu mạn thực là một
chướng ngại tệ nhất mà người ta có thể gặp trên
con đường phát triển bên trong. Tại sao tự tin là mình cao hơn những người khác, với
lý do người ta đã
tiến hóa một chút, và
coi thường những người khổ đau hay đang trong
mê lầm, như thể họ mắc bệnh dịch hạch. Sự hạ cố này
trái lại là bằng chứng
chúng ta còn rất nhiều khoảng đường để đi ! Khiêm hạ là một
đức hạnh cốt yếu ; hơn nữa, không thể có lòng bi
chân chính nếu không có nó. Nếu người ta
thành thật trong đường đi
tâm linh của mình, người ta phải sẵn sàng
chứng tỏ nó bằng những hành động, không
ngần ngại trả bằng giá của
con người mình.
Sự
tiến bộ cốt ở phát triển cái tiềm năng nó là
của riêng chúng ta, trong khi vẫn khiêm tốn và
nhân từ.
Dĩ nhiên, không có gì
hoàn toàn và người ta có thể tự lừa dối mình. Nhưng đó không phải là một
lý do để tự
trừng phạt mình và để cho mình bị che phủ bởi những
sai lầm của mình. Cái cốt yếu là làm
hết sức mình,
hoàn toàn giản dị,
thành thật, nhờ những khả năng của mình. Sự
hối tiếc càng có một
vai trò tích cực bằng cách giúp
chúng ta làm mạnh thêm
quyết tâm, thì càng
vô ích để mình bị bào mòn bởi những
hối hận không ngừng chúng chỉ có thể ngăn trở sự phát triển
tốt đẹp của
chúng ta.
Việc đầu tiên cần làm khi
mở mắt ra vào buổi sáng là nhớ lại sự dấn thân của mình : “Tôi muốn rằng tất cả mọi sự tôi sắp làm, nói hay nghĩ hôm nay phải
ích lợi cho những người khác.” Lòng bi phải
trở thành sợi dây truyền dẫn và điều khiển
cuộc đời chúng ta, vì nếu người ta mất nó, người ta sẽ tự đóng lại
con đường của sự
tiến bộ đích thực –
tâm linh và
cá nhân. Lòng bi không phải là sự
thương hại hay hạ cố, đấy không phải là một tình cảm nước mắt
giả vờ hay nước
hoa hồng như một số người tưởng tượng. Đó là
tình thương yêu trong tất cả
uy quyền của nó, thoát ngoài mọi
trói buộc của những
biệt đãi và những loại trừ mà
bản ngã đặt lên nó. Đó là một
sức mạnh vĩ đại có thể làm sập núi, chẳng hạn như
câu chuyện một người đàn bà Mỹ đã
một mình nâng lên một chiếc xe hơi đang đè đứa con mình
chứng tỏ. Khi người ta được phát động bởi lòng bi, người ta mang trong mình một kho tàng
năng lượng không hề cạn kiệt. Đó là cái
đối trị tuyệt đối đối với sự
mệt mỏi và nản lòng : khác với những
sức mạnh vật lý và
sinh khí dễ dàng cạn kiệt, lòng bi là một nguồn
năng lượng thường trực được làm mới lại bởi sự mong muốn giúp đỡ những người khác – “bổn phận
trách nhiệm cháy bỏng” này luôn luôn được hừng hừng bởi
vô cùng những nhu cầu và khổ đau. Một khi một ngọn lửa như vậy làm bạn
sống động, sự
năng động của lòng bi
nâng đỡ bạn không ngưng nghỉ và không vơi cạn, ngày này sang ngày khác suốt
cuộc đời bạn. Quả là hơi khó tưởng tượng, trừ khi người ta có dịp gặp một một ví dụ sống về chuyện đó – và nó luôn luôn có. Ngọn lửa người ta thấy trong mắt mẹ Teresa hay
tu viện trưởng Pierre chẳng hạn, vừa là một dấu hiệu vừa là một khích lệ : mỗi
chúng ta đều có cái tiềm năng này của
tình thương và có thể làm những
điều kỳ diệu nhờ nó.
Người ta có thể
so sánh động cơ
chân chính với một cành cây ghép. Hiếm khi một sự ghép cành thành ngay cú đầu tiên : phải làm nhiều lần để việc đó
thành công. Sự làm thử
ban đầu có lẽ có những bước
giả vờ : làm sao đòi hỏi giúp đỡ những người khác khi phần nhiều những tương quan của
chúng ta được gợi thành từ bám luyến hay ghét bỏ ?
Tuy nhiên, dù sự dấn thân của
chúng ta vẫn còn chỉ trên
ngôn từ, ít ra nó cũng có
lợi lạc là không làm hại một ai. Nhưng
chúng ta chớ quên rằng động cơ này được ghép cành trên cái tiềm năng lòng bi nó luôn luôn ở nơi
chúng ta, để cho động cơ đó được
biểu lộ qua một khả năng thật sự
thương yêu những người khác. Và động cơ
chúng ta càng mạnh,
năng lực của lòng bi càng dẫn nước tưới cho
cuộc đời chúng ta.
Cho đến khi
trở thành hoàn toàn tự nhiên và luôn luôn sẵn sàng
vận động – một
bản chất thứ hai.
CHƯƠNG V
ĐỐI MẶTChớ vui thích khóc than cho số phận mình !
Bảy Điểm Tu Tâm của AtishaGiữa khoảnh khắc người ta gặp đạo lần đầu tiên và giờ phút
tâm thức thức tỉnh hoàn toàn trong sự
trọn vẹn những phẩm chất
tự nhiên của nó, cuộc
du hành có thể
lâu dài và gian khổ. Nếu người ta trù tính một cách nghiêm túc để ra đi, phải
suy nghĩ đến sự tổ chức
thực tiễn của cuộc
du hành của mình. Chẳng hạn, chỉ nói : “Tôi muốn đi từ
Việt Nam sang Ấn Độ” thì không đủ để đến đó. Phải chọn một
phương tiện chuyên chở – xe hơi, xe lửa hay máy bay và khó nhọc tổ chức
hành trình. Nếu người ta không
cố gắng một chút
cần thiết khi
khởi hành, người ta không bao giờ đi đến đâu cả, và người ta sẽ cứ
giam hãm trong nhà mình – và
thất vọng.
Khi muốn đi đâu, phải xác định điểm
khởi hành của mình,
phương tiện di chuyển và
hành trình của mình, rồi phải ra đi. Điều đó cũng đúng với sự
du hành tâm linh :
mục đích của nó là đưa ta đến chỗ sống một
cuộc đời hoan hỷ hơn và bừng nở hơn,
đồng thời hữu ích hơn cho những người khác, và điểm
khởi hành là cái
đời sống bình thường hàng ngày của
chúng ta. Cái hàng ngày đầy dẫy những
sự kiện đủ mọi loại tạo thành nguyên liệu cho công việc
tâm linh, bởi vì chính qua sự đa dạng của những
kinh nghiệm mà người ta có thể học và
tiến hóa.
Đời sống hàng ngày là một mỏ những bài học của
trí huệ ban cho những ai muốn học chúng, bất kể
trình độ giáo dục hay
văn hóa.
Bài học đầu tiên
chắc chắn cốt ở quên đi những
thói quen xấu của
chúng ta. Người ta có khuynh hướng lẩn tránh hay bỏ lơ những
vấn đề đặt ra cho
chúng ta trong môi trường
xã hội, nghề nghiệp hay
gia đình, như thể người ta thử
che dấu sự không
thỏa mãn và khổ đau mà người ta
cảm thấy nơi mình. Nếu người ta muốn
thành thật với chính mình, người ta sẽ bắt buộc
nhận ra rằng trong một nghĩa nào đó người ta vẫn còn tập đánh vần trong việc
quản lý những khó khăn của cuộc sống hàng ngày. Có lẽ người ta thích
thực hành những kỹ thuật
thiền định ngoại lai trong
hy vọng ngày nào có thể khinh thân hay bay lên, trong khi chắc hẳn
ích lợi hơn nếu
trước tiên học đứng vững trên đôi chân của mình. Một số người tự
đánh giá đã nhiều
tiến hóa, nghĩ rằng họ chẳng cần gì một lời
giáo huấn, khuyên bảo, trong khi một cách
vô thức họ tái sản xuất không ngừng cùng những bản in như nhau trong cuộc sống và luôn luôn tự tạo cùng những khó khăn. Thế nên ở đây
chúng ta nhắm đến
mục tiêu chính yếu là học
chấp nhận và
điều hành những tình huống thông thường của
cuộc đời hàng ngày. Người ta không thể chờ đợi những
tiến bộ thật sự trước khi biết rằng người ta cần một sự tập sự như vậy.
Đã hiểu sự
cần thiết của một
con đường, còn phải
lên đường. Trong
một thế giới
lý tưởng, có lẽ có thể ăn ở một cách
tiện nghi, một điếu xì gà trong tay, một ly rượu vang trong tay kia, bao quanh bởi những cô nàng lộng lẫy hay những tình nhân nồng nhiệt, và
thanh thản chờ đợi
tâm thức tỉnh dậy một mình.
Thực tại không phải cũng mộng mơ như vậy : người ta chẳng đến đâu cả
nếu không có một
cố gắng tối thiểu. Không có
giấc mộng nào, không có
ám ảnh hoang đường nào có thể
che chở cho
chúng ta khỏi những khổ đau đang chờ đợi
chúng ta nếu
chúng ta không học đối mặt với cái hàng ngày bằng cách bình
định tâm thức
chúng ta.
Vậy người ta cần xét xem những
phương tiện để
thực hiện cuộc
hành trình tâm linh. Việc đầu tiên là
thuần hóa tâm thức mình để có một căn cứ
vững chắc từ đó người ta có thể
tiến bộ. Đó là
căn bản. Thiếu một căn cứ như vậy, người ta sẽ không thể
lợi dụng đầy đủ cơ hội hãn hữu cho sự phát triển mà
cuộc đời làm đàn ông hay đàn bà mang lại.
Điều phục tâm thức là một
ưu tiên tuyệt đối : đối với chính mình, bởi vì đó là cách
duy nhất để học
điều hành một cách
tích cực tất cả những gì
cuộc đời mang lại cho
chúng ta, bằng cách dùng mọi chất liệu của cuộc
hiện sinh để làm sanh trưởng trong chính mình
trí huệ và lòng bi. Nhưng cũng đối với những người khác, bởi vì một trong những
mục tiêu chính của sự nuôi dạy
tâm thức là thu hoạch lòng bi, cái cho
chúng ta có thể giúp đỡ người khác, không
phân biệt chúng sanh nào.
Một khi căn cứ này đã được lập, người ta sẽ có thể
tiến hóa một cách
xây dựng nhưng
tiệm tiến, vì người ta không thể đốt giai đoạn. Dù người ta có
thành công trong nghề nghiệp hay trong
xã hội, phải
chấp nhận rằng người ta chưa thật
tiến hóa trên bình diện làm chủ
tâm thức – những
xúc động, những
tư tưởng, những tình cảm của mình. Nếu người ta cần
chế ngự tâm thức mình, đó là bởi vì bao giờ người ta còn sợ mất cái người ta có – tiền bạc, đồ vật, người thân, chưa nói đến chính
cuộc đời mình – thì người ta còn khổ đau. Phải bắt đầu bằng sự bắt đầu.
Hãy tưởng tượng bạn
tìm ra một cục
kim cương nguyên sơ ; nếu bạn biết mài giũa đẽo gọt, bạn có thể phát giác tất cả vẻ đẹp của nó và làm thành một đồ trang sức huy hoàng. Nhưng nếu bạn không làm chủ một cách khéo léo những kỹ thuật đẽo gọt, bạn sẽ làm hỏng hay làm vỡ nó, nó sẽ trở nên
vô dụng và không
giá trị. Những
thực tập và những kỹ thuật
thiền định được đề nghị ở đây là những công cụ
cho phép làm việc với viên
kim cương nguyên sơ là
tâm thức ; nếu người ta biết thao tác những dụng cụ đó khéo léo và
cẩn trọng, người ta sẽ gọt giũa và
đánh bóng nó để làm
hiển lộ tất cả sự
rực rỡ và
thuần khiết của nó.
Có lẽ không phải là một
viễn cảnh đặc biệt vui thích hay đầy khích lệ khi mỗi ngày
đối diện với những người bao quanh bạn và những
hoàn cảnh của
cuộc đời thường nhật. Người ta thích nghe nói rằng người ta chẳng phải làm gì và mọi sự sẽ tự dàn xếp, ổn định, như trong những phim của Hollywood. Người ta có thể luôn luôn
mơ mộng, nhưng chuyện đó chẳng tới đâu, người ta biết thế. Một ngày nào cũng phải bắt đầu nhìn thấy những sự vật như chúng là, và phải
chấp nhận chúng như vậy, nghĩa là rất tầm thường, đối với
đa số người.
Đời sống hàng ngày được tạo thành bằng
vô số sự việc rất
bình thường : mỗi ngày chưng cất một ít liều
bất hạnh hay
hạnh phúc nhỏ hay lớn. Đôi khi người ta
cảm thấy cả hai
cùng lúc : sự vật có thể vừa chua chát vừa ngọt ngào. Không phải
mùi vị của những sự việc là quan trọng, mà chính
sự kiện chúng xảy đến : đó là chất liệu thô sơ, nguyên phác của sự sống, cái mà người ta đối mặt.
Nghịch lý thay, chỉ có những
hoàn cảnh khó nhọc mới đặt
vấn đề với
chúng ta. Người ta có thể
cảm thấy lo âu ngay cả khi mọi sự tiến hành
tốt đẹp, bởi vì người ta sợ nó thay đổi. Người ta phải có thể hiểu và
điều hành, xử lý mọi cái xảy đến, dù tốt hay xấu. Đôi khi người ta sẽ bắt buộc uốn mình theo những
hoàn cảnh, trong khi những lúc khác có lẽ cần làm cái gì đó để
cải thiện chúng. Nhưng cách nào thì chính
chúng ta nắm những sự việc trong tay, không có ai làm điều đó thay chỗ
chúng ta, dù đôi khi người ta nhờ được sự
nâng đỡ và những khuyến khích của người khác.
Rốt cuộc, người ta là người độc nhất có thể làm cái gì đó cho chính
cuộc đời mình.
Một số người
tỏ ra thành thạo trong nghệ thuật lẩn tránh những khó khăn, và mỗi người
chúng ta có kỹ thuật
ưa thích của mình : thay đổi công việc hay địa chỉ, có một người tình, đổi vợ, lao đến y sĩ, ăn
mải miết những thẻ sô-cô-la hay để
thì giờ gọi điện thoại cho bạn bè. Người ta cũng có thể tự
ám ảnh hơn,
dính chặt với truyền hình, dùng
ma túy, ăn không biết no hay say sưa. Chẳng có cái gì
hiệu quả ; người ta đến mức không thể ngủ hay
suy nghĩ ; bỏ ăn bỏ uống và
cảm thấy bất hạnh như đã bị bệnh nặng. Thậm chí người ta có thể định tự vẫn, điều cũng
tiêu cực như giết người khác. Khi xem những
bất hạnh nhỏ là quá
trầm trọng, người ta có thể tự tạo ra những
buồn phiền thực sự và trở nên càng bất lực hơn trong việc
giải quyết chúng.
Khi tránh khéo hay
trốn thoát những khó khăn, người ta tự tạo một sự
xao lãng, khuây nguôi
nhất thời, nhưng người ta không thể
thanh toán chúng. Khi người ta bằng lòng chỉ làm điều mình thích và tránh mọi cái mình không thích, thì
trái lại người ta càng có thêm những
vấn đề rắc rối. Không nói đến những
tổn hại tâm
sinh lý mà việc đó gây ra, và sự
thống trị càng lớn của những
thói quen xấu người ta đã mang lấy và sau đó sẽ rất khó phá. Khi thả mình cho sự
yếu đuối, người ta còn
yếu đuối thêm và người ta
giảm bớt những cơ may
thoát khỏi những khổ đau.
