Một Lần Đến Thiên Trúc Chiêm Bái & Đảnh Lễ Phật Tích

29/05/20226:00 SA(Xem: 8021)
Một Lần Đến Thiên Trúc Chiêm Bái & Đảnh Lễ Phật Tích

MỘT LẦN ĐẾN THIÊN TRÚC
CHIÊM BÁI & ĐẢNH LỄ PHẬT TÍCH 

Người Long Hồ
Bồ Đề Đạo Tràng

PDF icon (4)MỘT LẦN ĐẾN THIÊN TRÚC CHIÊM BÁI & ĐẢNH LỄ PHẬT TÍCH (1

(Với đầy đủ hình ảnh)
I

 

TỪ TÂN ĐỀ LI ĐẾN CÁC VÙNG BẮC ẤN

 

     Viết loạt bài nầy để lưu lại những kỷ niệm và cảm xúc khi đến thăm vùng Đất Phật và tham bái những Thánh Tích thiêng liêng đã được dựng xây từ gần 26 thế kỷ về trước. Thứ đến là được đảnh lễ nơi đản sanh của Đức Phật, bậc Giác Ngộ đã truyền đạt giáo lý của Ngài cho những thế hệ hậu bối chúng ta dầu chưa đạt được giác ngộ như Ngài, ít nhất chúng ta cũng có được cuộc sống tỉnh thức, an lạchạnh phúc. Cuối cùng là được tham bái những nơi mà bước chân của Đức Thế Tôn đã từng đi qua trên bước đường hoằng hoá lợi sanh của Ngài.
     Gần hai mươi sáu thế kỷ về trước, trong lúc chúng sanh đang lăn trôi trong biển đời sanh tử thì một ánh sáng kỳ diệu loé lên nơi miền Bắc Ấn, báo hiệu cho sự thị hiện kỳ diệu của một đấng Giác Ngộ. Đức Phật đã thị hiện chỉ nhằm một mục đích duy nhất là “Khai thị cho chúng sanh được ngộ nhập tri kiến Phật.” Sau những năm tháng xuất gia tu hành tầm cầu chơn lý, Đức Phật đã trở thành bậc Giác NgộGiải thoát. Ngài đã mang hết những gì mình liễu ngộ ra mà trao truyền lại cho chúng ta, cũng chỉ với một mục đích là những mong cho chúng sanh mọi loài đều có được cuộc sống an lạc, tự tại, tỉnh thứchạnh phúc. Vì lòng bi mẫn tới muôn loài mà dấu chân của Ngài đã giẫm lên toàn khắp cả một vùng rộng lớn giữa Nepal và Bắc Ấn. Với những tiến bộ khoa học kỹ thuật cận đại thì việc giao thông qua lại giữa các vùng đất ấy cũng không lấy gì làm khó khăn cho lắm, nhưng với phương tiện của gần 26 thế kỷ về trước thì quả là những bước chân của Đức Phật đã giẫm lên không biết bao nhiêu chông gai của cả vùng núi đồi Hy Mã. Ngoài những khó khăn vật chất nầy, đức Phật thời đó còn chịu đựngvượt qua không biết bao nhiêu là khó khăn về mặt xã hội nhân sinh. Riêng đối với người Phật tử Việt Nam, đã từng được nuôi lớn bằng bầu sữa tinh thần Phật Pháp, đã tự chọn cho tinh thần của mình một hướng đi hướng thượng theo con đường mà năm xưa Đức Từ Phụ đã đi và đã đến, dĩ nhiên ai trong chúng ta cũng đều ao ước là có một ngày nào đó chúng ta sẽ được đặt chân lên những vùng đất đã một thời là trụ xứ của Đấng Cha Lành, mà chúng ta thường thân thương gọi là Đấng Từ Phụ. Những vùng đất ấy chẳng những thiêng liêng đối với chúng ta, mà còn là những chứng tích thật của cái nôi văn hoá Phật Giáo mà bao nhiêu thế hệ cha anh chúng ta đã từng ôm ấp.
     Phật tử chúng ta, bất kỳ là từ vùng nào của địa cầu nầy, có lẽ đều đang hướng mắt nhìn về khung trời Hy Mã tuyết trắng, vì ngay dưới chân rặng núi ấy, những dấu tích của một thời hoàng kim, dưới chân rặng núi ấy là quê hương của đấng Cha Lành, mà giáo pháp của Ngài đã từ gần 26 thế kỷ nay đã dìu dắt chúng ta cùng nhau hướng thượng. Chắc ai trong chúng ta cũng đều ao ước sẽ có một ngày về lại quê cha, dò giẫm lại từng bước chân xưa của Ngài. Về lại khu vườn Lâm Tỳ Ni để nghe lòng mình lâng lâng niềm xúc cảm về luật vô thường do chính cha mình đã dạy năm xưa. Về đó để thấy cảnh hoang tàn đổ nát của một Ca Tỳ Là Vệ trù phú phồn thịnh năm xưa.
     Chúng tôi về đây để thấy một Bồ Đề Đạo Tràng với tấp nập người đến kẻ đi chỉ với một mục đích duy nhất là thấy lại nơi Đức Thế Tôn đã thành đạo năm xưa. Về đây để nghe lại tiếng pháp âm vẫn còn vang vọng đâu đó bên trong khu Vườn Nai, và để thấy hình như năm anh em ông A Nhã Kiều Trần Như vẫn còn lảng vảng đâu đây. Về Thánh Địa để thấy sông Hằng vẫn còn sức quyến rũ như ngày nào. Ngày ngày, trước khi bình minh ló dạng là từng đoàn, từng đoàn người lũ lượt kéo nhau về bờ Tây sông Hằng, con số lên đến hàng trăm ngàn hay hàng triệu người. Chủ đích của họ thật đơn giản mà thật thiêng liêng: một lần được tắm giặt trên sông Hằng là đủ mãn nguyện cho cả một đời người. Và về để nghe nơi chính lòng mình nỗi niềm đau xót tràn dâng khi đặt chân đến thành Câu Thi Na. Đến đó để thấy dầu đến phút giây sắp nhập diệt, Đấng Cha Lành vẫn an nhiên nằm đó với nụ cười bi mẫn vượt không gianthời gian.
     Vào thế kỷ thứ 5 và thứ 7, hai ngài Pháp HiểnHuyền Trang đã bất kể an nguy, phải vượt qua vạn dặm, trải qua bao núi rừng, biển cả và hiểm nguy, cũng như khí hậu khắc nghiệt để tìm đến những Thánh tích Phật Giáo để thỉnh kinh hay tòng học với những bộ phái Phật giáo thời đó, thế mà họ vẫn làm được. Bây giờ với phương tiện giao thông tương đối dễ dàng hơn nên chuyện đi tham bái Phật tích không còn là chuyện thiên nan vạn nan nữa.
     Vào khoảng cuối tháng 11 năm 2005 đến giữa tháng 12 năm 2005, chúng tôi có duyên may được về thăm lại Thiên Trúc năm xưa. Dầu chỉ trong một thời gian ngắn, chúng tôi cũng đã đi đến hầu hết những nơi mà ngày xưa Đức Từ Phụ đã đi qua, hoặc giả đến nơi mà Ngài và các đệ tử đã từng đến và làm rạng danh dòng họ Thích. Trong suốt thời gian chỉ hơn nửa tháng, chúng tôi đã đi liên tục, hầu như không ngừng nghỉ để được đến và được thấy càng nhiều càng tốt bất cứ nơi nào có dính dáng đến Đấng Cha Lành của mình. Đến để thấy tận mắt, để nghe lòng mình thổn thức, đến để nhớ và để tìm lại cội nguồn đã nuôi lớn tinh thần của biết bao nhiêu thế hệ nhân sinh. Và hơn hết chúng tôi đến tận nơi để tìm cho chính mình một chất liệu đình dưỡng kỳ diệu mà không có bất kỳ ngôn ngữ nào của loài người có thể diễn đạt được. Thật vậy, sau chuyến đi hành hương chiêm bái Phật tích, chúng tôi cảm thấy như mình lớn thêm lên vì đây không phải là một chuyến du lịch, đây cũng không phải là một chuyến ngao du sơn thuỷ, mà là một cuộc hành trình hướng về tâm linh cho riêng từng cá nhân, không thể chia sẻ được bằng ngôn ngữ loài người. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là không đem những gì chính mình đã mắt thấy tai nghe tại những thánh tích nầy sản sẻ đến mọi người, với hy vọng tất cả chúng ta dù có duyên may hay không có duyên may, đều có được chút nào kiến thứccảm giác tối thiểu về những nơi thân thương của Đức Từ Phụ. Với tâm nguyện đó, chúng tôi xin ghi chép lại đây tất cả những gì chúng tôi có thể ghi chép được ở từng nơi, từ những người hướng dẫn, từ những lời thuyết minh của chư Tăng Ni, cũng như từ các tài liệu lịch sử được ghi lại từ những nơi ấy trong một quyển Nhật ký nhỏ mà tôi xin mạo muội đặt tên cho nó là Thiên Trúc Tiểu Du Ký. Vì chúng tôi không phải là những nhà biên khảo hay khảo cổ nên những ghi chép của một người không thể nào tránh khỏi những thiếu sót. Mong những bậc cao minh thạc đức, những bậc thầy vui lòng góp ý nếu có những sai sót, để cho ai nấy đều được lợi lạc.
 
Từ hình #1 đến hình #3: Đường sá New Delhi trong những ngày mùa Đông (cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 2005).
 
Hình #1
 
Hình #2
Hình #3
 
 
II
 
TỪ NHÀ GA TÂN ĐỀ LI ĐẾN BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG
 
     Sau khi thăm viếng nước Úc, sáng sớm ngày 28 tháng 11 năm 2005, chúng tôi đáp chuyến bay của Cathay Air bay từ Sydney đi Ấn Độ. Sau 16 giờ bay, chúng tôi đến New Delhi vào lúc 3 giờ sáng ngày 29 tháng 11 năm 2005. New Delhi là thủ đô của Ấn Độ, một quốc gia rộng lớn. Ngay từ thời xa xưa, Ấn Độ có 16 nước Cộng Hoà. Trước khi bị nước Anh chiếm làm thuộc địa, Ấn độ còn bao gồm cả Pakistan ở phía Tây Bắc và Bangladesh ở phía Đông Bắc. Sau khi được Anh trao trả độc lập, hai khu vực nầy đã tách ra khỏi Ấn Độ làm 2 quốc gia độc lập là Pakistan và Bangladesh. Diện tích nước Ấn Độ hiện nay rộng khoảng 3.288.000 cây số vuông, với 26 tiểu bang. Cực Bắc Ấn Độ giáp với vùng Hy Mã Lạp Sơn, và cực Nam chạy gần tới vùng xích đạo trong Ấn Độ Dương. Mặc dù Ấn Độ là cái nôi của Phật giáo, nhưng hiện nay hình ảnh của đạo Phật hình như không còn hiện hữu ở bất cứ nơi nào trên đất Ấn nữa. Theo thống kê năm nay (2005) của Chánh phủ Tân Đề Li thì Ấn Độ có trên 85% dân chúng theo Ấn Độ giáo, 10% theo Hồi giáo, 2% theo đạo Thiên Chúa, 2% theo đạo Sikh, chỉ có khoảng 0,78% theo đạo Phật mà thôi, nghĩa là chưa được một phần trăm. Nhưng không sao, đối với Phật tử chúng tôi, hành hương về xứ Phật cũng như một cuộc trở về thăm lại quê cha đất tổ, trở về tìm lại cội nguồn thiêng liêng, hoặc trở về tìm lại đi sản tinh thần cao quí mà mình đang thọ hưởng. Thật tình mà nói, đây không phải là một chuyến đi du lịch bình thường, đây cũng không phải là một chuyến ngao du Sơn thủy, mà đây là một chuyến trở về, dù rằng đây là những nơi mà chúng tôi chưa từng đến bao giờ. Quả thật, đến tận nơi, thấy tận mắt những nơi thiêng liêng, dầu rằng những nơi nầy ngày nay đã trở thành hoang tàn đổ nát, chỉ còn trơ lại những nền đá hay những đống gạch vụn được khai quật từ trong lòng đất, nhưng đối với chúng tôi, đó là những di sản vô cùng quí giá vì đó là chứng tích cội nguồn thiêng liêng nhất của những người con Phật. Chứng tích đậm nét về con người rất thật của Đức Phật, chứ không huyền hoặc mơ hồ. Sau khi chúng tôi đến New Delhi, có ba đoàn khác, hai đoàn đến từ Canada, và một đoàn đến từ Pháp. Họ nhập chung với đoàn chúng tôi để bắt đầu chuyến HÀNH HƯƠNG VỀ XỨ PHẬT. Lần này tôi lại có dịp tái ngộ với các anh Thiện Minh và anh chị Thiện Tài đến từ Toronto, Canada. Chúng tôi lưu lại khách sạn Raunak trong vùng Karol Bagh, thuộc thủ đô Tân Đề Li. Có đến tận nơi mới thấy sự nghèo nàn thế thảm của trên 80% dân Ấn thuộc giai cấp cùng Đinh (Untouchable). Sáng sớm khi chúng tôi vừa mới bước chân ra khỏi khách sạn, thì từ bốn hướng một nhóm người, già có, trẻ có, bé có, lớn có, nguyên vẹn có, mà cùi hùng sức mẻ cũng có… bám sát lấy chúng tôi, lớp rào hàng, lớp xin ăn. Họ cứ bám sát lấy mình, mặc dù mình đã nói không mua, họ cũng cứ bám theo và tiếp tục năn nỉ chúng tôi mua hàng. Ban đầu chúng tôi đã đổi ra một số tiền lẻ, dự tính cho từng người một, nhưng thấy không ổn, chúng tôi đành quăng đại mớ tiền bay lả tả ra ngoài cửa rồi quày quả quay ngày trở vào khách sạn. Ngồi trong phòng khách của khách sạn, suy ngẫm lại cách mình mới cho vừa rồi, quả là không lịch sự chút nào, nhưng chúng tôi không có lựa chọn nào khác, nên đành chịu.
     Trưa ngày 29 tháng 11 năm 2005, đoàn chia làm 2 toán để khởi hành đi Bồ Đề Đạo Tràng. Toán thứ nhất khởi hành lúc 11:30 trưa và đến Bodhgaya lúc 7 giờ sáng ngày hôm sau 30 tháng 11. Toán thứ nhì rời khách sạn lúc 8 giờ tối, đến nhà ga xe lửa Tân Đề Li lúc 10:30 tối và đến Bodhgaya lúc 2 giờ chiều ngày 30 tháng 11 năm 2005. Trước khi ra xe buýt để đi đến nhà ga xe lửa Tân Đề Li, chúng tôi đã được thầy Thích Minh Thành hướng dẫn. Theo những gì thầy nói, chưa đi đã thấy bạt vía kinh hồn rồi. Trời mùa ĐôngẤn Độ, sáng thì lạnh cóng cả tay chân, nhưng đến trưa thì nắng chói chan. Đây là cuộc hành trình giáo đầu của chúng tôi trên đất Ấn. Ai cũng biết đất nước Ấn Độ có hơn một tỉ ba trăm triệu dân, tuy nhiên, những ai chưa từng đến nhà ga xe lửa New Delhi và chưa từng đáp xe lửa từ sân ga nầy sẽ không bao giờ có được cái cảm nhận đầy đủ về sự đông dân của xứ Ấn Độ. Tôi cứ tưởng, đoạn đường rất ngắn từ ngoài cổng sân ga vào trong sân ga, chỗ xe lửa đậu, đi một cái vèo là tới ngay, chứ nào ngờ những gì thầy Minh Thành đã lưu ý chúng tôi là đúng bon chứ không sai một mảy may nào cả. Sân ga xe lửa New Delhi có nhiều tầng cấp, tấp nập người qua lại, lên xuống. Bên cạnh đó, sân ga nầy lại có quá nhiều lữ kháchvô số những phu khuân vác, họ chen lấn khích nhau đến độ cái gì họ cũng đội lên đầu, chứ không có khoảng cách cho người xách tay hay kéo va li. Có người đội cả 2 hay 3 cái va li lớn. Thêm vào đó, không ít người ăn xin cũng đi vào nhà ga để ăn xin, làm cho sân ga đã chật nít người thêm phần chật hơn. Ngoài ra, ngày cũng như đêm, bò ở đâu mà nhiều quá sá, chúng đi tới, đi lui, đi xuôi, đi ngược, choán rất nhiều lối đi, nhưng hình như hầu hết người dân Ấn Độ đều đặt con bò ở vị trí ưu tiên số một nên không ai tranh giành lối đi với bò cả. Cả một vùng sân ga rộng lớn vào buổi xế trưa toát ra một thứ mùi hôi khó tả, thứ mùi hợp chất pha lẫn của mùi quần áo dơ, mùi con người lâu ngày không tắm, mùi phóng uế của con người, đặc biệt nhất là mùi nước tiểu và phân của nhiều, rất nhiều chú bò trên khắp đường phố. Hình như ở đây không ai dám dẹp những đống phân bò trên khắp đường phố, và hình như người Ấn Độ thấy thích thú khi họ giẫm phải những đống phân bò. Dù đoạn đường từ ngoài cổng đi vào chỗ xe lửa đậu không xa mấy, nhưng đoàn chúng tôi phải trải qua một cuộc chen lấn chưa từng có trong đời để đi đến được đúng trạm của mình (tên và số xe lửa là Purshottam Express 2902). Khi chen vào đám đông, ai trong chúng tôi cũng đều có cảm giác như đang bị lọt vào mê hồn trận, không còn biết đường đâu lối đâu, chỉ còn biết lủi đi bằng cách ngó theo những chiếc nón màu cam đang đi động loăng quăng như con “Huỳnh xà”. Tôi nghĩ nếu hôm đó có một đoàn nào khác, cũng có nón màu cam như chúng tôi, chắc chắn là sẽ có chuyện một số anh em chúng tôi đi theo họ rồi. Nhưng rồi việc gì cũng qua, nhờ thầy Minh Thành đã tính trước, nên anh em chúng tôi cũng đến trạm kịp giờ xe lửa khởi hành. Trong khu vực chờ đợi, chúng tôi quay quần quanh Hoà Thượng Giác Nhiên để nghe thầy nói chuyện, cả về đạo lẫn về đời. Hoà Thượng nhắc nhở chúng tôi về việc chen lấn vừa rồi cũng là một pháp tu tuyệt vời, và những gì mắt thấy tai nghe tại nhà ga New Delhi quả cũng là một bài pháp vô cùng hữu ích. Ngoài Hoà Thượng còn có những vị sư hướng dẫn khác như thầy Minh Thành, sư Giác Hành, sư Minh Huệ, sư Minh Hoa, sư Minh Thường, sư cô Liên Phụng, Liên Hiệp, Liên Mẫn, Liên Quí… những vị nầy đang du học tại New Delhi cũng hết lòng giúp đỡ và hướng dẫn chúng tôi. Chúng tôi nhìn những người Ấn gầy guộc, áo quần xốc xếch một cách tò mò. Họ cũng nhìn lại chúng tôi một cách tò mò như thể chưa từng thấy những con người nầy bao giờ vậy. Rồi tàu cũng đến và chúng tôi cũng an vị ngay sau khi con tàu vừa dừng hẳn lại. Đối với những khách hành hương từ Mỹ, Pháp và Canada như chúng tôi thì việc chen lấn để được lên tàu quả là vất vả vô cùng, nhưng đối với những người Ấn tại đây, đó là việc hết sức bình thường. Họ chen lấn, lấn chen để lên tàu như thể không có chuyện gì xảy ra.
 
Hình#: Quang cảnh bên ngoài Bồ Đề Đạo Tràng
 
Hình#2: Đại Tháp Bồ Đề Đạo Tràng
 
 
 
Hình #3
 
Hình# 3, 4: Quang cảnh buôn bán bên ngoài Bồ Đề Đạo Tràng
 
Hình#5: Chư Tăng Ni và Phật tử đang đi nhiễu vòng quanh khu
Đại Tháp Bồ Đề Đạo Tràng.
 
 
III
 
ĐI XE LỬA TẠI ẤN ĐỘ: TRẢI NGHIỆM KHÓ QUÊN
 
     Tưởng cũng nên nhắc lại, Ấn Độ có mạng lưới đường xe lửa lớn nhất nhì trên thế giới. Những tuyến xe lửa lâu đời nhất thế giới ở Ấn Độ xuất hiện từ năm 1855 nối giữa New Delhi và hầu hết các bang trong xứ. Có khoảng trên 1,4 triệu người phục vụ trong ngành xe lửa với từ mười ngàn đến mười lăm ngàn chuyến tàu mỗi ngày. Phải thật tình mà nói, đi xe lửa ở Ấn Độ là một trải nghiệm khó quên. Đi xe lửa ở Ấn Độ có nghĩa là chúng ta đang hoà mình vào đời sống thường nhật của người Ấn. Ở Ấn Độ, đường xe lửa là phương tiện giao thông huyết mạch của quốc gia này vì nó giúp kết nối hơn 1,3 tỷ người dân Ấn với nhau. Từ Nam ra Bắc, từ Đông sang Tây, tất cả đều được nối liền nhờ phương tiện giao thông bằng đường xe lửa với trung bình trên 15 triệu hành khách mỗi ngày. Trong suốt thời gian lưu lại Ấn Độ, chúng tôi sử dụng đủ các loại phương tiện giao thông, từ xe tuk tuk (giống như xe lôi ở VN thời trước), xe hơi, xe lửa, tàu thuyền, vân vân, nhưng những lần đi xe lửa đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong tôi mãi mãi.
     Trước khi tới cổng nhà ga xe lửa New Delhi, sư Minh Thành đã nhắc nhở chúng tôi là phải gọi mấy người khuân vác đến giúp di chuyển hành lý chứ mình không có cách gì đem nổi những va li hành lý này tới trạm nổi đâu. Sư còn dặn dò chúng tôi số tiền phải trả cho từng chiếc va-li. Chúng tôi cùng chen lấn với người Ấn, đi dọc theo lối cổng vào và tiến sâu trong nhà ga. Càng vào sâu, chúng tôi bắt gặp cảnh người ta nằm la liệt dưới sàn bất kể nam hay nữ, già hay trẻ. Trái ngược với cảnh nhộn nhịp của đám đông con người, những chú bò lại thảnh thơi rảo bước trong sân nhà ga, mà hình như người Ấn ai ai cũng nhường bước cho các chú bò. Trên đường ra tàu, chúng tôi gặp không ít những người ngoại quốc đang vội vã chen lấn, họ cố tìm người nào đó giỏi tiếng Anh để chỉ họ đến đúng trạm dừng tàu hỏa trên vé. Thầy Minh Thành nói với chúng tôi là xe lửa ở Ấn Độ hay đổi trạm dừng vì thế nếu không tìm hiểu kỹ và nhanh nhẹn, hành khách sẽ bị lỡ mất chuyến tàu của mình. Rất nhiều trường hợp người ngoại quốc sang du lịch Ấn Độ đã phải lỡ chuyến và phải chờ chuyến khác.
     Sau quãng đường ngắn nhưng rất vất vã để đi từ cổng vào trạm. Đã đến trạm rồi, mà tìm được đúng trạm xe của mình lại là một vấn đề khó khăn khác vì dòng người phía sau cứ tiếp tục đổ dồn tới trạm. Nhưng rồi chuyện gì cũng qua, cuối cùng thì chúng tôi cũng đã đến được đúng trạm xe của mình. Lúc này thì chúng tôi mạnh ai nấy vội vàng lên tàu và tìm chỗ của mình. Chỉ còn vài phút là đến giờ tàu xuất phát, chúng tôi gần như là những hành khách cuối cùng vì không cách chi mình có thể tranh lại với những người Ấn đã có kinh nghiệm một đời đi xe lửa. Còn nữa, trong toa xe lửa đã kín khách, phải loay hoay một lúc cả nhóm mới tìm được chỗ ngồi.
     Thầy Minh Thành nói với chúng tôi là khi mua vé thầy biết trướcchúng tôi đã quen với chuyện đi xe lửa ở Âu Mỹ, nên Hoà Thượng có bàn với thầy là phải mua vé hạng khá cho đỡ phải chen lấn trong tàu (vé hạng thường chỉ khoảng 1.000 ru bi, nhưng vé của chúng tôi tới trên 1.500 ru bi, tức khoảng 25 đô La Mỹ). Thế mà chúng tôi còn phải hết sức vất vã như vậy đó.
     Có một điều tốt, rất tốt về người Ấn Độ: trong bất cứ hoàn cảnh nào hay ở bất cứ nơi đâu, dù người ta đông đúc chen lấn san sát nhau như vậy, nhưng trong suốt thời gian lưu lại Ấn Độ, chúng tôi chưa hề chứng kiến bất cứ sự cướp giật hay trộm cắp nào. Sau một thời gian lưu lại đây mới biết, người Ấn Độ họ thà đi làm ăn xin chứ chưa từng có ai đi ăn cắp hay ăn trộm. Nói như vậy không có nghĩa là ở Ấn Độ không có tệ nạn. Kỳ thật, xứ Ấn Độ cũng có nhiều tệ nạn nhất là chuyện phân biệt giai cấp, tệ nạn trọng nam khinh nữ, và tệ nạn tình dục…
     Trên đường đi từ New Delhi đến Bodhgaya, nhà cửa hai bên đường lụp sụp nghèo nàn hơn cả xứ Việt Nam của mình nữa, và hình như trước sân nhà nào cũng có một vài chú bò thảnh thơi đi tới đi lui, nhìn thiên hạ qua lại, có chú lười hơn, không muốn đi nên chỉ nằm yên một chỗ, hàm cứ nhai đi nhai lại mớ cỏ khô bên cạnh. Ở đây hình như cả người lẫn thú đều gầy ốm như nhau, mặt mày hốc hát đờ đẫn. Đêm hôm đó, dù mệt mỏi sau cuộc hành trình nhiều ngày bên Úc Châu, nhưng tôi vẫn không chợp mắt được, vì đây là đêm đầu tiên tôi chứng kiến tận mắt sự nghèo nàn đói khổ của người dân xứ Phật. Bang Bihar đã từng là một vương quốc giàu có thịnh vượng dưới thời vua A Dục, có kinh đô là Pataliputra, ngày nay là Patna, nơi đã diễn ra cuộc kết tập kinh điển lần thứ ba dưới triều vua A Dục. Tưởng cũng nên nhắc lại, A Dục Vương là vị vua thứ ba của vương triều Mauryan. Sau trận chiến Kalinga, vương quốc của ngài trải rộng hầu hết xứ Ấn Độ hiện nay. Tuy nhiên, chính trận chiến này với 150.000 tù binh và số người chết lên đến gần cả nửa triệu, đã biến ngài trở thành một cư sĩ Phật giáo quan trọng nhất trong lịch sử Phật giáo. Tại nhiều nơi trong xứ, ngài đã cho dựng nhiều trụ đá, trên đầu có hình sư tử chạm trỗ rất đẹp, ngày nay hình ảnh này vẫn còn là biểu tượng trên lá quốc kỳ Ấn Độ. Vua A Dục chính là vị vua đầu tiên đưa Phật giáo đi khắp các nơi từ Tích Lan ở phía Nam đến Miến Điện ở phía Đông và Trung Hoa ở phía Bắc. Nhà vua đã bảo trợ nhiều công trình truyền bá giáo huấn của Đức Phật đi khắp nơi nơi. Hai người con của vua A Dục sau này trở thành hai vị A La Hán nổi tiếng là Maninda và Sanghamitta.
     Khoảng 2 giờ trưa ngày hôm sau chúng tôi đến nhà ga xe lửa Gaya. Tại đây đoàn thứ hai của chúng tôi được các sư trong đoàn thứ nhất tiếp đón và đưa về khách sạn bằng xe buýt. Tuy khoảng đường từ Gaya về khách sạn không xa lắm, chỉ khoảng chừng 16 cây số, nhưng vì đường sá gồ ghề lởm chởm nên phải mất gần một tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới đến khách sạn. Chúng tôi lưu lại khách sạn Prince trên đường Birla, gần Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya), thuộc bang Bihar. Bihar là một trong những bang nghèo nhất của xứ Ấn Độ. Nhìn những mái tranh nghèo lụp sụp bên đường, lòng tôi bỗng chùng xuống. Vùng đất một thời sản sanh ra một vĩ nhân của thế giới mà bây giờ chỉ còn trơ lại những mái tranh nghèo, với những con người xanh xao gầy guộc, quần áo xốc xếch. Quả đúng như lời của một bài kinh Phật: “Đời người như một giấc mơ, trăm năm nào khác cuộc cờ đổi thay…” Trăm năm đã như cuộc cờ đổi thay rồi, huống là 26 thế kỷ tang điền thương hải! Bồ Đề Đạo Tràng nằm bên bờ sông Ni Liên Thiền, nơi Đức Phật thành đạo, cách New Delhi khoảng trên dưới 1.000 cây số, cách nhà ga xe lửa Gaya khoảng 16 cây số, và cách thành Hoa Thị (Pataliputra), ngày nay là Patna, thủ phủ của bang Bihar chừng 115 cây số đường chim bay, nhưng trên thực tế đường bộ ngoằn ngoèo rất khó đi, dài trên 200 cây số. Trên bản đồ thế giới thì Bồ Đề Đạo Tràng nằm trên khoảng vĩ độ Bắc từ 24 đến 25,9; kinh độ Đông từ 84 đến 86; cao độ 112 mét. Nhiệt độ trung bình từ 24 đến 46 độ C vào mùa hè, và từ 5 đến 24 độ C vào mùa Đông. Mực nước trung bình tại đây khoảng 118 cm3.
     Buổi chiều tối ngày 30 tháng 11 năm 2005, Hoà Thượng Giác Nhiên hướng dẫn đoàn đi thăm và đảnh lễ Đại Tháp. Giữa những mái tranh nghèo lụp sụp, một Đại Tháp uy nghi sừng sững như thách thức với thời gian. Vừa thoáng thấy ngôi Đại Tháp là tìm tôi như bàng hoàng rừng động một cách lạ thường. Ôi! Đây chính là nơi Thái Tử Tất Đạt Đa giác ngộ thành Phật. Ôi! Đây chính là ngôi Thánh Địa thiêng liêng vào bậc nhất của những người con Phật! Ngọn tháp đứng sừng sững giữa một hàng cây xanh biếc. Khác với rất nhiều những kiến trúc khác trên thế giới, mặt tháp chỉ có 4 mặt thẳng tắp từ phía dưới rộng, đi dần lên đỉnh thì nhọn dần để chỉ còn lại một điểm trên đỉnh mà thôi, chứ không như những ngôi chùa tháp nổi tiếng khác trên thế giới. Bảo tháp có một chiều dài lịch sử kể từ thời vua A Dục, người đã xây dựng bảo tháp hồi thế kỷ thứ hai trước Tây lịch để tưởng niệm nơi thành đạo của Đấng Giác Ngộ trong dòng họ Thích Ca.
 
 
 
 
Hình #1
 
Hình#1 & 2: Quang cảnh chen lấn từ trong sân ga ra
trạm dừng xe lửa tại nhà ga New Delhi.
 
 
Hình#3: Quang cảnh bên ngoài Bồ Đề Đạo Tràng.
 
 
IV
 
ĐẾN BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG:
CẢM XÚC KHÔNG DIỄN TẢ ĐƯỢC BẰNG LỜI
 
     Đi về phía Tây Nam từ đỉnh núi Pragbudhi khoảng 14 hay 15 dặm, chúng ta sẽ đến cây Bồ Đề. Cây được bao quanh bởi một bức tường bằng gạch lớn và vững chắc. Vòng tường hình chữ nhật, cạnh dài chạy từ Đông sang Tây, cạnh ngắn chạy theo hướng Bắc Nam. Chu vi của vòng tường khoảng 500 bước dài. Trong phạm vi của vòng tường có rất nhiều loại cây lạ với bông hoa xinh đẹp kết tàng lại với nhau. Dưới đất là một thảm thực vật cũng gốm những loại cây là và đẹp với những lối đi ngang chéo lẫn nhau ở các hướng. Cánh cổng chính mở ở phía Đông, đối diện với sông Ni Liên Thiền.
     Theo tạp chí Maha Bodhi ấn bản tháng 7 năm 1903: Cây Bồ ĐềĐức Phật ngồi thiềnđạt được đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác bây giờ không còn nữa, nó đã chết vào năm 1874. Người ta đã lấy một nhánh của cây con của nó bên Tích Lan đem về trồng ngay tại gốc của cây Bồ Đề nguyên thuỷ(ngày trước, vào khoảng thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch, con trai vua A Dục đã lấy một nhánh của cây nầy đem sang trồng ở Tích Lan, bây giờ cây Bồ Đề nguyên thủy chết, người ta bèn chiết cây con đem về trồng ngay gốc cây mẹ ngày trước). Sau đó, ngay gốc cây Bồ Đề nguyên thủy cũng mọc lên một cây khác cành lá xum xuê như chúng ta thấy hiện nay. Chính hai nhà chiêm bái Phật Tích của Trung Hoa là Pháp Hiển năm 409 và Huyền Trang vào năm 629 cũng đã kể về Bồ Đề Đạo TràngCây Bồ Đề rất xum xuê như chúng ta thấy hiện nay.
     Phải thực tình mà nói, trong suốt thời gian chúng tôi lưu lại Bồ Đề Đạo Tràng, lòng chúng tôi luôn cảm thấy một niềm cảm xúc lâng lâng khó tả. Tôi chạnh nghĩ, ngày đó, khi Thế Tôn thành Đạo, thì mình là ai? Chẳng những mình không may mắn được sinh ra vào thời có Phật, mà rất có thể lúc đó mình chỉ là con trùng hay con dế ở một nơi xa xôi nào đó, chứ không được ở đây nữa là khác. Gần 26 thế kỷ sau thời Phật, may mắn mình được sinh ra làm kiếp con người, và may mắn hơn nữa, mình có duyên may được về thăm Đất Phật, về đến ngay cái chỗ mà năm xưa Đức Thế Tôn đã đạt thành đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong giây phút nầy đây, mình cảm thấy vô vàn hạnh phúc và vô vàn an lạc. Sự thành đạo của Đức Phật chẳng những là một chiến thắng vẻ vang cho riêng Ngài, mà nó còn là một cuộc cách mạng tâm linh vô tiền khoáng hậu. Chính Đức Phật đã mở ra cho nhân loại một con đường giải thoát, giải thoát khỏi mọi hệ luỵ của khổ đau phiền não, hầu mang lại cho con người một cuộc sống an lạc, tỉnh thứchạnh phúc, một cuộc tu đến chân thiện Mỹ cũng như giải thoát rốt ráo.
     Khi Hoà Thượng Giác Nhiên hướng dẫn chúng tôi đi nhiễu vòng quanh Đại Tháp Bồ Đềchiêm ngưỡng Kim Càng Toà, tôi cảm thấy một niềm xúc động thật mạnh, một nỗi xúc động không thể diễn tả được bằng lời. Cả thân và tâm tôi bị thu hút không phải bởi sự hùng vĩ của Đại Tháp, mà bởi sự kính ngưỡng sự vĩ đại và cao cả của Đức Phật. Tôi nghĩ chắc mọi người ai cũng có nỗi cảm xúc như tôi. Lúc quỳ đảnh lễ Kim Càng Toà và cội Bồ Đề uy nghi sừng sững, tôi thấy mình nhỏ bé quá trước sự vĩ đại của Đức Thế Tôn, lòng tôi lúc đó có cảm giác như mình đang quỳ ngay trước mặt Đức Thế Tôn mà nghe lòng mình lâng lâng niềm kính ngưỡng. Có nhiều người cho rằng mình bất hạnh sanh ra vào thời không có Phật. riêng tôi, tôi không nghĩ như vậy. Như trên đã nói, tôi không có may mắn như các Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, hay A Nan, Ca Diếp… là được sanh ra vào thời có Phật, vì rất có thể vào thời đó, tôi là con trùng hay con dế gì đó cũng không chừng, nhưng ngay bây giờ đây, tôi vẫn còn có giáo pháp vi diệuTăng đoàn, tôi vẫn có những vị xả thânđạo pháp như Hoà Thượng Giác Nhiên, ngài chỉ một đời biết có giáo pháp và vì chúng sanh mà đem giáo pháp vi diệu ấy ra hoàng hoá độ sanh.
 
