PHẦN PHỤ THÊM
CHÂN DUNG CỦA MỘT NGƯỜI
NUÔI DẠY CỌP
Đứa bé “quý báu lớn lao”Em bé Akong sanh ngày Noešl 1939 ở Kham, trong miền Đông
Tây Tạng, một miền giáp ranh với Trung Hoa.
Vậy thì đó là một Khampa, như người ta gọi những người dân xứ ấy, họ hơi giống như những người đi khai phá thuở xưa và những cao bồi miền Viễn Tây của Hoa Kỳ : những người mà
tâm hồn trui rèn, mạnh mẽ,
mạo hiểm,
độc lập, dòng giống dân lục địa và chiến đấu (chính từ họ đã tuyển mộ được hạt nhân mạnh mẽ chống ngoại xâm).
Đứa bé chưa đầy hai tuổi khi một
phái đoàn nhà sư chùa Dolma Lhakhang đến nông trại của
cha mẹ đứa bé,
mang theo một lá thơ của Karmapa, vị tổ vĩ đại của
truyền thống Phật giáo Kagyupa truyền từ Milarepa
nổi tiếng, một trong những
gương mẫu đẹp nhất của lĩnh
vực tâm linh
nhân loại. Đứa bé được
công nhận là một
hiện thân mới – tulku – của một vị
trụ trì trước của
tu viện Dolma Lhakhang, đã được xem là “Akong thứ nhất”. Vậy là đứa bé
tiêu biểu cho
hình thức loài người mới mà dưới đó
năng lực tâm linh của Akong trước kia sắp
tiếp tục biểu lộ để giúp đỡ những người khác : dù sao thì đó cũng là cách
giải thích hiện tượng ấy trong
viễn cảnh Phật giáo Tây Tạng.
Những nguồn gốcNơi đứa bé hai tuổi vậy là hiện rõ hình bóng của Lama Akong (1883-1938) như
hồi trước người ta vẫn gọi, vị
trụ trì tu viện Dolma Lhakhang đã được các vị đồng tu chọn vì lòng bi
tự nhiên và những phẩm tính
đặc biệt của một
tâm linh sâu thẳm. Lama Akong hiến tất
cả đời mình cho
thiền định và có một sự
thông thạo đáng kể Sáu Yoga của Naropa, một
toàn bộ kỹ thuật
cho phép tiến đến sự
hiểu biết bản tánh đích thực của
tâm thức và của mọi
hiện tượng. Ngài cũng được biết vì
tài năng y học và chữa bệnh,
đặc biệt vì ngài đã
cứu sống Kongtrul vĩ đại của Palpung, năm 1936. Hai người đã biết nhau nhiều, đã có dịp cho lẫn nhau những
giáo huấn và những
quán đảnh khác nhau chín năm về trước. Kongtrul ở trong vùng
tu viện Dolma Lhakhang thì ngài ngã bệnh rất nặng. Những
nỗ lực của những y sĩ đều
vô hiệu, ngài
yêu cầu Lama Akong đến chăm sóc, tin rằng chỉ có Lama mới có thể chữa khỏi – và quả đúng như vậy. Lúc đó Lama Akong 54 tuổi, và khi ngài chết, trong năm ngày
sau khi chết, thân ngài vẫn ở trong tư thế
thiền định không
ngã xuống,
tiếp theo nhỏ dần
cho đến kích thước một em bé.