Cần có một sự
thụt lui nào đó trong
liên hệ với những sự việc của
cuộc đời, và tránh những sự
thái quá của khắc khổ và
dễ dãi. Nếu người ta quá chặt chẽ và
nghiêm trọng, người ta có khuynh hướng luôn luôn
bi kịch hóa. Người ta mất đi bình dưỡng khí khôi hài. Ngược lại, nếu quá khinh suất và luôn luôn xem nhẹ, người ta sẽ sống trong
một thế giới
ảo tưởng. Cách nào đi nữa, người ta cũng sẽ bị cắt đứt khỏi những
sự thật hàng ngày và không
ý thức đến những tình cảm khởi lên trong
chúng ta, như khi người ta ở dưới đế chế của một xúc tình mãnh liệt –
giận dữ hay ghen tuông –, hay người ta
bị ám ảnh bởi
quá khứ hay tương lai. Vậy người ta không thể làm việc một cách
ích lợi trên chính
bản thân mình nếu người ta mất cái nhìn thấy
thực tại hiện tiền của những sự vật,
thế giới trong đó người ta đang sống.
Cho đến bây giờ, người ta cứ lo toan tìm
phương tiện để
trốn tránh những
vấn đề. Để
hàng phục tâm thức, phải
giáo dục lại và làm điều ngược lại : giáp mặt trực tiếp cái khó chịu hay nhọc nhằn với
chúng ta, và làm điều đó một cách
hiệu quả. Điều đó sẽ không thiếu
lợi lạc với
chúng ta,
ít nhất vì
chúng ta không phải điên đầu để sáng chế những
phương tiện để tự
trốn thoát mình ! Có lẽ người ta thậm chí sẽ
ngạc nhiên nhận ra rằng cái làm cho
chúng ta sợ đến thế, hay cái
xáo trộn chúng ta đến thế, rốt cùng không quá khủng khiếp, một khi người ta
quyết định nắm lấy sừng con bò tót.
Ý tưởng mà
chúng ta có đối với những sự vật và những
con người thường tệ hơn
thực tế của chúng...
Một khi người ta sẵn sàng
chấp nhận những sự việc
y như chúng là, tất cả mọi sự được
chuyển hóa, thậm chí cả những khó khăn hơn trong
cuộc đời. Bên ngoài, chẳng có gì thay đổi ;
tuy nhiên, tất cả đều khác, vì người ta đã tự mình thay đổi
thái độ. Khi người ta
chấp nhận nhìn tình huống như nó là, người ta tự biết làm sao để
đáp ứng với nó : chính những
hoàn cảnh cung cấp cho
chúng ta sự
chỉ dẫn khi
chúng ta không nhọc mệt làm méo mó chúng bởi những
thiên kiến tiên định của
chúng ta.
Trái lại, khi người ta làm con đà điểu
vùi đầu trong cát và không nhìn những sự việc thẳng mặt, luôn luôn trì hỗn chúng, tình huống
chắc chắn chỉ tệ hơn. Người ta phải học định giá những sự việc đúng theo
giá trị của chúng. Những sự việc có khó nhọc,
dễ chịu hay
hoàn toàn tầm thường, điều quan trọng là
nhận biết mỗi tình huống thật sự là gì. Không làm méo mó và làm
rắc rối nó bởi
hệ thống lọc ngoắt nghéo của những
phản ứng trí thức hay tình cảm của
chúng ta. Ngay khi những xúc tình trộn lẫn vào, tất cả
tri giác về tình huống của
chúng ta lập tức méo mó.
Thực tại mất dấu đằng sau sự
diễn dịch về những
sự kiện của
chúng ta.
Phải tiếc mà
nhận ra rằng, sống trong nền
văn minh hiện thời của
chúng ta,
chúng ta được trang bị quá kém để
chấp nhận những sự việc như chúng là. Trong khi đó một
tâm thức lành mạnh thì sống trong
một thế giới
lành mạnh, một
tâm thức an bình thì cảm nhận
thế giới an bình. Những bài
thực tập ở phần hai là để làm cho
tâm thức lành mạnh,
đẹp đẽ,
bình an và
hạnh phúc thay vì một
tâm thức bệnh hoạn để
chịu đựng một thế giới
bệnh hoạn,
đìu hiu,
hỗn loạn và khổ đau.
CHƯƠNG VI
CÁI GƯƠNGSanh từ luân hồi là khuynh hướng tìm thấy
những lỗi lầm nơi người khác.
NaropaNgười ta lầm địa chỉ khi tìm
hạnh phúc bên ngoài mình, người ta đã thấy điều đó. Người ta có đi du lịch đến đầu kia của
thế giới và nhân lên nhiều lần những
kinh nghiệm cho đến vô tận cũng
vô ích, người ta vẫn sẽ luôn luôn thấy những sự vật qua cùng một đôi mắt, vì người ta
tri giác thế giới theo cái mà người ta nghĩ và cảm nhận. Mỗi người có cách
diễn dịch riêng của nó về
thế giới trong đó nó đang sống.
Mọi
cố gắng sửa đổi thế giới cho
phù hợp với những
tham muốn và
hy vọng của
chúng ta đều đưa đến thất bại. Nếu trời mưa, người ta không thể làm gì và không phải vì người ta muốn thấy
mặt trời mà trời nắng.
Tuy nhiên, có một điều mà người ta có quyền thay đổi : sự khó chịu mà cơn mưa gây ra cho
chúng ta. Điều này không muốn nói rằng người ta phải tự tạo mọi mảnh của một nhân cách mới khác –
con người mà người ta có là đã quá đủ. Một cách
thực tiễn, điều này nghĩa là người ta cần một tấm gương để giúp người ta thấy đích xác người ta ở đâu, và phát giác cho người ta thấy những khía cạnh của nhân cách mình mà trên đó người ta cần làm việc.
Con người có một khuynh hướng
rõ ràng là sưu tầm những cái mặt nạ ; mỗi người thực sự có một mặt nạ cho mỗi
hoàn cảnh. Nếu người ta không biết người ta có cái đầu gì, thì
thực ra bởi vì người ta không bao giờ thực sự
quan sát nó một cách chăm chú. Chắc hẳn người ta thiếu sự
thụt lui để thấy nó
rõ ràng. Rồi người ta nhìn cái đầu của những người khác, và khi thấy một cái đầu đẹp, người ta mong cái đầu mình giống được như nó.
Tuy nhiên, có đôi khi mặt nạ rơi tuột đi, hay người ta đã quên mang nó, và trong khoảnh khắc ngắn ngủi, người ta
lập tức tự thấy mình nguyên dạng. Nói chung, sự
chấn động khiến người ta không
chịu đựng nổi. Người ta vội vã
che dấu điều người ta đã thấy và làm lại rất mau một mặt nạ mới. Người ta có
thói quen luôn luôn muốn
sửa chữa lại
thực tại để làm lại nó theo ý thích đến
độ người ta không
đảm đương cái thực sự người ta là. Trong
thời gian đó, khuôn mặt thật của
chúng ta đang hư thối dưới những mặt nạ, thiếu ánh sáng và không khí, và cũng bởi vì người ta không bao giờ nghĩ đến việc lau rửa nó.
Người ta có thể đến chỗ cho những người khác một
hình ảnh đẹp về mình, trong khi cái người ta dấu sau những mặt nạ cần một sự giảm xuống nghiêm túc. Vậy là người ta chông chênh khi cho
hình tướng bên ngoài
đặc quyền so với
thực tại, bởi vì chính cái người ta thực sự có nơi mình mới
quyết định phẩm chất những
kinh nghiệm và dòng sống của
chúng ta. Khi nào người ta còn
che dấu sự
thối nát dưới một sự điểm trang
hấp dẫn, người ta chẳng có
ích lợi gì nhiều cho chính mình hay cho những người khác, dù người ta
duy trì thành công một sự
giả bộ toàn vẹn.
Chính là sau cái mặt nạ mà người ta phải đuổi cái
ta ra khỏi sào huyệt để học
nhận biết nó. Tất cả
chúng ta đều có nhãn hiệu một “cái tôi”,
tuy nhiên thật hiếm người biết họ thực sự là gì. Chỉ cần người ta cho một cái gì nhỏ nhặt,
dư thừa – như một đồ chơi trẻ con vặt vãnh hay một mẩu bánh mì – để tự xưng là một
lương tâm tốt hay tự cho là một nhà
từ thiện vĩ đại, và người ta không thể quên
cử chỉ đó. Bấy giờ người ta
biểu lộ chứng quên lẫn
sâu xa đối với những cơn
ích kỷ hay với những trận
giận dữ. Và như vậy người ta tự
xây dựng một
hình ảnh sai lầm về mình để tự
củng cố, tự
an tâm. Tất cả
ý tưởng người ta tự tạo về mình đặt nền trên một sự
lừa đảo còn khó phá hơn khi chính người ta là
tác giả. Bởi thế tại sao người ta cần một tấm gương soi.
Đây là
lời nói về
vấn đề này của một trong những
vị thầy tâm linh vĩ đại của
Tây Tạng, Jamgon Lodro Thaye : “Khi tôi nhìn một số người
thực hành Phật giáo, họ
hoàn toàn có vẻ
tốt đẹp, nhìn theo bên ngoài : họ nói hay,
ăn mặc đúng, họ biết ngồi như một vị Phật. Nhưng khi tôi
quan sát khuôn mặt bên trong của họ, họ có vẻ của những con
rắn độc. Chỉ cần họ chạm phải chút khó khăn hay chút
chướng ngại nhỏ nhặt thì
tính khí đích thực của họ lộ ra ngay. Như con rắn có vẻ trơn láng và mềm mại trong khi luôn luôn sẵn sàng mổ, những người đó sẵn sàng gây gổ
đổ lỗi cho bất kỳ ai làm
chướng ngại họ.”
Không phải tự thân con rắn là xấu, nhưng sự
sợ hãi, thù hận và
vô minh đã
quy định nó phải giết mỗi khi nó
cảm thấy bị
đe dọa.
Chúng ta cũng hơi giống như vậy : cái
xấu người ta có thể thấy nơi mình là sản phẩm của
vô minh – sự
nhận biết sai lầm về
bản tánh thật sự của những sự vật.
Vậy thì người ta có thể, và người ta phải,
chuyển hóa vô minh này thành
trí huệ, bằng cách nhìn vào trong, xoay
tâm thức về trên chính nó. Điều này sẽ tự động
tác động lên những tương quan
lành mạnh hơn,
phong phú hơn với
thế giới bao quanh
chúng ta.
Điều trên có nghĩa quan trọng là
tỏ ra điều độ và
lương tri đối với cái mà người ta sắp khám trong gương. Để cho những
lỗi lầm, khuyết điểm được
che dấu thì chẳng
lợi ích gì, cũng không
hiệu quả và có hại khi chỉ thấy những mặt tốt của mình. Nếu người ta quá đặt nặng những
thói xấu, những lệch lạc của mình, người ta sẽ chìm trong
thất vọng và chán nản tất cả. Người ta phải có thể tự xem mình trong cái gương một cách khách quan, không
kết án điều mình thấy trong đó, và không muốn đập bể gương thành muôn mảnh. Ngược lại,
vô ích khi không biết đến những khuyết điểm hay đè nén chúng, điều chỉ làm chúng mạnh thêm khi luôn luôn đặt mình dưới
sức ép, sẵn sàng
bùng nổ trước một cơ hội nhỏ.
Vũ khí nguyên tử là một chuyện làm cho nhiều người trong
chúng ta tức giận,
tuy nhiên người ta không biết rằng
tâm thức chúng ta thường trực là chỗ ở của một loại
phản ứng nguyên tử. Mỗi ngày, cái “ta” sản xuất ra hàng triệu tấn
kiêu ngạo,
ghen ghét,
giận dữ,
tham muốn và thù hận, chúng
gieo rắc kinh hoàng và
căng thẳng ở mọi
phương vị và gây nên những
tổn hại khủng khiếp nơi ta và nơi những người khác.
Rõ ràng không phải chôn vùi những vũ khí nguyên tử xuống đất hay tự bằng lòng với
ước mong chúng biến mất mà người ta làm cho chúng thành
vô hại. Nếu người ta muốn hóa giải những
sức mạnh tàn phá chứa trong mình, phải
tỏ ra khôn khéo và
thiện xảo để
tháo gỡ và
triệt hạ chúng. Người ta phải kêu gọi
hiểu biết và
tình thương, cộng với khá
kiên nhẫn và không bám luyến. Không quên một chút thư giãn và khôi hài...
Điều người ta sắp
khám phá khi nhìn “tấm gương” sẽ rất
ích lợi cho
chúng ta để
thành tựu con đường tâm linh, nhưng quan trọng nhất là cái
trí huệ rất mới mẻ này không nằm trong
chữ nghĩa chết khô. Phải đem nó vào
kinh nghiệm của mình và
nuôi dưỡng thường trực nó trong cuộc sống hàng ngày. Nếu người ta không
áp dụng vào cuộc sống
trí huệ và lòng bi vừa
thức giấc trong mình, người ta sẽ chỉ có thêm một mặt nạ khác.
Một kỹ thuật chỉ có
giá trị nếu người ta có thể
áp dụng nó vào một tình huống
thực tiễn. Dù bạn có một
hiểu biết lý thuyết hoàn hảo về cơ khí, bạn cũng sẽ không thể sửa chiếc xe của bạn nổ máy
trở lại trước khi chính bạn bước vào
thực hành bằng cách thọc tay vào dầu mỡ. Những kỹ thuật làm chủ
tâm thức chẳng giúp gì bạn nếu chúng vẫn còn nguyên là những
lý thuyết trừu tượng ; chúng chỉ có
giá trị nếu
chúng hiện thân trong
thực tế hàng ngày và
nuôi dưỡng thực tế đó. Chẳng hạn có ăn nhập gì khi
trải qua một giờ
thiền định về sự ghen tuông để cố
thoát khỏi nó, rồi tức thì sau thời thiền, người ta lại
nổ bùng một cơn ghen tuông với vợ hay chồng chỉ vì một cái cớ nhỏ nhặt.
Người ta có thể
trải qua một đời thu thập sưu tầm những
giáo huấn đủ mọi loại với những
thiện ý tốt đẹp nhất cho
thế giới : chúng chẳng giúp gì nhiều khi người ta không
áp dụng chúng vào
hoàn cảnh cụ thể.
Sự giáo dục và khả năng
trí thức của
chúng ta có thể có một
ích lợi nào đó để
chúng ta hiểu cái gì xảy đến với
chúng ta trong đời sống hàng ngày và giúp
chúng ta quản lý nó. Nhưng
vô cùng quan trọng hơn là có một
tâm thức mở rộng, sẵn sàng
chấp nhận cái gì tự
xuất hiện và đối mặt với nó.
Tiến bộ tâm linh không phải là một
vấn đề trình độ trí thức hay và
văn hóa : ở
Tây Tạng không thiếu những người rất
đơn giản, họ không biết đọc không biết viết, đã
đạt đến một
trạng thái thức tỉnh hoàn toàn của
tâm thức.
Mỗi người đều mang nơi
bản thân mình tiềm năng của sự
thức tỉnh tâm linh. Nếu người ta thêm vào đó sự
phong phú lớn lao những
kinh nghiệm mà
chúng ta đều có, người ta có tất cả nguyên liệu
cần thiết cho sự phát triển
tâm linh,
miễn là người ta khai thác nó. Bởi vì người ta không dùng nó, thì cũng như nó không có gì cả ở nơi người ta. Một người
giàu có không biết cách dùng tiền sẽ có nhiều
vấn đề khó khăn hơn một người
đạm bạc biết rút phần tốt nhất có thể từ mỗi đồng xu. Một ví dụ khác : hãy tưởng tượng rằng bạn muốn nổ máy chiếc xe hơi của bạn. Nó không nhạy : bình ắc quy hết điện. Bạn có hàng trăm bình ắc quy để thay đổi trong ga-ra, nhưng bạn cũng quên sạc chúng. Tất cả tiềm năng
năng lượng mà bạn có là
vô ích, vì không được dùng, và bạn chẳng thể chạy đi. Từ đó là sự quan trọng phải nghiêm mật và
lợi dụng cái người ta đã vốn có.