Hình#1: Cây Bồ ĐềBồ Đề Đạo Tràng về đêm.
 
Hình#2: Mọi người trong đoàn đang thăm viếng Bồ Đề Đạo Tràng về đêm.
 
Hình#3: Hoà Thượng Giác Nhiên đang hướng dẫn đoàn
hành hươnggiải thích về lịch sử của Bồ Đề Đạo Tràng.
 
Hình#4: Hoà Thượng Giác Nhiên đang làm lễ xuất gia cho một số cư sĩ trong đoàn hành hương.
 
Hình#5: Đoàn hành hương đang theo chân Hoà Thượng Giác Nhiên
đi nhiễu vòng quanh Đại Tháp tại Bồ Đề Đạo Tràng.
 
 
V
 
KHỔ HẠNH LÂM
 
     Xin mở ngoặc đơn ở đây để nói một chút xíu về hai nhà chiêm bái Phật tích sớm nhất tại vùng Đông Á là ngài Pháp Hiển và ngài Huyền Trang. Phải thật tình mà nói, nhiều năm về trước, tôi đã từng đọc qua về nhà chiêm bái Pháp HiểnĐại Đường Tây Vực Ký của ngài Huyền Trang, tôi đã rất cảm kích các ngài nhiều lắm lắm. Nhưng sau khi tự thân tôi trải nghiệm những đoạn đường để đi đến được các Thánh tích vào cuối năm 2005, tôi mới thấy được những việc làm của 2 ngài Pháp Hiển vào đầu thế kỷ thứ 5 và ngài Huyền Trang vào thời tiền bán thế kỷ thứ 7 là vô tiền khoáng hậu, là không thể nghĩ bàn. Ngày nay tôi thực hiện chuyến Thiên Trúc Tiểu Du Ký bằng những phương tiện tối tân hiện đại như máy bay Boeing, xe buýt Greyhounds, xe lửa cũng còn tương đối tốt, có thể chạy trên 150 cây số giờ… Trong thành phố thì đi xe taxi, tệ lắm là đi xe tuk tuk (một loại xe giống như xe lôi ở VN trước năm 1975)… và chúng tôi chỉ lưu lại Thiên Trúc trong một thời gian ngắn, thế mà chúng tôi cảm thấy đường đến Thiên Trúc quả là thiên nan vạn nan với vô số những con đường ngoằn ngoèo, gồ ghề, lởm chởm… phải gọi những lổ chổ ở đây là ổ đại bàng, chứ chả có ổ gà ổ vịt nào có thể sánh được với những lồi lỏm theo kiểu ổ đại bàng ở đây cả. Càng nghĩ tôi càng thấy 2 ngài Pháp HiểnHuyền Trang chẳng những tài giỏi mà ý chí của 2 ngài quả thực là một loại ý chí “độc cô cầu bại”, chắc trong lịch sử Phật giáo thế giới sẽ không có mấy ai có thể phá vỡ được kỷ lục nầy của 2 ngài. Ngày đó, vào đầu thế ở kỷ thứ 5, ngài Pháp Hiển dám làm một cuộc phiêu lưu sang Ấn Độ bằng đường biển với không biết bao nhiêu phong ba bão táp trên chuyến hải hành từ Trung Hoa, sang Champa (Chàm), Java (Indonesia), Lanka (Tích Lan), rồi sang đại lục Ấn Độ, lên đường bộ, ròng rả mấy 6 trời mới tới được vùng Đất Phật. Và chuyến đi về của ngài, dầu ngài đã có rất nhiều kinh nghiệm hồi chuyến đi, nhưng cũng phải mất đến 3 năm mới về tới quê nhà. Rồi sau đó, vào tiền bán thế kỷ thứ 7, ngài Huyền Trang đã vượt núi băng rừng, đi qua những con đường núi chưa từng có người nào đi qua, những sa mạc, phải nói là những hoang mạc với đầy dẫy những kinh hoàng, chưa kể đến cái nóng giết người của những hoang mạc nầy. Rồi họ phải băng qua những đỉnh núi tuyết băng đóng quanh năm, khí hậu vô cùng khắc nghiệt… Ngài Huyền Trang thì phải mất trọn 17 năm mới quay về lại Trung Hoa (ngài khởi hành năm 629 và về lại Trường An vào năm 646). Chỉ cần vượt qua bấy nhiêu đó thôi, 2 ngài đã làm nên kỳ tích. Thêm vào đó, kết quả từ 2 chuyến đi của 2 ngài cũng phải nói là “không thể nghĩ bàn”. Hai ngài xứng đáng được lưu danh là hai vị Thánh Tăng vĩ đại trong lịch sử Phật giáo thế giới.
     Bây giờ xin quay lại chuyến tiểu du ký về xứ Thiên Trúc của mình. Sáng sớm ngày 1 tháng 12 năm 2005, chương trình có phần thay đổi, thay vì đi thăm thành Vương Xá và núi Linh Thứu như trong chương trình, đoàn sẽ đi thăm Khổ Hạnh Lâm (Uruvela, làng Sujata và sông Ni Liên Thiền (Naranjana). Khổ Hạnh Lâm cách Gaya không xa lắm, nhưng đường xá gồ ghề xấu xí nên đoàn phải mất gần 2 giờ mới tới được làng Bakraur. Xe buýt cố gắng chạy lên lỏi vào những con đường rất hẹp và rất xấu cho những người trong đoàn hành hương đỡ phải đi bộ. Tuy nhiên, khi gần đến đồi Pragbodhi, xe không còn vào được nữa, nên tất cả chúng tôi phải xuống xe đi bộ khoảng 10 phút sau mới đến được đỉnh đồi Uruvela.
     Chính tại đây, gần khu đồi Uruvela khoảng 26 thế kỷ về trước, sau khi rời bỏ hoàng cung, thái tử đã cùng Xa Nặc phi ngựa qua vùng quê hương của bộ tộc Thích Ca, rồi vượt qua xóm làng của bộ tộc Mallas. Sau đó, thái tử Tất Đạt Đa đã cùng Xa Nặc phi ngựa tới gần dòng sông A Nô Ma, gần một chân núi và ngọn đồi Uruvela, mà thời bây giờ được biết với tên Khổ Hạnh Lâm. Thái tử một mình bước xuống ngựa. Sau khi cho ngựa uống nước xong và nghỉ ngơi xong xuôi, Thái tử bèn cởi áo hoàng bào để đổi lấy chiếc áo cũ của người thợ săn, và nói với người hầu Xa Nặc: ta sẽ một tình đi tầm cầu chân lý, ngươi hãy đem hết áo ngọc, mũ quí, và những thứ châu báu khác về báo lại với phụ vương của ta những điều ta mới vừa nói với nhà ngươi. Trong lúc Xa Nặc vẫn còn bối rốibịn rịn không muốn rời xa thái tử, ngài liền rút thanh bảo đao luôn giắt bên mình ra xén đứt ngay lọn tóc trên đầu rồi đưa cho Xa Nặc để tỏ rõ quyết tâm của mình. Kể từ đó, thái tử đã chính thức trở thành vị sa môn khổ hạnh cô thân vạn lý du đi tìm chân giải thoát cho nhân loại. Chính tại Khổ Hạnh Lâm, thái tử đã tìm đến rất nhiều các bậc cao mình thạc đức để xin chỉ giáo về con đường đi đến giác ngộgiải thoát thật sự. Tuy nhiên, các vị nầy chỉ tu để cầu lên thiên giới hưởng lạc, còn có vị chỉ tu theo kiểu hành xác, ăn rể cây, vỏ cây, hoa quả… có lúc thì cứ dội nước lạnh lên đầu, có lúc lại nằm ngủ cạnh bên lửa nóng khiến cho cơ thể rộp đỏ khắp người, có lúc thì treo ngược người trên một cành cây… Có người thờ phượng mặt trời, có người thì thờ trăng, thờ sao, thờ nước, thờ lửa… Tại đây, Ngài đã từng trú ngụ trong hang đá Dungeswari trong một thời gian dài. Mỗi sáng Ngài ôm bình bát ra đi, Ngài đi một cách lặng lẽ, đến trưa thì dừng chân lại trước nhà của những dân làng để chờ sự cúng dường của họ. Sau khi thọ trai, Ngài dừng lại một bóng cây nào đó để tu tập khổ hạnh. Ngài tìm hết thầy nầy đến thầy khác, từ thầy Bạt Già Bà (Bhagava), rồi đến thầy Ạ Ra Là Ca Lan (Aralakalama), rồi lại đến thầy Uất Đầu Ka Là Ma Tử (Udraka-Ramaputta)… để thọ giáo, nhưng không có vị nào vượt qua được sự thông thái của Ngài, nên Ngài tiếp tục đi về xứ Ma Kiệt Đà, vào kinh thành Vương Xá. Tại đây Ngài cũng hạnh ngộ với vua Tần Bà Sa La, và cũng tại đây Ngài gặp năm anh em À Nhã Kiều Trần Như trong khu rừng Khổ Hạnh Lâm, nơi mà Ngài đã cùng họ tu tập ròng rã trong 6 năm liền trên ngọn đồi Dhongra. Thái tử và năm anh em Kiều Trần Như đã cùng nhau hứa hẹn hễ ai giác ngộ trước thì sẽ hết lòng chỉ dạy để độ thoát những người còn lại. Nhưng sau 6 năm tu hành khổ hạnh, thái tử thấy cách tu nầy chỉ hành hạ thân xác chứ không phải là cách tu giải thoát. Chính vì vậyĐức Phật đã quyết định rời bỏ năm người bạn đồng tu để chuyển sang con đường Trung Đạo.
     Ngày nay ngọn đồi này vẫn mang tên Dhongra, cách làng Bakraur chừng 1,6 cây số về phía Đông Bắc, dọc theo bờ sông Ni Liên Thiền. Trên ngọn đồi nầy ngày nay có một ngôi chùa Tây Tạng. Khách hành hương leo lên tới đỉnh thường được các vị sư Tây Tạng đãi trà. Hoà Thượng Giác Nhiên cùng đoàn leo lên thăm hang Khổ Hạnh nằm trong khu rừng Khổ Hạnh Lâm. Sau đó đoàn hành hương đã bố thí tài vật cho những người nghèo trong những khu quanh rừng Khổ Hạnh Lâm trước khi đến làng Sujata.
 
 
Hình#1: Hoà Thượng Giác Nhiên đang đứng trên con đường đi vào Khổ Hạnh Lâm.
 
Hình#2: Không biết vào thời Đức Phật như thế nào chứ bây giờ
người dân ở đây cũng không khá gì hơn cái tên Khổ Hạnh Lâm.
 
Hình#3: tác giả chụp hình với anh bạn đồng tu Thiện Minh (Canada) dưới chân đồi Uruvela.
 
Hình#4: Hang Khổ Hạnh Dungeswari trong khu rừng Khổ Hạnh Lâm.
Phía sau lưng chỗ đoàn chúng tôi đang đứng chụp hình là ngôi chùa Tây Tạng.
 
Hình#5: Những người nghèo trong khu Khổ Hạnh Lâm đang chờ được ủy lạo.
 
Hình#6: Trên đường từ hàng Khổ Hạnh Dungeswari đi xuống,
một số vị trong đoàn đang bố thí tiền bạc cho những người nghèo.
 
 
VI
 
SÔNG NI LIÊN THIỀN & LÀNG SUJATA
 
     Dòng sông Ni Liên Thiền (Naranjana) cách Đại Tháp của Bồ Đề Đạo Tràng khoảng 200 mét về phía Đông. Ngày nay dòng sông nầy có tên là Lilajan. Sông rộng trên 1 cây số. Vào mùa nắng, lòng sông khô cạn gần như không còn một giọt nước. Đến mùa mưa thì nước chảy rất mạnh. Hiện nay Chánh phủ Ấn Độ đã bắt ngang qua sông này một cây cầu thật dài, rất thuận tiện. Họ việc giao thông qua lại với làng Bakraur. Theo lịch sử Phật Giáo thì sau sáu năm tu hành khổ hạnh, thái tử Tất Đạt Đa cảm thấy rằng việc lớn giải thoát không thể bằng cách tu hành khổ hạnh ép xác mà thành được, nên thái tử đã quyết định từ bỏ lối tu hành ép xác khổ hạnh. Chính tại nơi này, bên bờ sông Ni Liên Thiền, Đức Phật đã cương quyết bước xuống dòng sông tắm gội sạch sẽ, nhưng do hậu quả của 6 năm khổ hạnh, thân thể ngài đã quá yếu, nên khi Ngài vừa tắm xong và bước lên bờ liền bị té nằm ngay cạnh bờ sông.
     Lúc đó may mắn có một cô gái chăn bò đem thấy vậy liền đem cháo sữa tới cúng dường. Ngài nhận bát cháo sữa do nàng Sujata cúng dường, chính nhờ bát cháo sữa nầy mà cơ thể của Ngài dần hồi phục. Sau đó, Ngài nhận thêm bó cỏ kiết tường làm gối ngồi thiền từ một nông dân trong vùng, trước khi Ngài đi về cội Bồ Đề để bắt đầu thiền định.
     Làng Sujata-Kuti, nơi nàng Tu Xà Đa (Sujata) đã dâng bát cháo sữa lên Đức Phật. Vị trí của làng nằm khoảng 2 cây số về phía Nam bờ sông Ni Liên Thiền, thuộc địa phận làng Bakraur bây giờ. Tại đầu làng có một ngôi miếu nhỏ thờ hình Đức Phật ngồi thiền và hình cô gái chăn bò Từ Xà Đa dâng sữa để ghi nhớ chính nơi đó thái tử Tất Đạt Đa đã nhận bát cháo sữa do nàng Tu Xà Đa cúng dường. Không biết ngày xưa làng Sujata thế nào, nhưng chắc là sung túc hơn bây giờ nhiều vì thuở ấy nhà của nàng Sujata hãy còn có sữa để cúng dường Đức Phật, chứ ngày nay ngôi làng xơ xác điều hiểu, dân làng nghèo nàn thê thảm, nên họ chỉ biết có xin chứ không hề biết đến chuyện cho ai thứ gì. Còn sông Ni Liên Thiền, một chứng tích lịch sử trong việc Đức Phật chuyển sang con đường Trung Đạo, con sông ấy hãy còn đây trên bản đồ, nhưng trên thực tế nó chỉ còn là một bãi cát bao la, không còn lấy một giọt nước nào nữa. Chính nơi đây, sau khi vượt sông Ni Liên Thiền, nhờ bát cháo sữa của nàng Tu Xà Đasức khỏe của thái tử Tất Đạt Đa đã phục hồi dần dần. Và sau khi vượt sông Ni Liên Thiền, Ngài đã thiền định liên tục 49 ngày đêm cho đến khi đạt thành đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
     Tại khu làng Sujata, Hoà Thượng Giác Nhiên cũng hướng dẫn đoàn đến viếng thăm khu tường học cũng như ủy lạo một số học sinh và thầy cô nghèo tại đây. Khoảng giữa trưa, chúng tôi từ giả dân làng Sujata để lên đường trở về Bồ Đề Đạo Tràng. Khoảng 1:00 giờ trưa hôm đó, chúng tôi dự lễ xuất gia cho hai vị cư sĩ ngay trong khuôn viên Bồ Đề Đạo Tràng. Sau đó, chúng tôi tới thăm viếng một vài ngôi chùa lớn như chùa Việt Nam Phật Bảo Tự, chùa Nhật Bản, chùa Tích Lan, vân vân. Chúng tôi cũng ghé lại thăm Hội Đại Bồ Đề (Mahabodhi Society) nằm sát bên chùa Tây Tạng. Hội nầy có tầm vóc rất lớn và có trụ sở tại nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Tích Lan, Nhật Nản, Nepal… Trụ sở Hội tại Ấn Độ được à Tích Lan tài trợ nhằm giúp đỡ cho các lớp học cấp I tại địa phương. Chùa Ấn Độ Maha Bodhi Mahavihara đối diện với khu Đại Tháp, được chính phủ Ấn Độ tài trợ xây dựng, đặt dưới quyền quản trị của Ban Quản Trị Đại Tháp Bồ Đề (Bodhgaya Temple Management Committee). Các vị sư trong chùa Ấn Độ nầy luôn túc trực bên Bồ Đề Đạo Tràng để hướng dẫn khách hành hương. Kế bên Hội Đại Bồ Đề là ngôi chùa Thái Lan, bên trong có tượng Phật bằng vàng, được thái tử Hanon Kittiheaenhern dâng cúng 60.000 Mỹ kim để đúc vào năm 1956. Cách chùa Thái Lan một quãng không xa là ngôi chùa Nhật Bản. Cũng như dân Tây Tạng, dân Nhật Bản ấy rất nhiều chùa tại Ấn Độ nói chung và tại Bồ Đề Đạo Tràng nói riêng. Chùa lớn nhất của Nhật Bản tạ Bồ Đề Đạo Tràng thuộc phái Nhật Liên Tông. Tại đây còn một ngôi chùa Nhật Bản rất lớn có tên là Kim Cang Thừa, có một đại Hồng chung mà tiếng nó vang xa hàng mấy chục cây số, nhưng chúng tôi không có đủ thời giờ để đến viếng ngôi chùa này. Sau đó, chúng tôi đi thăm chùa Việt Nam Phật Quốc Tự và chùa Viên Giác. Chùa Việt Nam Phật Quốc Tự có 3 tầng, tầng dưới cùng có 30 phòng khách xá, tầng hai là thư viện với vô số kinh sách Phật giáo, tầng 3 làm Chánh điện thờ đức Phật. Chùa Viên Giác là ngôi chùa lớn thứ hai tại Bồ Đề Đạo Tràng, hoàn tất xây dựng vào năm 2002. Ngoài ra, tại Bồ Đề Đạo Tràng còn có rất nhiều chùa của các xứ Trung Hoa, Đài Loan, Bhutan, Nepal, Đại Hàn, miến Điện, vân vân.
     Đến tối ngày 1 tháng 12 năm 2005, Hoà Thượng Giác Nhiên hướng dẫn đoàn ra Đảnh lễ Đại Tháp. Tối đêm đó, chúng tôi lưu lại đây để thiền định suốt đêm trong đó có các anh Thiện Tài và Thiện Minh từ Canada. Trong đêm tối có rất nhiều đoàn người đi kinh hành vòng quanh Đại Tháp với những ánh đèn cúng Phật… tạo cho cảnh trí của Bồ Đề Đạo Tràng một sắc thái hết sức đặc biệt, vừa uy nghi vừa cảm động.
 
 
Hình#1: đoàn chụp hình dưới cội cây Bồ Đề bên bờ sông Ni Liên Thiền.
 
Hình#2: dòng sông Ni Liên Thiền vào tháng 12 năm 2005, cạn khô như một bãi cát bao la.
 
Hình#3: chính tại gốc cây này bên bờ sông Ni Liên Thiền, nàng Sujata
đã dâng cúng bát cháo sữa lên đức Phật.
 
 
VII
 
NÚI KỲ XÀ QUẬT & THÁP HOÀ BÌNH
 
     Sáu giờ sáng ngày 2 tháng 12 năm 2005, đoàn khởi hành đi thăm thành Vương Xá (Rajgir), thăm đỉnh Kỳ Xà Quật, và thăm núi Linh Thứu (Hill of Vultures). Từ Bodhgaya đi về phía Đông Bắc khoảng 50 cây số là đến thành Vương Xá. Thành nầy nằm về phía Đông Nam thành Hoa Thị (Pataliputra nay là thủ phủ Patna của bang Bihar). Ngày trước Vương Xá là một kinh thành trù Phú vào bậc nhất trong vùng Bắc Ấn, nhưng nay chỉ còn trơ lại một bức tường thành nằm trơ trọi giữa những túp lều tranh lụp sụp. Vương Xá là một trong những thành phố lâu đời nhất ở Ấn Độ. Thành Vương Xá là nơi gắn liền với cuộc đời hoàng pháp của Đức Thế Tôn trong nhiều năm. Chính nơi đây đã diễn ra nhiều pháp hội quan trọng và Đức Phật cũng đã về đây an cư kiết hạ nhiều lần. Dưới thời vua Bình Sa Vương thì thành Vương Xá chính là kinh đô của vương quốc Ma Kiệt Đà. Ma Kiệt Đà thời đó là một vương quốc hùng mạnh với một địa thế hết sức đặc biệt. Vương quốc nầy đã tuần tự được cai trị bởi những quân vương Phật tử như Tần Bà Sa La, A Xà Thế… trong thời Đức Phật, rồi về sau này đến vua A Dục dưới triều đại Khổng Tước. Ngày đó, Vương Xá thật sầm uất, dân cư đông đúc, sinh hoạt nhộn nhịp, kinh tế trù phú. Theo truyền thuyết Phật giáo thì sau khi thái tử Tất Đạt Đa xuất gia, Ngài đã gặp vua Bình Sa Vương, và vị sa môn trẻ tuổi Cồ Đàm đã hứa với nhà vua là sẽ trở về đây độ nhà vua khi đắc đạo. Bảy năm sau đó, kinh thành Vương Xá đã tưng bừng nhộn nhịp mở hội đón một bậc Đại Giác đến đây. Đây là một trong những biến cố quan trọng trong lịch sử của thành nầy. Thành Vương Xá còn có những tên khác như Girivraja, Vasumati, Barhadrathapura, Kusagrapura, và Rajagriha. Có lẽ vì Vương Xá được bao quanh bởi núi đồi nên nó có tên là Girivraja, có nghĩa là núi đồi chung quanh. Còn tên Vasumati có lẽ được đặt để tưởng nhớ đến vua Vasu khi ông lấy thành nầy làm kinh đô. Barhadrathapura đặt theo Brihadratha, tên của một vị vua sáng lập ra một triều đại tại kinh thành nầy. Trong Đại Đường Tây Vực Ký, ngài Huyền Trang đã gọi thành nầy là Kusagrapura, có lẽ vì lúc này tại kinh thành này có nhiều loại cỏ thơm, nhưng theo truyền thuyết Ấn Độ thì tên này được đặt theo tên vua Kusagra, người kế vị vua Brihadratha. Còn tên Rajagriha, âm theo Hán tự là Vương Xá, có nghĩa là nơi vua chúa ngự trị, có lẽ vì nơi đây đã trở thành kinh thành trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, theo ngài Huyền Trang trong Đại Đường Tây Vực Ký thì tên Rajagriha dùng để gọi thành Vương Xá mới, nằm về phía Bắc khu Vương Xá thời Đức Phật còn tại thế: Đi về phía Đông của dòng sông Mahi là một khu rừng lớn, sâu trong rừng là ngọn núi Kê Túc (Kukkutapadagiri), còn gọi là núi Chân Gà. Triền núi cao và dốc, với những vực thẳm rất nguy hiểm, không thể nào vào được. Những tảng đá lở thường lăn từ trên xuống, trong những vực thẳm nầy có rất nhiều cây cao. Trên cao có 3 đỉnh, mây mù thường che khuất các đỉnh núi ấy. Từ trên những hang động này, ngài Ma Ha Ca Diếp đã triệu tập cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất dưới sự bảo trợ của vua A Xà Thế. Nơi nầy cũng có động đá A Tu La, từ động nay đi về phía Đông khoảng 60 lí sẽ đến thành phố Kussagara, có nghĩa là thành phố vua chúa của loài cỏ thơm. Đây chính là thủ đô của nước Ma Kiệt Đà. Những vị vua trước đã thành lập kinh đô tại đây. Xứ nầy sản xuất loại cỏ thơm rất tốt, và cỏ này là biểu tượng của sự may mắn. Những ngọn núi cao bao bọc thành phố như một bức tường thành kiên cố. Về phía Tây có một con đường nhỏ đi xuyên giữa núi. Về phía Bắc là con đường vượt trên triền núi. Thành rộng từ Đông sang Tây, nhưng lại hẹp về hướng Bắc Nam. Chu vi thành khoảng 150 lí. Những tàn tích của thành nội có chu vi khoảng 30 lí. Những cây Nguyệt táo dọc hai bên đường luôn có bông hoa vàng óng ả, toả ra một mùi thơm đặc biệt. Về phía Bắc thành phố có một ngôi tháp. Chính nơi này Đề Bà Đạt ĐaA Xà Thế đã toa rập nhau để hãm hại Đức Phật. Phía Đông Bắc nơi nầy cũng có một ngôi tháp. Đây chính là nơi ngài Xá Lợi Phất lần đầu tiên được nghe ngài A Thuyết Thị (Asvajita) nói pháp nên sau đó tìm tới quy y với Đức Thế Tôn. Về phía Bắc ngôi tháp này có một cái hồ rất sâu, bên bờ hồ có một cái tháp. Nơi đây Thắng Mật (Srigupta), một đệ tử Ni Kiền Đà, đã thiết bị một hầm lửa âm mưu hại Phật. Thế nhưng Thắng Mật đã được Đức Thế Tôn độ và về sau này cũng chứng quả A La Hán. Phía Đông Bắc của thành chừng 14 hay 15 lí là núi Linh Thứu. Linh Thứu Sơn có hình như con chim và trên đó loài kênh kênh đã dùng làm nơi trú ngụ. Trong gần 45 năm hoàng hoá, Đức Phật thường về núi nầy thuyết giảng những giáo lý cao siêu. Vua Tần Bà Sa La đã cho lấp những hố sâu để làm con đường tương đối khá tốt lên núi. Đỉnh núi chạy dài từ hướng Đông sang Tây và bề rộng từ Nam lên Bắc. Trên đỉnh có một ngôi tịnh xá bằng gạch, của tịnh xá quay về hướng Đông. Chính nơi đây Đức Phật đã giảng những bài kinh quan trọng của Phật giáo. Về phía Đông của tịnh xá là một tảng đá dài, nơi Đức Phật làm đường đi kinh hành. Kế bên tảng đá nầy là một tảng đá khác, cao khoảng 5 mét và rộng khoảng 10 mét. Đây chính là nơi Đề Bà Đạt Đa đã đứng để lăn đá xuống hãm hại Đức Phật. Phía Nam nơi nầy có một ngôi tháp nằm bên dưới mỏm đá. Chính tại nơi đây, Đức Phật đã giảng kinh Pháp Hoa. Phía Nam của ngôi tịnh xá là một mỏm đá, có một ngôi nhà đá mà theo truyền thuyết, Đức Phật đã ngồi nhập định lúc Ngài còn là một vị Bồ Tát trong một kiếp xa xưa về trước. Phía Tây Bắc của ngôi nhà đá, về phía trước là một tảng đá. Nơi đây A Nan bị ma vương làm cho sợ hãi. Theo truyền thuyết, lúc ngài A Nan nhập định tại đây, mà vương đã hiện hình làm chim kênh kênh vào giữa đêm tối trời, đậu trên tảng đá và cất tiếng kêu thảm thiết. Sau đó nhờ Đức Phật dùng thần lực đưa tay chẻ đôi mỏm đá. Đức Phật trấn an A Nan: “Con không nên lo sợ cái phép thuật của ma vương.” Nhờ đó mà A Nan lại trụ tâm vào định một cách dễ dàng. Hiện nay mỏm đá hình con chim và vết nứt của đá vẫn còn đó. Trên đỉnh ngọn núi Linh Thứu còn có một cái tháp. Từ đây đúc Phật đã nhìn xuống toàn xứ Ma Kiệt Đà.
     Về phía Nam của cửa Bắc của thành Ma Kiệt Đà là ngọn núi Vipula, theo truyền thuyết thì tại đây có trên 500 nguồn nước nóng, nhưng hiện nay chỉ còn lại khoảng 10 nguồn nước vẫn còn nóng, số còn lại, một số còn hơi ấm, một số đã nguội lạnh. Từ cửa Bắc thành Ma Kiệt Đà, đi chừng 1 lý (6 lý=1.600 mét) là tới Tịnh Xá Trúc Lâm, nơi đay hiện vẫn còn những nền và tường của ngôi tịnh xá cũ có cửa hướng về phía Đông. Trong thời Đức Phật còn tại thế, Ngài thường hay tới nơi nầy. Về phía Đông của tịnh xá Trúc Lâm là ngôi tháp do vua A Xà Thế xây dựng lên sau khi đức Phật nhập diệt. Sau khi vua A Dục của triều đại Khổng Tước (Maurya) lên ngôi vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch, ngài đã đến đây mở tháp lấy xá lợi Phật rồi dựng lên nhiều tháp khác để thờ. Từ thành Vương Xá phải đi 12 cây số mới tới núi Linh Thứu. Bây giờ đoàn chúng tôi đi bằng xe buýt và sử dụng đường cáp treo để lên đỉnh núi, mà còn thấy mệt mỏi vì đường sá gồ ghề. Thế mà ngày trước Đức Phật toàn là đi bộ. càng nghĩ càng cảm thấy cảm kích và kính ngưỡng Đức Phật vô cùng, vì thời đó phương tiện duy nhất của Ngài là đôi chân. Thế mà Trong suốt 45 năm Ngài đã đi khắp các vùng phía Bắc Ấn Độ để hoẵng hoá lợi sanh.
     Trước kia, nơi này có những nền tường cũ, dấu tích nơi vua A Xà Thế đã xây đại sảnh cúng dường cho kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất. Trong vùng nầy có năm ngọn núi, trong đó có núi Linh Thứu (Gijjakutta), nơi Đức Phật thường tới giảng kinh. Tuy khoảng cách không xa, nhưng đường sá gồ ghề xấu xí nên đoàn chúng tôi phải mất trên hai giờ đồng hồ mới đến được Vương Xá. Từ Vương Xá, đi thêm 12 cây số nữa là tới núi Linh Thứu. Bây giờ phương tiện lên núi đã được cải tiến bằng những dây cáp điện do người Nhật trang bị, đi nhanh và khỏe hơn thời Đức Phật nhiều, thế mà chúng tôi vẫn cảm thấy mệt. Càng nghĩ càng thấy cảm kích Đức Phật, thời đó phương tiện duy nhất chỉ là đôi chân, thế mà Ngài đã đặt bước đi khắp các vùng Bắc Ấn. Nhờ dây cáp điện mà mọi người đều lên đến đỉnh Kỳ Xà Quật một cách nhanh chóng. Lên đến đỉnh Kỳ. Xà Quật, phải đi bộ một đoạn nữ mới đến Tháp Hoà Bình, ngôi tháp rất lớn, được phái Nhật Liên Tông của người Nhật xây dựng vào năm 1978. Gần tháp Hoà Bình là một ngôi chùa Đại Đức khác cũng do người Nhật xây dựng vào năm 1978. Sau khi tụng kinh cầu anđi nhiễu quanh Tháp Hoà Bình, chúng tôi đi bộ qua núi Linh Thứu. Tuy khoảng cách không xa lắm, chỉ chừng 30 phút đi bộ, nhưng đường sá ngoằn ngoèo rất khó đi. Chính nơi đây, thời Đức Phật còn tại thế, vua Bình Sa Vương đã cho xây dựng một con đường từ chân núi lên đến đỉnh núi. Ngày nay con đường này được xây dựng lại với các bậc cấp xi măng và hai bên đều có cây to tỏa bóng mát, nên việc đi lại cũng dễ dàng, nhưng đối với người lớn tuổi thì thật là vất vả. Người Nhật cũng cho xây dựng một chiếc cầu nối liền núi Kỳ Xà Quật và Linh Thứu. Ngay tại đây, tại chân cầu này cũng chính là nơi vua Bình Sa Vương bước xuống ngựa, đích thân đi bộ lên hương thất thăm viếng Đức Phật. Thời Đức Phật còn tại thế, vua Bình Sa Vương đang cai trị vương quốc Ma Kiệt Đà, đã cho xây dựng hai lớp tường rào bao bọc quanh thành Vương Xá. Lớp bên trong bao bọc nội điện, lớp bên ngoài bao bọc toàn thành nơi trú ngụ của đình thần. Ngay từ thời ngài Phật Âm thì tổng số cư dân trong thành Vương Xá đã lên đến hơn 18 triệu người. Tuy nhiên, đến đời vua Udyin, người nối ngôi vua A Xà Thế đã cho dời kinh đo về kinh đô đến Pataliputra, tức Patna thủ phủ của bang Bihar ngày nay, bên cạnh một dòng sông với đất đai phì nhiêu màu mỡ, nên kể từ đó, vị thế của thành Vương Xá không còn nữa. Đến thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch, vua A Dục cho dựng tháp và trụ đá tại đây để tưởng niệm Đức PhậtTăng đoàn của Ngài.
**Để tôn trọng sự miêu tả về thành Vương Xá của ngài Huyền Trang lúc ngài tham bái thành Vương Xá vào năm 629, nên đoạn nào trích của ngài Huyền Trang, tác giả vẫn giữ nguyên văn sự mô tả về thành Vương Xá theo Đại Đường Tây Vực Ký của ngài, (mỗi 6 lý=1.600 mét).
Hình#1: Quang cảnh trên đỉnh núi Kỳ Xà Quật.
 
Hình#2: Đường lên tháp Hoà Bình (do người Nhật xây dựng vào năm 1978.
 
Hình#3: Cổng đi vào Tháp Hoà Bình.
 
Hình#4: Hoà Thượng Giác Nhiên đang hướng dẫn đoàn đi thăm ngôi Đại Tháp Hoà Bình.
Hình#5: Con đường đi từ dưới chân lên đỉnh núi Kỳ Xà Quật do vua Bình Sa Vương
xây dựng ngày trước. Ngày nay người ta làm lại bằng đường xi măng.
 