Một tu viện trưởng trẻ Tây TạngAkong thứ hai sẽ có một
định mệnh sôi động hơn người tiền nhiệm :
chính thức được
công nhận khi hai tuổi,
đăng quang lúc ba tuổi, đức bé
tiếp tục sống với
cha mẹ và anh em đến sáu tuổi. Khi đến ở
tu viện và
chính thức bước vào
nhiệm vụ, đứa bé nhận được sự huấn luyện mãnh liệt dành cho một tulku được kêu gọi cho những
trách nhiệm tâm linh lớn lao : nó học tất cả những môn
căn bản,
nghiên cứu y học, nhận tất cả những
giáo huấn và
nhập môn lớn mà chính nó phải trao truyền cho những người khác và nối kết
trở lại với sự
thực hành thiền định, dưới sự hướng dẫn của Kongtrul của Setchen, người
tuyên bố nó là một vị đại
thiền sư. Vị tulku trẻ
trông coi cho
hạnh phúc tâm linh – và
vật chất – của hàng ngàn
nhà sư trong
tu viện và bốn chùa ni thuộc
tu viện ; ngài hướng dẫn những cuộc
nhập thất dài ngày của khoảng năm mươi người và làm tròn những bổn phận của một lama đối với
cộng đồng địa phương và vùng –
nghi lễ và
tụng kinh đánh dấu những
biến cố của
cuộc đời, khuyên bảo và chỉ thị về
tâm linh, những
ban phước và
quán đảnh. Thêm vào đó là những
thăm viếng người bệnh với
tư cách là một y sĩ.
Thử thách của những sự kiệnSự huấn luyện mãnh liệt và chiết trung này sẽ nhanh chóng được
thử thách bởi những
sự kiện : năm 1959, Tulku Akong
lúc ấy chưa đầy 20 tuổi, bắt buộc phải
tức thời có những
quyết định không thể
sửa đổi, cho ngài và những người quanh ngài. Để
giữ gìn và sống với nền
văn hóa Phật giáo Tây Tạng, họ phải
từ bỏ quê hương. Tulku Akong và Chošgyam Trungpa
dẫn đầu một nhóm ba trăm người đi bộ trong một năm, vuợt qua những
dãy núi tuyết
Hy Mã Lạp Sơn để qua tỵ nạn ở
Ấn Độ ; khi đến nơi họ chỉ còn hai mươi người. Hai mươi người thoát được sự bắt giữ, đạn bắn,
đói khát và
kiệt sức... Gần cuối cuộc phiêu lưu này, khi họ không còn gì ăn từ lâu, họ phải nấu những mảnh da trong giày để cho cái gì vào bao tử hầu có sức để
tiếp tục...
Người nuôi dạy cọpSự
trốn thoát này là một cái chết nhỏ đối với những người
sống sót. Tulku Akong, vị lama trẻ mà
cuộc đời tưởng đã được vạch ra trong việc
phụng sự những
linh hồn ở những miền cao
Tây Tạng, bây giờ thấy mình ở trong sự chen chúc ngột ngạt của một trại tỵ nạn vùng Assam,
yếu ớt và mắc bệnh lao, hụt hẫng nghĩ về những người không thể
trốn thoát và những bạn
đồng hành đã chết
dọc đường – trong đó có một người em ruột. Nhưng ngài
hoàn toàn ý thức lý do để phải sống và sống còn :
giữ gìn và trao truyền những kho tàng của một nền
tâm linh sống và
giá trị của nó đối với ngài có lẽ còn
rõ ràng hơn bao giờ hết, trong những giờ phút thảm kịch. Người ta có thể
lấy mất xứ sở và
gia đình của anh, nhưng không ai có thể
xâm phạm không gian bên trong mà một người đã
khám phá nơi chính nó.
Nơi đó người ta chạm đến
ý nghĩa nền tảng của
tính cách tâm linh :
phương cách để đối mặt với tất cả những gì có thể xảy tới, nơi mình hay bên ngoài mình. Đối mặt : với những tình cảm không
thể chế ngự nhất – với ngọn lửa của giận dữõ, với sự chán nản, với
ngã lòng, với
tham muốn đam mê, với đắng cay của
oán hận ; đối mặt với những người khác và tất cả những
phiền não xảy ra trong những tương quan với họ ; đối mặt với
một thế giới quá khác biệt so với người ta chờ đợi. Đối măït thay vì nhắm mắt để chẳng thấy gì, thay vì lấp đầy những khoảng hở của đời mình
cho đến khi không còn chỗ nào cho sự
sáng suốt. Và trong
ý nghĩa đó, Tulku trẻ Akong đã được trang bị đầy đủ để đối mặt với cái gì xảy đến với ngài : đó là một “người nuôi dạy cọp”. Không phải là những người mặc đồng phục, với đôi bốt và roi trong tay,
đi vòng quanh những con mèo khổng lồ nguy hiểm và
sang trọng. Mà là những người học cách
chế ngự,
điều phục con cọp bên trong là
tâm thức này
cho đến bao giờ nó còn chưa biết
bản tánh chân thực của nó là gì.