Trở lại tấm gương của
chúng ta, không chỉ
đơn giản ngắm
hình ảnh mình trong đó, mà còn phải chuyển sang hành động. Không phải chỉ
nhận ra mình đang ghen tuông,
giận dữ, rồi thôi. Phải
thể hiện sự
kiên trì và
sáng suốt để học
nhận diện, rồi hóa giải,
trung hòa những chất độc bên trong của mình và những
trạng thái tâm lý phát sanh từ chúng, những
trạng thái tâm lý đã tạo cho
chúng ta một thế giới quá đỗi khó khăn để sống. Nếu
chúng ta không thể
kiểm soát thế giới bên ngoài, ít ra tất cả
chúng ta đều có thể đánh bại những kẻ xúi giục ra những rối rắm
khổ nạn này là
giận dữ,
kiêu căng,
tham muốn, thù hận và
ghen tỵ. Càng tiến theo chiều hướng này, người ta càng
cảm thấy biến mất cái
cảm tưởng xung đột thường trực với những sự vật và những
con người mà người ta đã có trước kia, và những
vấn đề và những khổ đau của
chúng ta càng giảm đi bấy nhiêu. Khi người ta
chấm dứt tự đánh lộn với chính mình, người ta không còn chiến đấu với phần còn lại của
thế giới. Nếu người ta biết tự
chấp nhận mình như mình đang là, người ta có thể
chấp nhận phần còn lại của
thế giới và những người đang
chia xẻ thế giới với
chúng ta. Không còn nữa sự hao tán thất thoát
năng lượng trong những
xung đột bên trong hay bên ngoài ; mọi điều người ta làm, ở mọi cấp độ, đều hòa nhập vào
hành trình tâm linh, và đem lại
lợi lạc cho những người khác
đồng thời cho chính mình.
Trước khi đến đó,
tốt hơn là tránh rơi vào một
quá độ của sự tự
soi xét mình bằng cách tự phân cực mình
thái quá trên chính mình và trên những
vấn đề cá nhân. Để giữ sự
chừng mực, cần không mất
quan điểm vị tha của
động lực ban đầu : nhớ rằng người ta tiến hành công việc này trên chính mình là để
tìm ra khá đủ những nguồn lực nơi mình để có thể giúp đỡ những người khác. Một
thái độ như thế sẽ cho
chúng ta một điểm quy chiếu khách quan và tránh cho
chúng ta khỏi quá tự
trầm ngâm về chính mình. Người ta sẽ mang lại một cái nhìn
tỏ rõ hơn về những sự vật khi thấy chúng như chính chúng là, và người ta sẽ
tri giác tốt hơn cái gì không ổn
trong đời họ. Người ta sẽ học thay đổi cái có thể thay đổi và
chấp nhận cái không thể tránh.
Không
dễ chịu lắm khi sống
trước mặt một tấm gương, nhưng trò chơi xứng đáng bỏ công để giúp
chúng ta hiểu những khó khăn của
chúng ta và giúp
giải quyết chúng.
Bình thường, người ta có khuynh hướng phê phán những người khác và muốn thay đổi họ nhiều hơn. Thế nên người ta có thể hơi hoảng sợ khi lần đầu tiên nhìn thấy những quan hệ của mình và
thế giới bằng cách mới mẻ này : thay vì chờ đợi những sự việc thay đổi từ bên ngoài, người ta nắm chính mình trong tay.
Ban đầu,
chắc chắn người ta hơi sợ vì cái không biết, cái
xa lạ, điều đó rất
bình thường, nhưng việc đó cũng không phải khó khăn như nó có vẻ thế : chỉ cần
chấp nhận tìm hiểu chính mình, làm bạn với chính mình, như một người nuôi thú giỏi
trước tiên phải có được sự
tin cậy của con cọp trước khi có thể dạy dỗ nó. Một khi người ta biết
thiết lập những quan hệ thật sự với chính mình, người ta có lẽ sẽ thấy rằng người ta có không nhiều những
vấn đề hơn người ta tưởng, và những
vấn đề thực sự còn lại có thể tự
giải quyết khá dễ dàng.
Điều đó mở ra những viễn tưởng đáng để khổ công đầu tư vào công
việc làm trên chính mình này. Khi học
điều phục tâm thức mình, người ta có khả năng
giải quyết những
vấn đề riêng tư. Có một cái gì thay
thế cho sự khó nhọc này không ? Có chứ, nếu người ta thích ở lại hơn
mãi mãi trong
tình trạng xung đột chiến đấu
thường trực với
thế giới, bằng cách cứ
tiếp tục đổ những cái gì không song suốt lên lưng những người khác hay những
hoàn cảnh. Nếu
quả thật người ta chọn
biện pháp này, phải tiên liệu sự nhiễm độc với hàng triệu
cá nhân khác... Thật là một
chương trình vĩ đại ! Thế thì dạy dỗ
thuần hóa tâm thức của chính mình sẽ
trở thành một cách
giải quyết duy nhất đơn giản mà
hấp dẫn vô song...
CHƯƠNG VII
THÂN, NGỮ, TÂM :
BA CỬA CỦA THỰC TẠI CON NGƯỜIThật rất tốt khi giúp đỡ cho những người khác nếu có thể ;
nhưng nếu người ta không thể, thì ít nhất chớ làm hại cho họ.
Dalai Lama thứ Mười BốnKhi người ta khổ đau và những sự việc không song suốt, người ta có khuynh hướng tự nhủ rằng đây là lỗi của những người khác hay của những
hoàn cảnh. Chính là
thoải mái hơn và ít khó chịu hơn khi tự hỏi rằng sau cùng chẳng lẽ người ta không chịu chút gì
trách nhiệm về mọi sự hay sao. Để biết khổ đau từ đâu mà đến,
trước tiên phải hiểu cơ cấu
vận hành của
tri giác của
chúng ta về
thế giới. Chính là qua thân, ngữ, tâm, ba cái tạo thành
cá thể con người của
chúng ta, mà
chúng ta tiếp thông với môi trường
xung quanh của
chúng ta và biến chúng thành cái
đại diện cho mình.
Dù người ta trẻ, đang độ
trưởng thành hay tuổi đã cao, ai cũng có một
thân thể bằng xương bằng thịt và mọi thứ chất liệu khác – một cơ cấu
phức tạp cho
vô số cảm giác. Người cũng có
lời nói, khả năng nói và
truyền thông nhờ
âm thanh và những chữ.
Cuối cùng, người ta cũng được phú bẩm cái
sáng tạo ra những
tư tưởng và những
hình ảnh, tốt hay xấu, mà người ta gọi là
tâm thức. Cái
chúng ta chú ý
hiện thời ở đây, thân, ngữ, tâm là những
thực tại hiển nhiên mà người ta
kinh nghiệm mỗi ngày.
Thân là dụng cụ cho sự
hoạt động của
chúng ta, biểu hiện bằng chuyển động. Ngữ phát ra những tiếng và những chữ chuyên chở điều người ta muốn
diễn đạt. Về phần tâm, chính nó làm
sinh động hai cái kia ; nó là nguồn của mọi thứ tốt
xấu người ta mang trong mình. Thân và ngữ hơi giống với những con múa rối của tâm. Một cách có lý, điều ấy muốn nói rằng người ta có thể khiến chúng làm điều người ta muốn, thay vì những điều chúng
tham muốn. Thật ra, sự việc không xảy ra
hoàn toàn như vậy : người ta có
thói quen đối xử với những người và những
sự kiện như thể người ta đã quên những sợi dây điều khiển nối thân, ngữ với tâm trong
bản thân chúng ta. Đến độ những sợi dây giãn ra, và con rối không
đáp ứng hoàn hảo nữa. Người ta
cảm thấy rất rõ rằng có một cái gì khập khễnh, người ta không bằng lòng sự
vận hành của con rối. Người ta
cảm thấy thất vọng.
Lý tưởng là thân phải
vận hành hòa hợp với tâm mà không có sự cách phân giữa hai cái đó. Nhưng
thực ra, nếu người ta để cho mình
đi theo những
xu hướng sơ khai nhất của thân, người ta sẽ rơi vào một loại
duy vật xoay quanh nhục dục, rất khó dứt ra. Mối hiểm nguy có với tất cả
mọi người, những người yếu cũng như những người mạnh, và nó cũng có nghĩa là sự mất
tự do. Để tránh một sự nguy hiểm như vậy, người ta phải
tìm cách sử dụng những sợi dây điều khiển các con rối, và học điều khiển nó
thông minh hơn, theo một cách
tùy thuộc hơn vào những nguyện vọng thực sự của
chúng ta. Ngược lại, phải không rơi vào sự trấn áp có
hệ thống và
mù quáng những nhu cầu
vật lý, bởi vì chúng là sự
biểu lộ của một
trí huệ bản năng nào đó của thân. Người ta có thể học để thấy sự khác nhau giữa những
thông điệp tự nhiên và có ích này với những dở chứng thất thường của những
giác quan chúng ta.
Thân thể chúng ta là một
phương tiện mạnh mẽ để thông tin. Nếu người ta thấy một con chó chạy đến và người ta chìa tay ra, con vật sẽ xáp gần, chờ đợi được
vuốt ve hay cho cái gì để ăn. Nếu
trái lại, người ta đưa tay lên,
chắc chắn con chó sẽ bỏ chạy, sợ người ta làm hại nó.
Cũng thế,
cử chỉ nhỏ của
chúng ta ảnh hưởng những người chung quanh – và sự việc cũng đúng như vậy với
lời nói và
suy nghĩ. Mọi cái toát ra từ
chúng ta tạo nên một loại dấu hiệu đối với những người khác.
Cần phải cẩn trọng khi biết rằng mỗi một
cử chỉ ảnh hưởng những người đang có mặt và có thể gây ra những
phản ứng về phía họ.
Cũng như với
cử chỉ của thân, phải chú ý đến
lời nói. Người ta phải luôn luôn
cẩn trọng về điều người ta nói cũng như cách người ta nói điều đó. Giọng nói cũng quan
trọng như cách chọn chữ. Những việc
dễ thương được nói với giọng
thiện cảm có
hậu quả khuyến khích và
an ủi. Người ta có thể làm nhẹ cho người đang nhiều khổ đau nếu người ta biết
tìm ra những chữ làm cho người ấy
an tâm, hay nhờ vào
năng lực chữa trị của một lời
cầu nguyện hay
thần chú. Cũng như điều người ta nói, cách nói là quan trọng.
Sau mỗi
hành vi và mỗi
lời nói, có
tâm thức. Biết nó ở đâu không có gì quan trọng – người cho nó ở trong óc, người cho nó ở chỗ khác – điều quan trọng là
nhận biết rằng
tâm thức là cội nguồn của tất cả những gì
chúng ta có thể nói hay làm.
Cần yếu phải hiểu điều đó, bởi vì người ta muốn
tiến bộ và
cải thiện phẩm chất những
lời nói và
hành vi của mình, phải lên đến tận nguồn và
lưu tâm đến
tâm thức, dù cho
tâm thức thì thiếu hình thể
vật chất và nơi trú ngụ
hữu hình – những
hậu quả của nó không phải là kém được cảm nhận
cụ thể.
Nếu như
tương đối dễ dàng
ý thức được những
biểu lộ rõ ràng nhất của
chủ nghĩa thủ đoạn của
tâm thức ranh ma của
chúng ta, thì phải nhiều
tinh tế hơn để phòng giữ những sự vận dụng
tinh tế nhất của nó. Khi người ta xem một phim đầy bạo lực trong truyền hình, việc ấy có thể giống như một trò
giải trí vô hại, nhưng nếu
tâm thức đồng hóa với
cảnh tượng những
hành hạ và giết chóc được trình bày cho nó, khuynh hướng hung dữ của
chúng ta sẽ được
củng cố thêm mà
chúng ta không biết.
Chắc chắn là
cho đến bây giờ, những
hoạt động và những
lời nói của
chúng ta phần lớn được khơi gợi từ một
tâm thức ích kỷ và quy ngã càng ngày càng mạnh mẽ và
quyền uy nếu nó không gặp một sự chống đối nào về phía
chúng ta : người ta không muốn
chống lại hay không thể
chống lại. Có lẽ người ta còn chưa thật sự tin lắm vào sự
hiện hữu của nó, nhưng một ngày nào sẽ phải
rõ ràng kẻ
độc đoán này chạy ra khỏi hang và người ta sẽ
đối diện với nó. Phải
cáng đáng nó và học
quản lý nó như nó
trình diện với
chúng ta. Người ta sẽ có thể nói với nó : “Ê mày ! Đã quá lâu mày cai trị tao, mày
quy định thân và ngữ của tao. Mày đã làm cho tao khá nhiều
sai lầm và hư hại. Giờ đây, chính tao là người cai trị mày !” Người ta sẽ không có
tiến bộ nào bao giờ người ta chưa từ chối
bản ngã của người ta hay chưa
chuyển hóa nó.
Trái lại, công việc này
hoàn thành thì những sự vật sẽ
vận hành theo chiều hướng
tốt đẹp.
Thiền định có thể góp phần vào tiến trình này khi cho
chúng ta sự
thụt lui cần thiết để thấy nó
rõ ràng hơn. Khi
thiền định, người ta bắt đầu hiểu
tâm thức là gì và nó
vận động như thế nào, ở trong chính người ta cũng như qua những
phương tiện biểu lộ là thân và ngữ.
Đến bây giờ
chúng ta đã
xem xét thân, ngữ, tâm một cách tách biệt.
Thực ra, chúng
rõ ràng tương thuộc và cuộc du lịch
tâm linh không xảy ra nếu cả không cùng tiến bước.
Vậy thì phải làm việc
đồng thời ở ba cấp độ,
cố gắng tẩy xóa tất cả cái gì có thể có
hậu quả tiêu cực hay
độc hại, và ngược lại
tăng cường tất cả cái gì có thể là
tích cực hay
tốt lành cho mình và cho người. Chính lòng bi sẽ
bảo đảm cho sự
hợp tác của thân ngữ tâm tiến đến một
mục đích chung. Nó làm động cơ cho chúng và thống nhất sự
năng động của chúng, khiến thân, ngữ, tâm
hoạt động và
tiến hóa luôn luôn trong
hòa hợp, ở mọi cấp độ.
Những
thực tập được trình bày trong phần hai cuốn sách này để đưa ra một căn cứ
thực hành cho công việc này. Khi người ta đã
tiến bộ trong sự làm cho
trong sạch thân, ngữ, tâm, có lẽ người ta có thể tiến
xa hơn, và biết rằng trong
thực tế chúng không có
bản chất riêng và
hiện hữu độc lập. Người ta sẽ hiểu rằng thân giống như một cái cầu vồng, ngữ như một
tiếng vang và tâm như một
hình ảnh phản chiếu trong nước. Nhưng phải
chắc chắn rằng không thể làm việc làng nhàng trước khi đến đó...
CHƯƠNG VIII
PHƯƠNG DIỆN ĐẠO ĐỨC CỦA ĐỜI SỐNG :
“HẠNH KIỂM CHÂN CHÁNH”Không làm điều ác,
Thực hành đức hạnh,
Điều phục tâm mình,
Là lời Phật dạy.
Phật Cồ ĐàmNhững dòng này tinh lọc triết lý của
đức Phật. Chúng
tóm tắt một cách gọn gàng nhưng đầy đủ một
dạy bảo có thể có một
ý nghĩa cho mỗi người, bất kể mức độ phát triển
tâm linh của họ đến đâu. Mới nhìn,
lời khuyên có vẻ
đơn giản, nhưng trên
thực tiễn không dễ luôn luôn
kiêng cữ điều ác để chỉ thuần làm điều thiện. Về phần
điều phục tâm thức, việc này đòi hỏi khá nhiều
kiên nhẫn và khéo léo.
Tuy nhiên, không nên nản lòng, vì người ta sẽ có được tất cả khi theo những
lời khuyên này. Những
lợi lạc thì không
thể tính toán được. Một “chánh hạnh”,
một đời sống chân chánh là nguồn
hạnh phúc cho mình và cho những người khác, và khi nào người ta còn
gắn bó với nó, người ta có thể
chắc chắn đang ở trên
con đường tốt đẹp,
đúng đắn.
Tất cả
chúng ta đều
tìm kiếm hạnh phúc, dù cho
nhân danh nó mà có quá nhiều
thái quá và
ngu xuẩn đã mắc phải. Người ta đi đến chỗ giết hại, lường gạt hay
trộm cắp những người khác với
niềm tin rằng mình đang
theo đuổi hạnh phúc cho riêng mình. Nếu người ta không có
đạo đức để hướng dẫn những hành động của mình, thì có ai nói cho người ta rằng người ta thật sự chịu
trách nhiệm về sự khổ đau của một người khác, chưa tính đến khổ đau mà người ta đang tự sửa soạn cho mình, trong cùng một cơ hội ?