 
VIII
 
TỪ ĐỈNH KỲ XÀ QUẬT QUA NÚI LINH THỨU
 
     Núi Linh Thứu là một trong những ngọn núi cao bao bọc chung quanh thành Vương Xá. Núi Linh Thứu là nơi Đức Phật đã thuyết giảng nhiều bộ kinh quan trọng trong lịch sử Phật giáo cũng như trong truyền thuyết Phật giáo như các bộ kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Đại Bát Nhã… Ngay khi qua cầu Linh Sơn, phía bên phải có một hang động nhỏ. Chính nơi này, ngài A Nan đã thường ngồi tu tập thiền định, phía sau hàng đá vẫn còn một đường nứt lớn chạy dài đêm hương thất của Đức Phật. Theo truyền thuyết Phật giáo, đây cũng chính là chỗ mà Đức Phật đã dùng thần lực đưa tay từ phòng mình xuống đặt trên đầu ngài A Nan để trấn an ngài. Đi thêm một đỗi nữa là đến hàng động của ngài Xá Lợi Phất. Hàng nầy có một mỏm đá nhô ra như hình của một đầu rắn, chính nơi đây ngài Xá Lợi Phất thường trú ngụ để thiền định. Từ hàng động của ngài Xá Lợi Phất, đi theo con đường ngoằn ngoèo với những nấc thang chúng ta sẽ tới một mỏm đá hình chim mỏ nhọn, mặt ngước lên. Có lẽ vì hình dạng nầy mà ngọn núi có tên Linh Thứu. Lên đến đỉnh Linh Thứu là hương thất của Đức Phật. Hiện tại, hương thất của Ngài chỉ còn trơ lại một nền gạch, chứ không còn tôn tượng hay bệ thờ gì cả. Gọi là hương thất vì chính nơi đây hương thơm trí tuệ của Đức Phật đã tỏa ra ngạt ngào và bay đi cùng nơi khắp chốn. Hương thất được xây trên một tảng đá lớn trên đỉnh núi. Về phía Đông Bắc của hương thất là một dòng suối, ngày nay đã khô cạn, không còn nước nữa, nhưng theo truyền thuyết Phật giáo thì đây là một con suối có nước trong và mát, thời đó vào mùa hè, Đức Phật thường hay tắm giặt tại con suối nầy. hoà Thượng Giác Nhiên đã hướng dẫn đoàn tụng một thời kinh cầu an ngay trên nền đỉnh núi Linh Thứu. Tại đây vào năm 406, ngài Pháp Hiển đã ghi lại trong quyển Tây Vực Ký rằng khi ngài lên đến đỉnh Linh Thứu, ngài cảm thấy vô cùng đau xót vì tủi thân phận mình không gặp mặt đức Thế Tôn, nhớ đến ân Đức của Phật nên ngài đã tụng một thời kinh Lăng Nghiêm, trong khi vào năm 629, ngài Huyền Trang cũng tụng ngay trên nền hương thất trên đỉnh Núi Linh Thứu trọn bộ kinh Pháp Hoa. Còn đoàn chúng tôi ngày nay chỉ tụng có một thời kinh cầu an và hoà bình thế giới. Đúng là sanh vào thời mạt pháp, Phước mỏng, nghiệp dầy nên không có đủ duyên đủ phước như những bậc thầy đi trước. Tưởng cũng nên nhắc lại, sau khi Đức Phật thu nhận ba anh em nhà Ca Diếp làm đệ tử, cả ngàn đệ đệ tử theo phái thờ Thần Lửa của Ca Diếp trước đây đều theo về quy y với Đức Phật làm thành một Tăng Đoàn rất lớn thời bấy giờ. Tất cả cùng rời khỏi đạo tràng thờ Lửa, cùng nhau đi về hướng Núi Linh Thứu của thành Vương Xá (Rajagrha) làm kinh động cả xứ Mà Kiệt Đà. Quốc Vương Tần Bà Sa La (Bimbisara) hay tin Tăng Đoàn của Đức Phật sắp đến, liền lên với tự mình ra đón tiếp Đức Phật ở ngoại thành. Dân chúng cả thành Vương Xá cũng xếp hàng dài từ của thành Vương Xá đến tận Núi Linh Thứu để đón Đức PhậtTăng đoàn của Ngài. Theo truyền thống Phật giáo, sau nầy cũng chính tại nơi đây trong một pháp hội, ngài Ca Diếp đã nhận sự truyền thừa từ đức Phật. Theo truyền thống Phật giáo thì trong pháp hội này, Đức Phật đã không nói một lời nào mà chỉ đưa lên một cành hoa. Cả chúng hội đều ngơ ngác nhìn nhau, duy chỉ có ngài Ca Diếp nhìn Đức Phật mỉm cười. Cái cười của một người đại đệ tử giác ngộ. Từ đó ngài đại Ca Diếp được Phật trao truyền nối tiếp dòng truyền thừa Chánh Pháp. Chúng ta sanh ra vào thời không có Phật, nên chỉ biết đến đây thành kính đảnh lễ các thánh tích một thời đã từng ghi lại dấu tích của Ngài.
     Sau đó, vào buổi trưa, đoàn xuống núi để tiếp tục thăm viếng Trúc Lâm tịnh Xá. Lúc gần đến chân núi Linh Thứu, sư Minh Thành đã chỉ vào một tảng đá và cho biết: đây là tảng đá Mardukushi, theo truyền thuyết Phật giáo, chính Đề Bà Đạt Đa đã lăn nó xuống chân núi để hãm hại Đức Phật. Trên đường lên núi Linh Thứu, phía bên trái hãy còn phế tích của những bức tường, theo truyền thuyết thì đây là khu Vườn Xoài của một danh y thời đức Phật tên là Kỳ Bà, đã từng là ngự y của vua Tần Bà Sa Lavua A Xà Thế. Kỳ Bà cũng đã theo gương của Vua Tần Bà Sa La, cúng dường toàn bộ khu Vườn Xoài của mình cho Giáo đoàn của Đức Phật, và đức Phật cũng đã ghé lại đây nhiều lần.
     Trên đường đi lên Núi Linh Thứu, phía bên trái hãy còn lại phế tích của những bức tường. Theo truyền thuyết thì đây là khu Vườn Xoài của một danh y tên Kỳ Bà, đã từng là ngự y của vua Tần Bà Sa Lavua A Xà Thế. Ông đã theo gương của vua Tần Bà Sa La, cúng dường tất cả khu vườn xoài của mình cho Tăng Đoàn của Đức Phật, và chính Đức Phật cũng đã nhiều lần ghé lại nơi nầy.
     Lưng chừng triền núi Linh Thứu có một tấm bảng ghi lại sự kiện vua Tần Bà Sa La xuống kiệu đi bộ lên đỉnh núi để đảnh lễ Đức Phật. Tấm bảng thứ hai đánh dấu chỗ vua Tần Bà Sa La bỏ lại đoàn tuỳ tùng, một mình đi vào đảnh lễ Đức Phật. Tuy nhiên, vì nghiệp báo tiền khiên mà về sau nầy nhà vua đã bị chính đông cung thái tửA Xà Thế hạ ngục cho đến chết. Về sau này, khi Đức Phật nhập diệt, thì chính A Xà Thế cũng quay về với đạo Phậttrở thành một quân vương Phật tử, tích cực yếm trợ cho 500 vị A Là Hán trong lần kết tập kinh điển lần thứ nhất tại động Thất Diệp, trong thành Vương Xá.
***Quý vị có biết tại sao tất cả Phật tử trong đoàn, cả nam lẫn nữ, đều phải đội nón màu cam trong suốt cuộc hành trình, còn chư Tăng Ni thì không phải đội gì cả không?
**Hình#4: Hoà Thượng Giác Nhiên và Thiện Phúc đang đứng trên nền nhà tưởng niệm ngài Huyền Trang, người đã từng làm cuộc du hành qua Tây Vực từ năm 629 tới năm 646, và đã từng lưu lại Ngay tại nơi nầy trên Núi Linh Thứu. Cuộc hành trình ròng rả 17 năm dài, để đi từ Trường An (Trung Hoa) sang chiêm bái các thánh tích Phật giáotrở về lại Trường An.
 
Hình#1: Đường dây cáp treo từ bên Kỳ Xà Quật qua đỉnh Linh Thứu.
 
Hình#2: Từ bên đỉnh Kỳ Xà Quật ngó qua Núi Linh Thứu.
Hình#3: Hoà Thượng Giác Nhiên đang nằm trước cửa Thiền Thất của ngài A Nan.
 
Hình#4: Hoà Thượng Giác Nhiên và Người Long Hồ (Thiện Phúc)
 
Hình#5:Mỏm đá hình chim kênh kênh trên đỉnh Linh Thứu,
ngay phía trước Thiền Thất của Đức Phật
 
Hình#6: chư Tăng Ni và Phật tử trong đoàn đang tụng kinh cầu an cho
hoà bình thế giới ngay trên nền Thiền Thất của Đức Phật trên đỉnh Núi Linh Thứu.
 
 
IX
 
TRÚC LÂM TỊNH XÁ
 
     Vào buổi trưa, đoàn chúng tôi tiếp tục đến thăm Trúc Lâm Tịnh Xá. Sau khi đoàn chúng tôi đến Tịnh Xá Trúc Lâm (Venuvana-Bamboo Grove) vào giữa trưa, nên Hoà Thượng Giác Nhiên cho phép đoàn dùng cơm trưa trước khi thăm viếng Tịnh Xá để hồi tưởng lại không khí sinh hoạt của Tăng Đoàn thời xa xưa. Ngày đó, khi Đức Phật du hành từ Bồ Đề Đạo Tràng đến thành Vương Xá (Rajagraha), được vua Bình Sa Vương (Bimbisara) và thần dân nghênh tiếp một cách vô cùng hoan hỷ. Sau khi quy y Tam Bảonghe lời tuyên thuyết của Đức Phật, vua Bình Sa Vương chứng Thánh quảcảm thấy an lạc tuyệt đối. Sau khi cúng dường Trai Tăng tại hoàng cung, nhà vua thỉnh ý Đức Phật muốn biết nơi nào yên tịnh thích hợp cho Đức PhậtTăng Đoàn. Đức Phật trả lời: Nơi thích hợp cho Như LaiTăng Đoàn là một nơi vắng vẻ, không xa mà cũng không gần thành thị, để cho ai muốn, có thể đến một cách dễ dàng. một nơi mát mẻ, ban ngày không đông đảo ồn ào, ban đêm yên tĩnh, khoảng khoát và kín đáo, nơi ấy sẽ thích hợp. Sau khi nghe xong, vua Tần Bà Sa La liền nghĩ ngay đến khu Rừng Trúc, tức là khu Trúc Lâm được dùng làm vườn Thượng Uyển của nhà vua. Chỉ có nơi nầy mới hội đủ điều kiệnthích hợp cho Đức Phật mà thôi. Nhà vua bèn bạch với Đức Phật để xin dâng cúng ngôi Vườn Thượng Uyển lên Đức PhậtTăng Đoàn. Đây là một khu vườn rộng với rất nhiều khóm trúc xanh um, tuy không xa đô thị nhưng lại mang vẻ thanh utịch Liêu của một vùng thôn dã với bóng mát thường xuyên của những khóm trúc. Đây cũng là khu an toàn của loài sóc. Đức PhậtTăng Đoàn đã trải qua ba mùa an cư kiết hạ tại khu vườn này, từ hạ thứ nhì đến hạ thứ tư. Phải nói thành Vương Xá là cái nôi của Phật giáo, vì như trên đã nói, sau khi thành đạo, ngoài những lúc đi hoàng hoá, Đức Phật đã lưu lại nơi nầy nhiều nhất. Và khu vực từ Trúc Lâm Tịnh Xá qua núi Kỳ Xà Quật và Linh Thứu là những nơi mà Đức Phật đã giảng nhiều bộ kinh lớn trong Phật giáo. Hồi tiền bán thế kỷ thứ 7, ngài Huyền Trang đã ghi lại cuộc viếng thăm thành Vương XáTrúc Lâm Tịnh Xá khá đầy đủ chi tiết. Lúc đó thành Vương Xá cũ không còn nhộn nhịp nữa, mà trung tâm thành Vương Xá
mới của xứ Mà Kiệt Đà đã dời đi cách đó không xa. Tuy nhiên, Trúc Lâm Tịnh Xá vẫn còn khá tốt và cũng còn có một số chư Tăng thường hay lui tới. Đến khi Phật giáo bị mai một tại Ấn Độ thì khu Trúc Lâm trở thành một khu rừng hoang dại. Về sau này, khi các nhà khảo cổ đã xác định được rõ ràng vị trí của khu Trúc Lâm thì chính phủ Ấn Độ một mặt phân khu để tiếp tục khai quật, mặt khác cho phục hoạt lại khu Tịnh Xá Trúc Lâm cũng như những Thánh tích khác trong thành vương Xá. Dầu thời gian đã trôi qua gần 26 thế kỷ, ngày nay, những bụi trúc ở đây vẫn còn xanh um, hồ nước vẫn trong trẻo như ngày nào, nhưng bóng dáng đấng Cha Lành chỉ còn lại trong tâm tưởng của những người con Phật mà thôi. Đây là khu tịnh xá đầu tiên được dựng lên cho Đức PhậtTăng Đoàn. Giữa khu tịnh xá là một cái hồ hình chữ Nhật rất lớn, bốn phía đều được xây bằng gạch. Theo truyền thuyết thì hồ này do ông Karanda dâng cúng trong việc xây dựng để cho Đức PhậtTăng Đoàn tắm giặt. Ngày nay nước trong hồ vẫn còn khá nhiều. bên cạnh hồ nước có một pho tượng Phật đứng trong một ngôi tháp do chính phủ Ấn Độ mới xây lên sau này để tưởng niệm nơi Đức Phật thường đi kinh hành quanh hồ. Hiện tại, trong khuôn viên của Tịnh Xá Trúc Lâm hãy còn lưu lại những nền gạch và ngôi tháp thờ xá lợi Phật do vua A Xà Thế xây dựng. Cạnh hồ nước hãy còn một cây Bồ Đề thật to mà theo truyền thuyết do chính ngài A Nan trồng, để mỗi khi nhìn cội cây là nhớ đến Đức Phật.
 
Hình#1: Trên đường đi qua Trúc Lâm Tịnh Xá, đoàn đi ngang qua chỗ nầy là nơi Đề Bà Đạt Đa đã lăn đá từ trên núi cao xuống để hãm hại Đức Phật.
 
Hình#2: Hoà Thượng Giác Nhiên đang đứng ngay trước cổng vào Trúc Lâm Tịnh Xá.
 
Hình#3: Hồ nước trong Trúc Lâm Tịnh Xá đã có từ thời Đức Phật còn tại thế.
 
Hình#4: Tượng Đức Thế Tôn trong khu Trúc Lâm Tịnh Xá.
 
Hình#5: Cây Bồ Đề A Nan trong khuôn viên Trúc Lâm Tịnh Xá.
Hình#6: Những khóm trúc xanh tươi trong khu Tịnh Xá Trúc Lâm, có  lẽ được trồng về sau nầy.
 
 
 
 
X
 
TU VIỆN & VIỆN ĐẠI HỌC
PHẬT GIÁO ĐẦU TIÊN: NALANDA
 
     Khoảng 2 giờ chiều cùng ngày, đoàn rời Tịnh Xá Trúc Lâm để lên đường đi thăm đi tích Tu Viện Nà Lan Đà (Nalamda Buddhist University) cũng như trường Đại Học Na Lan Đà hiện tại. Na Lan Đà nằm trong vùng ngoại ô của thành Vương Xá ngày xưa. Na Lan Đà là một đi tích quan trọng trong lịch sử phát triển Phật giáo tại Ấn Độ nói riêng và trên toàn thế giới nói chung vì đây là trường Đại Học Phật Giáo đầu tiên trên thế giới. Vùng Na Lan Đà khi xưa là nguyên quán của hai ngài Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên, hai trong mười vị đệ tử lớn của Đức Phật. Tu viện Na Lan Đà ngày trước vốn là vườn hoa của trưởng giả Am Ma La, sau đó được trên 500 thương buôn mua lại để cúng dường cho Đức Phật. Chính Đức Phật cũng đã từng tới nơi nầy thuyết pháp. Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, quốc vương Đế Nhật vì muốn tưởng nhớ đến Đức Phật, ông đã kiến tạo nên ngôi tu viện Na Lan Đà. Về sau, mấy đời vua kế vị ông đã liên tiếp xây dựng ngôi tu viện ngày càng lớn ra. Hiện tại Na Lan Đà rộng trên 14 mẫu đất, là một trong những trường đại học lớn nhất trong lịch sử Ấn Độ, mặc dầu không có tài liệu nào mình xác được niên đại thành lập, nhưng theo lịch sử Phật giáo thì chính ngài Long Thọ đã từng tòng học ở đây và sau đó cũng làm viện trưởng tại đây, như vậy có lẽ Na Lan Đà được khởi xây từ trước thế kỷ thứ hai trước Tây lịch, sau đó được phát triển rộng lớn vào thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch, dưới triều đại Gupta, và đạt đến đỉnh cao nhất vào thế kỷ thứ 9. Mặc dù khu Na Lan Đà không có giá trị lịch sử thời Đức Phật còn tại thế hay không liên quan gì đến cuộc đời Đức Phật, dầu thời đó Na Lan Đà đã hiện hữu, nhưng nó là nơi đã đản sanh ra rất nhiều danh Tăng Phật giáo như các ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên… Rồi về sau này, nó trở thành một viện đại học nổi tiếng đầu tiên của Phật giáo, chính nơi đây đã đào tạo ra nhiều nhà tư tưởng Phật giáo nổi tiếng khác như Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân, Sằn Đề Đề Bà, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh… Theo ngài Huyền Trang theo học tại đây thì ngài Giới Hiền (Silabhadra) đang làm Viện Trưởng. Khu tu viện Na Lan Đà, nằm ở ngoại vi của thành Vương Xá. Từ khi thành lập vào thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch, đến khi đi vào quên lãng vào thế kỷ thứ 12, có rất nhiều vua quan tại xứ Mà Kiệt Đà (Magadha) và Kiều Tất La (Kosala) đã đến đây chiêm bái và dựng tháp kỷ niệm.
     Tưởng cũng nên nhắc lại về ngài Huyền Trang và chuyện tu học của ngài tại tu viện Na Lan Đà. Ngài Huyền Trang rời Trường An (kinh đô của Trung Hoa thời nhà Đường) vào năm 409, đến cuối năm 412 thì tới tu viện Na Lan Đà. Trong khoảng thời gian gần tròn 4 năm nầy, ngài đã phải đi qua một chặng đường rất dài và rất nguy hiểm. Khi tới Tu viện Na Lan Đà, đại sư Giới Hiền, lúc đó đang là viện trưởng tại đây. Sau khi nghe chư Tăng trong tu viện kể lại về chuyến đi có một không hai nầy, Đại sư Giới Hiền đã phái hơn 200 vị đại đức cùng với nhiều Phật tử nam nữ tại gia ra đón ngài Huyền Trang. Sau đó ngài Huyền Trang đã quyết định lưu lại đây vừa thỉnh kinh sách, vừa theo học với đại sư Giới Hiềnđại sư Giới Hiền đang hoàng dương Theo phái Du Già Đại Thừa, là tông phái với giáo lýHuyền Trang đã muốn tìm kiếm ngay lúc còn ở Trường An, nhưng tại Trường An ngài Huyền Trang không mấy thỏa mãn về cách giảng về pháp tương của phái Nhiếp Luận Tông. Vì thế mà đến khi gặp đại sư Giới Hiền, Huyền Trang đã lưu lại Tu Viện Na Lan Đà suốt 5 năm cho đến khi học xong hết về Du Già (Yogacara), Bách Luận, Du Già Sư Địa Luận, Duy Thức Luận. Chỉ sau một thời gian ngắn theo học với đại sư Giới Hiền, Huyền Trang đã được Thầy cho phép thay thầy giảng những bộ luận lớn của trường phái Du Già ngay tại Đại Học của Tu Viện Na Lan Đà. Theo ngài Huyền Trang thì vào khoảng năm 413 thì Tu Viện Na Lan Đà có hơn 10.000 Tăng chúng đang theo học. Khoảng một thế kỷ sau đó, có lúc con số chư Tăng tòng học tại đây lên đến 50.000 người.
     Vì toàn khu Na Lan Đà rất lớn nên từ ngoài cổng đi vào những khu phế tích cũng rất xa. Ngày nay chính phủ Ấn Độ đã cho sửa sang lại con đường từ ngoài đi vào hẳn hòi nên dù xa nhưng việc đi lại không mấy vất vả. Bên trong khu phế tích Na Lan Đà hiện còn một nền tháp rất lớn, chúng quanh có rất nhiều ngôi tháp nhỏ, tất cả đều bị thời giancon người tàn phá, nên ngày nay chỉ còn trơ lại những nền đá, những đống gạch vụn, hay những bờ tường màu nâu cũ kỹ. Theo lịch sử Phật giáo và theo ký sự Tây Du của ngài Huyền Trang, thì đây chính là nền của ngôi tháp bảy tầng, bên trên có một tôn tượng Đức Phật rất lớn. Trong khi bốn ngôi tháp nhỏ ở bốn góc hãy còn tương đối tốt. Những bức tượng Phật và các vị Bồ Tát được chạm khắc quanh các ngôi tháp vẫn còn rõ nét. Phía Đông của ngôi tháp chính, nghĩa là phía bên trái của con đường vào tháp là hai kiến trúc nhỏ, có lan can chạy chung quanh, đây là những kiến trúc được xây trên các nền phế tháp cũ. Bên trong là phòng kín, chứa các quý vật của tu viện, mái được chống đỡ bởi những trụ đá. Bên phía Tăng xá chính, theo ngài Huyền Trang trong Tây Vực Ký thì có 9 tầng, trong khi các Tăng xá chỉ có vài ba tầng mà thôi. Mỗi Tăng xá đều có hành lang chia cách. Trường đại học Na Lan Đà thời này rất nổi tiếng về cả học tập lẫn tu hành. Tăng sĩ muốn vào đây tòng học phải trải qua những cuộc thi vô cùng gay go, vì thế mà c ác Tăng sĩ suốt từ Bắc chí Nam Ấn Độ đều ao ước được đến tòng học tại đây, như ngài Long Thọ (Nagarjuns) tại miền Nam Ấn xa xôi, cũng tìm lên đây học và đã trở thành một danh Tăng, một vị Bồ Tát, một nhà triết học Phật giáo nổi tiếng trên thế giới. Theo chân ngài Long Thọ là các ngài Đề Bà (Arya Deva), Nguyệt Xứng (Chandrakirti), Sằn Đề Đề Bà (Shantideva), Vô Trước (Asanga), Thế Thân (Vasubandhu), Trần Na (Dignaga), Pháp Hộ (Dharmapala), Giới Hiền (Shilabhadra), Nguyệt Xứng (Dharmakirti)… Ngay cả những Tăng sĩ Trung Hoa cũng mong mỏi được đến đây tu học. Khu di tích Na Lan Đà chỉ còn lại một khu đất rộng với những nền gạch, những phế tích, rõ nét nhất là khu tháp thờ ngài Xá Lợi Phất. tại đây, Hoà Thượng Giác Nhiên đã hướng dẫn đoàn tụng kinh cầu an cũng như cầu nguyện để tưởng nhớ đến các vị Thánh đệ tử đã một thời lưu trú tại đây như các ngài Thế Thân, Vô Trước, Huyền Trang…
     Sau khi thăm viếng phế tích Na Lan Đà, một số anh em trong đoàn chúng tôi vội vã đi ra cổng và ghé tạt qua thăm trường Đại Học Na Lan Đà mới, được xây dựng vào năm 1948, cách khu phế tích Na Lan Đà không xa lắm. trường Đại Học Na Lan Đà được phân cách với khu phế tích Na Lan Đà bởi hồ sen Indra (Trời Đế Thích). Kỳ thật, đây chỉ là một viện nghiên cứu ngữ học Pali và Phật học cho các sinh viên từ khắp nơi trên thế giới. Tuy trường không có quy mô lớn như tu viện Na Lan Đà cũ, ngược lại nó chỉ được dựng lên cho có hình thức và mang tên cũ của tu viện Na Lan Đà mà thôi, nhưng chính nơi đây đã đào tạo ra một số danh Tăng Việt Nam như các ngài Minh Châu, Huyền Vi, Thiện Châu, vân vân.
 
 
 
Hình#1: Bảng ghi về lịch sử của Tu viện Na Lan Đà.
 
Hình#2: Toàn cảnh khu phế tích Tu Viện Na Lan Đà.
 
Hình#3: Khu phế tích Tăng Xá tại Tu Viện Na Lan Đà.
 
Hình#4: Khuôn Viên Tu Viện Na Lan Đà.
 
Hình#5: Phía sau ngôi tháp của ngài Xá Lợi Phất tại Na Lan Đà.
 
Hình#6: Từ bên ngoài đường nhìn vào khu phế tích Na Lan Đà.
 
 
XI
 
NHÀ TƯỞNG NIỆM NGÀI HUYỀN TRANG
 
     Trên đường trở về Bồ Đề Đạo Tràng, đoàn ghé lại thăm nhà tưởng niệm Ngài Huyền Trang (Hsuan-Tsang’s Memorial House). Cách khu Na Lan Đà khoảng một cây số, người Trung Hoa đã cho xây dựng lên một ngôi đền để tưởng niệm ngài Huyền Trang, với một đại sảnh có kiến trúc theo kiểu Trung Hoa xưa. Tuy nhiên, vì không được ai chăm sóc nên nơi đây cũng trở nên điêu tàn hoang vắng. Tưởng cũng cần nên nhắc lại, Huyền Trang là một nhà sư người Trung Hoa, một nhà chiêm bái Phật tích rất có bản lãnh, một nhà dịch kinh tài danh xuất chúng. Ông đã thực hiện cuộc đi thỉnh kinh mà tại Trung Hoa tự cổ chí kim chỉ có hai người khác có thể làm được, nhưng không được hoàn mãn như ông, đó là ngài Pháp Hiển trước ông vào đầu thế kỷ thứ 5, và ngài Nghĩa Tịnh sau ông vào thế kỷ thứ 8. Cuộc Hàn trình đi thỉnh kinh của ông trải qua một thời gian dài 17 năm, trên một đoạn đường phải nói là quá dài và quá sức của một con người. Ông khởi hành từ Trường An vào năm 629, đi đến Đôn Hoàng, qua vùng Tây Vực (bây giờ là Tân Cương), rồi qua vùng Tây Bắc và Tây Nam Ấn Độ, xuống Cao Nguyên Đề Căng ở phía Nam, rồi đi dọc theo bờ Đông Ấn Độ đi ngược lên phía Bắc và đi hết các Phật tích trong vùng Bắc Ấn và Nepal. Phải nói cuộc hành trình của ngài Huyền Trangvô tiền khoáng hậu, có một không hai trong lịch sử của Trung Hoa và lịch sử của nhân loại. Mà thật vậy, trong lịch sử nhân loại, chưa có người thứ hai nào đã làm được như ngài Huyền Trang. Nói về các cuộc thám hiểm khác như của ông Khá Luân Bố (Christopher Colomb), tuy vượt qua đại dương nhiều bão tố và đói khát, nhưng đoàn tuỳ tùng đi theo Khả Luân Bố cũng khá đông. Trong khi đó, trong suốt cuộc hành trình, nhiều lúc Huyền Trang phải một mình lủi thủi trong những hoang mạc mênh mông, ban ngày thì nắng cháy da người, không một áng mây trên bầu trời, đến tối thì trời trở lạnh cắt da, ánh sáng chỉ là những ánh sao đêm lờ mờ. Cứ thử hình dung đi chúng ta sẽ thấy quả là cả ngày lẫn đêm đều là những cảnh độc hành ghê gớm. Thế mà trong suốt 17 năm dài, Huyền Trang vẫn luôn âm thầm tiến bước. Huyền Trang đã hy sinh đời mình để mang về cho những thế hệ hậu bối những kết quả mà không thể nghĩ bàn. Ông đã mang về Trường An và đã phiên dịch vô số kinh điển. Việc phiên dịch kinh điển của ông đã vô hình chung làm giàu thêm cho ngôn ngữ Trung Hoa đến 35.000 từ ngữ mới từ những Phạn ngữ. Phật tử, nhất là các Phật tử trong vùng Đông Á và Đông Nam Á mang rất nhiều ân nghĩa khó quên từ ngài Huyền Trang. Người viết bài nầy cũng xin đốt một nén hương lòng tưởng niệm và mãi mãi nhớ ơn ngài!
 
NHÀ NGỤC GIAM VUA BÌNH SA VƯƠNG
 
     Sau đó chúng tôi ghé lại thăm phế tích nhà ngục nơi vua Bình Sa Vương bị con trai là thái tử A Xà Thế giam giữ (Bimbisara’s Jail in Rajgir). Hiện tại nơi đây chỉ còn trơ lại một nền cỏ và một vòng tường rất thấp bằng gạch mà thôi. Trong lịch sử Phật giáo, ai ai cũng biết vua Bình Sa Vương, sau khi quy y với Đức Phật, đã trở thành vị quân vương Phật tử gương mẫu. Dầu vậy, ông cũng không tránh khỏi nghiệp lực tiền khiên đã vay tạo trong quá khứ, nên về sau nầy ông đã bị chính con trai mình là thái tử A Xà Thế hạ ngục cho đến chết. Tưởng cũng nên nhắc lại, A Xà Thế bị Đề Bà Đạt Đa xúi giục âm mưu sát hại vua cha để đoạt ngôi, nhưng âm mưu bị bại lộ, A Xà Thế bị bắt quả tang. Thế nhưng vì lòng độ lượng thương con mà vua Bình Sa Vương đã không nỡ xữ phạt con mình theo quân pháp. Chẳng những vậy, nhà vua còn nhường ngôi lại cho con, vì thấy con mình đang thèm khát ngài vị. Trớ trêu thay, chẳng những A Xà Thế không chút ăn năn hối cải, mà ngược lại, vì sợ vua cha có thể lấy lại ngôi báu nên A Xà Thế quyết định hạ ngục cha mình. A Xà Thế còn ra lệnh không một ai được quyền lui tới thăm viếng, ngoại trừ Hoàng Thái Hậu Vy Đề Hy. Sau nhiều lần bắt gặp chính hoàng thái hậu là người đã tiếp tế lương thực cho vua cha, nên A Xà Thế cấm luôn, không cho mẹ mình vào thăm cha nữa. Thế nhưng vua Bình Sa Vương vẫn an nhiên tự tại. Vì lo cho chiếc ngai vàng nên A Xà Thế không muốn thấy cha mình tồn tại, nên ông đã sai người đến ngục hạ sát chính cha ruột của mình. Ngày vua cha bị hạ sát cũng là ngày đứa con đầu lòng của A Xà Thế chào đời, và cũng chính ngày đó A Xà Thế được hoàng mẫu kể cho nghe về lòng thương con của vua cha. A Xà Thế cảm thấy hối hận vô cùng, đích thân ông đã chạy đến nhà giam để cứu cha, mong người mà mình sai đi chưa kịp đến để giết cha, vừa đi miệng ông vừa kêu là thật lớn: Hãy lập tức thả ra người cha yêu quý của trẫm! Nhưng khi đến nơi thì cha ông đã chết một cách thảm thiết. Từ đó về sau nầy, A Xà Thế hối hận cực độ nên ông đã tìm đến quy y với Đức PhậtTăng Đoàn. Kể từ đó, ông cũng trở thành một quân vương Phật tử hết lòng hộ trì Tam Bảo như cha mình thuở trước. Tương truyền khi bị À Xà Thế giam giữ tại đay, vua Bình Sa Vương thường đi qua đi lại bên cửa sổ nhà ngục, hướng mắt nhìn lên núi Linh Thứu, chiêm ngưỡng Đức Phật lúc Nhài đi kinh hành. Hiện tại nhà ngục nơi A Xà Thế giam giữ vua cha Bình Sa Vương đã bị đổ nát hết, chỉ có sàn lại một vòng tường thấp bao quanh nền cỏ, chúng quanh cây cối um tùm.
     Ngoài ra, theo dân chúng trong vùng thì cách núi Linh Thứu khoảng chừng 2 cây số, trên đường trở về Bồ Đề Đạo Tràng, bên trái có một suối nước nóng, nước vẫn còn nóng, nhiệt độ khoảng 105 độ F. Tương truyền từ thời Đức Phật, suối này đã chữa bệnh được cho rất nhiều người, và chính Đức Phật cũng thường đến tắm tại đây. Bên trên suối nước nóng là Động Thất Diệp (Pippala), nằm về phía Tây Nam của Tịnh Xá Trúc Lâm, trên đỉnh Baibhara là động đá Thất Diệp. Tại đây có một bức tường được xây bằng những tảng đá chồng chất lên nhau, nhưng không có chất dính ô dưới hay xi măng. Theo lịch sử Phật giáo, cả Đại Thừa lẫn Nguyên Thuỷ, động Thất Diệp chính là nơi ngài Đại Ca Diếp đã triệu tập 500 vị A La Hán tới trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, dưới sự bảo trợ của vua A Xà Thế. Về sau, vua A Dục cho xây tháp và trụ đá để đánh dấu nơi này. Gần bên Động Thất Diệp là nền nhà cũ của ngài Đại Ca Diếp, nơi Đức Phật thường ghé lại thăm ngài. Tuy nhiên, vì thời gian quá eo hẹp nên đoàn chúng tôi không thể ghé lại thăm suối nước nóng này cũng như một số nơi khác được.
 
 
 
 
AO RẮN TRONG BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG
 
Tờ mờ sáng ngày 3 tháng 12 năm 2005, Hoà Thượng Giác Nhiên hướng dẫn chúng tôi đi thăm Ao Rắn. Theo truyền thuyết Phật giáo thì khi Đức Phật ngồi thiền tại Bồ Đề Đạo Tràng đến cuối tuần lễ thứ năm, bỗng trời nổi lên cơn mưa thật lớn và thật lâu, ngay lúc đó có một con rắn lớn từ trong rừng phóng ra, phùng mang ra che mưa cho Phật. Hiện nay dưới Ao Rắn người ta nuôi thật nhiều cá nên nước trong ao có mùi thật khó chịu. Quanh Bồ Đề Đạo Tràng hãy còn nhiều di tích khác, tuy nhiên, trung tâm điểm tại đây vẫn là ngôi Đại Bảo Tháp với hàng ngàn Phật tử từ khắp nơi đến chiêm báitu tập mỗi ngày. Đa phần người ta lễ bái theo kiểu “ngũ thể đầu địa”, nghĩa là năm phần của thân thể là đầu, hai cùi chỏ, và hai đầu gối đều chạm đất khi lễ lạy. Riêng những người Tây Tạng thì họ lạy theo kiểu nằm dài sát đất. Ngày nay những hình tượng Phật và Bồ Tát quanh Đại Tháp đều có những đường nét theo kiểu Tây Tạng vì chúng được trùng tu sau này bởi những người Tây Tạng đến Ấn Độ tỵ nạn sau khi Trung Hoa lấn chiếm nước này vào năm 1959. Trong số các tượng thì tượng Quan Âm Như Ý, nằm bên phải Đại Tháp là được nhiều người chiêm báilễ lạy nhất.
 
NGÔI LÀNG PHẬT GIÁO
CÒN SÓT LẠI TẠI BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG
 
     Sau đó, Hoà Thượng Giác Nhiên hướng dẫn đoàn chúng tôi đi thăm viếngủy lạo cho một ngôi làng Phật giáo gần khu chùa Việt Nam. Thật là hy hữu, trong một xứ toàn là Ấn giáo như xứ Ấn Độ lại còn xót lại một ngôi làng toàn là Phật giáo. Tại đây chúng tôi được dân làng tiếp đón rất trọng thể. Được biết đã có nhiều đoàn hành hương trước đây ghé lại viếng thăm và ủy lạo cho ngôi làng Phật giáo nầy. Trưa ngày 3 tháng 12 năm 2005, chúng tôi tự do thăm viếng khu lân cận của Bồ Đề Đạo Tràng. Một số anh em trong đoàn như anh chị Thiện Tài và Thiện Minh ở Canada thì viếng thăm 7 nơi mà Đức Phật đã trải qua trong 7 tuần lễ sau khi ngài giác ngộ, còn tôi và một số anh em khác quyết định viếng thăm Viện Bảo Tàng Bồ Đề Đạo Tràng. Từ ngoài đường đi vào Đại Tháp, Viện Bảo Tàng nằm bên tay phải, cùng một bên với ngôi chùa Thái Lan và ở về phía Tây Đại Tháp khoảng non một cây số. Trong Viện Bảo Tàng có nhiều tượng Phật cổ đại cũng như rất nhiều loại pháp khí khác do các nhà khảo cổ khai quật từ thế kỷ thứ 17, 18, 19, và 20 quanh khu vực Bồ Đề Đạo Tràng. Nhìn những tượng mất đầu hay mất tay, mất chứng… làm tôi liên tưởng đến chuyến thăm viếng đảo Bi Đông, thuộc Mã Lai Á hồi tháng ba năm 2005, tại chùa Từ Bi trên đảo nầy, tượng Phật lớn nhỏ, trong ngoài đều bị chặt đứt đầu. Người hướng dẫn trong viện bảo tàng tại đây cho biết đa số đa số những pho tượng PhậtBồ Tát khai quật được trong vùng đều bị mất đầu hay mất tay chân, vì đó là dấu tích của nhùng cuộc chiến xâm lược và tàn phá của đạo quân Hồi giáo vào những thế kỷ 11, 12 và 13. Đa số nghệ thuật chạm trỗ và điêu khắc trên các tượng này đều vào khoảng đầu Tay lịch.
     Sau khi viếng làng Phật giáo trở về, đoàn được tự do tùy ý tu tập hay đi mua sắm quà lưu niệm quanh vùng Bồ Đề Đạo Tràng. Ngày hôm đó, chúng tôi rảo quanh khắp các sạp lớn nhỏ quanh vùng Bodhgaya, người mua xâu chuỗi, kẻ mua tượng Phật hay các thứ Phật cụ khác làm quà lưu niệm cho người thân. Đêm hôm đó là đêm cuối cùng chúng tôi lưu lại Bồ Đề Đạo Tràng mà không thể ở lại trong Đại Tháp vì sáng sớm hôm sau chúng tôi phải rời Bồ Đề Đạo Tràng để đi đến Thành Tỳ Sá Ly. Một cảm giác lưu luyến lạ lùng khó tả lâng lâng trong mỗi chúng tôi. chúng tôi qua Đại Tháp, rồi trở về khách sạn, rồi lại trở qua Đại Tháp… chúng tôi cứ đi đi về về như vậy cho đến khi Đại Tháp đóng cửa mà một số anh em chúng tôi vẫn còn lưu luyến đứng bên ngoài nhìn vào ánh đèn lung linh bên trong Đại Tháp với những lời kinh kệ trầm bổng làm cho lòng chúng tôi như se thắt một nỗi niềm khó tả.
 