Đọc một
câu chuyện như thế, người ta sẽ không
ngạc nhiên với
chủ đề luôn luôn có mặt và là
yếu tố chính yếu của lời dạy của Akong Rinpoche...
Tây Tạng ở Tô Cách LanSau vài năm ở
Ấn Độ, Tulku Akong thấy có cơ hội đi Anh. Cùng với Chošgyam Trungpa và vài người khác, năm 1963 ngài đến Oxford, ở đó ngài làm việc như một người chăm sóc trong bệnh viện. Người ta chú ý đến họ, người ta rút tỉa
giá trị trong những cái mà những lama trẻ này trao truyền : những chiều tối và những ngày nghỉ cuối tuần chỉ dạy và
thiền định đã được tổ chức chung quanh họ. Và
dần dần, cái nhóm nhỏ không
chính thức chung quanh Akong và Chošgyam muốn đi
xa hơn là những cuộc gặp gỡ
thỉnh thoảng : người ta tìm một nơi để sống và học. Những
tình cờ của
hoàn cảnh đưa họ đến ở trong một làng nhỏ phía nam Scotland (Tô Cách Lan), nơi mà những ngọn đồi gợn sóng nhắc nhớ đến một vài miền ở đông
Tây Tạng.
Năm 1967, Tulku Akong và Chošgyam Trungpa lập nên
trung tâm nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng đầu tiên ở
Tây phương, Samyé-Ling : Samyé (không thể
quan niệm) để kỷ niệm tên của
tu viện Phật giáo đầu tiên lập ra ở
Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, và Ling : có nghĩa là nơi chốn. Qua
trung gian của Padmasambhava,
đại đạo sư nổi danh vì đã “chế phục những ma quỷ”,
Ấn Độ đã trao truyền ngọn lửa
tâm linh Phật giáo đến
Tây Tạng, xứ này đã
nuôi dưỡng và
giữ gìn nó và đã cho nó một sự
rực rỡ và một màu sắc
đặc biệt trước khi trao nó cho
Tây phương. Samyé-Ling
trở thành một trong những người mang đuốc mới.
Khoảng
cuối năm 1971, theo sự
thúc đẩy của những bạn bè và
đệ tử người Mỹ, Trungpa đem ngọn đuốc sang bên kia bờ Đại Tây dương, ở đó phong cách trực tiếp và kích phát của ngài có một
tác động sâu xa mà những cuốn sách của ngài còn kéo dài đến bây giờ, mặc cho cái
chết sớm của ngài năm 1987. Akong Rinpoche ở lại Samyé-Ling và điều khiển nó từ thời đó.
Trải qua năm tháng và khách
thăm viếng ngày càng nhiều, ngôi nhà săn chim ưng cũ theo kiểu Tô Cách Lan và một ngôi nhà phụ thêm cũng không đủ nữa. Từ tháng tám 1988, một mái hai cánh vàng rực như bay trên màu lục của ngọn đồi ; đó là mái một ngôi chùa theo kiểu
Tây Tạng từ nay làm
ngạc nhiên những con chim và những người lái xe trên
con đường đồng quê Tô Cách Lan này. Ngôi chùa
tượng trưng giai đoạn đầu đã
hoàn thành của việc
xây dựng một tổng thể để
cải thiện những
điều kiện tiếp đón nhiều người muốn đến học,
thiền định hay chỉ muốn có một ít nghỉ ngơi để khơi lại cội nguồn bên trong.
Thiền định và hành độngĐể
tiến bộ trong vài lĩnh vực nào đó,
vừa phải có
lý thuyết –
hiểu biết – và
thực hành –
kinh nghiệm : người ta không tiến nhanh chỉ với một chân. Để
tiến bộ trong
tâm linh,
thiền định và hành động phải đi đôi, và bởi thế Akong Rinpoche đã lấy chúng làm hai trục quanh đó những hành động của ngài và của Samyé-Ling được tổ chức.