Đâu là
nguyên nhân của những hành động
bất thiện của
chúng ta ? Chúng phát xuất từ
vô minh của
chúng ta về
bản tánh của những sự vật khiến
chúng ta tin vào sự
hiện hữu của một
bản ngã hay một cái ta
cá biệt. Cái tôi thì rất
thân thiết với
chúng ta, và rộng ra, người ta cũng quá bám luyến mọi thứ
liên hệ với cái tôi đó. Người ta bám níu vào cái họ có và vào những người họ yêu, vào những
cảm giác dễ chịu. Và chính
từ ý niệm về cái ngã này và về tính
sở hữu của cái ngã mà
kiêu căng,
tham lam,
ghen tỵ,
ham muốn phát triển. Mặt khác, người ta ghét mọi cái gì
chống lại cái nhìn quy ngã của mình,
chống lại cảm tưởng mình là cái rốn của
vũ trụ, và thế là nảy sinh sự không
khoan dung,
giận dữ và thù hận.
Ý tưởng cái tôi
rõ ràng là một
quan niệm thích nghi và thậm chí hữu ích
trong đời sống hàng ngày, nhưng phải biết rằng, trên bình diện
chân lý tuyệt đối, cái tôi đó không có
hiện hữu riêng, không có
thực tại độc lập, nói theo
kinh điển là
vô tự tánh. Điều này trở nên
rõ ràng khi người ta hiểu sự
tùy thuộc lẫn nhau của tất cả mọi
hiện tượng và
bản chất tương đối và bị
điều kiện chi phối của chúng (
duyên sanh).
Vậy thì chính sự không biết,
vô minh và
sai lầm là những
nguyên nhân cho những
lỗi lầm của
chúng ta và tạo ra những đau buồn cho
mọi người. Ngược lại, sự
chính trực về
đạo đức sẽ
cải thiện phẩm chất và
giá trị của
đời sống, cho chính
chúng ta và cho những người khác. Nó tán trợ cho sự
hiểu biết chính mình và sự
điều phục tâm thức, như
thế cho phép chữa lành những chuỗi
sai lầm quá khứ.
Trong những cách
đánh giá về những hành động của mình, có một cách khá
thuận tiện : người ta xem mọi cái gì
đức hạnh là
tích cực, mọi
hành vi ác hại là
tiêu cực. Mỗi ngày, người ta tính sổ cái
tích cực và
tiêu cực,
mục đích của
thực tập là tối đa hóa cái
tích cực và
tối thiểu hóa cái
tiêu cực, để
cuối cùng chỉ có cái
tích cực. Mỗi ngày, người ta
củng cố động lực của mình bằng cách tái
xác nhận ý chí làm thiện và tránh làm ác cho người khác, và người ta tập
giữ gìn ý tưởng này
hiện diện trong trí suốt ngày, dù đang làm việc,
vui chơi hay thư giãn,
một mình hay với những người khác. Người ta tự nhớ lại điều đó mọi lúc, biến nó thành sợi dây
dẫn đường của mọi điều người ta làm, nói hay nghĩ. Sống với
ý tưởng “an vui của những người khác” trong đầu óc, thì ngay cả một việc tầm thường nhất cũng có
giá trị, in dấu của một phẩm giá mới.
Chiều tối, trước khi ngủ, người ta tính sổ ngày hôm đó,
đánh giá những
hành vi,
lời nói và
tư tưởng của mình. Với một ít
sáng suốt, người ta có thể
phán đoán chính mình về sự
tiến bộ của mình mà không cần
tham khảo một ai. Người ta sẽ học
nhận ra những khuynh hướng
tiêu cực của mình và thấy chúng
biểu lộ như thế nào, nhờ đó người ta sẽ có thể
giảm thiểu sự
xuất hiện thường xuyên của chúng.
Đồng thời, người ta biết
nhận ra và
kích thích những
vận hành tích cực. Về phần mọi
hành vi “trung tính” mà người ta phải làm hàng ngày (ăn, tắm rửa, đi, ngủ...), không
cần thiết phải bận tâm chút nào với chúng.
Tính sổ hàng ngày không phải là một kiểu cách
thực tập đơn giản. Người ta sẽ không
nhận xét lỗi lầm của mình bằng cách tự nhủ mình là một con quái vật, hay
củng cố cho
ý kiến tốt về mình bằng cách tự
chúc mừng đã làm điều tốt.
Mục đích của công việc này là nhổ sạch hay
chuyển hóa cái ít tốt ở nơi mình, bằng cách
nuôi dưỡng cái tốt nhất của chính mình. Đó thật sự là làm thế nào
cải thiện phẩm chất cuộc sống của mình.
Còn phải biết
phân biệt giữa tốt và xấu, thiện và ác.
Truyền thống Phật giáo định nghĩa hạnh kiểm
đạo đức nhờ hai
phạm trù : tất cả cái gì người ta làm bởi thân, ngữ, tâm bắt buộc nằm trong “mười thiện hạnh” hay “mười ác hạnh”. Từ hơn hai ngàn năm trăm năm những nguyên tắc
đạo đức này đã được
áp dụng, đã
tỏ ra lợi ích, và người ta có thể
nhận thấy rằng ngày nay chúng không mất sự
chính đáng thích hợp.
Có mười
hành vi làm hại được khuyên là phải tránh : ba của thân, bốn của ngữ và ba của tâm. Về những
hành vi của thân, (1) không giết hại bất kỳ
chúng sanh nào, (2) không
trộm cắp – không lấy cái mà người ta không cho mình, (3) không
tà dâm. Điều thứ ba này hiểu là không cưỡng ép người nào vào những
liên hệ dục tính trái với ý muốn của họ, và không dẫn dắt ai phạm vào những
lời nguyện tôn giáo của họ hay phá vỡ những cam kết đã có của họ với một người khác.
Bốn
hành vi làm hại của ngữ (4)
nói dối, dẫn dụ người khác
lầm lẫn khi nói điều mà người ta biết là sai. (5) Nói những sự việc gây
bất hòa và
xáo trộn giữa những người bạn hay những người
thông cảm nhau, khiến họ có thể chia rẽ nhau. (6) Nói điều xấu cho những người khác,
gièm pha, chê bai họ hay chưởi mắng, làm nhục họ bằng cách trưng bày những
lỗi lầm của họ ra giữa thanh thiên bạch nhật. (7)
Cuối cùng nói lăng nhăng
như không nói điều gì cả, tiêu phí
thời gian trong những thói
lắm mồm vu vơ và
vô ích.
Ba
hành vi làm hại
cuối cùng thuộc về
tâm thức. Vậy là
tâm thức là cái quan trọng nhất, vì chính nó
quyết định phẩm chất mọi cái người ta làm
hay nói. Hôm nay người ta để cho mình cắm rễ trong một
tư tưởng tiêu cực, và
chắc chắn người ta sẽ gặt hái không lâu những trái quả đau buồn, khi
tư tưởng nhiễm độc này đã chín và bắt đầu
ảnh hưởng đến những
hành vi và
lời nói của
chúng ta. Thế nên có ba khuynh hướng
tiêu cực phải
tuyệt đối tránh không để chúng phát triển trong
tâm thức. Cái thứ nhất là
tham muốn, khi người ta
thèm khát cái của người bên cạnh, dù đó là vợ anh ta, xe cộ hay
địa vị xã hội của anh ta (8).
Tiếp theo là
ác cảm,
ý muốn làm hại hay làm điều xấu cho những người khác, bằng bất cứ
phương tiện nào (9).
Cuối cùng, người ta phải không bao giờ
nghi ngờ những
định luật nhân quả – sự không thể tránh, không thể sai chạy của mối
liên hệ giữa một
nguyên nhân và kết quả của nó (10). Mọi
nguyên nhân đều có
hậu quả của chính nó, và người ta luôn luôn gặt cái người ta đã gieo, tốt cũng như xấu.
Người ta có thể tự hỏi tại sao tránh những hành động có hại này là quan trọng đến thế. Câu
trả lời thì
đơn giản : khi phạm vào chúng, người ta chỉ tạo ra những khổ đau tương lai cho mình, và như vậy mất đi
hạnh phúc và
bình an mà người ta đang
tìm kiếm. Thật vậy, đó là một sự tính toán rất
sai lầm, tệ hại : nếu người ta hành động bất kể thế nào, người ta sẵn sàng bước qua
xác chết của những người khác với
lý do say
mê một hạnh phúc không bị ngăn ngại, rồi người ta phải trả giá cho những gì đổ vỡ – chịu những
hậu quả của những
sai lầm của mình. Đó sẽ không phải là
hạnh phúc, mà chính là những lo buồn khổ đau
trầm trọng người ta tự
mang đến cho mình : ai gieo thù hận sẽ gặt cơn bão.
Kiêng cữ mười hành động làm hại tức là tránh được nhiều
vấn đề, bởi vì người ta thôi tự tạo ra chúng ; và tự động, những sự việc
diễn tiến tốt hơn cho
chúng ta và cho những người khác. Nhưng những
thói quen thì cần thay đổi, người ta phải học
cẩn trọng với điều mình làm, với điều mình nói và
suy nghĩ.
Song song với sự tránh làm các
ác hạnh, người ta
cố gắng trau dồi mười
hành vi công chính, chúng là cái đối nghịch, cái
đối trị của mười
hành vi làm hại. Thay vì giết, người ta tập
tôn trọng và
bảo tồn sự sống dưới mọi
hình thức của nó. Hơn là lấy cái người ta không cho,
chúng ta chia xẻ cái
chúng ta có, dù đó là cái nhỏ nhặt. Thay vì tự
cho phép bất cứ điều gì, người ta sẽ trau dồi sự
chính trực trong những
liên hệ cá nhân và
tình dục.
Về
lời nói, người ta sẽ
cố gắng nói
sự thật và
trung thực,
giảng hòa và đưa lại gần nhau những người cãi cọ nhau hay không
thông cảm với nhau,
nói tốt về những người khác – nếu người ta phải nói về họ – và nói một cách tổng quát,
sử dụng lời nói một cách có
ý thức.
Trên bình diện
tâm thức, thay vì luôn luôn ước ao,
đố kỵ với những người khác, người ta sẽ
tùy hỷ với
may mắn của họ ; người ta sẽ
cố gắng muốn điều
tốt đẹp cho họ ; và người ta
tìm cách hiểu rõ hơn những
định luật nhân quả và
chấp nhận chúng.
Sự xếp loại mười
hành vi làm hại và muời
hành vi chân chánh này
tiêu biểu cho một căn cứ
đạo đức cần thiết cho những ai muốn sống một
cuộc đời ngay chính, dù họ có là người
Phật giáo hay không. Nếu người ta biết
chế ngự thái độ cư xử của mình, người ta sẽ ít phạm vào những luật tắc của trò chơi
đời sống trong
cộng đồng và ít làm
thương tổn hay làm hại những người khác. Như vậy người ta sẽ có những quan hệ tương giao
tốt đẹp với họ và cái
vũ trụ cá nhân của
chúng ta sẽ
rõ ràng sống động đáng sống hơn. Hơn nữa, người ta có sự
thanh thản khi biết rằng người ta không đang
liên tục tạo ra sự
bất hạnh cho riêng mình và
bất hạnh cho những người khác như trước kia nữa.
Dù người ta đã
tiến bộ nhiều,
tuyệt đối giữ gìn không phê phán những người khác và lần lựa nơi những khuyết điểm mà người ta
tìm thấy nơi họ. Nếu người ta
lưu tâm quá nhiều cái mà họ làm, cái mà họ có thể nói hay nghĩ, hay người ta luôn luôn tự
so sánh với họ, người ta sẽ làm mạnh hơn sự
kiêu căng của mình hay ngược lại sẽ chán nản mình. Sẽ
tốt hơn rất nhiều khi chú ý
điều phục tâm thức mình, nhắm vào những
mục tiêu cao hơn mà những
giáo huấn đề nghị cho
chúng ta. Không phải tìm những câu
trả lời ở ngoài mình : chỉ nhìn vào trong mình để
tìm thấy ở những
chỉ dẫn của sự
tiến bộ đã làm được, hay của công việc còn phải làm.
Một
tiêu chuẩn tuyệt hảo để đo lường sự
tiến hóa của
chúng ta nằm ở sự khảo sát
thái độ người ta có với những khuyết điểm của người khác.
Tâm thức càng được
thuần hóa, người ta càng ít thấy những khuyết điểm ở những người khác. Ngược lại,
tâm thức càng ít được
thuần hóa thì người ta càng có nhiều khuynh hướng nghĩ rằng không có cái gì là lỗi của mình cả. Khi người ta có một
thái độ và một động cơ
tích cực, người ta có khuynh hướng xem sự vật về phía tốt nhiều hơn ; trong khi, nếu sự
ích kỷ và
vô minh trộn lẫn vào, người ta có một
tri giác rất ít bằng lòng với
thế giới, vì
tri giác đó
phản chiếu những khuyết điểm riêng của
chúng ta. Cũng như cái đẹp, sự
trong sạch thanh tịnh nằm trong con mắt người nhìn sự vật.
Rõ ràng đơn giản hơn khi
thích ứng với
thế giới thay vì
tìm cách uốn bẻ nó theo chiếu hướng
thích hợp với
chúng ta. Hãy tưởng tượng chẳng hạn khắp
mặt trái đất phủ đầy cây tầm ma và gai, không biết đặt chân ở đâu nữa, nếu
cố gắng cắt tất cả thì đó là một việc không
chấm dứt và hầu
như không thể. Ngược lại, chỉ cần mang một đôi giày to tướng, để giày vào chân là có thể đi bất cứ nơi đâu. Sự việc cũng như vậy với
tâm thức : một khi người ta đã
thuần hóa nó,
rõ ràng người ta ít khó chịu để
đảm đương mọi cái đến với mình, từ trong cũng như chung quanh
chúng ta, và đối mặt với nó một cách
tích cực.
Điều ấy sẽ thay đổi một cách
căn bản cách thế nhìn những sự vật của
chúng ta, nhưng không nên chờ đợi mọi sự xảy ra tự động, ngày một ngày hai. Phải có vài chuyện hỏng, lúc
ban đầu,
tuy nhiên đó không phải là một
lý do để nản lòng, để tức giận hay tự
trừng phạt mình.
Trái lại, phải biết
kiên nhẫn và giữ một
thái độ có lòng bi với chính mình, thử rút ra những bài học từ những
sai lầm của mình.
Chúng ta đang dấn thân vào một tiến trình
giáo dục lại
toàn diện để học đối mặt với bất kỳ
hoàn cảnh nào, dù khó khăn thế nào, và để trở nên có thể có những tương quan đích thực hơn và
quân bình hơn với những người khác.
Thái độ của người ta khi những sự việc
trục trặc là rất quan trọng. Thật ra không khó khăn lắm bình thản với chính mình trước
thành công và
hạnh phúc, nhưng
đặc biệt rắc rối trong
trường hợp thất bại hay
bất hạnh. Với một số người, phải trấn
tỉnh lại và ổn định mình để có thể rút ra những bài học từ những
sai lầm và tránh chúng
tái diễn. Với những người khác, phải dùng cách
dịu dàng và
suy nghĩ yên tĩnh cái gì
trục trặc. Điều đó
chứng tỏ quan trọng đến mức độ nào cần học cách tự
hiểu biết mình để
tìm ra phương cách tốt nhất để
tiến bộ theo chiều hướng
tích cực trên cả ba mặt trận : thân, ngữ, tâm.
Hạnh kiểm
chúng ta càng
cải thiện và những khuynh hướng xấu càng
chuyển hóa, thì song song với chuyện đó
chúng ta sẽ
nhận ra một sự
gia tăng những
thúc đẩy xấu hay những toan tính tự để cho
xao lãng. Đó không phải là dấu hiệu xấu, mà
trái lại :
mặt trời càng sáng chiếu càng để lộ rõ những bóng hơn khi nó
yếu ớt hay bị che. Nói cách khác, mặt
tích cực càng mạnh mẽ bao nhiêu, người ta càng thấy rõ mặt
tiêu cực bấy nhiêu.