 
Hình#1: Sơ đồ cuộc hành trình thỉnh kinh từ kinh đô Trường An qua khắp nơi trong xứ
Ấn Độ của ngài Huyền Trang từ năm 629 đến năm 646 (Hình chụp từ hình bìa của
một quyển sách trong thư viện chùa Linh Sơn tại Bồ Đề Đạo Tràng tại Ấn Độ).
 
Hình#2: Bảng ghi nhớ tại phế tích nhà ngục nơi A Xà Thế giam giữ vua cha Bình Sa Vương.
 
Hình#3: Nhà giam vua Bình Sa Vương nhìn từ đỉnh núi Linh Thứu.
 
Hình#4: Ngôi làng Phật giáo nghèo nàn, gần Bồ Đè Đạo Tràng.
Hình#5: Những ngôi nhà tương đối khá giả trong ngôi làng Phật giáo gần Bồ Đề Đạo Tràng.
 
Hình#6: Dân làng gần Bồ Đề Đạo Tràng được
Hoà Thượng Giác Nhiên làm lễ quy y Phật tại đầu làng.
 
 
 
XII
 
THÀNH TỲ XÁ LY (VAISAHALI)
 
     Khoảng 4 giờ rưởi sáng ngày 4 tháng 12 năm 2005, đoàn chúng tôi rời Bồ Đề Đạo Tràng để lên đường đi đến thành Tỳ Xá Ly (Vaishali), cách Bồ Đề Đạo,Tràng khoảng 253 cây số về hướng Bắc. Sau khi qua khỏi thủ phủ Patna (ngày trước có tên là Pataliputra, tức thành Hoa Thị) chừng 60 cây số, những mái tranh nghèo của Tỳ Xá Ly hiện ra trước mắt chúng tôi. Lòng tôi bỗng chùng xuống, mới ngày nào đây kinh thành này còn trù phú thịnh vượng, thế mà ngày nay chỉ còn trơ lại những mái tranh nghèo, có lẽ còn nghèo hơn nhiều nơi trên các miền quê nước Việt nữa là khác. Tuy nhiên, có đến đây mới thấy được hết những nét đạo đức của người dân miền quê Ấn Độ. Họ sống trong cảnh nghèo nàn cơ cực và thiếu thốn đủ mọi bề, nhưng họ hiền hậudễ thương. Lúc nào trên mặt họ cũng điểm sẵn một nụ cười thân thiện với mọi người. Họ nghèo khổ về mặt vật chất, nhưng tinh thần đạo đức của họ thật thâm thuý. Dầu ruộng đồng bao la, nhưng sông ngòi hiếm hoi, cả xứ Ấn Độ chỉ có 2 con sông Hằng Hà và Ấn Hà, nên đất đai cằn cỗi và con người cũng khô cằn như mảnh đất nơi họ sinh ra và lớn lên. Như trên đã nói, Tỳ Xá Ly ngày trước đã từng là một kinh thành trù phú, một trong những nước Cộng Hoà thịnh vượng nhất trong vùng Bắc Ấn thời đó, dân cư đông đúc, sinh hoạt sung túc, dân chúng vừa hiền lành vừa đạo đức, nhưng hiện nay nó chỉ là một thị trấn nhỏ bé nghèo nàn. Tuy khoảng cách không xa lắm, nhưng đường sá vừa hẹp vừa xấu, vừa gồ ghề, với rất nhiều ổ gà lởm chởm trong suốt đoạn đường đi làm cho khoảng cách tưởng như bất tận. Chính vì vậy mà vào giữa thế kỷ 20, rất nhiều người muốn đi Tỳ Xá Ly mà không đi được. Phải nói Tỳ Xá Ly là nơi có rất nhiều sự kiện lịch sử liên quan đến Đức Phật và công cuộc hoàng pháp của Ngài. Theo lịch sử Phật giáo, 5 năm sau ngày thành đạo, Đức Phật đã du hoá đến vùng này, một vùng đông dân và trù phú nhất của Ấn Độ thời đó, vì Tỳ Xá Ly là thủ đô của một trong những nước Cộng Hoà đầu tiên trên thế giới. Về hướng Nam của Tỳ Xá Ly là dòng sông Hằng thiêng liêng nhất của dân Ấn, về phía Bắc là vùng đất Nepal thấp thoáng chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Phía Tây Tỳ Xá Ly là dòng sông Dangdak. Tương truyền ngày trước, khi rời Tỳ Xá Ly, Đức Phật đã ngoái đầu nhìn lại và tán thán: Ôi xinh đẹp thay thành phố Tỳ Xá Ly! Ôi xinh đẹp thay những điện thờ và những khu lâm viên của Tỳ Xá Ly. Tưởng cũng nên nhắc lại, thành phố Tỳ Xá Ly còn là quê hương của ngài Duy Ma Cật, một vị cưnổi tiếngĐức Phật đã đề cập như một nhân vật giác ngộ chính trong kinh Duy Ma Cật. Tỳ Xá Ly còn là nơi nhận được một phần tám xá lợi của Đức Phật ngay sau lễ Trà Tỳ của Ngài. Những năm trước khi nhập diệt, đức Phật thường hay trú ngụ tại thành Tỳ Xá Ly này. Đây cũng chính là nơi ngài A Nan nhập diệt. Tại Tỳ Xá Ly, đoàn chúng tôi thăm viếng nơi thờ xá lợi của Đức Phật, giảng đường, hương thất của bà Kiều Đàm Di Mẫu và các thánh tích gần đó. Sau khi khai quật Tỳ Xá Ly, người ta tìm thấy trụ đá do vua A Dục dựng lên vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch vẫn còn nguyên vẹn với tượng sư tử trên đầu trụ. Cách trụ đá A Dục Vương chừng 2 cây số là ngọn tháp kỷ niệm nơi Đức Phật an trụ hằng ngày và được voi dâng mật và trái cây. Tháp đã bị hư hại gần hết, chỉ còn trơ lại nền tháp, và người ta đã cho xây dựng mái che bên trên để bảo vệ phần còn lại của ngôi phế tháp nầy. Chính nơi đây, Đức Phật đã dạy Tăng đoàn về Pháp Lục Hoà (6 điều sống chung tu học) và Thất Diệt Tránh Pháp (bảy pháp giải quyết những tranh cãi). Đây cũng chính là nơi đánh dấu Đức Phật lần đầu tiên cho phép người nữ xuất gia. Còn một sự kiện lịch sử quan trọng khác xảy ra tại thành Tỳ Xá Ly vào thời Đức Phật còn tại thế. Chính tại nơi đây một bà hoàng trong thành Ca Tỳ Là Vệ, là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề đã được Đức Phật cho phép xuất giathành lập Ni Đoàn thu nhận nàng Amrapali, một ca nữ bị xã hội khinh khi nhất vào thời đó. Theo truyền thuyết Phật giáo, khi Đức Phật đang ở tại thành Tỳ Xá Ly thì đi mẫu của Ngài là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahapajapati) và 500 cung nữ thuộc dòng họ Sakya (Thích Ca) đã kiên nhẫn đi bộ từ thành Ca Tỳ Là Vệ (Kapilavastu) đến thành Tỳ Xá Ly, thỉnh cầu Ngài cho phép nữ giới xuất gia. Dù trước đó đã bao lần Đức Phật từ chối. Tuy nhiên, đến lúc nầy, thấy sự thành khẩn muốn được xuất gia của nữ giới qua chuyện họ đi bộ từ Ca Tỳ La Vệ qua Tỳ Xá Ly, thêm vào đó là sự khẩn xin của A Nan, nên sau khi Ngài hội ý với các vị đại đệ tử của mình như Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nậu Lâu Đà, Phú Lâu Na… Đức PhậtTăng Đoàn đã đồng ý cho nữ giới xuất gia với một số điều lệgiới luật có phần khắc khe hơn năm giới (trong khi Tăng chúng phải giữ 250 giới thì Ni chúng phải tuân giữ 348 giới. Bên cạnh đó, còn có Bát Kính Giáo hay tám giới tôn kính đối với một vị Tăng). Sau khi Đức Phật cho phép nữ giới xuất gia, một làn sóng chống đói rất mạnh mẽ trong những giai cấp Bà La Môn, giai cấp cầm quyền cũng như giai cấp thương nhân, vì họ cho rằng Đức Phật đã làm một cuộc cách mạng toàn bộ trong việc xoá bỏ giai cấp, rồi nay lại cho phép nữ giới được ngang hàng với nam giới là không thể chấp nhận được trong xã hội theo Ấn Độ Giáo. Kể từ đó, Đức Phật bị những giai cấp phong kiếnẤn Độ chống đối Ngài quyết liệt, ngay cả việc vu khống Ngài đủ thứ chuyện. Và cũng từ đó, người ta mới thấy được lòng từ bi bao la của Đức Phật.
 
HƯƠNG THẤT CỦA BÀ ĐI MẪU MA HA BA XÀ BA ĐỀ
 
     Khu hương thất của bà Kiều Đàm Di Mẫu được xây bằng gạch, nhưng đã bị thời gian bào mòn tàn phá nên chỉ còn trơ lại một nền gạch vụn. Theo truyền thuyết thì về sau nầy bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề cũng chứng quả A La Hán. Đây phải nói là những sự kiện lịch sử cực kỳ quan trọng, chẳng những cho Phật giáo, mà còn cho lịch sử tiến bộ của nhân loại trên toàn cầu, vì nó đánh dấu sự kiện sản bằng sự kỳ thị giữa nam và nữ, một sự kiện chứng tỏ cho thế giới thấy rõ tư tưởng Phật giáo chẳng những san bằng giai cấp trong thời cổ đại của Ấn Độ, mà nó còn san bằng triệt để mọi cách biệt giữa nghèo giàu, nam nữ, chủng tộc, gốc gác… Phải thực tình mà nói, càng biết thêm về Phật giáo, chúng ta càng kính ngưỡng Đức Thích Tôn Từ Phụ với những tư tưởng siêu phàm vượt cách của Ngài. Lại cũng phải thực tình mà nói rằng Phật giáo đã làm một cuộc cách mạng vô tiền khoáng hậu ngay trên cái nôi sanh ra nó, vì trong xã hội Ấn Độ theo Ấn giáo thì từ ngàn xưa, người phụ nữ chỉ bị xem nhưnô lệ, họ không được làm bất cứ chuyện gì ngay cả chuyện giao dịch thương mại buôn bán hằng ngày. Tệ trạng này ngày nay vẫn còn được rất nhiều quốc gia theo Hồi giáo tại Vùng Trung Đông áp dụng. Gần 26 thế kỷ về trước, Đức Phật đã có đủ hùng lực làm cuộc cách mạng xoá bỏ giai cấp, xoá bỏ sự phân biệt nam nữ, giàu nghèo, chủng tộc, gốc gác, Ngài đã mở ra một quang lộ thênh thang cho xứ Ấn, nhưng không may cho thế giới, vùng Trung Đông đã tạo ra đạo quân Hồi giáo oan nghiệt, họ đã xuất hiệntriệt tiêu Phật giáo ngay trên quê hương của chính nó. Chính vì vậy mà ngày nay ngay trên xứ Ấn Độ vẫn còn vấn nạn không xem người phụ nữ ra gì. Tại thành Tỳ Xá Ly thời Đức Phật còn tại thế, theo truyền thuyết Phật giáo, có lần bị hạn hán và dịch bệnh lan tràn khắp nơi, giết chết vô số sanh linh. Đức Phật đã đáp lời của vua xứ này lập đàn tràng cầu nguyện, sau đó nạn dịch chấm dứt nên dân trong thành thoát nạn.
 
ĐẾN KHU VƯỜN XOÀI
CỦA NÀNG AM MA LA LẦN SAU CÙNG
 
     Lần sau cùng Đức Phật đến Tỳ Xá Ly năm Ngài 80 tuổi. Ngài đến thăm khu Vườn Xoài của nàng Amrapali (Amradarika). Tại đây, Ngài đã ôn lại với tôn giả A Nan về cuộc đời Ngài như sau: “Cuộc đời của một kiếp đi qua thật nhanh, mới ngày nào đây chàng thiếu niên Tất Đạt Đa còn trai trẻ, tham dự các cuộc tranh tài, rồi xuất gia, rồi 6 năm khổ hạnh… Tất cả như mới xảy ra hôm qua. Sau 45 năm hoàng hoá, đã đến hồi ta phải bỏ lại xác thân vô thường. Đời người trôi qua như một giấc mơ. Với ta, nhân duyên nay đã đủ, người đáng được độ, ta đã độ xong. Thật chẳng còn gì để luyến tiếc. Ta cảm thấy hài lòng mãn nguyện.” Sau khi rời khỏi thành Tỳ Xá Ly và khu Vườn Xoài của nàng Amrapali, Đức Phật đã tuyên bố với chúng Tăng: “Ở nơi đây ta đã thực hiện xong hành động tôn giáo sau cùng, và chẳng bao lâu sau ta sẽ nhập Niết Bàn.” Sau đó, Ngài cùng A NanTăng chúng đi về hướng thành Câu Thi Na.
 
PHẾ TÍCH TỲ XÁ LY
 
     Một sự kiện quan trọng khác quan trọng nổi bậc tại thành Tỳ Xá Ly là khoảng 100 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết Bàn, cuộc kết tập kinh điển lần thứ hai đã diễn ra do trưởng lão Da Xá (Yassa) triệu tập 700 chư Tăng từ khắp nơi về đây. Từ đó mới bắt đầu phân ra Thượng Toạ BộĐại Chúng Bộ. Thượng Toạ Bộ chủ trương bảo thủ, trong khi Đại Chúng Bộ có phần phóng khoáng và du di hơn. Đại Chúng Bộ chủ trương tuỳ duyên hoá độ và những nguyên tắc của giáo đoàn có thể thay đổi nhằm thích ứng với hoàn cảnh sống của thời đại đó, miễn không đi ngược lại những lời Đức Phật đã dạy là được. Trong các cuộc đào xới vào những thế kỷ 18, 19, và 20, các nhà khảo cổ học đã khai quật và tìm thấy ngôi tháp do vua A Dục xây dựng vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch, có đường kính trên 19 mét và chiều cao 4 mét. Ngôi tháp này được xây kế bên trụ đá trên đỉnh trụ có hình tượng sư tử. Người ta tin tưởng ràng đây là ngôi tháp được xây trên nền tháp nguyên thủy, nơi những người Lichavi đã thờ xá lợi của Đức Phật. Cách ngôi tháp thờ xá lợi không xa có ngọn tháp được dựng lên nhằm đánh dấu ngôi nhà của nàng kỷ nữ Amrapali ngày trước. Đặc biệt trụ đá do vua A Dục dựng lên tại đây, trên đỉnh trụ cũng có hình sư tử, đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Trụ cao khoảng 7 mét, đứng sừng sững giữa trời mây bao la, quanh đó là một hàng cây cổ thụ già nua với những hàng phế tháp, nhưng vẫn còn phảng phất phong cách uy nghiêm chễm chệ như mướn thách thức với thời gian. Theo lịch sử Phật giáo, khoảng 300 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết Bàn, vua A Dục đã đến chiêm bái thành Tỳ Xá Ly. Để tưởng nhớ đến ân đức của Đức Thế Tôn, nhà vua đã cho dựng lên một trụ đá trắng trên đỉnh có hình sư tử và một tháp thờ xá lợi của Đức Phật. Ngày nay phế tích của cả 2 nơi này đã được ghi dấu và được cơ quan UNESCO công nhận. Trụ đá thì còn gần như nguyên vẹn. Tuy nhiên, ngôi tháp thờ xá lợi chỉ còn trơ lại nền và hầm tháp, vì thế người ta phải cất lên một mái tôleddeer bảo vệ Thánh tích thiêng liêng này. Theo bảng ghi chú bên ngoài tháp, ban đầu ngôi tháp này chứa đựng một số xá lợi của Đức Phật, đến thời vua A Dục, ngài cho lấy 90 phần trăm số xá lợi tại đây để chia cho rất nhiều tháp nhỏ khác trong khắp xứ Ấn Độ. Về sau này, có một vị vua khác cũng muốn mở lại ngôi tháp những khi vừa bắt đầu đào đất Lê thì khắp nơi chấn động khiến nhà vua phải ra lệnh cho ngưng ngay công việc và kể từ đó không còn ai dám làm gì thêm với ngôi tháp này nữa.
 
CÁI GIẾNG 500 CON KHỈ
ĐÀO CÚNG DƯỜNG LÊN ĐỨC PHẬT
 
     Về hướng Nam trụ đá A Dục có một hồ nước lớn. Tương truyền đây là cái hồ do 500 con khỉ đào cúng dường cho Đức Phật để ngài tắm giặt hằng ngày trong thời gian ngài lưu lại thành Tỳ Xá Ly, và cũng chính tại đây ngày ngày đàn khỉ đều mang mật ngọt đến cúng dường cho Đức Phật. Theo tài liệu đích xác của các nhà khảo cổ thời cận đại thì tất cả những phế tích tại làng Pesa ngày nay, cách thủ phủ Patna (Pataliputra) khoảng 60 cây số là phế tích của thành Tỳ Xá Ly, và những ngôi phế tháp rải rác được bộ tộc Lichavi xây dựng để thờ xá lợi của Đức Phật mà họ nhận được từ bộ tộc Mallas. Gần khu phế tích Phật giáo ở Tỳ Xá Ly có một ngôi chùa và một tháp mang tên Tháp Hoà Bình (Drjeerling Peace) cũng giống như Tháp Hoà Bình trên núi Linh Thứu, cũng do phái Nhật Liên của người Nhật Bản xây dựng. đoàn chúng tôi cũng ghé thăm chùa Tích Lan nằm bên cạnh ngôi chùa Nhật Bản. Riêng tạo Bảo Tàng Viện Tỳ Xá Ly vẫn còn lưu giữ rất nhiều cổ vật đào được qua các cuộc khảo cổ tại thành Tỳ Xá Ly. Tại đó, dưới nhiều tầng đất sâu hơn, người ta tìm thấy một pho tượng Phật đang từ khổ hạnh có kích thước như hình người thật. Đây là những chứng tích xác thực về cuộc đời tu hành của Đức Phật.
 
 
Hình#1: Bảng ghi nhớ lịch sử thành Tỳ Xá Ly.
 
Hình#2: Bia tưởng niệm Tháp Tỳ Xá Ly.
Hình#3: Trụ đá vua A Dục dựng lên trong thành Tỳ Xá Ly vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch. Trên đỉnh trụ đá vẫn còn nguyên tượng sư tử. Bên cạnh đó vẫn còn cái giếng do 500 con khỉ đào cúng dường lên đức Phật.
 
Hình#4: Tượng sủ tử trên đỉnh tháp, biểu tượng của tượng sử tử nầy
được lấy làm biểu tượng trên lá quốc kỳ của Ấn Độ ngày nay.
 
Hình#5: Đường vào phế tích ngôi tháp thờ xá lợi của Đức Phật.
 
Hình#6: Phần còn lại của bên dưới phế tích
ngôi tháp thờ xá lợi của Đức Phật tại Tỳ Xá Ly.
 
 
XIII
 
 
THÀNH CÂU THI NA-PHẦN 1
 
     Khoảng 3 giờ chiều cùng ngày, đoàn rời Tỳ Xá Ly đi Câu Thi Na. Chúng tôi đi ngay trên con đường mà năm xưa Đức Thế Tôn đã cùng tôn giả A Nan đã đi trên đường về chỗ Ngài nhập Niết Bàn tại khu rừng Ta La Song Thọ. Do một tình cờ thiên nhiên hay do chính sự lựa chọn của Đức PhậtCâu Thi Na gần như nằm ngay giữa những Thánh địa khác như Lâm Tỳ Ni, thành Xá Vệ, Tỳ Xá Ly, Vườn Lộc Uyển… Hiện nay thành Câu Thi Na có tên là Kasia, thuộc bang Uttar Pradesh, cách Vườn Lâm Tỳ Ni khoảng 180 cây số. Đây là một trong những thị trấn rất yên tĩnh, nằm cách Bồ Đề Đạo Tràng khoảng 300 cây số đường chim bay, về hướng Tây Bắc, nhưng vì đường sá gồ ghề xấu xí nên từ Tỳ Xá Ly chúng tôi phải mất trên 6 giờ mới tới được Câu Thi Na. Dù khoa học kỹ thuật hôm nay có những tiến bộ đáng kể, và dù khắp nơi trên xứ Ấn bụi bay đầy trời, nhưng thành Câu Thi Na vẫn còn giữ được vẻ thanh u tịch tĩnh, nơi mà gần 26 thế kỷ về trước Đức Phật đã chọn làm nơi nhập Niết Bàn. Tôi đã đến Tân Đề Li để thấy không khí choáng ngợp tại đó, rồi về Bồ Đề Đạo Tràng cũng với không khí không hơn gì Tân Đề Li. Tôi không dám khen chê gì Ấn Độ, vì quê tôi ở có giàu chi hơn xứ Ấn Độ đâu! Nhưng tôi phải thực tình thương cảm cho người dân ở đây, trong thế kỷ 21 này mà họ vẫn sống trong thiếu đủ mọi bề. Có người cho rằng văn minh vật chất làm hư con người. Riêng tôi, tôi không nghĩ như vậy, tôi là người con Phật nên quyết chí đi theo con đường Trung Đạo của Ngài, không thái quá mà cũng không bất cập. Tôi không làm nô lệ cho phương tiện vật chất, nhưng tôi thụ hưởng những phương tiện để giữ cho thân này được khang kiện, từ đó có thể làm được nhiều điều lợi lạc cho mình và cho người. Con người hư hay không là do nơi mình, chứ đừng đổ thừa cho cuộc sống văn minh vật chất làm mình hư. Thử hỏi những người dân Ấn nghèo khổ cùng cực ở các nơi mà tôi đã đến tận nơi, thấy tận mắt, nếu không muốn mánh mung để tìm phương kế sinh sống hằng ngày cũng không được. Theo tôi, không nói không rằng gì cả. Không ai chối cãi Ấn Độ là xứ sở của tâm linh sâu thẳm, nhưng cũng không ai chối cãi được rằng thảm trạng xã hội hiện tại tại Ấn Độ là hệ quả tất yếu của một xã hội mà trong đó đầu óc con người còn phân định giai cấp quá nặng nề. Người Ấn Độ phân chia giai cấp quá rõ nét, nhóm giáo sĩ và những người cầm quyền luôn ăn trên ngồi trước. Họ có đủ thứ và một khi họ quyết có thứ gì là không sớm thì muộn họ phải có. Giai cấp thương nhân còn tương đối dễ thở, buôn bán kiếm lời mà sống, còn giới thủ đầu la (tức thường dân) thì lúc nào cũng bị 3 nhóm kia bóc lột đến tận xương tủy và xem thường như cỏ rác. Còn một giai cấp nữa mà không ai dám tới gần, đó là giai cấp cùng đinh (Untouchable).
     Cái không may cho Ấn Độ là những đạo quân ngoại xâm đã tiêu diệt cái "chân lý xoá bỏ giai cấp” đáng lý phải được trân trọng và phát triển tại đất nước nầy. Sau khi đến Câu Thi Na, đoàn chúng tôi nghỉ đêm tại Japan-Sri Lanka Buddhist Center ở nội ô thành Câu Thi Na, thuộc bang Uttar Pradesh. Đây là một trung tâm Phật giáo Tích Lan do chính phủ Nhật Bản tài trợ. Cảnh trí tại đây thật thanh u và yên tĩnh. Không khí trong lành và thanh u ở đây làm tôi liên tưởng đến cũng không khí này, gần 26 thế kỷ về trước, Đấng Cha Lành đã về đây trong cuộc hành trình cuối cùng để Ngài bắt đầu một cuộc yên nghỉ. Trí óc tôi hồi nầy lan man hình ảnh Đấng Từ Phụ trong xác thân tứ đại già nua nhưng lúc nào cũng bước đi những bước rắn chắc và quyết định bên cạnh ngài A Nan với nét ủ rũ như con sắp xa mẹ. Lại nữa, hồi nầy thì 2 vị đại đệ tử của Đức PhậtXá Lợi PhấtMục Kiền Liên đều đã nhập diệt trước đây 3 tháng, và các vị đại đệ tử khác thì đang hoằng hoá phương xa. Nên dầu A Nan là một bậc tu hành, lại được theo Thầy suốt gần 25 năm thì làm gì không biết tình thương nào rồi cũng đến hồi mai một chia ly, cuộc hợp nào rồi cũng tan theo định luật vô thường tất yếu, nhưng trong cảnh đó, lại không có các sư huynh đệ bên cạnh, ai có thể cầm lòng cho được? Liên tưởng đến phút đó, cảnh đó, lòng tôi bỗng lâng lâng một nỗi buồn man mác, chưa đi đến Đại Tháp Niết Bàn mà lòng mình đã xót xa, một nỗi xót xa khó tả thành lời.
     Tuy nhiên, khi nhớ tới Đấng Cha Lành, sắp tới giờ nhập diệt mà Ngài vẫn còn tích cực giáo hoá quần sanh. Trước khi Đức Phật cùng Ngài A NanTăng đoàn đi đến Câu Thi Na, đã ghé lại khu vườn xoài của nàng Am Ma La (Amrakarika), trước khi rời khu vườn xoài để tiếp tục cuộc hành trình cuối cùng đến thành Câu Thi Na, nghĩa là lúc Đức Phật sắp nhập diệt, Ngài vẫn còn dạy Am Ma La rằng: “Ngươi tuy trẻ tuổi xinh đẹp, có nhiều tài sản , lại có đức hạnh, thường làm việc thiện, nhưng lúc nào cũng cần phải hiểu rằng chư pháp vô thường, thanh xuân không mãi mãi. Đã là người thì sẽ già, yếu, bệnh, rồi chết, đừng sống uổng phí, đến nỗi thành kẻ già yếu thảm thương. Sau khi nghe lời dạy dỗ này của Đức Phật, Am Ma La bừng ngộ, xin được quy-y Phật, thọ trì năm giới tại gia. Quả thật, đức Phật đã truyền trao lại hết những gì Ngài liễu ngộ lại cho hậu bối đời sau, sự giáo hoá của Ngài thật là đại từ đại bi đến nỗi gần lúc sắp nhập diệt, có một người ngoại đạo tên Tô Bạt Đà La (Subhadda), đã trên một trăm tuổi, nghe tin Phật Đà sắp thị tịch, ông ta bèn đến xin Đức Phật từ bi chỉ dạy cho con đường tu tập, A Nanmọi người trong Tăng đoàn đều ngăn cản không cho y vào, nhưng Đức Phật đã biết trước bèn khoát tay ra dấu cho A Nan cho phép ông ta vô gặp Phật. Trong những giây phút cuối cùng trước khi nhập diệt mà Ngài vẫn còn giáo hoá vị đệ tử cuối cùng. Đức Phật bảo Tô Bạt Đà La: “Người tu đạo phải nhận thức chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, Niết Bàn tĩnh tịch, đây là ba pháp kiểm nghiệm chân lý. Chỉ cần tu tập Tứ Diệu Đế, Bát Thánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên, là có thể được giải thoát tự tại.” Sau khi nghe xong những lời dạy nầy của Đức Phật, Tô Bạt Đà La xin được quy y Phậttrở thành vị đệ tử sau cùng của Đức Phật.
 
Hình#1: Bản đồ vùng phía Đông Bắc Ấn Độ: Phía Nepal chúng ta thấy từ Bắc xuống Nam là thành Ca Tỳ La Vệ, Vườn Lâm Tỳ Ni. phía Ấn Độ từ Bắc xuống Nam là thành Câu Thi Na, thành Tỳ Xá Ly, Vườn Lộc Uyển.
Hình#2: Đường vào Câu Thi Na vào buổi bình minh.
.
Hình#3: Bảng giới thiệu đi tích chính xác nơi Đức Phật nhập Niết Nàn và ghi về sự phân chia xá lợi của Đức Phật ra làm 8 phần và chia cho 8 vương quốc để dựng tháp thờ riêng tại vương quốc của mình.
Hình#4: Chùa Niết Bàn tại khu phế tích Câu Thi Na.
 
Hình#5: Bảng ghi tiến trình tiếp tục khai quật khu Câu Thi Na của các nhà khảo cổ.
Hình#6: Phế tích nền tháp Matha-Kuar tại Câu Thi Na, nơi Đức Phật giảng kinh Di Giáo (những lời giáo huấn sau cùng của Phật)
 
 
XIV
 
THÀNH CÂU THI NA-PHẦN 2
 
     Khoảng 6 giờ sáng ngày 5 tháng 12, 2005, đoàn chúng tôi đến thăm viếng khu thánh tích Câu Thi Na, tháp Đức Phật nhập Niết Bàn, tháp Trà Tỳ, các phế tháp chung quanh Đại Tháp Niết Bàn và các chùa Phật giáo tại đây. Câu Thi Na là một trong những thánh địa quan trọng của Phật giáo, một trong Tứ Động Tâm mà trước khi nhập diệt, Đức Phật đã nhắc nhở ngài A Nan: “Sau khi ta nhập diệt, nếu các thiện nam tín nữđạo tâm nghĩ tưởng đến Như Lai, cách hay nhất là đi đến chiêm bái bốn động tâm quan trọng nhất, nơi có liên quan trực tiếp đến cuộc đờisự nghiệp hoàng hoá của Như Lai. Đó là Vườn Lâm Tỳ Ni, Bồ Đề Đạo Tràng, Vườn Lộc Uyển và thành Câu Thi Na. Nếu vị thiện tâm nào đến bốn nơi này thành tâm chiêm báiđảnh lễ sẽ được nhiều phước báu và duyên lành như gặp được chính Như Lai vậy! Lại nữa, nếu có vị thiện tâm nào có thiện duyên được trút hơi thở cuối cùng tại một trong những thánh địa này, chắc chắn người ấy sẽ được tái sanh vào cảnh giới thanh nhàn để tiếp tục tu tập giải thoát.” Hôm nay chúng tôi về đến tận nơi để chính mắt thấy được những di tích ngàn xưa vẫn còn hiện hữu, dù trong hoang tàn đổ nát, hay dù đã được người đời sau phục hoạt, trùng tu… chúng tôi vẫn cảm thấy lòng mình lâng lâng một niềm hạnh phúc khó tả. Đây chính là nơi mà gần 26 thế kỷ về trước, một bậc đạo sư của người và trời, sau khi mang hết những giáo lý giác ngộ tối thượng mà mình đã chứng ngộ ra ban phát hết cho chúng sanh muôn loài, Ngài đã về đây an nhiên thị tịch. Hôm nay chúng tôi đến đây, tính ra đã gần 26 thế kỷ , thế mà nhìn cảnh, rồi nhìn những phế tích còn sót lại, lòng chúng tôi cũng cảm thấy lâng lâng một nỗi niềm cảm xúc như chính mình đang được gần gũi với Đức Thế Tôn, nhưng bên cạnh đó là một nỗi xót xa dâng trào khi nghĩ đến phận mình phước kém duyên mỏng, không được sanh ra vào thời có Phật.
 
ĐẠI THÁP NIẾT BÀN
 
     Đường vào Đại Tháp Niết Bàn không còn vẻ thanh u tĩnh mịch như được diễn tả trong các kinh điển vào thời Đức Phật nhập diệt nữa, không còn là khu rừng Sa La ngày ấy với toàn rừng là rừng. Tuy nhiên, hai bên đường cây cối vẫn còn xanh tươi mát mẽ. Ngày nay người ta đã trải đá đỏ trên con đường đi vào Đại Tháp Niết Bàn (Mahaparinirvana Stupa). Đây là một ngôi tháp rất lớn, trên nóc có hình vòm cũng giống như nhiều ngôi tháp khác tại Ấn Độ. Tuy nhiên, quanh tháp kín mích, không có cửa, cũng không có cửa sổ. Ngôi Đại Tháp nầy cao hơn chùa Niết Bàn nhiều, có lẽ cao đến gấp đôi. Đây mới chính là nơi Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, đây mới chính là một trong những nơi thiêng liêng nhất của Phật giáo. Theo lịch sử các thánh tích Phật giáo, ngôi Đại Tháp nầy đã được những người ngưỡng mộ Phật giáo thuộc bộ tộc Mallas xây lên để thờ xá lợi của Ngài, có lẽ lý do họ xây kín là vì lo sợ quân xâm lược Hồi đến đánh phá để cướp đi xá lợi của Đức Phật, nhưng rồi sau đó, tháp cũng bị những thế lực tàn bạo muốn tiêu diệt Phật giáo tàn phá, hết đạo quân Hồi nầy đến phá rồi đến đạo quân Hồi khác đến đập phá không biết là bao nhiêu lần.
     Trước khi vào Đại Tháp, về phía bên trái có 2 tấm bảng, một bằng tiếng Anh và một bằng tiếng Ấn (có lẽ là chữ Bhrami ngày nay), nội dung nói về phế tích thành Câu Thi Na đã được đào lên qua các cuộc khai quật khảo cổ: “Câu Thi Na đã từng là kinh đô của người Mallas. Theo văn học Phật giáo, Câu Thi Na là một trong bốn điểm động tâm, được chính Đức Phật tuyên thuyết như vậy. Chính tại nơi đây, Đức Phật đã thở hơi cuối cùngnhập Niết Bàn vào ngày trăng tròn tháng Vaishakha, khoảng tháng tư hay tháng năm dương lịch. Người ta tin rằng kim thân của Đức Phật đã được hỏa táng với đủ đầy nghi cách Vĩnh dự của một Đấng Thế Tôn. Thành Câu Thi Na gần Makutabandhana Chaitya sau gần 2 thế kỷ bị lãng quên đã được các vị vua dưới triều Maurya xây dựng lại và đạt đến tuyệt đỉnh huy hoàng của nghệ thuật dưới thời Gupta. Nhiều chùa tháp và tự viện đã được xây dựng trong thời kỳ nầy. Các nhà hành hương người Trung Hoa như Pháp Hiển, Huyền TrangNghĩa Tịnh đã từng đến chiêm bái nơi nầy vào những thế kỷ thứ 5, 7, và thứ 8. Các vị nầy đã ghi lại trong bút ký rất nhiều về dấu tích của những ngôi phế tháp. Những phế tích đào lên được tại đây là do thành quả của những cuộc khai quật rộng lớn bởi nhà khảo cổ Carlleyle vào năm 1876, và về sau nầy do các nhà khảo cổ Ấn Độ từ năm 1904 đến năm 1912. Quần thể nầy bao gồm một ngôi tháp chính, ngôi chùa Niết Bàn trên một cấu trúc cao, được bao bọc bởi một nhóm những phế tích của các tự viện về phía Tây, một nhóm các tháp nhỏ với những viên gạch có chạm trỗ và những cột trụ được trang trí về phía Nam. Nền Đại Tháp nằm về phía Đông với những nền tháp nhỏ nằm về phía Bắc. Tất cả đều có niên đại từ thở đi Khổng Tước (Mauryan) đến thế kỷ thứ 10 sau Tây lịch. Ngoài ra, còn có rất nhiều bảng khắc chữ trên đất sét nung được tìm thấy trong các cuộc đào xới nầy.
 