Cánh cửa “thiền định”
bao gồm vừa
nghiên cứu lý thuyết là sự chuẩn bị cho nó, vừa là chính
sự thiền định. Ở
trung tâm Samyé-Ling, Akong Rinpoche nhằm vào cả hai : khía cạnh
lý thuyết, những vị thầy
hiện đại tốt nhất được mời đến dạy, mỗi vị trong chuyên môn của mình. Khía cạnh
thực hành, mỗi người có thể
tìm thấy cái mà nó cần, ở mức độ của nó : những khóa tu mãnh liệt dành cho sự học tập
thiền định hay cho một
hình thức thực hành đặc biệt, có thể có những
nhập thất cá nhân hay tổ chức cho một số người (một
chương trình đặc biệt xảy ra trong bốn năm
liên tiếp). Người ta cũng có thể nhận những
lời khuyên cá nhân và
bàn luận những
vấn đề riêng với Akong Rinpoche hay với những lama khác khi
thăm viếng Samyé-Ling.
Khía cạnh hành động, những
hoạt động của Akong Rin-poche có nhiều
hình thức, chúng đều nhắm đến đưa vào
thực hành nguyên lý lòng bi. Khởi
từ ý tưởng về một nền
tâm linh bao quát đặt nền trên sự
quan tâm đến
hạnh phúc của những người khác, Akong Rinpoche cho rằng
tâm linh có một đóng góp cho
đời sống xã hội hiện đại : đó là công việc của lòng bi, theo nghĩa nó đã được định nghĩa ở những phần đầu cuốn sách.
Thế cho nên những
hoạt động thực tiễn của ngài có thể nói là những chân nền
cụ thể của điều ngài làm trên mức độ
tâm linh. Ngài cũng khuyến khích những người làm việc với ngài hành động theo chiều hướng đó.
Những sự việc của đời sốngNhững
hoạt động của Akong Rinpoche cấu thành quanh ba trục lớn :
hoạt động điều trị chữa bệnh,
hoạt động từ thiện và
hoạt động hội nghị các
tôn giáo.
1.
Hoạt động chữa bệnh : với
giáo huấn về những
phương pháp chữa bệnh và sự
kế tục của chúng, bằng nhóm hay
cá nhân, Akong Rinpoche đã tổ chức hoàn chỉnh một hội những người chữa bệnh (
Niềm tin Tara, ở Edindourg), nhắm đến
phối hợp hoạt động của những
phương cách chữa bệnh khác nhau
xoay quanh nguyên lý lòng bi. Ngài cũng đang tổ chức một
cộng đồng chữa bệnh cho những bệnh nhân
thần kinh có một nơi chốn để sống và tái
thích hợp với
đời sống xã hội. Bệnh nhân được bao quanh bởi những người “có thẩm quyền” không chỉ trong nghề nghiệp chuyên môn, mà còn bằng đường lối mà họ làm và
tiếp tục làm, trong chiều hướng những
ý tưởng của lòng bi được trình bày ở đây. Đáng chú ý là
chương trình này được
liên kết chặt chẽ với những
yêu cầu xã hội trong vùng : một
gương mẫu của sự
phối hợp giữa
tâm linh và
thực tại xã hội.
2.
Hoạt động từ thiện : qua
trung gian một tổ chức quốc tế, Rokpa (một người giúp đỡ, một người bạn theo tiếng
Tây Tạng),
ban đầu khởi ý từ sự
cần thiết giúp đỡ những người tỵ nạn
Tây Tạng ở Ấn và những
nơi khác trên
thế giới, đỡ đầu cho những đứa trẻ, những người già hay bệnh tật, nhưng bây giờ
mục tiêu là giúp đỡ “tất cả
mọi người đang cần”. Đó là một sự
cụ thể hóa ý thức về sự khốn khổ của “thế giới thứ ba” ; chính như thế mà Rokpa
bảo đảm một bữa xúp
bình dân cho những người không
nơi nương tựa ở Glasgow và ở Luân Đôn, và làm việc cho một
trung tâm ở Barcelone.
3.