Vậy thì không có gì
ngạc nhiên hay hốt hoảng nếu điều đó xảy đến. Chỉ cần
tiếp tục làm tốt
hết sức mình.
Với phần đông người mới học như
chúng ta, học
phân biệt tốt với xấu,
tích cực với
tiêu cực và
nhận biết cần phải huấn luyện
tâm thức cho có kỷ luật là điều
ích lợi. Đấy là những
quan niệm nhị nguyên, hẳn thế, nhưng chúng
cần thiết lúc
khởi hành, bởi vì chúng
cung cấp cho
chúng ta những dụng cụ làm việc và chỉ cho hướng phải theo. Sau này, khi người ta đã
tiến bộ trong
con đường tâm linh, người ta không
cần phải quy chiếu trực tiếp vào những
quan niệm này nữa, sự
tiến hóa của
chúng ta sẽ
tự nhiên hướng theo chiều hướng đúng. Nhờ những
phản ứng mới của
tâm thức,
hoạt động của
chúng ta ở mọi cấp độ – thân, ngữ, tâm – sẽ tự động có
lợi lạc cho những người khác. Đấy cũng hơi giống với học lái xe :
ban đầu, phải rất chú ý đến mỗi
cử chỉ, mỗi thao tác. Nhưng khi đã có
thói quen lái xe, người ta không cần học lại tất cả
lý thuyết mỗi khi muốn đi đâu và thậm chí người ta còn nói chuyện và ngắm cảnh khi đang lái. Nhờ những sự tự động đã tự hình thành khi học
điều phục tâm thức, hạnh kiểm
đạo đức trở thành một
bản chất thứ hai.
Một điểm chót rất quan trọng : người ta phải học
tin cậy vào những
phương pháp tâm linh mà người ta dùng và không nhường bước cho sự muốn bỏ cuộc khi người ta thấy có chút khó khăn. Những
giáo huấn từ đó những
phương pháp này được rút ra là
hoàn toàn xác thực
đáng tin cậy trên bình diện
lý thuyết – từ
chân lý của những nguyên tắc trên đó những
phương pháp ấy được đặt nền – cũng như bình diện
thực hành :
đức Phật, và sau ngài biết bao
thế hệ nam nữ đã thí nghiệm những kỹ thuật và đã nếm những quả trái. Đến lượt
chúng ta hội
nhập chúng vào
đời sống hàng ngày của
chúng ta, làm cho chúng
thành thật sự của
chúng ta. Nếu được như thế,
toàn bộ cuộc sống của
chúng ta sẽ được
biến hình,
chuyển hóa :
hoạt động của
chúng ta sẽ làm
lợi lạc một cách tự động cho những người khác, không làm hại bất kỳ ai. Người ta cũng tự mình
trở thành một mắt xích trong chuỗi dài
đảm bảo sự
chuyển giao truyền thống tâm linh này từ
thế hệ này sang
thế hệ khác.
Câu hỏi : Người ta có thể tự hỏi tại sao người ta phải tự ép mình
tuân theo những phép tắc
thiện hạnh, trong khi vài người làm trái ngược lại thì không có vẻ gì bị chuyện xấu cả. Người ta thường thấy những
cá nhân ít
đáng tin cậy lại trở nên rất giàu và rất
quyền lực, trong khi những người rất tốt lại nghèo
suốt đời.
Trả lời : Có thể có những người
lừa đảo, lường gạt
giàu có lớn lao, nhưng điều đó không có nghĩa là họ được
hạnh phúc. Sự
giàu có thật sự là sống
thỏa mãn với cái mình có, hân thưởng mọi cái đến với mình. Sự
giàu có đó theo bạn đi khắp nơi, dầu bạn ở đâu, trong
hoàn cảnh nào. Dầu người ta sống ngoài đường và ngủ dưới gầm cầu, trong một thùng bằng cạc-tông, người ta
vẫn có thể có cái cảm thức đó, cái
cảm giác bạn đã đầy đủ. Không phải mất gì cả, người ta không lo về chuyện này nữa : người ta không phải run vì
viễn cảnh có ai lấy cái thùng cạc-tông của bạn, có khối gì các thứ ấy... Không phải người ta có nhiều sự vật mà người ta
giàu có, theo nghĩa đích thực của danh từ. Nhưng nếu người ta biết hành động theo cách
chính đáng và biết cảm kích, hân thưởng cái mình có, bây giờ người ta thực sự
giàu có.
Câu hỏi : Hình như có những cách
giải thích khác nhau về sự
thực hành hạnh kiểm
đạo đức. Người ta nói tổng quát rằng cần trau dồi những
hành vi tích cực và
lìa bỏ những
hành vi tiêu cực, hầu như phải nhổ sạch chúng. Nhưng đôi khi, về vài điểm riêng biệt, người ta khuyên
chúng ta chớ có
đánh nhau với chính mình hay với cái
tiêu cực trong
chúng ta, mà nhìn vào
trạng thái tâm thức như chính nó là, trong
tính chất đặc biệt riêng của nó. Ngài có thể
nói nhiều hơn về hai đường lối này ?
Trả lời : Đường lối
thích hợp là do mức độ phát triển mỗi người,
tùy theo người ta còn là một người mới học, hơi
tiến bộ hay
rất tiến bộ. Với người mới học, rất quan trọng là học không trau dồi khía cạnh
tiêu cực của
tư tưởng,
lời nói và
hành vi của mình, và vào mức độ này,
hoàn toàn vô ích khi nhìn vào chúng hay
chấp nhận chúng.
Tâm thức chưa đủ chín cho việc đó.
Trái lại, đó là lúc phải
loại bỏ cái
tiêu cực và trau dồi cái
tích cực. Đường lối đầu tiên này là thiết yếu cho những “chiến dịch”
tiếp theo, bởi nó là nền tảng
cần thiết cho sự phát triển của
chúng ta.
Giai đoạn thứ hai là khi đã học đối mặt với những khía cạnh
tiêu cực của chính mình, người ta không thải bỏ chúng một cách
đơn giản và
tinh thuần, mà người ta có thể
nhận biết chúng và
thưởng thức tính chất đặc biệt của chúng.
Giai đoạn thứ ba là khi
tâm thức đã
đạt đến sự
chín muồi,
trưởng thành của nó, bây giờ không có gì
loại bỏ khỏi sự
thực hành tâm linh : tất cả những gì đến với
chúng ta đều hòa nhập vào đó một cách tự động và
nuôi dưỡng sự
tiến hóa của
chúng ta. Có thể vài người đã
trưởng thành đủ về
tâm linh để được miễn những giai đoạn sơ bộ. Trong
trường hợp nào, dù mức độ phát triển
cá nhân có thế nào, sự quan trọng là không bao giờ làm hại những người khác và luôn luôn
cố gắng hành động, nói và nghĩ theo một cách có
lợi lạc cho họ.
CHƯƠNG IX
ĐÁNH THỨC TRÁI TIM MÌNH :
LÒNG BIĐể giúp đỡ mọi chúng sanh đang bị giam giữ trong những khổ đau mà họ tin là không thể sửa tránh được, chúng ta hãy mặc áo giáp mềm mại của một lòng bi không chỉ giới hạn vào nhân loại, mà bao trùm toàn bộ hiện hữu, hữu hình hay vô hình.
Gyalwa Karmapa thứ 16Có một kho tàng mà mọi
chúng sanh đều có
đặc quyền chia xẻ,
tham dự : đó là mang nơi mình tiềm năng của sự
toàn thiện, của
trạng thái thức tỉnh của
tâm thức. Đó là cái mà trong
Phật giáo Đại thừa gọi là
Phật tánh :
tâm thức được phú bẩm
tự nhiên mọi phẩm chất
hiểu biết,
trí huệ,
tình thương và lòng bi, và người nào
khám phá ra cái ấy (
Phật tánh) nơi mình và đến chỗ
biểu lộ trọn vẹn cái tiềm năng ấy là “một người đã thức tỉnh” – một trong những nghĩa của chữ Phật –,
thức tỉnh khỏi giấc ngủ của
vô minh. Mọi phẩm chất này đang
hiện diện trong mỗi
chúng ta, ở
trạng thái tiềm năng trong
tâm thức chúng ta, và chính
vô minh – sự không
hiểu biết, hiểu sai
bản tánh chân thật của những sự vật – cùng tất cả
sự tích tập những
bất tịnh do
vô minh gây ra, đã ngăn chặn những phẩm chất ấy
biểu lộ trong sự tròn đầy
vinh quang và
sống động của chúng.
Tuy nhiên, nếu người ta
dần dần trừ bỏ những
biến thể méo mó này của
tri giác và của những tình cảm, người ta sẽ
nhận ra rằng mọi
chúng sanh và mọi sự vật của
thế giới này, gồm cả và bắt đầu bởi cái tôi, không phải là những
thực thể độc lập, mà là những
hiện tượng chỉ
hiện hữu liên lập, tương thuộc. Trong những
điều kiện như thế,
rõ ràng rằng làm điều xấu hay điều tốt cho một người nào,
trở lại là tự làm cho chính mình. Một khi người ta đã hiểu rằng
mọi người đang
sở hữu cùng tiềm năng của sự
toàn thiện – chính mình, những bạn bè và những
kẻ thù ghét mình – và
chịu đựng cùng những
chướng ngại cho
sự thể hiện
trọn vẹn bản tánh thật sự của mỗi người, người ta từ từ đến chỗ
cảm thấy cùng lòng
đại bi cho tất cả.
Sự kiện biết rằng tất cả
chúng ta đang có trong
chúng ta tinh túy của sự
toàn thiện mang một
hy vọng vĩ đại : lòng bi không phải là cái gì
xa lạ hay bên ngoài
chúng ta, một mảnh miếng được
mang đến mà người ta phải khó khăn
cực khổ để có được và thâu hóa vào mình. Đó không phải là một
đức hạnh riêng cho những vị thánh có
thân thể bằng thanh khí hay những hiện thể ngoài trái đất, mà là một
sức mạnh vốn đã
hiện hữu nơi
chúng ta,
dự phần vào
chúng ta. Người ta chỉ tưới nước và
nuôi dưỡng hạt giống này với sự
kiên trì, và rồi nó nảy mầm, lớn lên và trĩu quả. Không thể có chút
nghi ngờ nào : nếu bạn
nỗ lực hiểu biết tâm thức và
điều phục nó, lòng bi sẽ
phát lộ và bừng nở
dần dần nơi bạn – bởi vì nó đã ở đó, một cách
tiềm ẩn. Thậm chí nó tạo thành
tinh túy của
con người bạn. Những kinh văn cổ minh họa điều đó bằng một
hình ảnh rất
ấn tượng : nếu bạn lấy sữa và đánh nó, bạn sẽ có bơ. Trong khi bạn có khuấy nước trong hàng thế kỷ, bạn cũng không thể rút ra một gam nào...
Mỗi người mang trong nó tia lửa nhỏ của lòng bi. Ngay cả những người
ích kỷ nhất cũng có thể chăm lo cho
cha mẹ, con cái, người bạn trăm năm và những bạn bè của họ. Điều ấy người ta cũng thấy trong
thế giới loài vật, nơi ngay cả những kẻ giết chóc như rắn hay cá sấu cũng rất chăm lo cho con cái của chúng.
Tuy nhiên, loại lòng bi này chỉ dành riêng cho kẻ
thân thuộc hay chủng loại mà sự loại trừ nhiều hơn là sự bao trùm.
Vậy thì nó rất chật hẹp, nhất là nếu người ta
so sánh nó với lòng bi
không giới hạn mà tất cả
chúng ta đều có khả năng, nếu
chúng ta chịu khó để cho nó bừng nở, khai triển nơi
chúng ta.
Quyền lực và những kết quả của lòng bi
tùy theo mức độ khai triển của nó. Nó càng mạnh mẽ và
sâu xa,
tác động và
phạm vi ảnh hưởng của nó sẽ càng quan trọng. Nếu người ta có khả năng cho lòng bi
vũ trụ, người ta có thể cho mỗi người đúng cái mà họ cần, nhưng dù với một ít lòng bi, người ta có thể tự mình sống
tốt hơn và làm cho những người khác
hạnh phúc.
Có người có thể tự hỏi lòng bi đóng góp cái gì để
cải thiện phẩm chất
cuộc đời của mỗi người về mặt
cá nhân và của
xã hội về mặt
toàn thể. Càng khai phát lòng bi, người ta
dần dần thoát khỏi thế lực của
tham lam và thù hận ; người ta có thể làm cho
gia đình mình, những người gần gũi với mình
hạnh phúc hơn, và
hạnh phúc ấy của những người này phun vọt trên những người khác. Nếu càng ngày những
cá nhân nhổ nơi họ gốc rễ của mọi cuộc
xung đột – lòng
ích kỷ – và thay thế vào đó
tình thương (từ) và bi,
tiến bộ này
phản chiếu trước tiên lên giai tầng
gia đình, rồi môi trường gần gũi, rồi
toàn thể xã hội, và
cuối cùng toàn thể thế giới. Hòa bình
xã hội và hòa bình trong
thế giới bắt đầu trong lòng của mỗi
cá nhân.
Mặc dù người ta có thể tưởng tượng lòng bi như thế là cái gì,
chắc chắn là người ta còn chưa tới đó. Vào lúc này, đã khá khó khăn khi tự nắm mình trong tay mà không là một
gánh nặng cho những người khác, và
cố gắng không làm
tổn hại họ. Nhưng trước khi người ta đến đó, điều này không phải là nhỏ đâu, nó đã là một bước tiến lớn về phía trước bởi vì đó là nền tảng của mọi
tiến bộ tương lai. Thật vậy, làm sao
cảm thấy lòng bi cho những người khác nếu người ta không
trước tiên cảm thấy nó một chút cho mình ?
Làm phát triển nơi mình
tình thương và lòng bi chắc hẳn là một tiến trình
tiệm tiến : một
công trình làm đi làm lại cả trăm lần... Nhờ
kiên nhẫn và
kiên trì,
tâm thức phải đi đến chỗ xếp những nếp
thói quen tốt đẹp mới, đến mức có thể
giữ gìn một
thái độ từ bi ngay cả khi mọi sự
trục trặc. Người ta sẽ
phân biệt ba giai đoạn trong việc
học nghề tập sự này : thứ nhất,
ý thức sự kiện rằng khổ đau là phần của tất cả
chúng ta ; thứ hai, trau dồi
ham muốn nồng nhiệt
chấm dứt những khổ đau này ; và thứ ba, không chỉ có một
lời nguyện chân thành, mà chuyển qua hành động bằng cách tự mình giúp đỡ những người khác
giải thoát khỏi những khổ đau của họ.
Giai đoạn thứ nhất cốt ở biết rằng tất cả
chúng ta đều
lệ thuộc vào khổ đau. Trước hết là khổ đau
gắn liền với thân phận con người, dù những
cá nhân có khác nhau thế nào đi nữa. Mỗi người đều phải đương đầu với những khó khăn và nhọc nhằn không thể tránh dính liền với
hiện hữu của mình : sanh, bệnh, già và chết. Đó là những
sự kiện không thể
đảo ngược của
cuộc đời và người ta chẳng thể làm gì cả, dù cường độ của mong muốn khỏi khổ của
chúng ta có đến mức nào. Không có chỗ nào để
trốn tránh sự thoát mất của
thời gian –
vô thường – và phần khổ đau của nó. Người ta là một kẻ bị kết tội chết được
thường xuyên hỗn lại ngay từ phút giây mới sanh ra.
Ngoài những khổ nhọc chung cho mọi
cuộc đời này, còn có những
vấn đề đặc biệt cho mỗi
cá nhân. Dầu
hoàn cảnh của mỗi người có thế nào, không ai có thể
trốn tránh. Những khó khăn của người nghèo thì
rõ ràng : chỗ ở thậm chí cả cái ăn và sống trong
lo âu không thể
cung cấp một đời sống đàng hoàng cho
gia đình. Nhưng người
giàu sang cũng không được
miễn trừ. Họ có những
lo lắng riêng, như sợ mất tiền, sợ tiền bạc làm cho hư hỏng, không có bạn bè
chân thật yêu quý mình thật sự chứ không phải vì
tài sản. Dù
thông minh hay
thiển cận, luôn luôn vẫn là một sự việc : những người tài giỏi luôn luôn có nhiều
vấn đề, mặc dù – hay có lẽ là bởi vì – những
tài năng và phẩm chất
đặc biệt của họ, trong khi những người khả năng
giới hạn hơn
cảm thấy dễ dàng bị những
biến cố nhỏ nhất
vượt qua.