CHÙA NIẾT BÀN & CÁC
PHẾ TÍCH KHÁC TẠI CÂU THI NA
 
     Tại Thành Câu Thi Na, chùa thờ tượng Phật nhập Niết Bàn được xây trên một nền gạch cũ cao khoảng trên 2 mét. Chùa có lối kiến trúc hết sức đặc biệt, không giống bất cứ ngôi chùa nào cả. Từ xa nhìn trên nóc, nó giống như hai khối lăng trụ màu vàng lợt giao nhau, phía trước hành lang có bốn cây cột lớn, sơn màu đỏ. Càng nhìn chúng ta càng thấy nét là lạ của ngôi chùa. Trước mặt và phía sau chùa là những rừng cây cao bóng mát cùng với nhiều hồ sen bao bọc chung quanh. Tuy nhiên, có lẽ lúc nầy là mùa đông, trời quá lạnh nên không thấy có sen nở. Ngay bên trong chùa Niết Bàn là một pho tượng Phật nằm nghiêng, mặt hướng ra cửa chính phía Nam, đầu quay về hướng Bắc, tay phải của Ngài lót gò má bên phải, còn cánh tay trái được đặt xuôi trên hông, còn hai chân của Ngài đặt chồng lên nhau rất ngày thẳng. Tượng có chiều dài khoảng trên 6 mét, được đặt trên một cái bệ chữ Nhật cao trên nửa mét. Theo truyền thuyết Phật giáo thì tượng Phật Niết Bàn được Hoà Thượng Haribhadra tạc từ một tảng đá nguyên thuỷ có tên là Chunar dưới triều Kamargupta (413-455). Dầu tượng đã bị đập nát và mới chỉ được ráp nối lại về sau nầy, nhưng pho tượng Phật Niết Bàn quả là một tuyệt tác nghệ thuật từ thời đó và cho mãi đến bây giờ. Tượng chẳng những là một tuyệt tác mỹ thuật, mà nó còn có vẻ uy nghiêm từ bi của một Đấng Từ Phụ, và đầy đủ hảo tướng của Đức Phật. Khi đến tận đây chiêm ngưỡng tôn tượng Phật Niết Bàn, hình như ai trong chúng cũng đều có cảm giác như mình đang đứng trước Đức Thế Tôn trong những giây phút sắp nhập diệt của Ngài.
     Phía sau chùa Niết Bàn là nơi Đức Phật nhập diệt trên 25 thế kỷ về trước. Theo các nhà khảo cổ thì nền móng của ngôi chùa Niết Bàn không phải là nền móng chùa nguyên thuỷ mà ngài Huyền Trang đã mô tả trong Đại Đường Tây Vực Ký. Đây có thể là nền móng thứ hai được xây dựng trên nền cũ vào khoảng thế kỷ thứ 11 hay 12. Còn ngôi tháp được xây ngay trên gò đất chính nơi Đức Phật nhập Niết bần, giữa hai cây Ta La song thọ. Cũng giống như nhiều khu phế tích khác, khu Đại Tháp Niết Bàn gồm nhiều ngôi tháp khác nhau, cái nầy xây chồng lên cái kia. Ngôi tháp bên trong cùng hãy còn nguyên vẹn. Có những hàng gạch bị cháy đen, chứng tỏ nơi đây đã từng là nơi được dùng để hỏa táng. Khi nhà khảo cổ Carlleyle khai quật được ngôi tháp này lên thì nó đang trong tình trạng sụp đổ. Ngôi tháp cao khoảng 45,72 mét. Tháp có cùng chung nền với ngôi chùa Niết Bàn, nền cao khoảng 2,74 mét. Trên đỉnh tròn của tháp là một hình trụ cao khoảng 5,50 mét, có một hàng hoá văn và một tấm bia bằng đồng khắc kinh Nhân Duyên (Nidana) bằng tiếng Bắc Phạn (Sanskrit) và có những dòng chữ ghi lại lịch sử pho tượng Niết Bàn. Tưởng cũng nên nhắc lại, vào năm 409, ngài Pháp Hiển đến chiêm bái thành Câu Thi Na và đã ghi lại trong Tây Vực Ký của ngài như sau: “Câu Thi ân có nhiều tháp và tự viện. Bấy giờ Câu Thi Na là một trung tâm tu học rất phồn thịnh.” Khi ngài Huyền Trang đến chiêm bái thành Câu Thi Na vào thế kỷ thứ 7 thì nơi đây đã hoang phế điêu tàn. Ngài đã ghi lại về Câu Thi Na trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Thủ đô nước nầy đã bị tàn phá và xóm làng đều hoang tàn đổ nát. Những nền gạch của dãy tường thành xưa có chu vi khoảng 10 lý (6 lý=1 dặm Anh). Đường phố ở đây hư nát và có rất ít dân cư. Về phía Bắc có một trụ đá do vua A Dục dựng lên ngay trên nền cũ của ngôi nhà của ông Thuần Đà. Giữa khu vực này có một giếng nước do ông Thuần Đà đào lên vào thời gian ông đang cúng dường đến Đức Phật. Mặc dầu trải qua nào thế kỷ, nước trong giếng vẫn còn và còn rất ngọt…Rồi những ngôi tháp khác đánh dấu nơi nhập diệt của Tu Bạt Đà La, người đệ tử già nhất của Đức Phật (120 tuổi), xuất gia với Đức Phật trước khi Ngài nhập Niết Bàn.” Theo lịch sử Phật giáo, sau thời kỳ chiêm bái của ngài Huyền Trang, kể từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 12, sử liệu Ấn Độ không hề đề cập gì đến Câu Thi Na nữa. Tiếp đến thế kỷ thứ 13, sau cuộc xâm lăng của đạo quân Hồi giáo, loạn lạc khắp nơi, Câu Thi Na hoàn toàn đi vào quên lãng. Bên cạnh đó, quân Hồi sẵn sàng đập phá bất cứ hình tượng Phật nào mà họ khám phá ra được trên bước đường viễn chinh của họ. Mãi cho tới ngày hôm nay, hành động của những người Hồi giáo quá khích không chừng còn tàn bạo hơn tổ tiên họ nữa là khác. Khi tôi viết phần bút ký nầy thì vài năm trước, vào khoảng tháng 3 năm 2001, những người Hồi giáo quá khích Taliban ở A Phú Hãn đã phá tan tành 2 bức tượng Phật lớn nhất thế giới trong vùng Bamyan, thuộc Afghanistan (A Phú Hãn). Như vậy, số phận thánh trách Câu Thi Na cũng như những thánh tích khác bị tàn phá tan tành vào khoảng thế kỷ thứ 12 và 13. Mãi đến thế kỷ thứ 19, nhà khảo cổ học Anh tên Wilson (1854) tình cờ khám phá được dấu tích của thành Câu Thi Na. Tiếp sau đó, các nhà khảo cổ Cunningham và Carlleyle dựa vào tài liệu trong tập ký sự của ngài Huyền Trang để tiến hành khai quật được chùa và tháp Niết Bàn trên cùng một nền gạch. Năm 1856 người ta hoàn thành việc tái thiết chùa Niết Bàn. Đến năm 1956, Nhật Bản hợp cùng với các hội Phật giáo khác tài trợ trùng tu chùa Niết Bàn, và công trình trùng tu ấy vẫn còn đến ngày nay. Hiện tại, thánh tích Câu Thi Na được Liên Hiệp Quốc công nhậndi sản thế giớiPhật tử khắp năm châu bốn biển đổ Xô về đây chiêm báinghiên cứu. Ngày nay, thành Câu Thi Na (Kusinagara) là một thị trấn nhỏ, cách khu vực Kasia chừng 3 cây số về hướng Tây Nam, và cách thành phố Gorakhpur chừng 50 cây số, thuộc bang Uttar Pradesh, phía Bắc Ấn Độ. Dân cư ở đây rất thưa thớt, nên cảnh trí vẫn còn thanh u yên tĩnh như ngày nào. Dù đoàn chúng tôi đến rất sớm, nhưng khi chúng tôi đến nơi thì đã có các đoàn Đại HànTây Tạng tới trước rồi. Tuy nhiên, vì đoàn Việt Nam quá đông nên hai đoàn kia nhường cho chúng tôi làm lễ trước. Họ sẽ đi vòng quanh tham bái rồi trở lại làm lễ sau. Sau một thời kinh trong Đại Tháp, Hoà Thượng Giác Nhiên hướng dẫn chúng tôi đi nhiễu vòng quanh Tôn tượng Phật Niết Bàn. Cũng như các thánh tích khác, trong khi đi nhiễu tại đây, từng bước chân chầm chậm và nhẹ nhàng,nhưng thật cảm động. Ở đây, mọi ý tưởng về chánh tín, thờ phượngmê tín đều không có ngằn mé. Người ta vừa đi vừa niệm Hồng đánh Đức Bổn Sư theo ngôn ngữ của mình, khi đi ngang qua chân Phật, ai cũng ráng quỳ xuống phủ phục đầu mình dưới chân Ngài, rồi các anh Thiện Minh, Thiện Tài đi trước tôi cũng quỳ, tôi cũng quỳ phủ phục dưới chân Ngài, chỉ với một ước nguyện duy nhất là cho chúng con được theo gót chân giải thoát của Ngài. Vì số người đi vào bên trong ngày càng đông nên chúng tôi phải đi ra bên ngoài tiếp tục đi nhiễu quanh Tháp. Trước khi rời khu Đại Tháp và chùa Niết Bàn để tiếp tục đi chiêm bái những nơi khác, chúng tôi quay lại nhìn những cây Ta La đang vi vu trong tiếng gió, có lẽ những cây nầy mới được trồng về sau nầy nên toàn là cây non. Nhìn con đường dẫn vào Đại Tháp Niết Bàn, và nhìn những phế tháp quanh vùng, dù đây chỉ là những cây lá, gạch ngói và sỏi đá vô tình, nhưng đối với chúng tôi kể từ giờ phút nầy chúng đã trở thành những người bạn hữu cảm. Tôi cứ nhìn mãi những cây Ta La cũng như hết thảy cây cối và phế tích trong khu Đại Tháp Câu Thi Na như muốn nhắn nhủ với chúng: “Kể từ giờ phút nầy chúng tôi xin kết Bồ Đề quyến thuộc với quý vị, xin quý vị hãy ngàn đời che chở cho Đại Tháp. Dù ở nơi xa xôi, chúng tôi luôn nghĩ đến quý vị với tất cả lòng thành.”
 
 
Hình#1: Tháp Trà Tỳ Angrachaya trong thành Câu Thi Na.
 
Hình#2: Hoà Thượng Giác Nhiên đứng trước Nhà Tưởng Niệm
Ngài Huyền Trang tại thành Câu Thi Na.
 
Hình#3: Đại Tháp Niết Bàn & Chùa Niết Bàn
tại thành Câu Thi Na được chụp từ phía ngoài cổng.
 
Hình#4: Tượng Phật Nhập Niết Bàn bên trong
Đại tháp Niết Bàn tại thành Câu Thi Na.
 
Hình#5: Nền tháp Matha-Kuar, nơi Đức Phật
thuyết giảng những lời di huấn sau cùng.
 
Hình#6: Các phế tích trong khuôn viên Tháp Đại Bát Niết Bàn.
 
MỘT LẦN ĐẾN THIÊN TRÚC CHIÊM BÁI & ĐẢNH LỄ PHẬT TÍCH (P-II)
 
Người Long Hồ
 
 
XV
 
     Trong khu Tháp Đại Niết Bàn, chúng tôi cũng ghé lại thăm nền Matha-Kuar mà theo truyền thuyết Phật giáo thì chính tại nơi này Đức Thế Tôn đã ban lời đi huấn cuối cùng trước khi Ngài nhập diệt. Nền Matha-Kuar cách Đại Tháp Niết Bàn chừng 200 mét về phía Tây Nam, dọc theo con lộ chính. Đây là một khu vực hiện vẫn còn đang được các nhà khảo cổ tiếp tục khai quật. Tại nền Matha-Kuar có thờ một pho tượng Phật ngồi kiết già bằng đá đen, cao khoảng 3 mét, có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch. Dân địa phương gọi tượng Phật nầy là Matha-Kuar, có nghĩa là “Hoàng Tử Mất.” Theo truyền thuyết Phật giáo, có lẽ người trong dòng họ Thích Ca vẫn xem Đức Phật như một vị hoàng tử của dòng họ, nên họ đã lập tháp kỷ niệm với tên “Hoàng Tử Mất”. Tượng trong tư thế địa Xúc Ấn (Bhumisparsha-mudra), diễn tả giây phút Thái Tử kêu vị thần Đất lên chứng kiến sự thể hiện thần thông của Ngài sau khi Ngài đạt được giác ngộ. Lúc nhà khảo cổ khai quật được pho tượng nầy thì nó đã bị gãy làm đôi, nhưng sau đó người ta cho ráp tượng lại và đem về thờ tại tháp Matha-Kuar do nhóm Phật tử hành hương Miến Điện xây dựng vào năm 1927. Sau khi rời Đại Tháp Niết Bàn, Hoà Thượng Giác Nhiên hướng dẫn đoàn qua thăm Tháp Trà Tỳ Angrachaya, nơi hỏa táng kim thân của Đức Phật. Tháp Trà Tỳ nằm về hướng Đông của Đại Tháp Niết Bàn khoảng 1,6 cây số, trên con đường từ Kasia đi đến Deoria. Tưởng cũng nên nhắc lại, sau lễ trà tỳ, để tránh xung đột trong việc tranh giành xá lợi của Đức Phật, bộ tộc Mallas đã thu nhặt hết xá lợi và đem chia đều cho tám vương quốc, mỗi vương quốc đem về tự xây tháp thờ xá lợi riêng. Dân địa phương còn gọi tháp Trà Tỳ là tháp Ramabhar vì nó tọa lạc kế bên hồ Ramabhar. Theo truyền thuyết Phật giáo, tháp trà tỳ là một ngôi tháp thật to, nhưng trải qua một khoảng thời gian dài, ngày nay tháp chỉ còn là một ụ đá thật lớn, nhìn từ xa giống như một cái trống thật to, có đường kính khoảng 34,24 mét. Ụ đá cao khoảng 15,40 mét. Tuy tháp tọa lạc trong một khuôn viên đầy hoa xinh đẹp, nhưng ai đến đây đều cũng phải ngậm ngùi nhớ lại hình ảnh của gần 26 thế kỷ về trước. Nhìn ngôi Đại Tháp mà lòng chúng tôi bỗng chùng xuống. Hoà Thượng Giác Nhiên thật sự xúc động, ngài tự bẩm: “Kính bạch Đức Thế Tôn, gần 26 thế kỷ về trước, Ngài đã vì thương xót chúng sanhtừ bỏ cũng vàng điện Ngọc, xuất gia tầm đạo giải thoát. Ngài đã thành đạo và đã trao truyền hết lại cho chúng sanh những gì Ngài liễu ngộ. Và cuối cùng Ngài đã từ bỏ thân tứ đại tại chính nơi này. Tuy xác thân tứ đại của Ngài đã không còn, nhưng Pháp Thân của Ngài vẫn luôn hằng hữu với chúng con. Những lời kim ngôn Ngọc ngữ của Ngài vẫn còn đây. Hôm nay chúng con có duyên may đến tận đây chiêm bái và ôn lại những lời vàng Ngọc của Ngài. Nhưng đa phần chúng sanhnghiệp chướng sâu dầy nên mãi chìm đắm trong bể khổ. Xin Ngài gia hộ cho chúng con dứt bỏ ràng buộc để sớm được giải thoát.” Chung quanh tháp và chùa Niết Bàn cũng như Tháp Trà Tỳ hãy còn rất nhiều nền móng của tu viện và chùa tháp cổ đang được khai quật. Đa số nền móng của những phế tháp nầy đều có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch. Trong khi có một số nền tháp tương đối mới là do sự trùng tu kiến tạo của khách hành hương về sau nầy.
     Nửa đường từ Nền Matha-Kuar và Tháp Trà Tỳ, nằm về phía Bắc con đường chính là Bảo Tàng Viện Câu Thi Na. Bên kia, phía Nam con đường là ngôi chùa Nhật Bản-Tích Lan (Japan-Srilanka Monestery). Việt Bảo Tàng Câu Thi Na là một trong những viện bảo tàng lớn, nằm giữa những hàng cây kiểng xanh mát. Bên trong viện bảo tàng trưng bày rất nhiều cổ vật quí giá do các nhà khảo cổ học khai quật được trong khu vực Câu Thi Na. Tuy nhiên, vì thì giờ eo hẹp nên chúng tôi không thể ghé lại thăm được. Sau khi rời Tháp Trà Tỳ, đoàn đến viếng chùa Linh Sơnủy lạo các học sinh nghèo trong vùng Kusinagara. Chùa Linh Sơn nằm trên con đường đi đến Thánh Địa Câu Thi Na. Chùa nầy được xây vào khoảng những năm 1948-1950, trước kia tên là Song Lâm Tự, do một Ni Sư người Hoa trụ trì. Sau khi Ni Sư viên tịch, chùa được giao lại cho Hoà Thượng Huyền Vi, viện chủ chùa Linh Sơn ở Pháp. Hoà Thượng phái Sư Cô Trí Thuận về đây. Sau đó, chùa được liên tục trùng tu. Hiện tại, trước sân chùa có một tôn tượng của đức Quán Thế Âm, cao khoảng 2 mét. Chúng quanh chùa là những mô hình được xây dựng phỏng theo Tứ Động Tâm vô cùng mỹ thuật. Chùa cũng xây dựng rất nhiều khách xá dành cho khách hành hương. Bên cạnh đó, chùa cũng tích cực tham gia các công tác từ thiện trong vùng. Đoàn hành hương chúng tôi đến đây vào lúc giữa trưa nên chúng tôi có rất nhiều thì giờ phối hợp với chùa Linh Sơn ủy lạo và phát quà cho học sinh và dân nghèo trong vùng. Chúng tôi đã từng sống trong cảnh nghèo, nghèo lắm ở Việt Nam, nhưng không bao giờ chúng tôi có thể tưởng tượng được sự nghèo khó của người dân vùng Bắc Ấn nếu không đến tận nơi, thấy tận mắt sự nghèo nàn cơ cực quá sức tưởng tượng nầy. Có một điều mà chúng tôi muốn chia sẻ cùng quí vị là cho dù nghèo nàn cơ cực thế mấy, người dân xứ Phật thà đi xin chứ không tham lam giựt dọc hay cướp bóc bất cứ thứ gì của ai. Ngay cả khi họ thấy tiền của mình trên túi áo sắp sữa rớt ra, họ chỉ cho chúng ta nhét vào chứ họ không bao giờ cố ý lấy bất cứ thứ gì không phải là của người ta cho mình. Chúng tôi phát quà và tiền mặt cho gần 200 học sinh và 8 thầy cô. Các em học sinh nhỏ nhận những quyển vở và những cây bút với lòng lâng lâng mừng rỡ của tuổi thơ. Chúng tôi rời chùa Linh Sơn mà lòng ngậm ngùi thương cảm cho những người dân trong vùng đất đã một thời là cái nôi của Phật giáo. Tại Câu Thi Na, nhiều quốc gia khác trên thế giới cũng đến đây xây dựng chùa viện như Miến Điện, Tây Tạng, Tích Lan, Nhật Bản, vân vân. Trong khu Đại Tháp Niết Bàn đi tới một chút là ngôi chùa Tây Tạng. Đây là ngôi chùa nhỏ, nằm trong khuôn viên khiêm tốn. Chánh điện chia làm 2 tầng, tầng dưới là giảng đường, còn tầng trên là nơi thờ Phật. Cũng như các chùa khác, chùa Tây Tạng cũng có nhiều khách xá dành cho khách hành hương. Sân chùa trông vắng vẻ, đượm nét tiêu điều vì cỏ dại mọc lên đầy sân trước và sân sau chùa. Sát bên chùa Linh Sơn là một ngôi chùa do người Miến Điện xây dựng vào năm 1945, với những mái cong vút theo kiểu các chùa Thái Lan. Chùa có một hồ sen, chính giữa hồ là tháp mồ cột, trên tháp có thờ Phật. Dọc theo bức tường rào bằng gạch có các bức Bích họa sắc màu rực rỡ mô tả những biến cố quan trọng trong cuộc đời Đức Phật. Kế bên chùa Miến Điện là ngôi chùa Thái Lan đang trong tiến trình xây cất. Đối diện với Bảo Tàng Viện Câu Thi Na là ngôi chùa Nhật-Sri Lanka do chính phủ Nhật Bản tài trợ và chư Tăng Tích Lan quản lý. Chùa có lối kiến trúc hình vòm, lấy từ kiểu Đại Tháp Niết Bàn trông rất lạ mắt. Bên trong Chánh điện có một tượng Phật tạc theo nghệ thuật Nhật Bản. Quanh tường là những bức họa hình Đức Phật và chư Bồ Tát và chư Tổ, cũng được họa theo lối Nhật Bản. Trong chùa có một trung tâm Thiền Quán, một trạm y tế và một guess house (khách xá) cho khách hành hương. Đoàn chúng tôi lưu lại khách xá tại chùa Nhật-Sri Lanka trong những ngày chiêm bái thánh tích Câu Thi Na. Từ chùa Nhật-Sri Lanka đi về hướng Tây, tức đi về hướng Tháp Niết Bàn, là ngôi chùa Thái, do chính phủ Thái Lan tài trợ. Chu vi ngôi chùa Thái nầy rất lớn. Đây là một trong những khu khang trang nhất tại Câu Thi Na. Chánh điện trên lầu hai, rộng lớn và thoáng mát vô cùng. Mái chùa cong vút với những đường nét kiến trúc Thái Lan thật đặc sắc. Trong khuôn viên chùa người ta trồng thật nhiều hoa với muôn màu muôn sắc trông thật đẹp mắt. Bên hông chùa được xây nhiều khách xá và phòng học cho chư tăngPhật tử.
 
 
Hình 1: Phế tích nền tháp Matha-Kuar trong thành câu Thi Na (Kushinagara).
 
Hình 2: Tháp Trà Tỳ Angrachaya tại Câu Thi Na.
 
Hình 3: các học sinh nghèo trong thành Câu Thi Na
đang ngồi sắp hàng nhận tặng phẩm của đoàn hành hương.
 
Hình 4: Anh chị em trong đoàn hành hương đang phân phối tặng vật đến các học sinh nghèo tại chùa Linh Sơn tại Câu Thi Na. Phía sau là những mô hình được xây dựng phỏng theo Tứ Động Tâm.
 
 
XVI
 
VƯỜN LÂM TỲ NI (NEPAL)
 
     Khoảng 1:00 giờ chiều ngày 5 tháng 12 năm 2005, đoàn chúng tôi khởi hành đi Nepal. Từ trên xe buýt nhìn qua khung cửa, càng đến gần Nepal những cánh đồng càng xanh mát hơn, có lẽ nhờ khí hậu mát mẻ của vùng chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Tuy nhiên, dân chúng trong vùng nầy cũng nghèo không kém gì dân Ấn Độ. Đoạn đường từ thành Câu Thi Na đến Vườn Lâm Tỳ Ni khoảng 100 cây số đường chim bay, nhưng chúng tôi phải vượt qua biên giới Ấn Độ-Nepal và vì đường sá quá xấu nên mãi đến chiều tối chúng tôi mới đến được vùng biên giới. Thủ tục làm chiếu khán (visa) từ Ấn Đọ qua Nepal quả là không đơn giản như chúng tôi tưởng, nhưng kỳ thật, không có gì hơn “thủ tục đầu tiên” nên rồi việc gì cũng qua và chúng tôi đến được khách sạn mà chúng tôi muốn đến. Chúng tôi dự định nghỉ đêm tại khách sạn Mansarover, nhưng vì khách sạn không đủ tiện nghi nên sau đó chúng tôi dọn qua một khách sạn khác cũng thuộc địa phận Sonali, Belahiya, Siddhartha Nagar, Lumbini, Nepal. Khoảng 5 giờ sáng ngày 6 tháng 12, đoàn bắt đầu đi thăm viếng Vườn Lâm Tỳ Nithành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) bên phía Nepal. Khoảng đường từ biên giới Ấn Độ-Nepal đi Lâm Tỳ Ni khoảng 30 cây số, nhưng đoạn đường quá xấu, nên chúng tôi phải mất trên một tiếng đồng hồ mới đến nơi được. Vườn Lâm Tỳ Ni nằm trên một ngọn đồi thấp ngay dưới chân rặng núi Hy Mã Lạp Sơn. Ngày nay, Lâm Tỳ Ni thuộc vương quốc Nepal. Khi đoàn vừa đến nơi là Hoà Thượng Giác Nhiên bắt đầu hương dẫn đoàn tụng kinh cầu an cũng như tưởng niệm công đức của Đức Phật, và cầu mong cho khu Lâm Tỳ Ni sớm được trùng tu theo đúng quy cách của nó. Chúng tôi thăm viếng Lâm Tỳ Ni, một thánh tích quan trọng trong lịch sử Phật giáo. Tuy nhiên, dòng thời gian gần 26 thế kỷ với bao nhiêu vật đổi sao dời, bao nhiêu là tang điền thương Hải, bao nhiêu cuộc chiến tranh tôn giáo… đã biến khu Thánh tích thiêng liêng này trở thành rừng rậm hoang dã. Chúng tôi đến Lâm Tỳ Ni vào buổi ban mai của một ngày đầu mùa Đông, thế mà cảnh vật ở đây trông rất thảm hại. Tôi bật thành tiếng tự hỏi lòng tôi: “Lâm Tỳ Ni đây sao? Không lý nào đâu? Không lẽ nơi nầy lại là Lâm Tỳ Ni? không đâu, Lâm Tù Ni từng là khu Vườn Thượng Uyển của những bậc đế vương kia mà?” Lúc nầy đủ thứ tự hỏi khởi lên trong lòng tôi chỉ vì ba chữ Lâm Tỳ Ni. Theo truyền thuyết Phật giáo thì dưới thời vua Tịnh Phạn, Lâm Tỳ Ni là một khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ. Trong vườn đầy những cây xanh bóng mát. Chính vẻ đẹp ấy mà bà hoàng hậu Ma Da đã ra lệnh cho đoàn tuỳ tùng hạ trại nghỉ ngơi và thưởng cảnh tại đây trước khi tiếp tục lên đường trở về quê mẹ. Trong tất cả các Thánh tích, có lẽ vườn Lâm Tỳ NiThành Ca Tỳ La Vệ là hai nơi tiêu điều nhất. Khu vườn tuyệt Mỹ, nơi Đấng Giác Ngộ đản sanh, hôm nay chỉ còn trơ lại một khu vườn hoang với một vài nền tháp đỏ nát. Trong khi dấu vết của bốn cửa thành của kinh thành Ca Tỳ La Vệ chỉ còn trơ lại một dãy gạch vụn mà thôi. Cửa thành phía Đông có một tấm bảng ghi lại: “Đây chính là nơi Thái Tử Tất Đạt Đa từ bỏ kinh thành, từ bỏ ngôi vị đế vương, vợ đẹp, con ngoan… vượt thành xuất gia để tìm con đường cứu khổ nhân sinh.” Bên trong thành, người ta tìm được một cây trụ đá mà vua A Dục đã cho xây dựng lên vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch. Tuy trụ đá không còn nguyên vẹn, nhưng những dòng chữ cũng như niên đại của đá cho thấy đây chính là nơi Đức Phật đản sanh. Khi vua A Dục đến chiêm bái Vườn Lâm Tỳ Ni, thánh tích đản sanh của Đức Phật, thì lúc đó nơi nầy vẫn còn là một làng quê sung túc, có rất nhiều cảnh đẹp thiên nhiên. Nhà vua đã cho xây dựng bốn ngọn tháp và một trụ đá bằng sá thạch, trên đầu trụ có hình con sư tử . Mặc dầu ngày nay trụ đá đã gãy mất một phần nhưng vẫn còn lưu lại dòng chữ như một chứng tích lịch sử sau đây: “Sau hai mươi năm lên ngôi, vua Payadasi, người được chư Thiên yêu mến, đã Tân hành viếng thăm, cúng dườnglễ bái nơi đây. Bởi vì Đức Phật, Thánh nhân của dòng họ Thích Ca đã được sanh ra nơi đây và dân làng mà đã được miễn một phần tám số thuế lợi tức làm chứng tích lịch sử.”
     Vào năm 409 sau Tây lịch, một nhà hành hương Trung Hoa đã ghi lại trong Tây Vực Ký như sau: “Cách 50 lý (6 lý=1.600 mét) về phía Đông của cung thành là một vườn Thượng Uyển tên Lâm Tỳ Ni. Chính tại nơi đây, Hoàng Hậu Ma Da đã tắm rửa và sau đó đi về phía Bắc khoảng 20 trượng, vịn tay vào một nhánh cây khi bà đưa mắt nhìn về phương Đông thì Thái tử đản sanh.” Trong khi đó, vào năm 629, ngài Huyền Trang đã ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Từ cái giếng (nơi sau nầy trong đợt thi phóng lao, mũi lao của Thái tử đã ghim xuống và tạo thành cái giếng nầy) đi về phía Nắc khoảng 80 hay 90 lý chúng ta sẽ gặp Vườn Lâm Tù Ni. Nơi đây có một hồ tắm của dòng họ Thích Ca, nước trong hồ chói sángtrong suốt như một tấm gương, trên mặt hồ có nhiều loại hoa nước nở xinh tươi. Cách hồ tắm khoảng 24 hay 25 trượng về phía Bắc là một cây hoa Vô Ưu, mà bây giờ đã tàn lụn. Đây chính là nơi Thái tử đản sanh vào ngày mồng 8 tháng 3 âm lịch. Phía Bắc của cây hoa Vô ưu là một cái tháp do vua A Dục dựng lên, chính là nơi mà hai con rồng đã tắm cho Thái Tử. Khi Thái Tử được hạ sanh, ngài đã đi về bốn hướng mà không cần ai dìu dắt, mỗi hướng ngài đi 7 bước và thốt lên rằng: “Trên trời dưới trời chỉ có Ta là bậc tối tôn. Đối với Ta, đây là đời sống cuối cùng, không còn tái sanh nữa. Nơi nào mà chân Ngài chạm đến nơi đó nảy sanh một đóa hoa sen. Hơn tất cả, hai con rồng bay bổng lên và lượn trên không, từ đó phun ra một dòng nước lạnh và một dòng nước ấm để tắm Thái Tử. Phía Đông của tháp là hai vòi nước tinh khiết, bên cạnh đó có hai ngôi tháp được xây lên ngay tại chỗ hai con rồng từ dưới đất vọt lên. Phía Nam cũng có một cái tháp đánh dấu nơi vua Rời Đế Thích đón chào Thái Tử lúc đản sanh. Cách bên hông tháp nầy không xa lắm là trụ đá do vua A Dục dựng lên, trên đỉnh trụ là tượng một con sư tử. Bên hông trụ đá là một dòng sông nhỏ chảy theo hướng Đông Nam, dân ở đây gọi đó là sông Dầu. Theo truyền thuyết thì đây là dòng nước sạch mà chư Thiên đã hoá ra cho hoàng hậu Ma Da tắm sau khi sanh Thái Tử. Tưởng cũng nên nhắc lại, Lâm Tỳ Ni, tức vùng Rummindei, thuộc xứ Nepal ngày nay, nằm trên một ngọn đồi nhỏ, dưới chân dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ. Lâm Tỳ Ni nằm cách thị trấn biên giới Sonali ngày nay khoảng 30 cây số về phía Tây Bắc. Chính nơi này, gần 26 thế kỷ về trước, vào khoảng năm 624, Thái Tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Maya đã đản sanh. Sau đó, Ngài thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Theo truyền thuyết Phật giáo thì khoảng 300 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết Bàn, vua A Dục của triều đại Khổng Tước (Mauryan) sau khi trở thành Phật tử,ngài đã từ bỏ những cuộc xâm lăng các lân bang. Ngược lại, ngài thiết lập sự chính phục bằng Chánh kiến. Từ đó ngài đã thực hiện nhiều cuộc chiêm bái các Thánh Địa Phật giáo. Ngài đã đến đây chiêm báiđảnh lễ Thánh tích thiêng liêng này. Lâm Tỳ Ni trong thời kỳ Đại đế A Dục đến chiêm bái hãy còn là một thôn làng thịnh vượng, có nhiều cảnh trí nên thơ. Nhà vua đã cho dựng một trụ đá tại đây để ghi dấu nơi đấng Chí Tôn đản sanh. Khu vườn Lâm Tỳ Ni đã bị bỏ hoang trong nhiều thế kỷ, mãi đến năm 1895, một nhà khảo cổ học người Đức tên là Fuhrer mới phát hiện được trụ đá vua A Dục tại đây làm chứng tích cho khu vườn lịch sử nầy. Không ai biết đích xác nguyên thủy trụ cao bao nhiêu, nhưng phế tích còn lại của trụ cao khoảng 5 mét, đường kính khoảng 0,5 mét, làm bằng sa thạch trắng. Sau đó người ta cho rào chung quanh trụ đá để bảo vệ địa điểm nơi Thái Tử Tất Đạt Đa đản sanh. Bên trái trụ đá có một cây Phượng vĩ già, nhưng cành lá xum xuê, trổ bông đỏ cả một góc vườn. Hiện vòng rào sắt cũng bị thời gian làm rỉ sét gần hết. Vào thập niên 1960s, Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc là ông U Thanthasp Tùng vua Mahendra của xứ Nepal đến viếng Thánh Địa Lâm Tỳ Ni. Vua Mahendra đã hiến tặng 100.000 rúp cho việc trùng tu Lâm Tỳ Nicơ quan UNESCO của Liên Hiệp Quốc đã chính thức công nhận và tài trợ chi phí trùng tubảo trì khu di tích quan trọng này. Và trong Đại Hội Phật Giáo tại Nhật Bản vào năm 1979 người ta đã chính thức công nhận Lâm Tỳ Ni là đi tích của Phật giáo thế giới, cần phải được bảo vệ.
     Sau đó đoàn chúng tôi ghé lại thăm chùa Việt Nam của thầy Huyền Diệu và ăn trưa tại đây. Chùa đang xây dựng với nhiều công trình thật quí mô. Tuy nhiên, nghe nói ngày 14 tháng 12 năm 2005 là ngày Khánh thành với sự tham dự của e-rất nhiều quan khách cũng như chư Tăng Ni khắp nơi trên thế giới. Tại Vườn Lâm Tỳ Zeni, ngoài chùa Việt Nam Phật Quốc Tự còn có chùa Linh à Sơn trong hệ thống của cố Hoà Thượng Thích Huyền Vi tại Pháp. Ngoài ra, vùng Lâm Tỳ Ni hiện nay còn có nhiều chùa viện của nhiều quốc gia trên thế giới , kể cả Nắc Tông lẫn Nam Tông, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông như Đại Hàn, Miến Điện, Nhật Bản, Thái Lan, Tích Lan, Trung Hoa và Việt Nam… đã cùng nhau góp phần tạo cho Lâm tỳ Ni có một khuôn mặt hứa hẹn mới. GIẾNG THIÊNG TẠI VƯỜN LÂM TỲ NI Bên phải trụ đá của vua A Dục là giếng thiêng, nơi Hoàng Hậu Ma Da đã tắm gội trước khi hạ sanh Thái Tử Tất Đạt Đa trong khu vườn Lâm Tỳ Ni. Đây là một cái hồ hình chữ nhật dài khoảng 10 mét, ngang 6,7 mét. Trong hồ nước nầy vẫn còn đầy nước. Bốn phía đều có bậc tam cấp bước xuống hồ. Cạnh bờ hồ có một cây Bồ Đề tàng lá xum xuê, tỏa bóng mát cả một bên hồ. Theo truyền thuyết thì thuở đó bất cứ vị vua nào trong dòng họ Thích Ca của thành Ca Tỳ La Vệ, trước khi lên ngôi đều phải đến làm lễ tắm tại giếng thiêng này. Vào thế kỷ thứ 14, vua Ripu Malla cái trị xứ Nepal có đến đây chiêm bái và khắc tên ông lên trụ đá. Nhưng kể từ đó Lâm Tỳ Ni đã đi vào quên lãng cho mãi đến thế kỷ thứ 19, những nhà khảo cổ Anh quốc đã tìm được một tảng đá xác quyết nơi đản sanh của đức Phật. Những nền đá của ngôi tự viện xưa cũng được khai quật. Khoảng giữa Vườn Lâm Tỳ Ni là một hồ nước lớn, gió núi Hy Mã Lạp Sơn thổi nhẹ làm mặt hồ lăn tăn trong ánh nắng ban mai, làm cho cảnh trí nơi đây thêm phần sinh động. Chính tại hồ nước thiêng này, Hoàng Hậu Ma Da đã tắm gội trước khi đi vào Vườn Hoa Vô Ưu để hạ sanh Thái Tử. Sau khi Thái Tử đản sanh Ngài đã được các thị nữ tắm gội cũng tại chính giếng nước thiêng nầy. Ngày nay người ta xây gạch quanh hồ để bảo trì đi tích lịch sử của Phật giáo nầy.
 