Hoạt động hội nghị các
tôn giáo : để phát động một sự
thông cảm lẫn nhau giữa những
tôn giáo và cổ vũ cho một
ý thức chung về cái mà
tính tâm linh – nó là
mục đích cho tất cả, vượt khỏi những khác biệt về những
giáo điều,
lễ nghi và kỹ thuật – có thể mang lại cho
xã hội hiện đại trong việc đi tìm những
giá trị mới.
Thế nên Akong Rinpoche định hướng một cách
cương quyết cho Samyé-Ling bằng một
cử chỉ vừa
tượng trưng vừa
cụ thể : tổ chức một
hội nghị chuyên đề
tư duy các
tôn giáo nhân dịp khánh thành ngôi chùa
Tây Tạng mới, ngày 8 tháng 8 năm 1988.
Cử chỉ tượng trưng : Samyé-Ling không muốn là một nơi chốn “Phật giáo” dù nó được tổ chức bởi những người
Phật giáo (chắc các bạn đã chú ý suốt trong cuốn sách
ý nghĩa mà cuốn sách đã
gán cho từ này). Akong Rinpoche chủ trương rằng
trung tâm này là một nơi
mở rộng cho bất kỳ ai muốn có được khung cảnh yên bình này để
tìm ra hay
củng cố một
thanh bình bên trong, dù
tư tưởng hay
niềm tin của họ là thế nào. Nhưng cũng là
cử chỉ cụ thể : khi mời những
đại diện của những
tôn giáo chính yếu và lớn của
thế giới đến để
tư duy chung trong ba ngày về một
chủ đề định sẵn – lòng bi, vào dịp này – và xuất bản những kết quả của những
trao đổi của họ, người ta thật sự tiến một bước đến sự
hòa hợp giữa các
tôn giáo. Không phải trong
con đường cằn cỗi của một tổng hợp ngây thơ, dù đó là một
ý định tốt, như thường thấy trong các cuộc hội họp ; người ta không
tìm cách xóa đi những dị biệt, mà biết chúng và hiểu chúng, để thôi tự tin là người
đặc biệt nắm giữ
Chân Lý. Từ đó người ta không chống đối nhau nơi những
vấn đề nhỏ nhặt, người ta có thể làm việc cùng nhau ở cái
chính yếu : điều mà chiều kích
tâm linh có thể mang lại
một cách cụ thể cho đàn bà và đàn ông trong
thế giới chúng ta.
Những người
tham dự hội nghị chuyên đề
tôn giáo thấy rằng sự gặp gỡ và những công việc của họ đã gây
cảm hứng và làm
giàu có cho họ vượt cả
mong đợi, và
quyết định sự gặp gỡ
trở thành hàng năm và những bản văn đóng góp và
tham dự sẽ được xuất bản có
hệ thống.
Thiền định và
hoạt động cũng là những nguyên lý theo đó những
trung tâm khác
hoạt động, chúng ở nhiều xứ sở khác nhau theo sáng kiến của những người làm việc với Akong Rin-poche và họ
yêu cầu ngài
bảo đảm cho sự hướng dẫn
tâm linh của chúng. Đó chính là
trường hợp của
Trung tâm nghiên cứu Tây Tạng ở Bruxelles cuốn hút những người Pháp vì tại đây Akong Rinpoche đã
đều đặn cho những khóa học và Edie Irwin
điều hành những nhóm
thực hành chữa bệnh (
phối hợp với những
giáo huấn thực hành). Những
trung tâm để
học hỏi những
giáo huấn thực hành ngoài
trung tâm ở Bruxelles và Rokpa-Pháp, bạn có thể viết trực tiếp về cho Akong Rinpoche ở Samyé-Ling, Eskdalemuir – Dumfriesshire – Scotland – GB.
Một mời gọi vào hành độngChân dung của người nuôi dạy cọp này làm bật lên một điểm quan trọng : sự
hiểu biết chính mình đưa đến với những người khác. Sự
hiểu biết chính mình không phải là một
phương cách để
trốn thoát cuộc đời và những
trách nhiệm của nó, mà để
trở lại với
cuộc đời với những dụng cụ
cần thiết để đóng góp phần nhỏ của mình vào đó – mỗi người theo những năng khiếu và nguyện vọng riêng của mình.