Có một điều quan trọng cần hiểu đối với người muốn khai triển nơi mình lòng bi : không khó để
cảm thấy xúc động khi thấy những người
bất hạnh biểu
hiện ra rõ ràng, nhưng không phải những người không có vẻ
bất hạnh hay
nghèo khó lại không khổ đau, theo cách của họ. Hơn nữa, người có vẻ bằng lòng làm nhiễm độc
cuộc đời của những người khác có lẽ không nghèo hay bệnh, nhưng nó là
vô minh : đó là bệnh tật tệ hại nhất, vì chính
vô minh là nguồn gốc của mọi bệnh tật và khổ đau.
Tự nhiên thì
thường thường người ta
nổi giận với loại người đó ; nhưng chính nơi đó mà người ta cần trau dồi lòng bi, khi hiểu rằng họ làm hại cho
chúng ta bởi vì
ác tâm thì ít mà
vô minh thì nhiều. Cũng giống như con rắn cắn đứa bé chơi trong bụi cỏ : con rắn không chủ định làm hại đứa bé, nhưng nó không hiểu rằng nó chẳng có gì phải sợ cả. Nó đã
hoạt động một cách
mù quáng, dưới
ảnh hưởng của
sợ hãi và
vô minh.
Đó là một
suy xét rất có ích cho
chúng ta khi
chúng ta có những
phiền não với một người nào đó, để tránh
nổi giận, mà
trái lại, dùng tình huống để làm lớn thêm lòng bi. Thông thường, người ta có nhiều khuynh hướng
tuân theo xu hướng tự nhiên bình thường và
ích kỷ và
phản ứng trong chiều hướng những
lợi ích riêng mình.
Vậy thì, đối với người
tìm cách khai triển
từ bi nơi mình, thiết yếu hãy thử đặt mình vào
địa vị của những người khác và thấy những sự việc từ
quan điểm của họ : không làm cho những người khác điều mà mình muốn họ không làm cho mình, và cho họ
hạnh phúc mà họ đang muốn cho chính họ. Khi
cảm thấy ít khác biệt với người khác,
chúng ta sẽ trở nên ít
thản nhiên lạnh lùng hơn, và một sự hòa điệu nào đó trở nên có thể.
Một khi người ta hiểu rằng tất cả đều bị gộp chung trong cùng một lời
giáo huấn – phù du và khổ đau – người ta có thể qua giai đoạn hai của cuộc
hành trình : trau dồi
ham muốn nồng nhiệt giúp đỡ
mọi người thoát khỏi ách nạn của khổ đau. Người ta không chừa ai cả : lòng bi
chúng ta nhắm đến ở đây là không
thiên vị và vô
điều kiện, nó đến với mọi
chúng sanh, vì
sự kiện đơn giản rằng họ
hiện hữu và phơi mình dưới khổ đau.
Có lẽ người ta khó tưởng tượng ra lòng bi
không giới hạn này, vì người ta đã có
thói quen lựa chọn giữa vài người được chọn mà người ta xem là xứng đáng với “tình yêu” của họ với tất cả những người khác, mà người ta ném vào sự
thản nhiên cho đến thù ghét. Chiều sâu và phẩm chất của một tình cảm như vậy có lẽ
tìm thấy hình ảnh của nó trong
tình thương nối kết một bà mẹ với đứa con, mà ở đây nó được thêm vào một chiều kích không
thiên vị và phổ quát : một
tình thương vô
điều kiện ôm lấy mọi
chúng sanh một cách
bình đẳng.
Một khi người ta
thoáng thấy một ít
bản chất của lòng bi, người ta có thể khai triển nó trong mình. Người ta nghĩ đến một người rất
thân thiết – nói chung, bà mẹ mình, nhưng người ta cũng có thể chọn một người khác nếu thấy khó khăn – và người ta tập
ý thức trước tiên tất cả chiều sâu của những tình cảm mà người ta
cảm thấy đối với người thân ấy. Rồi người ta tưởng tượng rằng mẹ mình – hay người thân – đang bị khổ sở. Thế là
hoàn toàn không thể
chịu đựng nổi, người ta chỉ có một mong muốn :
tìm ra phương tiện để
chấm dứt những khổ sở ấy càng nhanh càng tốt. Lòng bi chính là như vậy :
ham muốn mãnh liệt
chấm dứt khổ đau của những người khác.
Ban đầu, sẽ
dễ cảm thấy với người mẹ hay một người người ta
thương yêu nhiều, nhưng một khi tình cảm này đã
thiết lập được nơi mình đối với một người, người ta sẽ
dần dần tập trải tình cảm đó cho những người khác.
Dần dần, người ta
thành thật cầu mong điều ấy cho người
bạn thân nhất, rồi cho những người khác ít gần gũi hơn, rối đến những láng giềng, và cứ
thế cho đến ngày người ta
cảm thấy cùng một mong muốn cho tất cả, thậm chí với người trước kia người ta
xem như kẻ thù.
Tình thương chân thật và lòng bi là cái đối nghịch với
thói quen thiên chấp của
chúng ta. Người ta cũng có thể
lợi dụng những
suy nghĩ này để
hiểu biết tính chất chuyên chế và thay đổi của những
quan niệm bạn và thù : bạn hôm nay có thể thành thù ngày mai và ngược lại. Người ta có lợi gì đâu khi cho những
phân biệt này là nghiêm
túc thế kia và biến chúng thành những
thực tại quá cứng chắc trong
tâm trí mình ?
Một
chi tiết khác quan trọng : lòng bi phổ quát,
vũ trụ không giới hạn vào
nhân loại, nó bao trùm
toàn thể sự sống. Như
chúng ta, những con vật
lệ thuộc vào khổ đau nội tại trong mọi
hình thức hiện hữu, nhưng
hoàn cảnh của chúng thì tệ hơn của
chúng ta, vì
vị trí thống trị của
chúng ta trong
thiên nhiên. Hãy tưởng tượng bạn đang ở dưới lớp da của một con
thú vật : bạn sẽ khó khăn tự nuôi sống mỗi ngày, rồi những đứa con nhỏ của bạn, bạn sợ loài thú khác và
loài người săn bắn đôi khi chỉ để
vui chơi. Hãy tưởng tượng một chốc bạn là một con cá, một con sâu
lềnh bềnh trên mặt nước, bạn há miệng đớp mồi, và một sự
đau đớn khủng khiếp hủy diệt bạn khi một luỡi câu xé rách cổ họng bạn. Trên kia, người câu kéo dây ;
dưới nước móc câu đâm sâu vào đầu,
thân thể bạn quằn quại
đau đớn kịch liệt. Rồi
thình lình, còn tệ hơn cái đau đang còn đóng đinh bạn, bạn đã ở ngoài nước, không thở được, không khí tấn công bạn. Sự
nổ bùng của
đau đớn mới khi người ta rút lưỡi câu ra khỏi miệng bạn,
va chạm với đất ; bạn cháy bỏng bên trong, mang phập phồng, mong có chút nước, mắt mờ đi và suộc sống từ từ
thoát khỏi bạn... Người ta có thể nhân sự
thực tập lên
vô tận, khi thì làm con thỏ, con chồn, con chim...
Chắc chắn người ta sẽ
ý thức được thế nào là một
cuộc đời và những khổ đau của một con thú, và một sự
kính trọng nào đó đối với sự sống, dưới mọi
hình thức. Dù cho
chúng ta không có quyền để lật đổ
thái độ và tổ chức của cả một
xã hội, mỗi người trong
chúng ta ít ra có thể
cố gắng, ở mức độ của mình, tốt với loài vật và tránh làm nặng thêm những khổ đau của các tạo vật khác cùng
chia xẻ,
thừa hưởng trái đất với
chúng ta.
Đáng
ca ngợi khi biết rằng mọi
chúng sanh đang
đau khổ và muốn làm cách nào cho sự việc ấy
chấm dứt. Nhưng như thế chưa đủ : còn phải
đi vào hành động. Và chính đó là giai đoạn thứ ba của sự khai triển lòng bi : người ta thử làm việc gì trong khả năng mình để
chấm dứt sự khổ đau của những người khác.
Làm thế nào bắt tay vào giúp đỡ những người khác ? Bằng cách nhờ vào
kinh nghiệm của riêng mình, vì làm sao thực sự giúp đỡ một người có những
vấn đề khó khăn nếu người ta không biết
đảm nhận những khó khăn riêng của mình và đối mặt với những khổ đau
của riêng mình ? Khi người ta đã tự giúp mình được, người ta có thể giúp được những người khác. Điều này đưa ta
trở lại một lần nữa sự
cần thiết phải
trước tiên làm việc trên chính mình. Như người ta đã thấy ở trước,
thế giới chúng ta tri giác là
hình ảnh của
chúng ta : người ta càng có khuyết điểm nơi mình, người ta càng
tìm thấy những khuyết điểm nơi những người khác. Không phải cố làm chúng thay đổi hay ghét chúng ; sự việc sẽ
trôi chảy nếu người ta thử trau dồi một
thái độ lòng bi đối với chúng, khi
hoàn toàn tiếp tục làm việc trên chính mình.
Tình thương và lòng bi
chắc chắn là những phẩm tính
kỳ diệu có
quyền lực biến chuyển cuộc đời của
chúng ta. Nhưng có lẽ có một số người trong
chúng ta nghi ngờ về chính họ và về khả năng tiến hành một đường lối như vậy : người ta cần một cú
thúc đẩy nhỏ để tiến về phía trước.
Vậy thì, trong
gương mẫu những người khác người ta có thể
tìm thấy một sự khuyến khích như vậy : có biết bao người đàn ông và đàn bà trong
quá khứ đã
đi trước chúng ta trên
con đường tâm linh này cũng như một số người đương thời. Không phải do
sức mạnh của lưỡi gươm, của tiền bạc hay những bằng cấp mà những bậc Thánh vĩ đại hay những
vị thầy tâm linh đã được
nhân loại ghi nhớ : chính là điều họ đã làm cho những người
xung quanh. Chính là
tình thương, lòng bi, sự khiêm hạ và sự hiến mình
toàn diện cho sự
tốt đẹp cho những người khác đã khiến một Francois d’Assie hay một Milarepa, chỉ kể hai người thôi, đã có thể giúp đỡ biết bao người, không chỉ trong
thời đại họ, mà còn sau khi họ chết. Và cũng những phẩm chất đó người ta
tìm thấy ở một số người đương thời đã
hoàn toàn hiến dâng đời mình cho sự
phụng sự những người khác, như mẹ Teresa hay
tu viện trưởng Pierre. Ở một cấp bậc khiêm tốn hơn, người ta cũng thấy chung quanh
chúng ta có nhiều người
quan tâm đến việc khác hơn là sự an sinh của chính họ và của những người thân, chẳng hạn góp tiền vào những tổ chức
từ thiện hay làm việc trong đó, đỡ đầu cho trẻ em
thế giới thứ ba, đem lại một sự
an ủi và một
hiện diện ấm áp cho những người bệnh và người sắp chết, hay giúp đỡ những người không
nơi nương tựa của
xã hội chúng ta. Mọi hành động này theo chiều hướng tốt, khi nào người ta
đơn giản bị điều động bởi mong muốn giúp đỡ và làm nhẹ cho những người khác, mà không phải vì nhu cầu
thỏa mãn tà tâm hay vì những
ham muốn vinh danh
cá nhân. Hơn là cứ bị
đè nặng bởi sự bất lực và những
giới hạn cá nhân,
chúng ta hãy rút nguồn
cảm hứng trong sự khẩn thiết cần giúp đỡ của những người đang khổ đau và trong
gương mẫu tích cực của những người đã giúp đỡ họ.
Hoàn toàn ý thức về những
chướng ngại,
cạm bẫy của lòng
ích kỷ hiện thời của
chúng ta, phải học
tin cậy vào tiềm năng lòng bi này tạo thành
bản tánh thật sự của
chúng ta, vào
quyền lực của
tình thương vô
điều kiện đang ngủ trong lòng
chúng ta và nó chỉ cần được
đánh thức để cho tất cả đều
biến hình,
chuyển hóa trong
chúng ta và chung quanh
chúng ta. Chính là khi trui rèn mà người ta
trở thành thợ rèn...
Chính trong
thực tế hàng ngày mà người ta học trau dồi lòng bi. Sanh, lão, bệnh, tử diễn ra hàng ngày, sự khổ đau,
cô đơn,
đơn độc xảy ra hàng ngày. Rất tốt khi có một
tâm hồn rộng rãi và những
tư tưởng rộng lượng và rõ biết những kỹ thuật thư giãn, nhưng tất cả những
lý thuyết đẹp đẽ này chẳng giúp ích gì nhiều nếu người ta đóng kín và co lại
trong đời sống thường nhật. Khi người ta có một con ngựa giống, người ta không để mặc nó trong chuồng ngựa, người ta cỡi nó hàng ngày,
nếu không nó chẳng dùng được gì và
hình dáng đẹp đẽ sẽ mất đi. Lòng bi không phải là một phòng
đẹp đẽ của
bảo tàng viện mà người ta xếp vào một góc để
thỉnh thoảng ngắm nghía,
tán dương, sùng mộ và
cảm động rơi lệ. Đó là một
sức mạnh lớn dần khi người ta
nuôi dưỡng nó mỗi ngày bằng máu thịt của mình, bằng những nụ cười và những nước mắt, bằng những
sức mạnh và những
yếu đuối, bằng những giấc mơ và những
thất vọng, và nó
hoàn thành khi cho mỗi khoảnh khắc của
đời sống một chớp sáng của sự
toàn thiện.
Không phải vì người ta
nỗ lực thực hành lòng bi để chờ đợi được đền trả, và để
nổi giận nếu những người khác không
nỗ lực như
chúng ta.
Tình thương không phải là một tương tác buôn bán : tôi cho anh cái này, nếu anh cho tôi cái kia. Nếu người ta không biết cho một cách vô
điều kiện,
tình thương sẽ ô uế bởi
ích kỷ và
tiếp tục cô lập chúng ta với những người khác thay vì đem
chúng ta xích lại gần họ. Lòng bi, đó là
lơ là một chút với chính mình để
lưu tâm hơn đến những người khác. Người
ta ra khỏi tháp ngà của mình, khỏi cái thấy quy ngã khi nhìn
thế giới ; khi
tỉnh lại trong cảnh quan của
thực tại, người ta
tri giác tốt hơn sự tương đồng
căn bản của tất
cả đời sống.
Lòng bi vượt khỏi sự
phản ứng đơn thuần đối với sự
đau khổ của người khác ; nó cũng
giả thiết một sự
thông minh nào đó về
tình thế của người kia. Chẳng hạn, nếu một người nghiện rượu đòi bạn cho uống, hay một người chơi
ma túy xin bạn tiền để mua héroine, không phải là
lòng tốt khi
đáp ứng cho họ. Lòng bi phải đi đôi với một
trí huệ nào đó,
nếu không người ta sẽ làm điều
xấu hơn là tốt, với những
ý định tốt đẹp hơn cho
thế giới. Phải biết
đánh giá khi nào nên làm hay không nên, và bằng cách nào. Khi người ta chưa đủ lòng bi để làm chủ chính những xúc tình của mình,
tốt hơn là chớ nên
đi vào những
hoàn cảnh quá
tế nhị.
Điều đó nói lên rằng quan trọng là không
tìm cách làm
quá mức khả năng của mình, ở mỗi giai đoạn
tiến hóa.
Cố gắng làm tốt nhất để giúp đỡ những người khác, hẳn thế, nhưng chớ quên rằng người ta không phải là một loại
siêu nhân cứu độ của
nhân loại.
Chúng ta hãy luôn luôn nhớ rằng nguyên tắc thiết yếu là luôn luôn không làm gì, nói gì, nghĩ gì có thể làm hại cho những người khác. Lòng bi sẽ lớn lên và an vững nơi
chúng ta từng bước nếu
chúng ta biết
tỏ ra kiên nhẫn, khiêm hạ và
thực tiễn đối với chính mình,
cẩn trọng và
nhạy cảm đối với những người khác, tất cả kèm theo một
lương tri và một ít khôi hài.