THÁP THỜ HOÀNG HẬU MA DA TẠI VƯỜN LÂM TỲ NI
 
     Trung tâm sinh hoạtchiêm bái tại khu Lâm tỳ Ni là Tháp Thờ Hoàng Hậu Ma Da vì ai ai về đây chiêm bái đều đến lễ bái bà hoàng hậu kính mến, thân mẫu của Thái Tử Tất Đạt Đa. Tuy nhiên, đền thờ nguyên thủy của hoàng hậu Ma Da đang được các nhà khảo cổ tiếp tục khai quật nên hiện nay bàn thờ được trang trí tạm tại của khuôn viên Vườn Lâm Tỳ Ni, nằm về phía Đông của ngôi tháp nguyên thuỷ. Bức phù điêu trên tường tạc hình hoàng hậu và thái tử lúc Ngài vừa mới đản sanh vẫn còn sống động như việc vừa mới xảy ra ngày nào đây. Đây là bức hình chạm nổi hoàng hậu Ma Da lớn bằng người thật đang vịn tay vào cành Vô Ưu, Thái Tử sơ sinh đang đứng bên hông phải một toà sen, có vòng hào quang trên đỉnh đầu. Hai góc trái và phải có hai Thiên nữ đang rưới nước và rải hoa cúng dường. Bức phù điêu này do vua Malla của triều đại Naga xứ Nepal dâng cúng (triều đại Naga kéo dài từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ thứ 15 tại Nepal). Theo các nhà khảo cổ học thì tháp thờ hoàng hậu Ma Da được dựng ngay trên nền tháp mà trước đay vua A Dục đã xây dựng vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch. Những chứng tích lịch sử sống động nầy thực sự nhắc nhở chúng ta về hình ảnh của Đức Phật đản sanh gần 26 thế kỷ về trước. Theo tục lệ của người Ấn Độ thì người đàn bà phải trở về quê mình để sanh con, rồi sau khi sanh nở mới mang con trở về quê chồng. Trên đường về quê, Hoàng hậu Ma Da đã hạ sanh Thái tử Tất Đạt Đa tại ngôi vườn Lâm Tỳ Ni này. Theo truyền thuyết Phật giáo thì khi vừa mới chào đời, Thái Tử đã bước đi bảy bước và từ mặt đất bảy đóa sen đã nở hoa để đỡ bước chân của Ngài. Khi bước đến bước thứ bảy thì Ngài tuyên bố: “Thiên thượng Thiên hạ, duy ngã độc tôn. Vô lượng sanh tử, ư kim tận hỉ!” Thuở ấy Ca Tỳ La Vệ tuy không phải là một vương quốc lớn, nhưng rất trù phú, dân chúng trong thành luôn an cư lạc nghiệp, nên sau khi Đức Phật đản sanh, vua cha Tịnh Phạn cho triệu vời tất cả những nhà tiên tri nổi tiếng thời bấy giờ đến hoàng cung để tiên đoán vận mạng cho Thái Tử. Chính nhà tiên tri nổi tiếng nhất thời đó là A Tư Đà đã phải ngậm ngùi rơi lệ cho chính mình khi nhìn thấy Thái Tử, vì ông biết rằng về sau nầy Thái Tử sẽ trở thành một bậc Chuyển Luân Thánh Vương mà mình không có cơ may sống sót đến đó để được nghe giáo pháp của Ngài. Phải nói, Lâm Tỳ Ni là một trong những nơi quan trọng nhất trong lịch sử của nhân loại chứ không riêng gì cho Phật giáo. Riêng đối với những người con Phật thì Lâm Tỳ Ni cũng giống như Thánh a địa Jerusalem của người Do Thái, hay Mecca-Madina của người Hồi giáo, Bethlehem của người Thiên Chúa giáo, và Kashi (Vanarasi) của người theo Ấn Độ giáo. Ngày nay Lâm Tỳ Ni đã trở thành trung tâm hành hương thiêng liêng nhất cho tất cả Phật tử từ khắp nơi trên thế giới. Thế nhưng mãi đến thập niên 1960s các nhà khảo cổ mới bắt đầu cuộc khai quật và bảo toàn Thánh Tích thiêng liêng này. Và mãi cho đến hiện nay vùng đất Lâm Tỳ Ni vẫn còn bị quên lãng gần như hoang địa. Trong khi các quốc gia trên thế giới đang nỗ lực phục hoạt Lâm Tỳ Ni thì tình hình chính trị tại xứ Nepal ngày càng trở nên xấu hơn với những rối ren chính trị liên tục. Trong khu ngân quỹ của Hội Trách Nhiệm Lâm Tỳ Ni do hoàng gia Nepal phụ trách phải chi số tiền trả lương cho nhân viên nhiều hơn là những hoạt động phục hoạttrùng tu khu Thánh Tích này. Hiện nay ngôi tháp thờ Hoàng Hậu Ma Da đã bị giựt sập để dành ưu tiên cho việc khai quật, nhưng lại không có một kế hoạch xây cất một ngôi tháp mới để thay thế, nên cảnh trí của Lâm Tỳ Ni vốn dĩ đã hoang tàn, nay trở nên hoang tàn hơn. Nói gì thì nói, chắc chắn một ngày không xa nào đó, Lâm Tỳ Ni cũng sẽ được phục hoạt tương xứng với vị trí thiêng liêng hàng đầu trong các Thánh Tích khác của Phật giáo. Chính từ những kinh điển Phật giáo, những dấu tích văn hoá từ các thời Maurya, Sunga, Kushuwa, Gupta, Pala, những trụ đá của hoàng đế A Dục, cũng như những tập ký sự của các nhà hành hương nổi tiếng như Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh… đã hỗ trợ đắc lực cho các nhà khai quật từ các thời đại Khadga, Samesher Rana và Fuhrer lần lượt đưa ra ánh sáng một thánh tích đã bị lãng quên trong nhiều thế kỷ. Và mới đây, những nhà khảo cổ Nhật Bản và Nepal cũng đã khai quật được những di vật liên hệ trực tiếp đến nơi đản sanh của Đức Phật. Hiện tại Lâm Tỳ Ni đã phát triển thành một khu thị tứ tương đối có đầy đủ tiện nghi cho khách hành hương cũng như các nhà nghiên cứu và khảo cổ như khách sạn, phòng trọ, nhà hàng, quán ăn, những sạp bán đồ pháp khí hay Phật cụ… Lâm Tỳ anh hiện có Bảo Tàng viện và thư viện với đầy đủ tư liệu cho việc khai quật. Bên cạnh đó, Lâm Tỳ Ni hiện có rất nhiều chùa lớn của nhiều quốc gia trên thế giới như Ấn Độ, Đài Loan, Đại Hàn, Miến Điện, Nhật Bản, Thái Lan, Tích Lan, Trung Hoa, và Việt Nam. Đây cũng là một khích lệ lớn lao cho việc khai quật hiện tại. Ngoài ra, cơ quan UNESCO của Liên Hiệp Quốc cũng đã chính thức công nhận địa điểm lịch sử nầy, và hiện nay cơ quan nầy đang tích cực hỗ trợ giúp đỡ chứng những về tài chánh mà còn nối kết sự hợp tác giữa các quốc gia giàu mạnh trong việc phục hoạt Thánh a tích này. Dẫu biết rằng không có bất cứ thứ gì trên đời này có thể chạy ra ngoài định luật vô thường. Dẫu biết rằng giờ nầy có làm gì đi nữa thì cả Lâm Tỳ Ni lẫn Ca Tỳ La Vệ cũng chỉ là những đống gạch vụn. Thế nhưng trong những đống gạch vụn vỡ ấy lúc nào cũng bàng bạc hình ảnh tôn kính của đấng Giác Ngộ, và cũng chính nơi những đống gạch vụn vỡ ấy dung chứa di sản văn hoá cao thượng đã thấm nhuần trong lòng của những người con Phật khắp nơi trên địa cầu nầy. Chính vì thế mà người Phật tử khắp nơi nơi luôn mong thấy và luôn mong có được một khu Thánh Tích Lâm Tỳ Ni trang nghiêm xứng tầm với vai trò lịch sử của nó. Mong lắm thay!!!
 
Hình 1: Hình chụp trước cổng Lâm Tỳ Ni, Nepal.
 
Hình 2: Bản đồ vùng Lâm Tỳ Ni, bên phía Nepal, gần biên giới Ấn Độ ngày nay.
 
Hình 3: Cây Bồ Đề trong Vườn Lâm Tỳ Ni, Nepal.
 
Hình 4: Quang cảnh buổi sáng sớm bên ngoài Vườn Lâm Tỳ Ni.
 
 
Hình 5: Trụ đá do vua A Dục dựng lên trong Vườn Lâm Tỳ Ni khi nhà vua
đến chiêm bái khu Thánh tích nầy vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch.
 
Hình 6: Giếng Thiêng nơi Hoàng Hậu Maya tắm sau khi
Đức Phật đản sanh trong Vườn Lâm Tỳ Ni, Nepal.
 
Hình 7: Bảng chào đón du khách đến thành phố Tilaurakot, ngày trước là Lâm Tỳ Ni.
 
Hình 8: Đây là nơi là theo các nhà khảo cổ và sử học Phật giáo
 xác nhận chính là nơi Đức Phật đản sanh trong Vườn Lâm Tỳ Ni.
 
Hình 9: Quang cảnh bên ngoài chùa Việt Nam Phật Quốc Tự, trong vùng Lâm Tỳ Ni,
do Thượng Toạ Thích Huyền Diệu làm trụ trì.
 
 
Hình 10: Toà nhà được dựng lên để tưởng niệm nơi Đức Phật đản sanh trong Vườn Lâm tỳ Ni.
 
 
 
XVII
 
THÀNH CA TỲ LÀ VỆ BÊN PHÍA NEPAL
 
     Sau khi thăm viếng Vườn Lâm Tỳ Ni, đoàn chúng tôi đi thêm gần 30 cây số về phía Tây trong đất Nepal để tới thành Ca Tỳ La Vệ. Phía Nepal thì cho rằng đây mới đích thị là quê hương của Đức Phật, vì theo truyền thuyết Phật giáo thì quê hương của Ngài nằm về phía Bắc của châu Diêm Phù Đề (Jambudvipa), tức là xứ Thiên Trúc thời các ngài Pháp HiểnHuyền Trang, hay là xứ Ấn Độ ngày nay. Hai bên đường từ Lâm Tỳ Ni đến Ca Tỳ La Vệ là cảnh đồng quê với những mái tranh nghèo đơn sơ mộc mạc, nằm chơ vơ giữa những cánh đồng khô cháy, không thấy một giọt nước. Tuy đoạn đường không xa lắm nhưng vì đường sá quá gồ ghề lởm chởm nên xe buýt đưa chúng tôi phải mất gần một tiếng đồng hồ mới tới nơi. Quanh khu thành Ca Tỳ La Vệ là một làng quê thật nghèo, giống như những làng quê ở Việt Nam, nhưng có lẽ nghèo hơn Việt Nam nhiều. Hai bên đường là những bụi tre đong đưa trong gió. Những chú trâu chú bò tranh nhau với dân làng trên những con đường nhỏ hẹp. Mà hình như mấy chú trâu bò lúc nào cũng thắng thế, vì đa số người dân ở đây đều nhường bước cho trâu bò đi trước. Dọc theo hai bên con đường chúng tôi đang đi qua, đầy những đống phán trâu, phân bò, làm cho đường sá ở Ấn Độ , từ thành thị đến thôn quê, có một sắc thái đặc biệt mà có lẽ chúng ta không tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Đây chính là quan cảnh của thành Ca Tỳ La Vệ bên phía Nepal (vì bên phía Ấn Độ cũng cho rằng thành Ca Ty La Vệ nằm bên phía ấn Độ).
Phế tích thành Ca Tỳ La Vệ phía bên Nepal cũng giống như những phế tích khác, cũng hoang tàn điều hiu. Đó là những phế tích của những nền móng hình chữ nhật lớn. Theo truyền thuyết Phật giáo, Ca Tỳ La Vệ thuở an sơ là một khu rừng hoang vu, lúc ấy trong vùng núi Hy Mã Lạp Sơn có một vương quốc do vua Okkaka Raja trị vì, nhà vua và hoàng hậu có cả thảy bốn vị thái tử và năm công chúa. Sau khi bà Chánh hậu quả đời, nhà vua lập một thứ phi lên làm hoàng hậu. Bà này sanh cho nhà vua một vị hoàng tử, sau đó bà thứ phi này âm mưu chiếm đoạt ngôi báu cho đứa con của chính mình, nên bà bàn mưu lập kế đày các vị thái tửcông chúa con của bà hoàng hậu trước ra vùng hoang địa. Khi đó có một vị Thánh giả tên Kapila Gautama khuyên một trong các vị thái tử tên Ikshwaku đến đây lập quốc. Vị thái tử đó chính là vị đã khai sáng ra vương quốc Ca Tỳ La Vệ cho dòng họ Thích Ca (Sakya). Đến đời vua Tịnh Phạn thì Cả Tỳ Là Vệ là một kinh thành nguy Nga tráng lệ, dân cư trong thành ai nấy đều có cuộc sống sung túc thạnh vượng. Ôi! Bài hát về kinh thành Ca Tỳ La Vệ mà một tác giả nào đó đã sáng tác lúc tôi còn rất nhỏ, quả tình không phải là một bức tường loang lổ, những nền tháp, những đống gạch vụn hay những miếng gạch bể nằm rải rác ngay trước mặt tôi bây giờ!
 
CỬA THÀNH ĐÔNG
 
     Tại cửa thành Đông có một tấm bảng ghi như sau: “Đây là cửa thành Đông, nơi thái tử vượt thành xuất gia.” Đây chính là địa điểm lịch sử trọng đại vào bậc nhất của Phật giáo, vì chính từ nơi này thái tử Tất Đạt Đa đã rời bỏ cũng vàng điện ngọc ra đi tìm phương cứu độ chúng sanh, và cũng chính nơi đây đã xoay chuyển một vị thái tử thành một vị Phật, mang giáo lý giải thoát tuyệt vời đến cho nhân loại. Theo truyền thuyết Phật giáo thì sau khi rời bỏ kinh thành Ca Tỳ La Vệ trong một đêm tối trời, Thái tử cùng Xa Nặc phi ngựa Kiền Trắc vượt qua sông Anoma, đến gần sáng thì Ngài dừng ngựa lại bên bờ sông, rồi tự tay cắt tóc, cạo râu, rồi trao xiêm y cùng mớ tóc lại nhờ Xa Nặc đem về cho phụ hoàng, còn tự mình đổi lấy chiếc áo rách của một anh thợ săn và kể từ đó, Ngài cô thân vạn lý du, làm một nhà tu khổ hạnh, rảo bước trên khắp các vùng rừng núi Khổ Hạnh Lâm. Ngài không có chỗ ở thường trực, chỗ ở của Ngài có thể là một tàng cây, hay một hàng đá, cốt chỉ để che nắng che mưa, tránh gió tránh bão mà thôi. Chân không giày, đầu không nón, một mình cô thân vạn lý du dưới ánh nắng chói chan hay trong sương đêm lạnh lẻo. Mường tượng đến những gian lao khổ nhọc mà một vị thái tử cành vàng lá ngọc phải chịu đựng, rồi nhìn cảnh hoang phế của thành Ca Tỳ La Vệ mà lòng chúng tôi buồn rười rượi. Thời gian vô tình xoá mờ đi tất cả, xoá mờ cả một dĩ vãng vàng son của cung thành Ca Tỳ La Vệ. Đây là kinh thành của dòng họ Thích Ca, nơi Đức Phật đã sóng trong suốt 29 năm dài. Tôi tự trầm ngâm, hay là họ đã lầm khi áp đặt cho chỗ này là kinh thành Ca Tỳ La Vệ, chứ thành Ca Tỳ La Vệ ngày nào của Đức Phật như thế nầy ư? Nhưng không, một giây sau là tôi lấy lại thăng bằng trong tâm tưởng khi nhớ tới những lời dạy của Đức Thế Tôn về luật “sanh trụ dị diệt” của vạn hữu. Đứng trước cảnh điêu tàn đổ nát, lòng tôi bỗng chạnh nhớ đến hai ư của nữ sĩ Hồ Xuân Hương: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo Lầu cũ lâu đài bóng tịch dương.” Ôi! Ca Tỳ zola Vệ mới ngày nào là một vương quốc phồn thịnh trù Phú, thành quách kiên cố, dân chúng an cư lạc nghiệp, mà bây giờ chỉ còn trơ lại một đống gạch vụn hoang tàn đổ nát với những túp lều xiêu vẹo. Ôi! Thành quách kiên cố mà còn bị chiếc búa thời gian nghiền nát, huống là con người! Chính nơi những phế tích của các cung điện nầy, cả ba vị: Đức Phật, Đông cung Thái Tử Nạn Đà (con ruột của bà đi mẫu Mà Ha Na Xà Ba Đề), và Là Hầu Là đã chứng kiến cảnh vua Tịnh Phạn trong giờ phút lâm chung, thiết tha muốn một trong ba người thân thương của ông ta đứng ra chấp Chánh, nhưng cả ba đều kiên quyết giữ vững sự tu hànhthành đạo của mình. Cuối cùng nhà vua phải nhường ngôi lại cho hoàng thân Mahanama, con trai của hoàng đệ Sukkodana của ông. Sau khi vua Tịnh Phạn băng hà, nhìn cảnh đời tan hợp hợp tan, nên nhiều lần bà đi mẫu Mà Ha Ba Xà Ba Đề đã khẩn khoản cầu xin Đức Phật cho phép mình cũng được xuất gia tu hành, nhưng cả ba lần Đức Phật đều từ chối, không phải Ngài không muốn cho người nữ xuất gia, vì Ngài biết nếu tu hành tinh chuyên người nữ cũng có thể đắc quả A La Hán như mọi người, thế nhưng người nữ nặng nghiệp khi được cho vào giáo đoàn, chính họ sẽ làm cho giáo pháp mai một đi sớm hơn. Chính vì thế mà Ngài rất do dự không quyết định việc cho phép người nữ xuất gia.
     Thật tình mà nói, nếu ngày ấy Thái Tử Tất Đạt Đa không quyết chí từ bỏ cũng vàng điện ngọc, ra đi tầm đạo thì có lẽ giờ nầy tiếng tăm của Ngài cũng đã bị chiếc búa thời gian nghiền nát từ lâu như những lầu cũ lâu đài trong cung điện Cả Tỳ La Vệ của Ngài vậy. Nơi đây bây giờ nào khác chi hoang địa? Nhìn những mái tranh tàn tạ, những thân hình gầy guộc xanh xao của cư dân ở đây lòng chúng tôi bỗng chùng xuống. Theo lịch sử Phật giáo thì kinh thành Ca Tỳ La Vệ bị tàn phá và sụp đổ từ sau khi vua Tỳ Lưu Ly, con vua Ba Tư Nặc, bấy giờ là vua của xứ Kosala, vì lời thề mà tàn sát cả dòng họ Thích Ca. Mặc dầu Đức Phật đã hai lần can ngăn, nhưng chính Ngài cũng biết nghiệp lực của dòng họ mình chẳng những khiến cho dòng họ bị tiêu diệt, mà kinh thành nguy nga tráng lệ cũng sẽ biến thành nhà tranh vách đất, đất nước trù Phú thịnh vượng sẽ trở nên nghèo nàn suy sụp và khổ sở, tang điền sẽ biến thành thương hải. Đây là một tấn bi kịch nói lên những cực đoan trong một xã hội Ấn Độ phân biệt giai cấp thời cổ đại. Theo Chánh sử Phật giáo thì vua Ba Tư Nặc (Prasenajit), cũng thuộc dòng dõi Ikshvaku, vì muốn bang giao với dòng họ Thích Ca nên cho người đến để cầu hôn. Trong khi đó, vào thời đó, dòng họ Thích Ca lại cho rằng vua Ba Tư Nặc không buộc dòng dõi Sát Đế Lợi nên không muốn gã công chúa dòng Thích Ca, nhưng vì thời đó Kosala (Kiều Tất La) là một cường quốc nên Ca Tỳ La Vệ không từ chối hôn sự, mà thay vào đó, đã cho một thị nữ tên Vasbhaktiya cải trang làm công chúa gã về cho vua Ba Tư Nặc đã phong cho nàng thị nữ nầy làm hoàng hậu, và ít lâu sau đó thì nàng Vasbhaktiya hạ sanh thái tử Tỳ Lưu Ly. Khi trưởng thành, thái tử Tỳ Lưu Ly muốn về thăm quê ngoại, bà Vasbhaktiya Dax heist sunscreen can ngăn nhưng không được. thái tử Tỳ Lưu Ly cũng được dòng họ Thích Ca tiếp đón như một quốc khách và cho ngụ tại sứ quán. Tuy nhiên, khi thái tử ra về thì người ta cho rửa sứ quán bằng sữa tươi. Một người hầu của thái tửbỏ quên đồ trở lại lấy, thấy được cảnh nầy, trở về báo cáo cho Thái tử Tỳ Lưu Ly tất cả những sự việc vừa xảy ra. Vì thế mà thái tử tức giận thề răng: “Ta sẽ không những rửa sứ quán, mà sẽ rửa cả kinh thành Ca Tỳ La Vệ bằng máu.” Sau đó, thái tử Tỳ Lưu Ly âm mưu đoạt ngôi vua cha khi vua Ba tư Nặc đang đi nghe Đức Phật thuyết pháp. Khi hay tin xoắn nghịch này, nhà vua phải chạy sang xứ Mà Kiệt Đà để lánh nạn, nhưng đến giữa đường thì băng hà vì tức tối. Sau đó Tỳ Lưu Ly đã ba lần cất quân sang đánh Cá Tỳ La Vệ, nhưng hai lần đầu nhờ có Đức Phật khuyên can, đến lần thứ ba thì Tỳ a lưu Ly đã tắm máu cả dòng họ Thích Ca, chỉ có một số ít chạy thoát về Kathmandu. Theo Huyền Trang trong Đại Đường Tây Vực Ký, số tử vong lên đến 9.999. Ngay cả những đứa trẻ sơ sinh, Tỳ Lưu Ly cũng giết không tha. Kể từ đó, kinh thành Ca Tỳ La Vệ trở nên hoang tàn dầu có một số người nhớ đến ân đức của đức Phật, có trở về đây xây dựng lại một số đền đài, nhưng ngày nay kinh thành Ca Tỳ La Vệ không còn gì ngoài những nền tháp, những đống gạch vụn, những hang cây mọc không trật tựvô số cỏ dại vì thiếu người chăm sóc.
Năm 1898, nhà khảo cổ người Đức tên Fuhrer đã khai quật được một cái hồ hình chữ nhật, người ta tin rằng đây chính là nơi vua Tỳ Lưu Ly đã tắm máu dòng họ Thích Ca. Tại đây có 17 ngọn tháp, người ta cũng tìm thấy những tảng đá có hình hoa sen và những loại vũ khí thời xa xưa. Nhà khảo cổ Smith và nhiều người khác cho rằng nơi đây có thể là những ngôi tháp được những người kính ngưỡng dòng họ Thích Ca dựng lên để tưởng niệm những người đã bỏ mình trong cuộc chiến với vua Tỳ Lưu Ly. Ngài Pháp Hiển, bắt đầu cuộc hành hương Ấn Độ năm 409, đến năm 415 mới đến được vùng đất Phật, đã ghi lại như sau: “Từ những ngọn núi đầy tuyết trắng xoá của dãy Hy Mã Lạp Sơn nhìn xuống thành Ca Tỳ La Vệ, một thành phố nằm dọc theo bờ sông. Những bức tường đổ nát bằng gạch được bao bọc bởi một hào sâu. Những bức tường của cung thành thì lớn hơn và biểu hiện một trung tâm văn hoá cao.” Khi ngài Pháp Hiển đến kinh thành Ca Tỳ La Vệ thì nơi đó là một nơi không có vua mà cũng không có cả thần dân, chỉ có lác đác một vài Tăng sĩ đang từ hành tại đó. Ranh giới của kinh thành được nhận biết qua những bờ thành mục nát. Đây chính là nơi Thái Tử Tất Đạt Đa mục kích cảnh sanh, lão, bệnh, tử. Kia là cửa thành Đông, nơi Thái Tử Tất Đạt Đa rời bỏ kinh thành ra đi tìm đạo giải thoát. Còn đằng kia nữa là chỗ nhà tiên tri A Tư Đà ngồi thiền định. Đó là chỗ Đề Bà Đạt Đa đã giết con voi sau khi thấy nó phủ phục trước sự uy nghiêm của Đức Phật. Xa xa đằng kia là chỗ mũi tên của Thái Tử ghim xuống sau đoạn đường bay xa hơn 30 lý (khoảng 4,8 dặm Anh hay trên 8 cây số). Còn đây chính là nơi đã phun lên một vòi nước, cũng là nơi mà 500 người trong dòng họ Thích Ca quy-y theo Phật. Những nơi đất chấn động sáu lần, nơi Đức Phật gặp vua cha Tịnh Phạn sau khi Ngài giác ngộ, nơi Đức Phật giảng pháp cho chư Thiên, nơi Vua Trời Đế Thích đứng hầu Đức Phật, nơi Thái tử Tỳ Lưu Ly sát hại dòng họ Thích Ca, tất cả những nơi ấy đều được Phật tử xây tháp tưởng niệm. Trong Đại Đường Tây Vực Ký, ngài Huyền Trang đã ghi chép khá tường tận: “Thành Ca Tỳ La Vệ có một chu vi khoảng 4.000 lý (6 lý=1.609 mét). Trong đó có trên 10 thành phố, tất cả đều hoang phếđiêu tàn đến tột độ. Thủ đô cũng bị đất lấp và đổ nát. Cấm cung nằm trong thủ đô và có chu vi khoảng 14 hay 15 lý. Hoàng cung được xây dựng bằng gạch đỏ. Những nền tường vẫn còn vững chắc và khá cao. Nơi này có lẽ đã bị bỏ phế từ lâu lắm. Những làng mạc chung quanh có số dân cư rất thưa thớtcản trở hết sức tiêu điều. Nơi đây hiện giờ không có ai trị vì cả. Hiện tại, mỗi một khu phố có trưởng khu phố riêng. Đất đai rất màu mỡ và khai thác được theo từng mùa. Người dân ở đây rất hiền lànhcần mẫn. Có lẽ có tới trên 1.000 Tăng Xá bị bỏ hoang. Gần nơi cung thành, vẫn còn một Tăng Xá có khoảng 3.000 Phật tử đang từ học theo truyền thống Tiểu Thừa. Ở đây cũng có một số đền thờ Đế Thích được cúng tế thịt sống. Bên trong hoàng thành hãy còn những tường nhà đổ nát. Có lẽ đây là cấm cung của vua Tịnh Phạn vì có một ngôi tháp với hình ảnh nhà vua đã được dựng lên nơi đây. Không xa mấy là tàn tích của nơi mà Hoàng hậu Ma Da cư ngụ. Trên nền đá cũ người ta đã xây một ngôi tháp có hình hoàng hậu. Phía Đông Bắc của hoàng cung là một ngôi tháp, kỷ niệm nơi nhà tiên tri A Tư Đà đã tiên tri cho Thái Tử… nơi cổng Nam của hoàng cung có một ngôi tháp, nơi đánh dấu Thái Tử đã thắng cuộc thi đấu với các vị hoàng thân quốc thích khác.bên hông nơi nầy là một ngôi tháp có hình Thái Tử. Kế bên đó là một ngôi tháp khác, nơi hoàng phi nghỉ ngơi. Trong đó có hình của hoàng phi Da Du Đà La và thái tôn Là Hầu La. Bên hông ngôi tháp nầy có một ngôi tháp có hình chú bé đang học tập. Phía Đông Nam của kinh thành là một ngôi tháp thờ tượng Thái Tử đang cỡi một con tuấn mã trắng. Đây cũng là nơi Thái Tử đã rời kinh thành. Bên ngoài mỗi cổng thành đều có tượng một cụ già, một người bệnh, một người chết và một vị sa môn. Đó chính là những nơi mà trên đường ngoài cảnh, Thái Tử đã nhìn thấy các cảnh sanh, lão, bệnh, tử cũng như chiêm ngưỡng bậc sa môn. Phía Đông Bắc kinh thành khoảng 40 lý có một ngôi tháp đánh dấu sự kiện Thái tử trong một ngày lễ Hạ Điền đã ngồi dưới gốc câyđạt được sơ thiền.
     Phía Đông Nam cửa thành có cả trăm ngàn ngọn tháp nhỏ, đánh dấu nơi dòng họ Thích Ca bị vua Tỳ Lưu Ly sát hại. Vua Tỳ a lưu Ly đã đánh chiếm và bát giết cả dòng họ Thích 9.999 người, sau đó ra lệnh xử chém tất cả. Thây họ chất thành đống như đống rơm và máu của họ chảy thành hồ. Các vị trời Đế Thích đã kích động lòng người để họ đến thu thập xương tàn của những người trong dòng họ Thích mà đem chôn cất đàng hoàng. Phía Tây Nam nơi dòng họ Thích Ca bị vua Tỳ Lưu Ly sát hại có bốn ngôi tháp nhỏ. Phía Nam của thủ đô khoảng 3 hay 4 lý là một vườn cây Ni Câu Đà (Nyagrodha), nơi sau khi thành đạo, Đức Phật đã hội ngộ với vua cha Tịnh Phạn và giảng dạy giáo pháp. Cách bên hông Tăng Xá không xa là một ngôi tháp tưởng niệm nơi Đức Phật khi ngồi dưới gốc cây lớn hướng mặt về phương Đông đã nhận một tấm y bằng chỉ kim tuyến của bà đi mẫu Mà Ha Ba Xà Ba Đề dâng cúng. Không xa nơi đó là một tháp đánh dấu nơi Đức Phật cảm hoá tám vị vương tử cùng 500 người trong dòng họ Thích Ca. Bên trong cổng thành Đông, phía bên trái, có một ngôi tháp, nơi Thái tử thường chơi thể thao lúc nhỏ. Bên ngoài thành là một ngôi đền Đế Thích (Ívsara). Trong đền có một bức tượng Đế Thích trong tư thế đang quỳ và đứng dậy. Đây là ngôi đền mà khi Thái tử còn sơ sanh đã được đưa vào làm lễ theo tập tục xưa của người Ấn. Bên ngoại cửa thành phía Nam, phía bên trái là một ngôi tháp đánh dấu nơi Thái tử cùng các hoàng tử khác tranh tài và mũi tên của Ngài đã chẻ làm đôi cái đích bằng sắt. Từ nơi ngôi tháp này đi về phía Đông Nam khoảng 30 lý có một ngôi tháp khác. Nơi đây có một vòi nước và nước trong vát. Đay cũng chính là nơi mũi tên nơi Thái tử sau khi chẻ đôi cái đích đã ghim sâu xuống, từ đó nước đã chảy ra, người dân địa phương ở đây gọi giếng nước nầy là “Tiễn Tỉnh”. Ngày nay về hướng Tây Nam của Taulihawa khoảng 6,5 cây số có ngôi làng tên Baradhawa, nơi người ta khai quật được một số đi tích xưa, trong đó có một ngôi tháp chứa xá lợi của Đức Phật. Không xa nơi nầy là một cái giếng nhỏ mà người ta tin là nơi mũi tên của Thái tử đã ghim xuống trong cuộc tranh tài năm xưa. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng cụ thể nào về những khám phá nầy. Hiện tại, các nhà khảo cổ dự tính tiếp tục cho khai quật những vùng phụ cận kinh thành Ca Tỳ La Vệ, nơi người ta tin rằng sẽ đào lên được nhiều những di tích lịch sử liên quan đến kinh thành Ca Tù La Vệ cũng như dòng họ Thích Ca tại những nơi sau đây: ngôi làng Hardewa cách Taulihawa khoảng 5 cây số về phía Đông Bắc, làng Chatradei cách Taulihawa khoảng 5 cây số về phía Tây Bắc và làng Araurakot cách Ca Tỳ La Vệ bên Nepal khoảng 9 cây số về phía Đông Bắc.
 
 
Hình 1: Quang cảnh thành Ca Tỳ La Vệ, Nepal, vào buổi bình minh.
 
Hình 2: Phế tích những nền đá bên trong thành Ca Tỳ La Vệ, Nepal.
 
Hình 3: Phế tích những nền đá, phía cửa thành Đông trong thành Ca Tỳ La Vệ, Nepal.
 
Hình 4: Tấm bảng treo trước cửa thành Đông, nơi đức Phật và Sa Nặc
cỡi ngựa Kiền Trắc rời bỏ cung điện cách nay gần 26 thế kỷ về trước.
 
 
XVIII
 
THÀNH CA TỲ LÀ VỆ BÊN PHÍA ẤN ĐỘ
 
     Trên đường đi từ Nepal về phía Ấn Độ, đoàn chúng tôi dự tính ghé lại thăm thành Ca Tỳ La vệ bên phía Ấn Độ, nhưng khi qua khỏi biên giới thì màn sương chiều đã bắt đầu lãng đãng khắp nơi, nên chúng tôi phải ngồi lại trên xe quan sát. Theo người Ấn thì thành Ca Tỳ La Vệ nằm trong địa phận Pipprahwa, thuộc vùng Basti của bang Uttar Pradesh, cách nhà ga Naugarh trên tuyến xe lửa Gorakpur Gonda 25 cây số, và cũng cách thành Ca Tỳ La Vệ bên Nepal khoảng 25 cây số. Sau khi chúng tôi vừa qua khỏi biên giới Nepal thì mặt trời cũng bắt đầu ngã bóng. Thấp thoáng phía trước mặt chúng tôi là thị trấn Pipprahwa, cũng nghèo nàn như hầu hết các thị trấn khác trong vùng biên giới Ấn Độ-Nepal. Nếu xuôi về hướng Đông Nam thì chúng tôi sẽ gặp thành phố Gorakhpur, nhưng vì trời sắp tối nên xe chúng tôi tiếp tục chạy về hướng Tây Bắc để đi thành Xá Vệ. Thành Ca Tỳ La Vệ bên phía Ấn Độ cũng hoang tàn đổ nát không khác chi thành Ca Tỳ La Vệ bên phía Nepal. Nhìn cảnh hoang sơ hai bên đường, không biết hai dòng nước mắt của tôi đã thấm mặn trên môi tự lúc nào. Tôi tự nghĩ: “Sao mà ướt át quá vậy ta! Đức Phật đã không từng nhấn mạnh về lẽ vô thường trong các kinh điển của Ngài hay sao? Tuy nhiên, nhìn khắp xe, dầu nam hay dầu nữ, tôi thấy không một ai còn cầm được cảm xúc quá mạnh mẽ nầy nữa. Dầu nói gì đi nữa thì chúng ta vẫn là những con người hết sức phàm phu tục tử, nên không thể nào ngăn được những cảm xúc bình thường của những con người bình thường. Khi đi ngang qua phế tích Ca Tỳ La Vệ bên Ấn Độ thì trời đã bắt đầu tối nên chúng tôi tiếp tục đi về thành Xá Vệ mà không ghé lại đây. Dù sương đêm đã phủ đầy hai bên đường, khi xe buýt vượt qua thị trấn, chúng tôi vẫn thấy rõ hai bên đường thành Xá Vệ ngày nay chỉ còn lại những mái tranh nghèo nàn lụp sụp, những con người ốm o gầy mòn. Dù đoạn đường từ biên giới Ấn Độ-Nepal về thành Xá Vệ chưa đầy 300 cây số đường chim bay, mãi đến gần 10 giờ tối chúng tôi mới về tới Xá Vệ. Sau đó, đoàn nghỉ đêm tại thành Xá Vệ, Sri Lanka Guest House, thuộc Distt Sravasti, bằng Uttar Pradesh.
 