Một khuyên nhủ cuối : chớ hỗn lại ngày mai điều
chúng ta có thể làm hôm nay, về sự làm chủ
tâm thức cũng như về lòng bi. Người ta
thường có khuynh hướng tự nhủ rằng mọi điều đó thì rất
tốt đẹp, nhưng người ta sẽ có
thời gian để
quan tâm đến chúng sau này, khi người ta đã kiếm được chút ít những
lạc thú của
cuộc đời.
Tuy nhiên chúng ta hãy
coi chừng thả mồi bắt bóng : những
lạc thú của
chúng ta cũng phù du như bông tuyết dưới
ánh mặt trời và những sự vật và những
con người hôm nay làm nên
hạnh phúc của
chúng ta có thể sẽ là
nguyên nhân của những giọt nước mắt của
chúng ta ngày mai. Tất cả đều qua đi, tất cả đều
mệt mỏi, tất cả đều tan vỡ. Và người ta
cuối cùng mới hiểu rằng không đâu khác ngoài chính mình mà người ta phải
tìm kiếm cội nguồn của
hạnh phúc đích thực. Điều đó không có nghĩa phải từ chối những niềm vui mà cuộc sống có thể mang lại cho
chúng ta, mà không đầu tư hết mình vào đó, bởi vì những
lạc thú thì
mong manh và sự đếm ngược tiến về cái chết
theo đuổi không ngừng. Trong nhãn quan của lòng bi,
chúng ta có thể sống với đôi tay và tấm lòng rộng mở với cái gì xảy ra, sẵn sàng làm tốt nhất điều mà mỗi tình huống đòi hỏi
chúng ta, càng ngày càng có khả năng
thương yêu và giúp đỡ những người khác bởi vì
chúng ta làm chủ
tốt hơn tâm thức của mình.
Không ai có thể lẩn tránh cái chết, nhưng người ta có chọn lựa sống
tốt đẹp hơn :
chinh phục con cọp
tâm thức để
tránh khỏi việc chính mình là
nguyên nhân cho những khổ đau của chính mình và của những người khác, và để cho
sức mạnh của lòng bi hướng dẫn hầu cho
chúng ta cơ hội để sống
tốt hơn – nơi chính mình và cùng với
toàn thể – để rút ra phần
lợi lạc nhất có thể có của sự băng qua phù du của
chúng ta trên trái đất này.
CHƯƠNG X
SỰ CHÚ Ý CẨN TRỌNG
HAY
CON CỌP ĐƯỢC THUẦN HÓASự việc đơn giản là buông xả toàn diện và quan sát cái gì đang xảy ra sẽ cho bạn một sức mạnh vĩ đại.
MilarepaMột phần lớn những
vấn đề khó khăn người ta gặp
trong đời sống mọi ngày là do một sự thiếu chú ý về phần
chúng ta. Luôn luôn người ta làm một cách xung động, theo những tình cảm
nhất thời, không chú ý đến
bản chất của những hành động của mình hay những phản hồi của chúng lên chính mình hay lên những người khác. Khi với một
cẩn trọng tối thiểu, người ta có thể thấy biết những
tư tưởng và tình cảm của mình ngay lúc chúng
xuất hiện, và vậy là
ý thức được cái
thúc đẩy chúng ta hành động. Thay vì để cho bị
lôi cuốn một cách
mù quáng thụ động phải làm
hay nói những điều mà sau đó người ta sẽ
hối tiếc, người ta
ý thức những
động lực của chúng và người ta có thể hành động trong sự
hiểu biết rõ ràng nguyên nhân. Khi người ta
chú tâm vào cái gì đang xảy ra nơi mình, người ta không
bị bắt buộc làm món đồ chơi cho những tình cảm của mình nữa ; thay vì để cho những
phản ứng xung động và
thói quen cuốn trôi, người ta
trở thành người chứng và người
diễn viên sáng suốt của cái đang chuẩn bị trong
tâm thức và của những hành động có từ đó.
Nếu
thiền định nhắm vào việc phát triển chú ý và
cẩn trọng, thì đó không phải là những phẩm chất
đặc biệt tâm linh hay những
đức hạnh bí truyền dành riêng cho những người
quan tâm đến
tâm linh. Thật vậy, không có gì thường ngày và
bình thường hơn chú ý, vì người ta không thể làm gì mà không có nó. Không ngừng có hàng đống sự việc cần có sự chú ý :
thời giờ, cách người ta
ăn mặc y phục, cách người ta băng qua đường, lái xe và đậu xe, cái người ta ăn, cái người ta làm... Chú ý, là
cố gắng nghĩ đến một sự việc
nhất định,
ý thức nó mà không để cho chuyện khác làm
xao lãng.
Vậy thì chú ý và
cẩn trọng không phải là những
quan niệm trừu tượng hay những
đức hạnh ngoại lai, mà là những dụng cụ
cần thiết cho sự sống còn và cho sự
an toàn hàng ngày của
chúng ta. Và hơn nữa, nếu người ta học cách phát triển nó, thì chính nhờ những công cụ này mà người ta có thể
chinh phục con cọp và khiến nó phải làm điều mà người ta chờ đợi ở nó.
Đời sống hàng ngày đầy những cơ hội để
thi hành sự chú ý, và
thiền định cho ta một
toàn bộ những kỹ thuật
cho phép phát triển nó đến mức
tỉnh thức với mọi khoảnh khắc của cái đang xảy ra trong
tâm thức.
Vậy thì có một bổ túc cho nhau
rõ ràng giữa đời thường hàng ngày và
thiền định.
Tuy nhiên có người tưởng tượng rằng
thiền định là một cách
trốn thoát những
thực tế của
đời sống và quay lưng với những
vấn đề của nó bằng cách trầm mình trong những thiền “hư không”. Chính điều ngược lại mới đúng và ít ra đối với cái
thiền định xứng đáng với từ này, và không phải những
giả mạo của những thầy lang bịp bợm hứa hẹn với bạn cái
phúc lạc tức thời và những
quyền năng huyền thuật.
Thiền định chân thật không phải được
thực hành để
nuôi dưỡng những ảo vọng
hoang đường của
chúng ta và
củng cố cho cái nhìn
ích kỷ của
chúng ta về
thế giới,
trái lại nó nhắm đến việc đưa
chúng ta đến gần thực tại của cái mà
chúng ta thực sự là. Nó
loại bỏ những méo mó
ngăn cản chúng ta có một
nhận thức đúng về chính mình, và về
thế giới, về những người khác đúng như họ là. Về tiến trình phát triển sự chú ý,
thiền định giống như một pha
tu hành mãnh liệt, còn cái hàng ngày vừa như một chỗ thử cái người ta đã học vừa như một chỗ chứa những
kinh nghiệm mới để
nuôi dưỡng và
kích thích thiền định.
Phần đông
chúng ta tự bằng lòng ở lại trong một giai đoạn
sơ khai của sự phát triển chú ý, chỉ đủ để làm gấp những chuyện thông thường.
Tâm thức tập trung một cách
chừng mực – nhiều hay ít – trên một đối tượng mà bên ngoài khuyến khích sự chú ý vào giây phút đó, nhưng nó luôn luôn sẵn sàng
trả lời tức khắc cho một khuyến khích khác làm
vui lòng nó hơn. Nhưng người ta không biết những tiến trình
tâm thức diễn tiến trong
chúng ta ngay
cùng lúc đó, nơi tấm màn phông. Người ta không
ý thức những
tư tưởng, những
cảm giác và những tình cảm nổi lên không ngừng trong
tâm thức, định hình
tri giác của
chúng ta về những sự vật và những
phản ứng của
chúng ta về những
biến cố. Người ta chỉ thấy cái xảy ra trên sân khấu và không thấy trong hậu trường. Và bởi vì người ta không thấy những xung động, những động cơ
trong sáng của mình mà nhiều khi người ta có những
phản ứng, đối xử
vô lý, không được
kiểm soát gây ra bao nhiêu
hỗn loạn cho
cuộc đời.
Mối tương quan của
chúng ta với những người khác và với
thế giới hoàn toàn được xác định bởi cái xảy trong
tâm thức chúng ta, và nếu người ta biết chú ý vào
tâm thức, người ta
ý thức được
tác động,
ảnh hưởng mà những
hành vi nhỏ nhất của
chúng ta có thể có trên những người khác. Người ta học
nhận diện điều mà người ta
cảm thấy –
giận dữ,
ghen ghét,
ham muốn – điều này không hàm ý rằng người ta
nuôi dưỡng tình cảm đó, hay ngược lại đè nén nó, bởi vì cách nào thì một ngày nào đó nó sẽ
nổ bùng. Người ta bằng lòng
nhận ra sự
hiện diện của nó, không để cho mình hành động một cách xung động
vô ý thức, vì người ta biết những
thiệt hại người ta có thể gây ra cho những người khác.
Hẳn nhiên, nói thì dễ dàng hơn là làm, và phải đã có một sự
tu tập chú ý nào đó khả dĩ cách ly đủ với
tư tưởng và những tình cảm của mình để không
phản ứng tức khắc. Nhưng chớ có tin rằng điều ấy sẽ làm cho
cuộc đời chúng ta thêm
rắc rối,
phức tạp, mà
trái lại. Người ta không
tìm kiếm sưu tập thêm những nguyên tắc và những
mánh lới, mà tự để
cho không gian
cần thiết để thấy rõ hơn, khi
giản dị hóa một chút những sự vật. Người ta càng cần điều này khi cuộc sống trong những
xã hội hiện đại đã đủ
phức tạp và
cuồng loạn.
Chính khi học tập trung sự chú ý mà người ta
tìm ra không gian cần thiết để
nhận diện cái gì đang xảy ra nơi mình và
thụt lui khá đủ đối với cái ấy. Tập trung, đó là
giản dị hóa : thay vì phân tán sự chú ý của mình trên nhiều sự vật, người ta chỉ
để tâm vào một cái – một cách chú ý, và do đó có
hiệu quả, không mất
thời gian. (
Trái với điều người ta thường tin, người ta không có
thời giờ làm nhiều việc một lúc, vì chú ý không thể
hiệu quả khắp nơi vào cùng một lúc.) Một vị thầy
Tây Tạng vĩ đại đã nói :
tâm thức phải ở nơi đâu
thân thể ở. Điều này có vẻ là một điều
hiển nhiên, nhưng trong
thực tế, hiếm có người sống được như vậy. Phần lớn
thời gian, người ta làm một việc mà nghĩ đến một việc khác ; người ta
xao lãng bởi cái xảy ra chung quanh – một
hình ảnh, một
âm thanh, một mùi hương –, hay để mình chìm vào cuộn phim bên trong của mình – một
cảm giác, một
tư tưởng, một tình cảm. Đến độ
cuối cùng một sự lầm rối lớn lao ngự trị và người ta hiểu sai cái gì đang xảy ra, người ta là cái gì, người ta làm điều gì và tại sao người ta làm thế.
Tâm thức thường được
ví như một cái ao : nếu người ta khuấy nó với một cây gậy, nước trở nên
vẩn đục và mọi
phần tử nhỏ
lơ lửng trong đó. Ngược lại, nếu người ta ngừng lay động và để nước yên nghỉ, mọi thứ cặn dơ làm nước
vẩn đục dần dần lắng xuống đáy ao và nó
lấy lại sự
trong sạch ban đầu.
Tâm thức giống như nước
trong sạch mà cơn lốc không ngừng của những
tư tưởng, tình cảm và
cảm giác có thể làm
vẩn đục ; và người ta càng kích động nó, càng có sự
hỗn loạn. Nhưng khi người ta biết để cho qua những
biến cố tâm thức này, không xáo động chúng,
tâm thức tìm thấy lại sự
trong suốt ban đầu của nó.
Làm thế nào học không xáo động nước trong ao ? Trước hết người ta thư giãn, rồi, vẫn không co rút, người ta
quan sát cái gì xảy ra.
Ban đầu, có lẽ người ta sẽ không thấy
rõ ràng lắm, bởi vì có nhiều sự vật chen chúc nhau trong mọi hướng. Nhưng nếu người ta
cẩn thận, như con mèo rình con chuột mà không làm ra vẻ rình mồi, người ta
dần dần nhận ra một số
yếu tố, chẳng hạn như một
tư tưởng – “tôi sẽ ăn cái gì trưa nay” –, một
cảm giác – “tôi đau đầu gối” –,
theo sau một
tư tưởng khác – “tôi nghe ra-dô của những người hàng xóm” –, và trong đám ấy, một
cảm giác – “chúng nó làm ta bực mình”. Và cứ như thế. Khi người ta làm bình lặng trò chơi, nghĩa là khi người ta rút lui và
quan sát quang cảnh mà không gia thêm gì cho nó, người ta bắt đầu thấy cái gì xảy ra. Nếu bạn bị lọt trong một đám đông đang đi trong đường phố, bạn sẽ không biết chuyển động tổng quát của sự giao thông, nhưng khi bạn tách rời đường phố và bạn nhìn người ta từ cửa sổ của một căn nhà, bạn sẽ có một cái nhìn
toàn bộ về tình huống.
Thiền định, theo nghĩa
chúng ta hiểu, không phải là sự
chiêm nghiệm một
ý tưởng. Người ta chỉ
đơn giản trở thành một người
quan sát không
tham dự, người ta tự cho mình
thời gian và sự lùi lại
cần thiết để tri nhận cái gì đang xảy ra nơi mình : vì
bình thường tất cả đi qua nhanh quá đến
độ người ta không thấy gì cả. Đấy cũng hơi giống như khi người ta
hoàn thành một cuộn phim : phải làm cho nó diễn ra chậm lại, hình này sang hình khác, để có thể
nhận diện rõ ràng mỗi cảnh và thấy cần cắt bớt hay thêm chỗ nào. Người ta tập
quan sát tâm thức : người ta để cho
tư tưởng đến và đi
tự nhiên, theo ý chúng, không
can thiệp để dừng chúng hay để
kích thích chúng. Không phải phân tích hay
đánh giá những
tư tưởng,
chấp nhận những
tư tưởng tốt và bỏ đi những
tư tưởng xấu. Việc đó thuộc về những loại
thực hành khác. Ở đây người ta không phải là một người
kiểm duyệt ; người ta thử làm một người
quan sát vô tư mọi
tư tưởng của mình, dù chúng có thế nào ; chúng chỉ đáng
lưu tâm vì chúng là những chuyển động của
tâm thức.
Vậy thì không phải khó nhọc để phấn khích với một
tư tưởng “tốt” và
theo đuổi nó, để choáng váng bởi một
tư tưởng “vô đạo đức” hay khiếm nhã và
tìm cách triệt tiêu nó bằng võ lực, hay
cảm thấy chán nản bởi sự tầm thường không có gì
đặc sắc của những
tư tưởng. Chỉ
tiếp tục nhìn cái gì đang xảy ra mà không hòa lẫn vào nó, không
tìm cách uốn nắn đường đi của những sự vật. Nhờ
không gian do sự không
tham dự của
chúng ta tạo ra, người ta sẽ
dần dần thấy nó rõ hơn. Người ta sẽ có thể ở yên trong sự chú ý và
cẩn trọng với
cảnh tượng của những
tư tưởng của mình, không để cho chúng cuốn đi hay để cho
xao lãng bởi những
yếu tố bên ngoài. Khi người ta
đạt được sự làm
chủ sự chú ý của mình,
tâm thức có được một
an định nào đó : nó trở nên bình yên hơn. Con cọp bắt đầu
thuần hóa. Điều đó
tùy thuộc vào giai đoạn thứ nhất của phát triển chú ý :
tâm thức trở nên tĩnh lặng và bình yên.
Giai đoạn
tiếp theo là lúc mà
tâm thức đã ổn định, nó
xuất hiện bằng tất cả sự
sáng tỏ của nó và người ta có thể thấy cái gì đang xảy ra ở đó.
Lấy lại ví dụ
mới đây của
chúng ta, nước
trở lại trong trẻo hoàn toàn khi người ta để cho nó yên nghỉ và nó lóng những cặn dơ của nó. Người ta càng
tiến bộ trong sự làm chủ chú ý,
tâm thức càng trở nên yên tĩnh và
trong sáng ; điều này không phải nói rằng không có gì xảy ra nữa, như người ta đã qua một cơn mổ thùy não. Tất cả những chuyển động
tự nhiên của
tâm thức vẫn
tiếp tục –
tư tưởng, tình cảm,
cảm giác – nhưng người ta thấy chúng rất
rõ ràng, người ta
ý thức được chúng.
Vậy thì người ta có thể hành động trong sự
sáng suốt minh bạch,
hiểu rõ nguyên nhân, và không mù mờ. Người ta không bị lôi kéo dật dờ bởi mọi thứ đi qua trong đầu
chúng ta. Từ đó là một cảm thức
bình an sâu xa ; một hòa bình đích thực, vì nó không
tùy thuộc vào một cái gì bên ngoài mình. Khác với những
hạnh phúc quen thuộc của
chúng ta, cái này là vô
điều kiện : đó là một
sức mạnh luôn luôn
hiện diện ở đó, thậm chí giữa những
khổ cảnh tệ hại nhất. Không khó thấy mình “khỏe mạnh, sung mãn” khi người ta
an ổn ở nơi nhà mình, với những người mình
thương yêu và với
âm nhạc : người ta dễ dàng
cảm thấy tâm thức bình an. Nhưng có như vậy không khi xe người ta hỏng máy giữa lúc xe cộ nghẽn lối, khi người ta nhận được giấy cho thôi việc, khi người ta biết được vợ mình hay chồng mình lừa dối hay
đơn giản khi người ta đau ở một chỗ nào đó ? Khi con cọp đã được nuôi dạy thuần,
tâm thức giữ được sự
vững chắc, phẩm chất
thanh bình như nhau trong mọi
trường hợp : bên ngoài, sự thay đổi màu sắc của cái hàng ngày vẫn theo dòng của nó, và như vậy, mặt ngoài chẳng có gì thay đổi, nhưng bên trong,
tâm thức đã
tìm ra một điểm neo đậu – đến nỗi mọi sự đều khác. Không có gì thay đổi, nhưng tất cả đều khác. Thay vì để cho bị lôi kéo và
chìm đắm bởi những
biến cố – ngoài và trong – với đủ mọi
đảo điên thất vọng và khổ sở, người ta vẫn tập trung,
sáng suốt. Đó là sự
ích lợi của việc nuôi dạy con cọp :
tìm thấy chỗ neo đậu bên trong này, sự
vững chắc ổn cố phát sanh
an lạc này. Không có gì thay đổi cả, nhưng không có gì như cũ.
Thật vậy, không có gì phấn khích cho bằng một
viễn cảnh như thế : không có cái gì là
vững bền, cứng chắc và
bất động. Khi người ta biết rằng
chính tâm thức mình
quyết định tri giác mình có về
thế giới, người ta học làm cho những niềm vui và nỗi khổ của mình thành
tương đối, trong mức độ đấy là những
trạng thái chủ quan và
vô thường, chứ không phải là những
thực tại cứng chắc như cẩm thạch và bao giờ cũng
bất động. Vả lại điều đó cũng đúng với
thế giới bao quanh
chúng ta, nếu người ta
suy nghĩ kỹ. Thật vậy,
toàn thể vũ trụ và tất cả cái gì
chúng ta tri giác bằng
con đường giác quan là hợp tạo bởi những nguyên tử và những hạt dưới mức độ nguyên tử. Những
phần tử này tự
phối hợp và tổ chức dưới dạng vật thể hay những
năng lực vật lý mà những dụng cụ
giác quan của
chúng ta tri giác được, nhưng chúng không
hiện hữu theo cách
độc lập và cứng chắc. Sự
biểu lộ của chúng
tùy thuộc vào sự gặp gỡ của một tổng thể những
điều kiện khách quan – những
phối hợp đặc biệt những
yếu tố tạo thành chúng – và
tri giác mà một chủ thể có.
Vật lý học
hiện đại đã thấy rằng
vật chất, cái mà người ta trước kia vẫn cho là một
thực tại cứng đặc và
bất biến,
thực ra là một tổng hợp những
năng lực trong
tình trạng chuyển dịch
thường hằng,
liên tục tiến hóa, tự chỉnh hợp, tự
giải thể và tự tổ chức lại. Bài
thực tập số 5, “Cầu vồng” mà người ta sẽ thấy trong phần hai của cuốn sách này, chính là để
chúng ta hiểu rằng những sự vật ở quanh
chúng ta dù vẻ
bề ngoài của chúng không có sự cứng đặc
vững chắc mà người ta đã
gán cho chúng ; điều đó sẽ giúp
chúng ta có một bước lùi lại với
thế giới vật chất, để bớt bị
hấp dẫn, bị gắn chặt một cách
mù quáng với nó hơn.
Khi người ta ngừng “làm lay động ao nước” và
tâm thức trở nên
vững chắc và
trong sáng, người ta thấy cái người ta cho là
thực tại khách quan của
thế giới chỉ là một
diễn dịch chủ quan mà người ta tự tạo ra từ những phóng tưởng của người ta như thế nào. Như vậy, một người bị bệnh hoang tưởng tin rằng
mọi người ghét mình và
diễn dịch những
sự kiện và những
cử chỉ nhỏ nhất của người khác theo chiều hướng này ; đó là một
thí dụ cục bộ bởi vì nó thuộc về một
trường hợp bệnh lý, nhưng nó đáng để chỉ ra
rõ ràng rằng
ý nghĩ mà người ta tạo ra về những sự vật và về những
con người có thể đúc khuôn
tri giác của họ. Và điều đó đúng cho tất cả
mọi người, trong mức độ rộng lớn nhiều hay ít. Người ta thấy trong những lời dạy
truyền thống ngụ ngôn
tượng trưng minh họa đầy đủ sự việc này : một người
đi vào một căn phòng hơi tối, có một sợi dây thừng trên sàn nhà, và anh ta vấp vào nó mà anh ta tưởng là con rắn ; hoảng hốt, anh ta
chạy thoát ra ngoài và la. Người ấy không
phân biệt được sợi dây thừng, bởi vì trời tối ; có một
giải thích sai về
bản chất của một vật thật ra thì
vô hại, anh ta đã sợ và hành động
theo bản năng theo
ảnh hưởng của xúc cảm này.
Chúng ta hành động cũng giống gần như màn kịch ấy : vì người ta không thấy rõ trong
tâm thức mình, người ta
phân biệt lầm giữa cái đúng – những sự vật như chúng
trình diện với
chúng ta – và cái sai – sự
giải thích chủ quan của
chúng ta từ ý nghĩ
thành kiến nào đó khiến người ta yêu hay ghét cái gì,
hy vọng hay lo sợ,
tham muốn hay
kinh hãi nó.
Tiếp theo, người ta hành động một cách xung động
phản ứng theo xúc cảm ấy.
Lấy lại cùng
ẩn dụ trên, khi người kia thấy
rõ ràng sợi dây, sự
sợ hãi của anh ta, nó cũng thực như có một con rắn trong phòng, sẽ tự tan biến.
Cũng thế, nếu người ta có đủ sự làm chủ đối với
tâm thức để
tri giác cái gì đang xảy ra, người ta có thể
tiếp nhận những sự vật và những
con người “đúng như chúng đến” – thấy sợi dây thừng – mà không sửa sang chúng bởi trò chơi của những phóng tưởng của
chúng ta – biến nó thành một con rắn – và nhất là không
phản ứng một cách xung động trên căn cứ những
dữ kiện sai lầm kia –
kinh hãi và tháo chạy. Người ta sẽ
dần dần học để không tin những
tư tưởng và những
tri giác của mình là cứng như sắt, mà hơn nữa để xem chúng như một loại tạo dựng của
mê sảng.
Khi tự
thoát khỏi những
giới hạn mà một cái nhìn quá cứng ngắt và rắn đặc tạo ra,
ý thức thành
tinh tế và
mở rộng ; người ta nhờ đó có một
tri giác nhiều
sáng suốt hơn về chính mình, về những người khác và những nhu cầu của họ. Từ đó là sự quan trọng của việc
chế phục con cọp
tâm thức để có thể
thực hiện lý tưởng đại bi : những méo mó gây ra bởi
bản ngã càng bớt đi, thì người ta càng trở nên mềm mại dễ uốn và chú ý vào những người khác, và như vậy càng hiểu họ và giúp đỡ họ hơn. Khi cuộc tan băng của
bản ngã đã bắt đầu, tất cả cũng trở nên
linh hoạt như nước
ở chung quanh mình.
Hiệu quả tấm gương, bạn hãy nhớ.
Phải có sự
kiên trì vừa sự khôn khéo để trau dồi phẩm chất chú ý
cẩn trọng này, điều sẽ đem lại
bình an bên trong. Có một sự
quân bình tìm thấy trong
cố gắng : biết khi nào cần một ít chặt chẽ với mình, mà không quá
cưỡng bách, hay ngược lại khi nào nên rất
dịu dàng và ít mệnh lệnh. Người ta đang trong
địa vị một người
chinh phục muốn thuần phục một con cọp : phải đủ
cương quyết để con thú hiểu ai là chủ, nhưng khi mối tương quan đã được
thiết lập, người ta phải
tỏ ra thông cảm và hòa hỗn, để con cọp
chấp nhận được nuôi dạy. Một người
thuần hóa giỏi trước hết là một người
thương yêu và
tôn trọng con thú, và biết nó rõ đến nỗi ông ta biết lúc nào ông ấy có thể tiến đến để rút phần
lợi ích từ những phẩm chất của nó : còn có thể đòi hỏi nó thêm một chút
cố gắng hay
tốt hơn là tưởng thưởng nó một ít về điều nó đã làm được và để cho nó nghỉ ngơi. Nếu người ta quá đòi hỏi vào lúc
căng thẳng, con thú sẽ phóng tới và
trở thành nguy hiểm ;
trái lại vào những lúc khác, phải
tuyệt đối nắm đầu nó và không nhượng bộ,
nếu không chính nó sẽ bắt bạn phục tùng
ý chí của nó. Tất cả là một
vấn đề liều lượng và
thời khắc.
Những nguyên tắc dạy con cọp như vậy cũng
áp dụng vào
tâm thức.
Trước tiên phải
tìm cách hiểu rõ nó để biết nó
vận hành và
phản ứng lại như thế nào. Biết nó rõ một chút, người ta có thể
dự liệu những
phản ứng của nó và biết đối xử với nó thế nào, định liều lượng mạnh mẽ hay
dịu dàng. Một liều lượng
cố gắng nào đó là
cần thiết để tập trung và
duy trì sự chú ý,
nếu không người ta sẽ bị những cơn lốc của những
tư tưởng cuốn đi và người ta không thể
quan sát gì nữa.
Tuy nhiên, cũng không
cưỡng bách quá, vì sẽ mất
trạng thái thư giãn cần có để
quan sát quang cảnh bên trong. Nếu người ta cố gìm cương quá sự chú ý của mình, nó sẽ
nổi loạn và
lẩn trốn trong mọi hướng : con cọp
nổi loạn nếu người ta quá đòi hỏi nó vào lúc xấu.
Dần dần, người ta học để biết con cọp của mình và học
sử dụng đôi găng nhung và bàn tay sắt.
Nhưng phải làm gì khi không có
tiến bộ ? Bạn đã thử một cách
vô hiệu những
mánh lới quen thuộc, con cọp không biết
gì nữa : nó nhảy
lung tung trong mọi hướng, như thể nó
trở lại hoang dã. Nhất là chớ hoảng sợ : bạn hãy thư giãn, hãy cho mình một ít
không gian. Hãy
thụt lui trong
tâm trí, hãy “giải thể” bạn và chỉ nhìn những trò
nghịch ngợm của con cọp. Đó không phải là lúc quá
cưỡng bách, để kéo dây cương và tự
trách mắng bạn ; lúc đó là lúc thư giãn, mềm dịu và khôn khéo. Vào những lúc khác,
trái lại, bạn phải dùng
biện pháp mạnh, chẳng hạn khi bạn
cảm thấy con cọp chỉ chờ đợi một việc : đến ngủ trưa trong một góc và
mơ màng yên tĩnh không muốn bị
quấy rầy.
Không phải chỉ khi dạy mà người dạy thú và con thú của người ấy học biết lẫn nhau ; cũng có những giây phút thư giãn, chơi đùa,
săn sóc, những
bữa ăn. Mọi
biến cố nhỏ nhoi của cuộc sống hàng ngày giúp cho nảy sinh sự
tin cậy và cảm mến lẫn nhau. Như thế người ta sẽ
quan tâm theo đuổi mối
liên hệ với con cọp ngoài những thời dạy dỗ mãnh liệt – những bài
thực tập thiền định – bằng cách
áp dụng vào
đời sống hàng ngày những kỹ thuật nuôi dạy mà người ta đã khởi sự. Và việc đó càng
tiến triển, bạn càng
thông hiểu con cọp : nó càng lúc càng hiểu điều bạn muốn ở nó và sẽ càng lúc càng có thể làm điều bạn đòi hỏi nó.
Khi người ta nắm con cọp trong tay để dạy nó, một phần lớn công việc cốt ở thay đổi những phản xạ xưa cũ của nó và thay thế chúng bằng cái mới. Con cọp có những
thói quen của nó và không muốn người ta phá rầy. Có lẽ bạn có
cảm tưởng sự
chế phục nó xảy ra
tốt đẹp, rồi
thình lình, không
báo trước, con cọp phản kháng và muốn cắn. Những
thói quen có bộ da dày, cứng và
ảnh hưởng của chúng có thể được
cảm thấy rất lâu : người ta không nói đến “sức mạnh” của
thói quen đấy sao ? Hãy lấy một cuốn sách có những trang được xếp góc : một khi người ta làm chúng phẳng lại, chúng vẫn giữ lằn xếp và
tiếp tục cong lại như cũ một
thời gian.
Cũng thế, con cọp bên trong sẽ luôn luôn tìm lại những
thói quen cũ của nó và
chống lại. Mỗi lần phải
điều phục nó –
kiên nhẫn nhưng
cương quyết –
cho đến khi nó mất những
thói xấu và tạo thành những
thói quen mới mà người ta muốn đưa vào. Việc này không phải là không khó khăn, điều ngược lại mới là
ngạc nhiên. Bạn chớ sợ những trả ngược của cái tay quay, mà hãy thấy đó là một
chỉ dẫn cho những điểm mà bạn còn phải làm việc nhiều hơn. Những khó khăn là những phát giác cho những
yếu đuối của
chúng ta ; làm con đà điểu hay bỏ qua chúng khi nghĩ rằng chuyện đó sẽ ổn thỏa, như
phép lạ, thì chẳng ích gì.
Tốt hơn là ôm ngang lưng
vấn đề và
thu xếp nó
một lần cho hết thảy, sau đó không phải làm
trở lại.
Một
lời khuyên chót cho những người mới vào nghề dạy cọp : “Kiên nhẫn và
lâu dài hiệu quả hơn
sức mạnh hay
phẫn nộ.” Mỗi người
chúng ta là sản phẩm của một
lịch sử lâu dài gồm những
ảnh hưởng và những
yếu tố khác nhau, và người ta không thể mong làm thay đổi tất cả trong ngày một ngày hai. Người ta dấn thân vào một công việc dài hơi, nhưng với lòng bi như một chủ
công trình,
đạo đức như dụng cụ đo đạc, chú ý
cẩn trọng là bạn đường và
đời sống hàng ngày là xưởng làm việc, người ta sẽ có thể tiến hành
chương trình trong những kỳ hạn
tốt đẹp. Một khi người ta đã dấn thân vào
con đường này, mọi cái người ta làm đều tự động hòa nhập vào lộ trình bên trong. Từ nay, không có gì phải ném bỏ, không có sự
phân chia giữa cái
thiêng liêng và cái
phàm tục nữa : tất cả
trở thành một cơ hội để học và để hiểu. Người ta có thể làm ra ngọn lửa từ mọi loại gỗ : lửa cháy sáng, dù người ta có đốt bằng rác hay bằng gỗ tốt.
Đó là nghệ thuật nuôi dạy con cọp.
Hòa giải với chính mình, người ta cũng
hòa giải với
thế giới. Và chính trên lưng của con thú hoang
bình an và mạnh mẽ của mình mà một người dạy thú giỏi sẽ
tiếp tục băng qua những cánh đồng
bao la của
kinh nghiệm, giúp đỡ cho
mọi người tập sự dạy thú khác trong tương lai mà nó sẽ gặp trên đường.