 
CA TỲ LA VỆ PHÍA BÊN NÀO?
BÊN PHÍA NEPAL HAY BÊN PHÍA ẤN ĐỘ?
 
     Vào khoảng năm 1896, nhà khảo cổ học Alexander Cunningham đã dựa vào những tài liệu của các ngài Pháp HiểnHuyền Trang, cũng như dựa theo các kinh điển khác của Phật giáo, đã tìm ra được gần như chính xác địa điểm của kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Theo ông Cunningham thì kinh thành Ca Tỳ La Vệ nằm bên bờ sông Bhagirathi, cách Rishi Kapila không xa. Theo những phế tích của thành Ca Tỳ La Vệ hiện đang nằm bên bờ sông và phía Đông là Vườn Lâm Tỳ Ni. Tuy nhiên, mãi cho đến ngày nay chưa ai trong giới khảo cổ có thể xác định vị trí chính xác của kinh thành Ca Tỳ La Vệ, vì vậy mà cả hai phía Ấn Độ và Nepal đều cho rằng kinh thành này nằm trong địa phận của quốc gia mình. Bên phía Nepal thì cho rằng thành Ca Tỳ La Vệ nằm cách Vườn Lâm Tỳ Ni khoảng 27 cây số về hướng Tây. Trong khi bên phía Ấn Độ lại cho rằng thành Ca Tỳ La Vệ nằm trong địa phận Pipprahwa , thuộc Basti của bang Uttar Pradesh, cách nhà ga Naugarh trên tuyến đường xe lửa Gorakpur Gonda 25 cây số, và cũng cách thành Ca Tỳ La Vệ bên Nepal khoảng 25 cây số. Hiện tại, các nhà khảo cổ đang nỗ lực nghiên cứu xem vị trí nào chính xác. Tuy nhiên, mãi cho đến hôm nay, đa số đều tin rằng thành Ca Tỳ La Vệ bên phía Nepal có phần chính xác hơn nên hầu như đa số khách hành hương đều đổ xô về đây chiêm bái. Nói gì thì nói, bốn chữ Ca Tỳ La Vệ luôn có một chỗ đứng rất trang trọng trong lòng người Phật tử. Thành Ca Tỳ La Vệ, dù nằm bên phía nào, dù bên Ấn Đọ hay bên Nepal, lúc nào cũng vẫn là một di tích, một Thánh tích rất quan trọng trong lịch sử Phật giáo. Nhưng đối với Phật tử chúng ta, làm sao tránh khỏi chạnh lòng đau xót khi nhìn thấy cảnh hoang tàn đổ nát của thành Ca Tỳ La Vệ, ở cả hai bên Nepal và Ấn Độ. Hiện tại Phật tử khắp nơi đang ráo riết vận động trùng tu lại khu Thánh tích này. Hy vọng trong một tương lai không xa, hoặc trong những thập niên sắp tới, con cháu chúng ta sẽ nhìn thấy Thánh tích Ca Tỳ La Vệ quang đản hơn những gì mà chúng ta đang thấy ngày hôm nay.
 
 
Hình 1: Dòng sông chảy quanh hướng Đông Thành Ca Tỳ La Vệ, Nepal.
 
Hình 2: Dòng sông chảy ngang qua cửa thành Đông thành Ca Tỳ La Vệ, Nepal.
 
 
 
XIX
 
THÀNH XÁ VỆ
 
     Khoảng 2 giờ chiều cùng ngày 6 tháng 12 năm 2005, đoàn hành hương chúng tôi vượt biên giới Nepal-Ấn Độ để trở về bên phía Ấn Độ đi thăm Xá Vệ Thành. Trong thời Đức Phật còn tại thế, bên thành Vương Xá thuộc xứ Mà Kiệt Đà do vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) cai trị, thì bên Xá Vệ Quốc trực thuộc vương quốc Câu Sa La do vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) trị vì. Theo truyền thuyết Phật giáo thì vua Ba Tư Nặc cũng là một trong những vị vua đầu tiên hộ trì Phật giáo rất chí tình. Ông là một vị đại thí chủ của Đức PhậtTăng đoàn trong những ngày đầu khai sanh của Phật giáo. Và ông cũng là một trong những vị quân vương Phật tử đầu tiên trong lịch sử Phật giáo. Cũng theo truyền thuyết Phật giáo thì phần lớn sự tôn kínhtín ngưỡng Phật giáo của nhà vua là do bà chánh hậu Mallika. Bà rất sùng đạo, lại được thiên phú cho tánh tình thông minh hiền diệu. Bà rất thông thạo giáo lý, nên trong nhiều trường hợp bà đã hướng dẫn và giúp đỡ chồng mình trên đường đạo Đức. Ngày trước thành Xá Vệ là một kinh thành thịnh vượng trù phú, với những cánh đồng bao la bát ngát. Chính vì vậyĐức Phật đã ghi lại trong một bài kinh về Xá Vệ như sau: “Dòng sông Achiravati (bây giờ là sông Rati) chảy ngang qua những cánh đồng lúa mạch phì nhiêu. Chúng vây bọc quanh thành phố vĩ đại này, hòn Ngọc của vương quốc Câu Sa La cổ kính, và trong thành phố này có 57 ngàn dân cư trú ngụ, người dân luôn sống trong sự thịnh vượng và trù phú.” Ngày nay thì hoàn toàn ngược lại, dân chúng trong thành Xá Vệ ngày nay nghèo nàn xơ xác với những mái nhà tranh vách đất dọc theo hai bên đường. Trong khi tại thị trấn , chỉ có những xây cất tạp nhập, dường như khôngkế hoạch gì cả.
 
THÀNH XÁ VỆ: MỘT CUỘC TRANH LUẬN VÔ TIỀN KHOÁNG HẬU GIỮA ĐỨC PHẬT & LỤC SƯ NGOẠI ĐẠO
 
     Trong thời Đức Phật còn tại thế thì tại |Xá Vệ Quốc đã xảy ra một cuộc tranh luận vô tiền khoáng hậu. Lý do là vào thời đó tại thành Xá Vệ có rất nhiều ngoại đạo sư. Khi họ thấy đạo Phật càng ngày càng lớn mạnh và có uy thế ở đây, họ đâm ra vô cùng bực bội và khó chịu nên họ đã tâu lên vua Ba Tư Nặc. Nhà vua đã cho tiến hành một cuộc tranh luận công khai. Đay là cuộc tranh luận giữ Đức Phật và sáu nhóm sư ngoại đạo thuộc sáu trường phái triết học nổi tiếng thời bấy giờ ở Ấn Độ. Lúc nào họ cũng sẵn sàng thách thức tranh luận với Đức Phật và họ nghĩ đây là cơ hội tốt cho họ. Lúc ấy Đức Phật đang trụ tại thành Vương Xá bên xứ Mà Kiệt Đà, khi nhận ở thỉnh cầu, Đức Phật bằng lòng và tuyên bố rằng cuộc tranh luận sẽ được tiến hành dưới một tàng cây xoài. Trong khi nhà vua thì muốn cuộc tranh luận ấy diễn ra trong những đại sảnh lớn của thành Xá Vệ. Để làm cho lời tuyên bố của Đức Phật phải bị sai lạc, nhóm lục sư ngoại đạo cho người đi đốn hết những cây xoài trong thành Xá Vệ. Nhưng theo truyền thuyết Phật giáo, khi đến nơi Đức Phật đã cho ném một hột xoài xuống đất và dùng thần thông làm cho cây xoài ấy lớn và đơm bông kết trái nhanh như thổi, tàng cây che mát cả một vùng đất rộng như một sảnh đường. Cuối cùng thì Đức Phật đã thắng tất cả lục sư ngoại đạo trong cuộc tranh luận nầy. Vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch, vua A Dục đã thân hành đến chiêm bái Xá Vệ Quốc. Tại đây ngài đã cho dưng 2 trụ đá bên cổng phía Đông để đánh dấu nơi Đức Phậtchư Tăng thường trú tại đây trong suốt 24 mùa an cư kiết hạ. Ngoài ra, nhà vua còn cho xây tại đây một ngôi chùa để thờ xá lợi của Đức Phật. Đến thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch, vua Kushana đã cho chạm khắc một số hình tượng Phật vào các tháp để thờ tại Xá Vệ. Đến thế kỷ thứ 3 sau Tây lịch khi Ấn Đọ giáo bắt đầu phục hoạt tại Ấn Độ thì Phật giáo vẫn còn Hưng thịnh, nhưng đến thế kỷ thứ 5 khi ngài Pháp Hiển du hành chiêm bái Phật tích vào năm 409, thì Phật giáo ở Ấn Đọ bắt đầu đi vào thời kỳ suy tàn, và các đi tích chùa tháp tại Xá Vệ Quốc chỉ còn là những bóng mờ. Trong Phật Quốc Ký, ngài Pháp Hiển đã ghi: “Xá Vệ Quốc xưa kia, nơi Đức Thế TônTăng đoàn đã trải qua 24 mùa an cư kiết hạ, lúc bấy giờ chỉ còn một số tu viện với vài trăm Tăng sĩ tu tập. khi thấy ngài đến, họ lấy làm lạ hỏi và biết rằng ngài từ Trung a hoa sang, họ tán thán lên rằng: lạ thay! Vị nầy từ một nơi xa xôi tận cùng trái đất mà cũng đến đây tu học. Chúng ta và và các vị trưởng lão tại đây chưa từng được trông thấy như vậy.’ Hồi nầy Xá Vệ Quốc dân cư thưa thớt, tổng cộng chỉ có khoảng chừng 200 gia đình sống nơi xưa kia vua Ba Tư Nặc trị vì. Đi về cổng phía Nam của thành khoảng 1.200 trượng, phía bên trái của con đường là nơi mà xưa kia trưởng giả Tu Đạt xây cất tịnh xá cúng dường cho Đức Phật. Cửa chính đi vào nằm bên hông của hai dãy phòng lớn, trước mặt là hai trụ đá, trên đỉnh trụ bên trái là tượng bánh xe, và trên đỉnh trụ bên phải là tượng một con trâu. những hồ nước trong xanh chung quanh những khu rừng cây hoa lệ và vô số các loài hoa trong Kỳ Viên Tịnh Xá.
 
Hình 1: Buổi sáng sớm tại Ba Là Nại, Xá Vệ Quốc.
 
Hình 2: Tượng Phật lớn nhất tại Xá Vệ Quốc (đang được chính phủ Nhật tài trợ xây dựng.
 
 
XX
 
KỲ THỌ CẤP CÔ ĐỘC VIÊN
 
     Khoảng 7 giờ sáng ngày 7 tháng 12 năm 2005, đoàn chúng tôi đến thăm viếng Tịnh Xá Kỳ Viên (Jetavana-Vihara), tháp Chàng Vô Não và phế tích ngôi nhà của ngài Cấp Cô Độc. Trong thành Vương xá, kinh đô của xứ Ma Kiệt ĐàTrúc Lâm Tịnh Xá, đã được một vị quân vương Phật tử gương mẫu như Bình Sa Vương dâng cúng cho Đức PhậtTăng Đoàn, thì trong thành Xá Vệ, thuộc xứ Câu Tát La (Kosala), một vị đại thí chủ tại gia tên Tu Đạt cũng mạnh hết tiền của, hết công sức dâng cúng cho Đức PhậtTăng Đoàn khu Tịnh Xá Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên, mà lịch sử của tự nó đã nói lên hết tấm lòng của một người Phật tử gương mẫu.
     Chính tại nơi nầy là một trong hai nơi mà Đức Phật lưu lại nhiều nhất trong các kỳ an cư kiết hạ. Và cũng chính tại nơi hai nơi nầy, Đức Phật đã tuyên thuyết những bài kinh cực kỳ quan trọng trong giáo thuyết Phật giáo. Mặc dầu đã bị thời gian tàn phá, khu tịnh xá Kỳ Viên vẫn còn là một nơi khá lý tưởng, khí hậu ôn hoà, không nóng, mà cũng không lạnh lắm, không khí thoáng mát và tỉnh lặng. Khi chúng tôi đến nơi thì bình minh cũng vừa ló dạng, những tia nắng đầu ngày hãy còn rất dễ chịu. Đến khi bước vào khu vườn, lòng chúng tôi càng cảm thấy khoan khoái lạ thường, có cảm tưởng như đâu đây Tăng đoànĐức Phật hãy còn đây. Tiếng gió xào xạc trên cành cây kẽ lá khiến lòng tôi liên tưởng như mình đang được nghe tiếng pháp âm từ kim khẩu Phật hay chư Thánh Tăng của thuở xa xưa. Chúng tôi tự nghĩ, từng bước chân đi qua, từng tiếng gió xào xạc thảy đêu gởi trao cho chúng tôi một ý nghĩa cao siêu sâu sắc nào đó. Tiếng niệm Phật đều đều của cả đoàn càng khiến tôi liên tưởng là mình đang sống ngay trong thời của Đức Phật mấy ngàn năm về trước.
     Theo lịch sử Phật giáo thì khoảng 2 năm sau ngày Đức Phật thành đạo, trong khi Đức Phật đang ngự tại Trúc Lâm Tịnh Xá bên xứ Ma Kiệt Đà thì có một vị trưởng giả Bà La Môn giàu có đến ra mát Đức Phật. Đó là ông Tu Đạt (Sudatta), một tín đồ Bà La Môn tốt bụng bên thành Xá Vệ (Sravasti), thường hay giúp đỡ người nghèo, nên được người đương thời gọi ông là Cấp Cô Độc (Anathapindika), có nghĩa là người nuôi dưỡng trợ cấp cho những kẻ cùng khổ. Hôm ấy ông có việc đi đến thành Vương Xá để thăm một người anh rể, nhưng ông anh rể không ra tận cửa trước đón ông như mọi khi. Đến khi ông vào nhà và đi ra tận nhà sau thì thấy mọi người đang bận rộn chuẩn bị một bữa tiệc. Hỏi ra mới biết là gia đình ông anh rể đang chuẩn bị đón tiếp Đức Phật vào ngày hôm sau. Vừa nghe đến tiếng Phật là lòng ông cảm thấy một niềm hoan hỷ lạ thường, nên từ đó ông cũng mong mỏi gặp được Phật để thấy tận mắt xem sao, mà mới vừa nghe nói tới là lòng ông đã cảm thấy an lạc như vậy, tuy nhiên bên cạnh đó là một nỗi nào nức muốn gặp được Phật càng sớm càng tốt. Ông tự nghĩ, dầu sao thì ngày mai Phật cũng tới đây, rồi mình sẽ gặp thôi chứ có việc gì mà phải nôn nao? Rồi ông lên giường ngủ, nhưng không thể chợp mắt. Thế rồi nửa khuya đêm ấy, ông một mình băng rừng đi đến khu rừng Sitavana, nơi Đức Phật đang ngự. Khi ông tới khu rừng Sitavana thì cũng nhằm lúc Đức Phật đang ra tọa thiền ngoài trời, vì biết rằng ông sẽ tới, Đức Phật gọi ông bằng tên tộc Sudatta và bảo ông đến gần. Trưởng giả Tu Đạt rất lấy làm hoàn hỷ khi được diện kiến Đức Phật. Và sau một thời pháp,của đức Thế Tôn, ông đã xin quy y Phật, rồi sau đó cả nhà ông đều xin được quy y với Đức Thế Tôn. Sau đó, ông thỉnh Đức Thế Tôn sang nước Xá Vệ hoẵng hoá. Khi trở về lại thành Xá Vệ, ông đã tìm mua một thửa đất thích hợp cho Đức PhậtTăng đoàn, nhưng tìm mãi chỉ thấy có khu vườn Thượng Uyển của Thái Tử Kỳ Đàthích hợp nhất mà thôi. Theo truyền thuyết Phật giáo thì Thái Tử Kỳ Đà vì không muốn bán khu vườn của mình nên nói khích trưởng giả Tu Đạt: “Nếu ông có khả năng xếp vàng đầy khu trên khu vườn thì nó sẽ thuộc về ông.” Tưởng rằng khi nói khích như vậy sẽ làm cho trưởng giả Tu Đạt thối chí, và khi thấy Tu Đạt đang trầm ngâm suy nghĩ điều gì, thái tử Kỳ Đà cho rằng Tu Đạt đã thối chó nên nói lời an ủi: “Nói vậy chứ đây chỉ là khu vườn thượng uyển của phụ hoàng ta ban cho, rộng rãi bao la thì vàng đâu mà ông lót cho đủ!” Nào ngờ trưởng giả Tu Đạt bằng lòng mua ngay và hẹn ngày mai sẽ đem vàng đến phủ đầy vườn. Thưa ngài, “Sở dĩ lúc nãy tôi hơi trầm ngâm suy tư là vì không biết phải sử dụng vàng ở kho nào cho vừa đủ lót khu vườn và những cây của ngài trong khu vườn nầy mà thôi.” Bấy giờ Thái tử Kỳ Đà muốn rút lời lại cũng không phải là dễ. đúng hẹn hôm sau trưởng giả Tu Đạt cho gia nhân chở vàng đến lót đầy khu vườn thượng uyển của Thái tử Kỳ Đà. Lúc ấy dầu trong lòng thái tử Kỳ Đà không muốn bán khu vườn này, nhưng sau khi biết rõ tấm lòng của ngài Cấp Cô Độc, mua khu vườn để kiến tạo tịnh xá cho Đức PhậtTăng đoàn, chẳng những ông bằng lòng bán , mà ông còn dâng cúng hết những cây trong vườn để làm bóng mát tịnh xá cho Đức PhậtTăng đoàn, và ông cũng hiệp sức cùng với ông Cấp Cô Độc xây dựng khu tịnh xá nầy. Chính vì thế mà khu vườn có tên là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên.
 
 
Hình 1: Bản đồ vùng biên giới giữa Ấn Độ và Nepal.
Thành Xá Vệ (Sravasti) nằm trong banh Uttar Pradesh, gần biên giới Nepal.
 
 
Hình 2: khu phế tích đào được về Kỳ Viên Tịnh Xá, nằm trong khu Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên,
do ngài Cấp Cô Độc dâng cúng lên Đức PhậtTăng đoàn (trong thành Xá Vệ).
 
 
XXI
 
CÂY BỒ ĐỀ A NAN
TRONG KỲ THỌ CẤP CÔ ĐỘC VIÊN
 
     Trong thời đức Phật, Xá Vệ, mà ngày nay người ta gọi là Sahet Maheth, là một trong những kinh thành nổi tiếng trù phú, dân cư đông đúc phồn thịnh, do vua Ba Tư Nặc cai trị. Vào năm thứ ba sau khi thành đạo, đức Phật đã đến nơi đây hoá độ cho vua Ba Tư Nặc và quần thần tại Xá Vệ Quốc. Và cũng chính nơi đây đức Phật đã trải qua 24 mùa an cư kiết hạ. Cũng chính tại nơi nầy đức Phật đã thuyết giảng những bộ kinh lớn như A Hàm, Kim Cang, vân vân. Ngày đó, khi đức Phật về an cư tại đây thì Ngài thuyết pháp, đến khi Ngài đi hằng hoá phương xa thì các vị đệ tử của Ngài thay nhau thuyết pháp cho dân chúng trong thành. Theo truyền thuyết Phật giáo thì khu Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên là khu tịnh xá yên tịnh và đẹp nhất thời bấy giờ. Chính vì vậyđức PhậtTăng đoàn đã trải qua 24 mùa an cư kiết hạ tại đây. Giờ đây khu tịnh xá chỉ còn trơ lại những nền tháp đổ nát, đây là nền hương thất của đức Phật, còn kia là Tăng phòng, phòng tắm và giếng nước. Tất cả đã hoang tàn đổ nát, thời huy hoàng nào đó của Kỳ Viên Tịnh Xá chỉ còn lại trong tâm tưởng của những người con Phật về sau nầy mà thôi. Hiện nay trong khu Tịnh Xá Kỳ Viên , gần cổng ra vào, chỉ còn lại cây Bồ Đề của ngài A Nan là còn nguyên vẹn, nhưng cây cũng đã quá già và chắc không còn sống được bao lâu nữa, vì thế mà người ta rào nó lại một cách cẩn thận. Thân cây tuy đồ sộ, nhưng nhìn toàn cảnh chúng ta thấy hình như cây toát ra một dáng vẻ thiêng liêng khó tả. Theo truyền thuyết Phật giáo, cây Bồ Đề ở đây chính là cây Bồ Đề mà ngài A Nan đã cho chiết nhánh từ cây Bồ Đề mẹ ở Bồ Đề Đạo Tràng để chư Tăng có thể chiêm bái mỗi khi về đây đảnh lễ và tưởng nhớ đức Phật những khi Ngài không có mặt tại nơi nầy. Sự tích cây Bồ Đề Vườn Kỳ Viên cũng bắt nguồn từ sự thỉnh cầu của ngài Cấp Cô Độc, một đại thí chủ của Tăng đoànđức Phật thời bấy giờ. Cấp Cô Độc đã bẩn với ngài A Nan: “Bẩm Đại Đức A Nan, bấy lâu nay đức Thế Tôn bận châu du hoằng hoá phương xa và chỉ về đây ẩn cư trong mùa mưa mà thôi. Các thiện nam tín nữ từ phương xa đến đây vấn an đức Phật thường mua hoa quả cúng dường. Trong những lúc vắng Phật các vị chỉ biết đặt hoa quả trước tịnh thất của Ngài rồi ra về. Xin Đại Đức bẩm với đức Phật xem coi có nên lập tháp cho thiện nam tín nữ đến cúng dường khi đức Phật đang châu du hoằng hoá phương xa hay không. Đức Phật không cho làm như vậy, nhưng ngài nói nếu thiện tín muốn tưởng nhớ Phật khi không có Phật tại đây, thí cây Bồ Đề khi xưa đã che mưa chở nắng cho Phật chính là vật xứng đáng cho chư thiện tín lễ bái cúng dường, dầu Phật còn tại thế hay nhập diệt. Thật vậy, cây Bồ Đề, một loại cây bình thường trên xứ Ấn trở thành một biểu tượng quí báu của Phật giáo từ khi nó che mưa chở nắng cho đức Phật trong cuộc thiền định chiến đấu với ma quân. Dù là loài cây vô tri vô giác, nhưng với công đức trợ giúp đức Phật thành đạo, nó đã xứng đáng cho Ngài ngoái nhìn về trong suốt một tuần lễ không nháy mắt, thì quả tình nó xứng đáng được chư thiện nam tín nữ lễ bái cúng dường khi không có đức Phật hiện diện. Sau khi nghe lời đức Phật giảng giải về công đức của cây Bồ Đề. A Nan bèn bạch Phật: “Bẩm đức Thế Tôn, ngay tại Kỳ Viên Tjnh Xá này, khi Ngài đi hoằng hoá phương xa, thiện nam tín nữ đến đây không biết nương vào đâu để lễ bái cúng dường thì con phải làm sao?” Đức Phật biết A Nan đang suy nghĩ gì, nhưng Ngài vẫn hỏi: “Nầy A Nan, nếu thì ông giải quyết thế nào?”A Nan bẩm: “Bẩm đức Thế Tôn! Xin Ngài hoan hỷ cho con đem hột Bồ Đề từ cây Bồ Đề nơi Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Thế Tôn đã thành đạo mang về đây trồng trước cửa tịnh xá.” Đức Phật đồng ý: “Được lắm A Nan! Hãy trồng cây Bồ Đề tại đây và hãy nói với chư thiện nam tín nữ là ta luôn hiện diện dưới cội Bồ Đề nầy.” Sau khi ngài Mục Kiền Liên đem hạt Bồ Đề về đến Kỳ Viên Tịnh Xá thì A Nan dâng nó lên cho vua Ba Tư Nặc để vị nầy ban cho ông Cấp Cô Độc gieo trồng trước cổng tịnh xá Kỳ Viên. Từ đó, cây Bồ Đề này được đặt tên là Ananda. Mà thật vậy, cây Bồ Đề này từ Hồng hoang đến ngày nay, cây Bồ Đề nguyên thuỷ đã nhiều lần bị ngoại giáo bách hại, tuy nhiên, lần nào nó cũng được cứu sống, hay trồng lại cây con của chính nó. Có lẽ cây Bồ Đề hiện nay là cháu chắt nhiều đời của cây Bồ Đề A Nan nguyên thuỷ, nhưng chúng được gieo trồng ngay tại địa điểm nguyên thuỷ của nó. Và trải qua bao ngàn năm nay, nó đã là nhân chứng quan sát không biết bao nhiêu là khách hành hương qua lại. Chính nó đã từng nồng nàn tiếp đón Đại Đế A Dục năm xưa, rồi bây giờ chúng tôi cũng được nó tiếp đón một cách nồng nàn không sai khác, bao nhiêu chiếc lá rơi là bấy nhiêu cảm xúc kính ngưỡng trào dâng trong lòng chúng tôi. Tiếng cành lá Bồ Đề chạm gió xạc xào làm tôi liên tưởng đến một thứ mật chú của đức Phật và chư Thánh Tăng. Bồ Đề là một loại cây rất thông thường bên xứ Ấn Độ , vì nó mọc hầu như khắp nơi từ Bắc chí Nam ở Ấn Độ, nhưng dưới mắt chúng tôi, cây Bồ Đề ở đây không tầm thường như những cây Bồ Đề khác, ngược lại, nó mang một ý nghĩa thật cao quí và được hàng Phật tử chúng tôi nâng niu từ hàng ngàn năm qua, vì mỗi khi nhìn thấy nó, dù chỉ qua hình ảnh, là lòng chúng tôi đều tưởng nghĩ đến ngài A Nan, một thị giả trung thành với đức Phật , một con ngườitrí nhớ siêu phàm. Chính nhờ con người ấy mà bây giờ hàng hậu bối chúng ta mới có được Tạng Kinh làm hành trang cho cuộc đời tu tập hướng thượng ngày nay. Theo lịch sử Phật giáo, ngài A Nan là em con chú bác với đức Phật. Ngài là con của Amitodana, hoàng đệ của vua Tịnh Phạn. Ngài cũng thuộc dòng dõi vương tôn công tử. Ngài được sinh ra và lớn lên trong cung vàng điện Ngọc, cũng như người anh họ của mình là Thái tử Tất Đạt Đa thuở trước, không có thứ gì ngài muốn mà không được thoả mãn, thế nhưng ngài đã từ bỏ tất cả để sống đời cô thân vạn lý du như đức Phật. Tấm gương xuất gia tu hành của ngài cũng rạng ngời như những vương tôn công tử trong dòng họ Thích Ca thời bấy giờ như Nan Đà, A Nậu Lâu Đà, vân vân. Hai năm sau khi đức Phật thành đạo, A Nan Đà cùng với 5 vương tôn công tử khác của dòng họ Thích Ca đã đến gặp Phật xin xuất gia. Và sau khi nghe thời pháp của ngài Phú Lâu Nà, Đại Đức A Nan Đà đã chứng quả Nhập Lưu, một trong tứ thánh quả. Mười tám năm sau ngày xuất gia, A Nan Đà được các vị đại đệ tử của Phật đề nghị cho đi theo làm thị giả cho đức Phật vì ngài A Nan Đàtrí nhớ siêu phàm, có thể trùng tuyên lại những lời Phật dạy. Rồi từ đó mãi đến hai mươi lăm năm về sau này, nghĩa là cho đến lúc đức Phật nhập Niết Bàn, ngài A Nan Đà luôn theo tưng bước chân Phật. Ngài luôn quan tâm chăm sóc cho sức khoẻ của Phật. Ngài phục vụ đức Phật không kể ngày đêm. Tuy nhiên, ngài A Nan chỉ chứng quả A La Hán sau khi đức Phật nhập diệt, khi các Thánh đệ tửTăng đoàn khởi đầu cuộc kết tập kinh điển đầu tiên mà không ai cho ngài tham dự vì ngài chưa chứng quả A La Hán. Chính vì thế mà Ngài quyết tâm thiền địnhchứng quả ngay trong đêm hôm ấy để được cho dự vào cuộc kết tập kinh điển mà ngay từ đầu không thể thiếu ngài, vì nếu thiếu ngài thì không cách chi cuộc kết tập nầy có được Tạng Kinhchúng ta đang có hôm nay.
 
 
Hình 1: Cây Bồ Đề A Nan trong khu phế tích tịnh xá Kỳ Viên.
 
 
XXII
 
TỊNH XÁ KỲ VIÊN
 
     Sau đó chúng tôi quây quần chúng quanh Hoà Thượng Giác Nhiên đẻ tụng một thời kinh cầu an ngay dưới cội cây Bồ Đề A Nan. Sau thời kinh, anh em Phật tử chúng tôi tiếp tục ngồi quây quần với nhau để cùng nhau ôn lại những hình ảnh xa xưa. Chính tại chỗ nầy đây gần 26 thế kỷ về trước lúc nào cũng bàng bạc hình bóng của Đức Thế TônTăng đoàn. Tăng chúng đã quây quần xung quanh đức Thế Tôn để nghe Ngài thuyết giảng, cũng giống như chúng ta đang quây quần bên Hoà Thượng Thích Giác Nhiên, Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới ngày hôm nay đây, cùng chiêm báiđảnh lễ cội Bồ Đề, cùng ôn lại những lời Phật dạy qua lời thuyết pháp của Hoà Thượng, và cùng nguyện vâng giữ những lời Phật dạy như lúc Ngài còn tại thế vậy. Sau đó, cả đoàn chúng tôi đi nhiễu vòng quanh cây Bồ Đề, tiếng niệm Phật phát ra âm vang đều đặn khiến lòng tôi cảm thấy thanh thản lạ thường. Ngay lúc nầy đây đầu óc tôi đang lan mãn mường tượng tới không khí sinh hoạt của Tăng đoàn của Đức Phật ngày đó, chắc họ cũng có một niềm cảm xúc lâng lâng như tôi đang cảm xúc bây giờ.
     Sau đó chúng tôi tiếp tục thăm viếng các nền phế tháp trong khu Tịnh Xá Kỳ Viên. Bên trong khu Tịnh Xá Kỳ Viên hãy còn một khu phế tích của một ngôi chùa. theo truyền thuyết Phật giáo thì đây là ngôi chùa thiêng liêng nhất, do chính ông Cấp Cô Độc xây dựng lên để làm nơi thường trú cho Đức Phật. Mặt tiền của nền chùa hãy còn hai bệ gạch xây trên con đường mà ngày trước Đức Phật thường sử dụng để đi kinh hành, gần đó có một pho tượng của một vị Bồ Tát, trên tượng có bia ký có niên đại khoảng thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch, nói rằng: “Tượng này được dựng lên bởi ngài Bala dưới triều vua Kushan, tại chỗ Đức Phật thường đi kinh hành. Trong Đại Đường Tây Vực Ký, ngài Huyền Trang có nhắc tới bức tượng của vị Bồ Tát nầy. Sau đó, chúng tôi đi quanh khu tịnh xá lớn nhất trong Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên, nằm về phía Tây, gồm có một nền tháp của điện thờ Phật, một cái giếng ở giữa sân, và một số trụ đá lớn, được dựng đi dựng lại nhiều lần trên cùng một nền cũ. Tại một khu tịnh thất trong khu tịnh xá này có đào lên một miếng đồng có khắc những dòng chữ sau đây: “Thái Tử Govindachandra xứ Kanauj, năm 1130 sau Tây lịch, có để dành lợi tức của một vài chùa quanh thành Xá Vệ để cung cấp cho Tăng Đoàn trong Tịnh Xá Kỳ Viên.” Nhờ miếng đồng nầy mà người ta tìm được vị trí đích xác của khu vực Kỳ Viên về sau nầy.
Theo truyền thuyết Phật giáo thì chính vua Ba Tư Nặc, trị vì Xá Vệ Quốc, là người đầu tiên đã thỉnh cầu Đức Phật cho phép tạc tượng của Ngài để mỗi khi Ngài đi hoằng hoá phương xa, thiện nam tín nữ có nơi có chỗ đảnh lễ và nương tựa. Còn nhiều truyền thuyết Phật giáo cũng như dân gian khác nói về những việc đã xảy ra tại thành Xá Vệ. Chính tại thành Xá Vệ, sau khi thất bại trong cuộc tranh luận với Đức Phật, ngoại đạo đã để tâm trả thù bằng cách mướn người giết một phụ nữ rồi vùi xác dưới một đống rác gần Tịnh Xá Kỳ Viên để vu oan cho Đức Phật. Nhưng nhờ oai lực của Đức Phật mà về sau nầy, chính cái người được ngoại đạo thuê giết người đã khai thật với quan quân sở tại, càng làm lộ rõ bộ mặt sát nhân của ngoại đạo. Cũng tại thành Xá Vệ, vì uy tín của Đức Phật ngày càng tăng cao nên ngoại đạo đã tìm đủ mọi cách hãm hại Đức Phật bằng cách vu khống. Họ mướn nàng Chiến Già (Cinca) mỗi ngày đi đến tịnh xá Kỳ Viên như nhiều tín nữ khác đi chùa làm công quả vậy. Đến một hôm nàng mang một cái bụng bầu đến giữa đám đông, la láng lên rằng chính Đức Phậttác giả của cái bầu nầy. Nàng hết lời chưởng rủa thậm tệ. Đức Phật cứ thản nhiên chịu đựng những lời chưởi rủa ấy. Tương truyền ngay lúc ấy vua Trời Đế Thích không chịu đựng được nữa nên ông đã hoá ra làm một con chuột nhắt, chui vào bên trong lớp áo của nàng Chiến Già và cắn rớt xuống đất khúc gỗ động trong bụng. Mọi người lấy làm tức giận xưa đuổi nàng Chiến Già ra ngoài hoặc muốn hành hung cô ta, nhưng Đức Phật không cho. ngài dạy: “Lấy oán báo oán, oán thêm chất chồng, chứ không bao giờ đi đến hoà bình an lạc được. Sân hận không bao giờ dập tắt sân hận, chỉ có tâm từ mới diệt được lòng sân hận mà thôi.” Sau đó, nàng Chiến Già được cho ra về một cách an nhiên, nhưng theo truyền thuyết Phật giáo thì khi nàng vừa ra khỏi Tịnh Xá Kỳ Viên một đỗi là bị đất sụp mà chết. Tục truyền nơi Chiến Già bị đất rút hiện nay là một cái ao sen. đoàn chúng tôi có tới thăm cái áo sen bên ngoài Tịnh Xá Kỳ Viên nầy. Tại thành Xá Vệ, ngoài ông Cấp Cô Độc ra còn có một nữ đại thí chủ khác có tên là Tỳ Xá Khư (Visakha). Do có nhân duyên và được gặp Phật, nghe Ngài thuyết giảng và xin được quy y Phật.
     Sau khi nghe được những truyền thuyết về Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên, chúng tôi tiếp tục thăm viếng những nền tháp khác trong khu Tịnh Xá nầy. Đó là những phế tích của những ngôi tịnh thất của các vị Thánh Tăng trong tịnh xá Kỳ Viên. Chúng tôi đi qua từng nơi mà cảm thấy lòng mình như chùng xuống vì cảnh hoang tàn của toàn khu tịnh xá. Mới ngày nào đây Phật và Thánh chúng đã trải qua 24 mùa an cư kiết hạ tại đây, mà bây giờ, ôi vật đổi sao dời, tịnh xá xưa kia đâu không thấy mà chỉ còn trơ lại những nền đá vụn vỡ. Khi đã ra khỏi khu vườn Kỳ Viên mà những câu tự hỏi về số phận của khu Kỳ Viên cùng các Thánh tích Phật giáo khác. Tại sao số phận của Phật giáo trên đất nước nầy lại hẩm hiu đến như vậy? Tại sao một triết lý sáng ngời đã từng làm lu ,ờ hoàn toàn triết thuyết cứng nhắc bất công như triết thuyết Bà Là Môn lại không được người ta hoàn nghênh? Tại sao một tôn giáo có một thời , trải qua hàng chục thế kỷ được các vương triều Ấn Độ bảo trợ và phát triển lại phải bị mai một ngày trên cái nôi sanh ra nó? Rất nhiều câu tự hỏi được đặt ra trong đầu, nhưng không có lấy được một câu trả lời thỏa đáng nào ngoài những suy nghĩ Lan man về sự trả thù của Bà La Môn, một tôn giáo vừa tuổi dậy sau hàng mấy thế kỷ suy tàn, rồi sự tàn bạo về cả lý thuyết lẫn thực tế của một tôn giáo mới được thành lập ở vùng Trung Cận Đông. chính tôn giáo ấy đã tàn phá toàn cõi xứ Ấn Độ, đã đốt phá tất cả chùa tháp và giết hại tất cả chư Tăng không gớm tay. Rồi sau đó là sự đô hộ của thực dân Anh với chủ trương phát triển Chính Thống Cơ Đốc Giáo… Có,lẽ bây giờ những hình ảnh chết chóc sợ hãi hùng của chư Tăng tại Tu Viện Na Lan Đà vào thế kỷ thứ 12 vẫn còn hằn sâu trong tâm khảm của người. Dân Ấn, nên cho dù có muốn làm Tăng họ cũng rất e dè. Mà thật vậy, ngày nay các chùa Phật giáo quanh các Thánh tích có rất ít chư Tăng người Ấn, đa sốchư Tăng đến từ các quốc gia khác như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Tây Tạng, Cao Miên, Lào, Trung Hoa và Việt Nam…
     Cách tịnh xá Kỳ a viên chừng 2 cây số là tháp Chàng Vô Não (Angulamali), dù đã bị đổ nát, nhưng nền tháp hãy còn rất cao. Chàng Vô Não hay Ương Quật Ma La trước kia tu theo tà giáo, vì nghe theo tà sư nên anh ta quyết chí chặt đủ 100 ngón tay để kết thành tràng hạt. khi đã chặt được 99 ngón thì tiếng dữ đồn xa nên ai cũng tránh xa y ra, vì thế anh không tìm được ngón thứ 100 một cách dễ dàng. Bữa nọ, anh ta quyết định chặt ngón tay của mẹ cho đủ số 100. may mắn lúc ấy anh ta gặp Đức Phật nên kiến bỏ ý định chặt ngón tay của mẹ, mà quyết chí rượt theo chặt ngón tay của Phật. Chàng Vô Não lấy làm lạ là tuy đức Phật đi từng bước khoan thai mà chàng vẫn không đuổi theo kịp, nên chàng quát: “Này ông Cồ Đàm, ông hãy dừng lại.” Đức Phật ôn tồn đáp: “Ta đã dừng lại từ lâu, tại ngươi chưa chịu dừng lại đó thôi.” Khi ấy Chàng Vô Não lấy làm thắc mắc nên hỏi nguyên cớ gì Đức Phật đi nhanh mà lại bảo là đã dừng. Đức Phật nhân đó thuyết một thời pháp làm cho chàng ta tỉnh ngộ, quỳ trước Phật xin sám hối và được Phật hoá độ.
     Bên cạnh nền tháp Chàng Vô Não là nền tháp của ông Cấp Cô Độc (Anathapindika). Nền tháp này cũng bị tàn phá rất nhiều. Chúng tôi rời nền tháp của ngài Cấp Cô Độc mà lòng vẫn còn lâng lâng nỗi niềm thương kính một vị đại thí chủ, đã hết lòngđạo pháp. ngài đã đem hết những gì mình có ra cúng dường lên ngôi Tam Nảo đến độ trở nên nghèo nàn mà ngài vẫn an nhiên tự tại. Quả là một tấm gương sáng ngời đáng cho hàng Phật tử tại gia chúng ta kính ngưỡng và nói theo. Hiện tại, chung quanh khu phế tích Tịnh Xá Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên có rất nhiều chùa Phật giáo được các quốc gia Á Châu như Miến Điện, Thái Lan, Tích Lan, Trung Hoa và Việt Nam…
 
 
Hình 1: Bảng tưởng niệm Ngài Cấp Cô Độc
(Anathapindika) ngay trước nền phế tháp của ngài.
 
Hình 2: Hoà Thượng Thích Giác Nhiên đang đứng trước
khu phế tháp của ngài Cấp Cô Độc trong Xá Vệ Quốc (Sravasti).
 
Hình 3: Đường lên nền tháp của Ngài Cấp Cô Độc trong Xá Vệ Quốc (Sravasti).
 
Hình 4: Khu phế tích Tịnh Xá Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên trong Xá Vệ Quốc (Sravasti).
 
 
Hình 5: Đường lên nền phế tháp của chàng Vô Não (Angulamali)
 
 
XXIII
 
THÀNH PHỐ VARANASI
 
     Khoảng 2 giờ chiều ngày 7 tháng 12 năm 2205, đoàn chúng tôi lên đường đi Ba La Nại (Benaras), nay là thành phố Varanasi, nơi có chiều dài lịch sử được người dân xứ Ấn xem là thiêng liêng nhất trong lịch sử của họ, từ thời xa xưa và mãi mãi cho đến ngày nay. Chẳng những thế, Varanasi còn là biểu hiện cho nền văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật, giáo dụcsinh hoạt xã hội của Ấn Độ trong mọi thời đại. Đây là một trong những thành phố cổ mà sống động vào bậc nhất của thế giới, lôi,cuốn hàng triệu du khách từ khắp nơi trên thế giới cũng như ngày tại xứ Ấn Độ, và là nơi của thế giới tâm linh. Theo các nhà khảo,cổ thì thành phố Ba La Nại được thành lập vào khoảng thế kỷ thứ 10 trước Tây lịch, nhưng nét độc đáo của thành phố nầy là sự kết hợp hài hoà giữa quá khứhiện tại một cách liên tục. Ngày nay thành phố nầy nằm giữa hai thành phố Varuna vao Assi nen cos teen lac Varanasi. Tuy nhiên, người dân ở đây vẫn quen gọi là Ba Là Nại. Thời xa xưa, Na Là Nại còn có tên là Kashi, nghĩa là một nơi sáng chói hay thành phố của ánh sáng. Thời Đức Phật còn tại thế, Ba La Nại là một trong những thành phố lớn nhất của Ấn Độ, là trung tâm điểm của giáo phái Bà La Môn, và cũng là nơi mà Phật giáoảnh hưởng rất lớn, vì khi Đức Phật sắp nhập diệt thì Ba La Nại là một trong 6 thành phố mà ngài A Nan đã thỉnh cầu Phật đến. Theo Đại Đường Tây Vực Ký, vào thế kỷ thứ 7 ngài Huyền Trang cũng đã ghi lại một số nét về Ba La Nại như sau: “Ba La Nại tọa lạc về hướng Tây bờ sông Hằng, rộng khoảng 4.000 lý (6 lý tương đương với 1.609 mét, dân chúng sống rất đông đúc, vùng này, rất nhiều gia đình giàu có, và nơi họ ở thường có nhiều bảo vật quí giá. Người dân tại vùng này rất nhân ái, thanh nhã và Hiếu học. Đa số họ là những người không có tín ngưỡng, tuy nhiên, họ cũng rất tôn kính giáo pháp của Đức Phật. Thời tiết ở đây dễ chịu, mùa màng tươi tốt, cây cỏ xum xuê và rừng rậm có ở khắp mọi nơi.
 
VƯỜN LỘC UYỂN
 
     Lúc nầy tại khu Vườn Lộc Uyển có khoảng 30 tu viện và trên 3.000 Tăng sĩ theo truyền thống Chánh Lượng Bộ (Samatiya). Trong khi đó cũng có cả trăm ngôi đền Ấn giáo và khoảng 10 ngàn ngoại đạo. Họ tu tập khổ hạnh như để tóc dài, loã thể, và trét đầy tro trên người. Trong khoảng thời gian nầy, Lộc Uyểntrung tâm của trường phái Chánh Lượng Bộ, một trong 18 trường phái Phật giáo đương thời. Phía Đông Bắc của thành phố, bờ Tây của dòng sông Varana có một ngôi tháp cao trên 30 mét do vua A Dục xây dựng với một trụ đá trước mặt. Cách dòng sông Varana chừng 10 lý (6 lý=1.609 mét) có một tự viện lớn với 8 dãy phòng nối nhau, có những bức tường lớn bao quanh. Những ngôi tháp lớn đều có lan can với cách kiến trúc rất tinh xảo. Gần đó có một ngôi tịnh xá, toà nhà cao khoảng 60 mét, chính giữa có một tượng Phật đang trong tư thế chuyển Pháp Luân. Phía Tây Nam tịnh xá có một cái tháp do vua A Dục xây. Mặc dầu tháp đã bị hư hại, nhưng nền tháp vẫn còn cao khoảng 30 mét. Phía trước tháp lại có một trụ đá khác cao khoảng 15 mét mà theo truyền thuyết thì đây chính là nơi Đức Phật chuyển Pháp Luân lần đầu tiên. Không xa nơi này là một nền tháp đánh dấu nơi ở của năm người bạn đồng tu với Đức Phật.” Trong các ký sự ghi lại về những di tích Phật giáo thì ký sự của ngài Huyền Trang là đầy đủ nhất. Chẳng những ngài ghi lại hiện trạng của Thánh tích, mà ngài còn ghi cả về phong tục, tập quán, văn hoá, tinh thần, và ngay cả phong thổ và thời tiết nữa.
     Chúng tôi đến Ba La Nại vào lúc nửa đêm và đoàn nghỉ đêm tại khách sạn Sarnath, thuộc thành phố Varanasi , bằng Uttar Pradesh. Varanasi là một trong những thành phố lớn nhất của bang Uttar Pradesh, thuộc vùng Bắc Ấn Độ, là nơi nổi tiếng về lụa Kasi và sông Hằng Hà rất thiêng liêng vời những người theo Ấn Độ giáo.
 
 
Hình 1: Nhà ga xe lửa Varanasi-Delhi.
 
 
XXIV
 
SÔNG HẰNG
 
     Khoảng 4 giờ rưởi sáng ngày 8 tháng 12 năm 2005, đoàn chúng tôi đi sông Hằng (Ganges River) xem mặt trời mọc. Sông Hằng cũng như nhiều con sông lớn khác ở châu Á, phát nguyên từ dãy núi Hy Mã Lạp Sơn, thuộc cao nguyên Tây Tạng. Nó là một trong hai nguồn nước chính nuôi sống người dân Ấn trong vùng Đông Bắc và vùng vịnh Bengal. Ngay vào thời Đức Phật còn tại thề, sông Hằngvai trò quan trọng và có vị thế rất lớn trong tâm linh của người dân Ấn vì trong các kinh điển, Đức Phật hay đem cát sông Hằng ra để ví với thứ gì vô lượng vô biên, hoặc con số không thể đếm được. Sông Hằng bắt nguồn từ những khe suối phủ đầy tuyết trắng trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, chảy qua Tây Tạng rồi vào Ấn Độ, dài trên 5.575 cây số. Đối với người dân Ấn, sông Hằng chẳng những là nguồn cung cấp nước chính, mà nó còn mang tính thiêng liêng, đạc biệt là khúc sông có khu đền Ghat, người dân Ấn Độ tôn sùng và kính ngưỡng như là nơi linh thiêng bậc nhất
 
THÀNH PHỐ VARANASI
 
     Thành phố Varanasi vào buổi rạng sáng, trời hãy còn tối đen như mực, thế mà các con hẻm dẫn xuống bến sông Hằng đã chật nít người. Từng đoàn, từng đoàn cả ngàn hay cả chục ngàn người kéo nhau đi về bờ sông Hằng. Phải thật tình mà nói, khắp đều trong thành phố có một thứ mùi thật vô cùng khó ngửi vì nó được kết hợp bởi nhiều hợp chất không tìm được ở bất cứ nơi nào khác trên địa cầu nầy: mùi cống rãnh, mùi hơi người, mùi quần áo lâu ngày không giặt, mùi rác, hoà quyện với những thứ được thải ra từ rất nhiều chú bò mà người Ấn cho là thiêng liêng, đang tự do đi lại khắp nơi trong phố. Trời hãy còn tối đen, đường đi đã khó, nhưng lòng tôi không thể nào không chạnh nhớ về những lời Phật dạy về những giáo phái ngoại đạo kỳ quặc. Bây giờ họ vẫn còn y nguyên ngay tại nơi đây không sai khác, mà còn có phần nhiều hơn nữa là khác. Hiện ở Ấn Độ, trời đang cuối Thu đầu Đông, trên dòng sông Hằng thoáng gió lạnh thổi xuống từ dãy Hy Mã Lạp Sơn. Tiết trời đã lạnh, lại thêm gió lạnh khiến cho mọi người cảm thấy lạnh hơn dù đã mặc nhiều lớp áo. Khi chúng tôi ra đến bờ sông Hằng thì trời vẫn chưa sáng.
     Hai chiếc ghe đưa cả đoàn chúng tôi thả trôi chầm chậm dọc theo bờ sông Hằng trước khi ra giữa dòng. Bờ phía Nắc là những ngôi nhà cổ kính theo lối kiến trúc Ấn giáo. Thấp thoáng từ xa là một ánh lửa mà theo lời dân địa phương tại đây đó là chỗ thiêu xác người chết. Ôi! Thân tứ đại vô thường, mới đó còn danh còn lợi, rồi bất động, rồi tan thành tro bụi, được vung rải ngay trên sông Hằng. Loáng thoáng quanh bé ghe là những xác thú chết trôi, chó có, heo có, gà có.. Đằng sau chúng tôi là một chiếc xuồng kéo xác một con bò thật to, ra đến giữa dòng, chiếc xuồng tháo dây cho xác bò trôi bập bềnh trên sông. Quang cảnh buổi sáng tinh sương trên sông Hằng thật bận rộn. Những chiếc xuồng rao bán đồ kỷ niệm cứ cho ập sát hại chiếc ghe của chúng tôi. Họ rào bán đủ thứ, nào xâu chuỗi, nào tượng Phật, nào những tấm postcards, nào những chiếc bình đựng nước sông Hằng…Trên bờ Tây sông Hằng, từng toán, từng toán người đổ xô ra bờ sông để tắm giặt. Nhiều toán rước lễ có nhạc và kèm theo nghi thức Ấn Đọ giáo tạo ra một thứ âm thanh hết sức rộn ràng náo nhiệt. Trong khi đó, về phía bờ Đông sông Hằng vẫn còn ngủ yên và mặt trời vẫn chưa lên. Khi hai chiếc ghe của chúng tôi ra tới giữa dòng thì ghe bên kia có anh Thiện Tài (Canada) nhảy xuống tắm sông Hằng. Vì tiết trời quá lạnh nên tôi hơi lo cho sức khỏe của anh, nhưng khi nhúng tay xuống dòng nước tôi mới phát hiện ranước sông Hằng ấm và dễ chịu vô cùng. Theo kinh điển Vệ Đà, sông Hằng là dòng sông linh thiêng của Ấn Độ giáo, vì họ cho rằng nước sông Hằng phát nguồn từ Hy Mã Lạp Sơn Huyền bí, là trung tâm của địa cầu, nên những ai có duyên mai được tắm trên dòng sông này thì cả thân lẫn tâm đều được thanh sạch.
     Chính vì vậy mà người dân theo Ấn giáo rất tin tưởng sự thiêng liêng của sông Hằng. Và họ tin rằng những ai được tắm trong dòng nước nầy thì được rửa sạch hết mọi tội lỗi và có thể tái sinh lên cõi trời. Trời vẫn chưa sáng hẵn mà đã có hàng hàng lớp lớp đoàn người kéo nhau xuống tắm giặt trên sông, tạo nên một cảnh tượng náo nhiệt lạ thường vào buổi bình minh trên khúc sông nầy: họ tắm, họ giặt, thậm chí họ uống từng ngụm nước một cách ngon lành. Ngay từ thời Đức Phật còn tại thế Ngài đã chu du hoàng hoá nhằm đánh đổ niềm tin mù quáng nầy bằng Chánh tín Phật giáo. Xa xa đằng kia, gần khu đền Ghat, chập chùng ánh lửa hỏa táng một thân xác nào đó bên bờ sông. Khi ghe chúng tôi đến gần thì tôi mới nhận ra, đó là một bãi đất trống, người ta mang xác người chết trên một chiếc cáng làm bằng hai khúc cây rất đơn sơ. Không biết vì tâm linh họ đã tiến bộ đến mức thượng thừa hay vì dân số của họ quá đông (gần một tỷ ba trăm triệu) mà người Ấn xem cái chết của một con người rất ư là bình thường, bình thường đến độ bạc bẽo vô tình. Bầu trời sông Hằng lúc nầy hãy còn tối nên chúng tôi thắp những ngọn nến rồi thả trôi trên dòng nước và đồng thời cả đoàn chúng tôi đồng niệm Hồng đánh Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Khi các ngọn nến trôi xa thì Hoà Thượngyêu cầu sư Minh Thành, người đang theo học chương trình Tiến Sĩ Phật Học tại New Delhi giới thiệu sơ lược về con sông Hằng thiêng liêng nầy. Lúc nầy bình minh bát đầu ló dạng bên bờ Đông, lộ rõ một dãy cát thật rộng khiến tôi liên tưởng đến những bài kinh, trong đó Đức Phật thường đem số cát sông Hằng ra ví với số nhiều không thể diễn tả hay tính đếm được. Trời dần sáng tỏ, những chiếc ghe bán hàng tấp vào ghe chúng tôi ngày càng nhiều hơn. Tôi để ý thấy một tấm lót cảd hết sức đặc biệt: những người loã thể đang đứng hoặc ngồi trên một chiếc thuyết. Người bán chỉ cho chúng tôi chỗ người ta chụp hình các du sĩ loã thể ngay tại khu vực của hai chiếc ghe tôi đây, nhưng hôm nay trời hãy còn sớm quá nên những du sĩ nầy chưa xuất hiện tại đây. Tiếc thật!!! Buổi bình minh trên sông Hằng đẹp tuyệt. Bây giờ tôi mới hiểu lý ở tại sao những đoàn hành hương trước đều đến đây xem sông Hằng vào buổi bình minh. Chúng tôi chụp một số hình lưu niệm trên sông trước khi lên đường trở về khách sạn dùng bữa ăn sáng.
 
Hình 1: Quang cảnh từng đoàn người ùn ùn xuống tắm sông
Hằng (thành phố Varanasi) vào buổi sáng sớm.
 
Hình 2: Đoàn hành hương xuống ghe nhỏ để ra sông Hằng
 vào lúc 4:30 giờ sáng trong khi bầu trời ở đây vẫn còn tối đen như mực.
 
Hình 3: Cảnh bình minh trên sông Hằng (thành phố Varanasi).
 
Hình 4: Loã thể tu khổ hạnh trên sông Hằng.
 
Hình 5: Mãi tới trời sáng hẵng mà người ta vẫn còn xuống tắm giặt trên sông Hằng.
 
Hình 6: Bên nầy bờ sông Hằng (bờ bên Varanasi)
ngó qua bên kia bờ vào lúc 6:15 sáng, lúc mặt trời bắt đầu ló dạng.
 
 
XXV
 
VƯỜN LỘC UYỂN
 
     Sau đó đoàn chúng tôi đi viếng khu Vườn Lộc Uyển (Sarnath). Khu Vườn Lộc Uyển thuộc thành phố Varanasi, bang Uttar Pradesh, nằm về phía Tây Nam của thủ đô New Delhi, cách Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) khoảng 200 cây số, cách thành phố Ba La Nại khoảng 12 cây số. Sở dĩ nơi nầy có tên là Lộc Uyểnxưa kia nơi nầy có nhiều đàn Nai sinh sống tự doan ổn dưới sự bảo vệ của xứ Ba La Nại. Lộc Uyển theo tiếng Phạn là Mrigadaya hay Mrgadava, đây là tên xưa kia của Sarnatha bây giờ, có nghĩa là Vườn Nai. Còn tên Sarnatha hiện nay, theo các nhà ngữ học, có lẽ nó xuất xứ từ một từ kép của tiếng Sanskrit cổ là Saranganatha, có nghĩa là Nai chúa hay Lộc Vương. Theo thời gian tiến hoá của ngôn ngữ, từ này được giản lược thành Sarnatha mà người Ấn đang sử dụng trong ngôn ngữ Prakrta hiện nay. Vườn Lộc Uyển là một khu đất rộng với nhiều sân cỏ và những nền phế tháp rải rác khắp nơi. Hôm chúng tôi đến thăm khu Lộc Uyển cũng có rất nhiều đoàn hành hương khác cùng đến thăm nơi nầy. Ngày trước, khu vườn Lộc Uyển cách xa thành phố, lại nằm trong vùng hoang sơ, với những ngọn núi cheo leo hiểm trở, nên rất ít người qua lại, chỉ có các du sĩ Phật giáo và các tôn giáo khác tìm đến đây tu tập mà thôi. Tuy nhiên, đối với Phật giáo, Lộc Uyển trở thành Thánh Địa kể từ đức Thế Tôn cất tiếng Sư Tử Hống khởi chuyển Pháp Luân tại khu vườn nầy. Theo truyền thuyết Phật giáo, Lộc Uyển không chỉ là nơi Đức Thích Ca Mâu Ni chuyển bánh xe Pháp thời đó, mà cả ngàn chư Phật trong Hiền Kiếp cũng đã và sẽ chuyển bánh xe Pháp tại đây. Ngoài ra, Lộc Uyển còn có tên là “Chư Thiên Đoạ Xứ” (Rishipatana) vì nơi đây có nhiều chuyện liên quan đến các vị Độc Giác Phật. Khi ngài Huyền Trang đến đây vào khoảng những năm sau năm 629, ngài vẫn còn trông thấy ngôi tháp lớn, nơi đánh dấu 500 vị Độc Giác Phật nhập diệt. Sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt, dầu sinh hoạt Phật giáo không còn nhộn nhịp như thời đức Phật còn tại thế, hãy còn rất nhiều trung tâm tu học Phật giáo. Sarnatha đã trải qua nhiều thăng trầm với các vương triều thời cổ tại Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch, vua A Dục của triều đại Khổng Tước (Maurya) cũng đã thân hành đến đây chiêm báiđảnh lễ nơi đức Phật chuyển Pháp Luân, và Ngài đã cho xây dựng một số tháp thờ Phật, cũng như một số trụ đá ghi lại chứng tích đức Phật đã chuyển Pháp Luân tại đây. Tuy nhiên, ngoài những cổ vật của vua A Dục ra, người ta không tìm thấy tại Sarnatha cổ vật của các vị vua khác dưới triều Khổng Tước. Năm 184, sau khi triều đại Khổng Tước bị sụp đổ, triều đại Sunga Hưng khởi. Đây là triều đại của các vị vua theo Ấn Độ giáo, tuy không đánh phá Phật giáo một cách quyết liệt, nhưng họ cũng không thiết tha gì đến sự tồn vong của Phật giáo. Chính vì thế mà các vị vua nầy chỉ cho xây dựng tại Sarnatha những đền đài dùng trong việc tế tự theo nghi thức Ấn giáo, và xem đây là những lực đối trọng với các chùa tháp Phật giáo đã có trong vùng Lộc Uyển. Vào thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch, Kushan thuộc bộ tộc Nguyệt Chi (Yuehchi) đã đánh chiếm vùng phía Bắc Ấn Độ và lập nên triều đại Kushans mà lãnh thổ mở rộng từ phía Bắc Ấn Độ đến Kabul, Ganghar và Punjab. Vị vua đầu tiên của triều đại Kushans là Kaphise I là người rất sùng đạo thờ thần Siva, nên không có hoạt động nào liên hệ đến vùng Sarnatha, nhưng đến đời vua Ca Nị Sắt Ca (Kanishka) thì có một sự thay đổi lớn tại vùng Sarnatha. Ban đầu vua Ca Nị Sắt Ca cũng theo đạo thờ thần Siva hay thần Lửa, nhưng về sau nầy vua Ca Nị Sắt Ca cảm thấy mến phục đạo Phật nên ông đã vận dụng hết khả năng của mình nhằm chấn Hưng tôn giáo nầy tại đây. Ngài cho trùng tu lại một số tu viện cũ và xây cất thêm một số tu viện mới tại khu Vườn Lộc Uyển.
     Theo bức tượng Bồ Tát đã được khai quật được đút vào năm thứ ba dưới triều Ca Nị Sắc Ca, chứng tỏ Ngài là vị quân vương ủng hộ Phật giáo Đại Thừa rất mạnh mẽ. Theo chứng cớ thì pho tượng có đường nét chạm trổ và nghệ thuật Mathura. Hơn nữa, cũng theo một tấm bia ký đào được ở Sarnatha do Tỳ Kheo Bala khắc vào thời đại vua Ca Nị Sắc Ca cũng ghi lại rằng: “Thành Ba Là Nại nằm dưới sự thống trị của Đại Vương Ca Nị Sắc Ca và do một phó vương dưới quyền của Ngài.” Có thể nói hầu hết các đại vương đều có doanh trại ở Mathura. Tỳ kheo Bala và Pusyabuddhi thuộc gia đình hoàng gia. Họ chỉ hành hương chiêm bái những thánh tích Phật giáocúng dường tượng ở những nơi mà họ đến chiêm bái. Sau khi triều đại Kushans sụp đổ, triều đại Gupta lên thay vào thế kỷ thứ 4 sau Tây lịch. Tuy trải qua các vị vua Chandra Gupta, Samudra Gupta, Chandra Gupta Isipatana, Kumara Gupta, Skanda Gupta và các vị vua khác dưới triều đại nầy đều theo Ấn Độ giáo, nhưng họ không hề tỏ ra thù địch và tàn phá Phật giáo. Những bia ký khai quật được đã chứng tỏ các vị vua triều Gupta thường hay ban hành các chỉ dụ bảo vệ cộng đồng Phật giáo. Ngoài ra, các vị vua dưới triều đại Gupta còn trợ cấp cho các ngôi chùa Phật giáo tại Lộc Uyển tiền bạc cho họ bảo trì các ngôi chùa ở đây. Dưới triều Gupta, một loại Mỹ thuật mới về điêu khắc xuất hiện và cũng chính dưới triều đại nầy, Mỹ thuật điêu khắc đạt đến đỉnh cao hoàng kim của nó. Tại ngôi tháp Jagatsingh, từ các chữ khắc trên bia ký đã cho thấy rằng phái Nhất Thiết Hữu Bộ, một trong mười tám bộ phái Phật giáo tiểu thừa thời đó, có ảnh hưởng rất lớn trong vùng Sarnatha vào trước thế kỷ thứ 4. Khi sự hưng thịnh của bộ phái nầy chấm dứt vào thế kỷ thứ 4 thì phái Chánh Lượng Bộ (Sammitiya) trở thành nổi tiếng. Cứ thế mà tuần tự các bộ phái đã cố gắng duy trì sự hấp hối của Phật giáo tại vùng Sarnatha (Lộc Uyển) dưới các triều vua theo Ấn Độ giáo cho đến thế kỷ thứ 7.
     Vào thế kỷ thứ 5, khi du hành sang Ấn Độ, ngài Pháp Hiển có ghi lại rằng, vào thời gian ngài đến Vườn Lộc Uyển có hai ngôi tự viện với nhiều Tăng sĩ tu học và bốn ngôi tháp lớn. Đến thế kỷ thứ 7, ngài Huyền Trang có ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Tại đây có khoảng 30 ngôi tự viện với trên 3.000 Tăng sĩ theo truyền thống Chánh Lượng Bộ. Bên cạnh những Tăng sĩ Phật giáo cũng có khoảng 10 ngàn du sĩ Ấn Độ giáo đang từ tập khổ hạnh quanh vùng. Họ cắt tóc hoặc buộc toác dài, thân không mặc quần áo, mình mẩy trét đầy tro. Thường thì họ tu tập trong các ngôi đền Ấn giáo. Phía Đông Bắc thành phố, về hướng Tây của dòng sông Varana, có một ngôi tháp cao khoảng 3 mét, do vua A Dục xây lên với một trụ đá phía trước. Trên mặt trụ đá lấp lánh và sáng láng như gương. Tương truyền, người ta đã trông thấy hình Phật trên trụ đá nầy.
     Trong phần phụ đính về tu viện Sangharama, ngài Huyền Trang đã ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Tại vùng Chư Thiên Đoạ Xứ (Lộc Uyển) có 15 ngàn Tăng sĩ đang từ học theo Phật giáo Tiểu Thừa. Tại đây cũng có một tu viện cao gần 70 mét, được xây dựng kiên cố, mái chùa được lợp bằng vàng hình lá xoài. Chính giữa tu viện là một tượng Phật chuyển Pháp Luân to bằng người thật. Phía Tây Nam có một ngôi tháp bằng đá do vua A Dục xây. Phía trước tu viện là một trụ đá đánh dấu nơi Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên. Gần đó có một ngôi tháp khác, được xây để kỷ niệm năm vị ẩn sĩ hành thiền trước lúc Đức Phật tới đây, và một tháp khác ghi dấu 500 vị Phật Ních Chi nhập Niết Bàn. Kế đó là một cái tháp kỷ niệm nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký cho Ngài Di Lặc sẽ trở thành Phật trong tương lai.”
     Tuy nhiên, những điều mà ngài Huyền Trang đã ghi lại đều đã bị tàn phá và vùi lấp trong lòng đất vào những thế kỷ sau đó. Đến thế kỷ thứ 12 thì thế lực quân Hồi quá khích và Hiếu chiến đã quá mạnh. Họ kéo đến xâm lăng Ấn Độ nhiều lần. Theo lịch sử Ấn Độ thì vào năm 1193, sau khi đánh bại vua Jayachandra, vua Hồi giáo Mạommada tuyên bố chấm dứt chế độ Ấn giáo tại đây và khởi đầu một vương triều Hồi giáo trên toàn lãnh thổ vùng phía Bắc Ấn Độ. Ngay từ những ngày đầu, Mahommada đã cho đập phá tan tành trên 1.000 chùa tháp, cả Ấn giáo lẫn Phật giáo, để xây ngay trên những nền chùa tháp nầy những ngôi đền Hồi giáo. Kể từ đó đến nay, những ngôi tháp và tự viện Phật giáo bị chìm hẳn vào quên lãng, trong khi các đền tháp Ấn giáo thì được phục hồi vào những thế kỷ sau này khi Ấn giáo bắt đầu phục hoạt trở lại. Hơn thế nữa, ngay sau khi đạo quân Hồi giáo bị đánh ra khỏi Ấn Độ, có nhiều nguyên nhân khác khiến Phật giáo bị khai tử tại chính nơi khai sinh ra nó. Khi ấy những người đánh đuổi được quân Hồi giáo lại là những người chủ trương phục hoạt Ấn Độ Giáo trên toàn cõi Ấn Độ, nên giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử Phật giáo tại Ấn Độ từ thế kỷ thứ 12 đến thế kỷ thứ 18 tưởng đã qua đi, nhưng chưa hết, sau những tàn phá cực kỳ dã man tàn bạo của đạo quân quá khích Hồi giáo đến từ vùng Trung Đông, sau sự khởi dậy của Ấn Độ giáo ở khắp nơi trên toàn xứ Ấn. Đây là thời kỳ mà Kumarila và Sankara đang phát triển và đánh thốc một cú chí tử cuối cùng vào Phật giáo. Họ không chỉ đánh Phật giáo bằng vũ lực, hay bằng những bài giảng khơi dậy lòng tham của những giai cấpthế lực nhất thời bấy như giai cấp Bà La Môn (giáo sĩ), giai cấp cầm quyền (Kshatriya) để làm sống lại Ấn giáo, họ đã cho xây lại rất nhiều ngôi đền Ấn giáo ngay trên nền cũ của các ngôi đền Hòi giáo, tức là nền cũ của các ngôi chùa Phật giáo bị Hồi giáo phá bỏ. Thêm vào đó là lòng tham danh tham lợi của con người tiếp tục tàn phá. Ôi thảm thương quá cho số phận của những khu phế tích Phật giáo! Năm 1794, một vị quan giàu có trong vùng VARANASI tên là Shri Jagat Singh, đã bỏ tiền ra mướn người đào xới khu di tích Sarnatha, phá hủy tháp Dharmarajika , rồi lấy hết toàn bộ gạch đá trong vùng đem về xây dinh thự cho riêng mình và đặt tên cho dinh thự này là Jagatganji, nhưng về sau nầy để cho dễ nhớ, ban quản lý khoa khảo cổ học Ấn Độ đã gọi tháp này là tháp Jagat Singh. Đến năm 1798, chính quyền Ấn Độ tuyên bố khu Sarnatha là khu di tích quốc gia và cấm ngặt một sự đào xới bừa bãi của tư nhân. Sau đó, những nhà khảo cổ chân chính tiếp tục đào xới để tìm thêm chứng liệu cho một giai đoạn cực kỳ quan trọng của Phật giáo tại vùng nầy. Năm 1815, đại tá C. Mackenzee phụ trách khai quật toàn bộ khu Sarnatha, rồi năm 1835, ông Alexander Cunningham tiếp nối công trình. Trong thời gian nầy, đoàn khảo cổ của ông Cunningham đã khai quật được một tu viện cùng nhiều hình tượngcổ vật khác. Tại đây ông Cunningham đã tìm thấy một kho chôn cất tượng và cổ vật quý ở Sarnatha, điều này cho thấy có lẽ Sarnatha đã bị quân Hung Nô (Mông Cổ) tàn phá trong cuộc viễn chinh đến vùng Bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 5. Do cuộc xâm lăng của Hung Nô mà triều đại Gupta bị sụp đổ. Sau độ, cả nước Ấn Độ bị nào trùm dưới cảnh loạn lạc của ngoại xâm và nội chiến. Đến thời hậu Gupta, không có dấu hiệu nào cho thấy Phật giáo được phục hồi. Đến thời vua Harshavardhana, có nhiều hoạt động khôi phục lại những kiến trúc chùa tháp. Mới ngày nào đây thôi, Phật giáo hãy còn được một người tại đây ấp ủ như một triết lý sống tuyệt vời. Có thời Lộc Uyển trở thành một trung tâm nghệ thuật và giáo dục cũng như tín ngưỡng cho toàn xứ Ấn Độ, thế mà trải qua một thời gian không lâu xa về sau thì ảnh hưởng tốt đẹp này đã bị tàn phá một cách nặng nề, bị tai trời thì ít mà họa người thì nhiều. Sau đó ông Major Kittoe tiếp nối vào năm 1851, ông Thomas năm 1853, ông C. Horn naw, 1856, Ông F. O. Oertel năm 1905. Năm 1905, ông Vieroy Lord Curzon xây dựng Viện Bảo Tàng Sarnatha, năm 1914 ông Hargraves tiếp tục công cuộc khai quật này. Sau khi giành lại độc lập, chính phủ Ấn Độ vẫn tiếp tục cho khai quật và bảo trì những khu phế tích lịch sử quan trọng này.
     Thời ngài Huyền Trang đến đây thì Lộc Uyển chỉ mới phần nào điêu tànảnh hưởng trổi dậy của Ấn Độ giáo. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ thứ 12 trở về sau nầy, dưới sự tàn phá khốc liệt của đạo quân Hồi giáo quá khích, Ba La Nại từ đó đã trở thành hoang địa và bị quên lãng trong nhiều thế kỷ. Tuy ngày nay, khu Vườn Lộc Uyển đã được tái xây dựng và cũng có lại dáng vẻ thơ mộng, nhưng không thể nào còn nhộn nhịp như thời vàng son của nó nữa.
 
 
Hình 1: Bên ngoài khu Lộc Uyển, Ba La Nại (Vanarasi).
 
Hình 2: Khu phế tháp trong Vườn Lộc Uyển, Thành phố Ba La Nại (Vanarasi).
 
Hình 3: Bia tưởng niệm tháp Chakhandi, Thành phố Ba La Nại (Vanarasi).
 
Hình 4: Hoà Thượng Giác Nhiên cùng đoàn hành hương đang
tụng kinh trên đỉnh phế tháp Chakhandi, Thành phố Ba La Nại (Vanarasi).
 
Hình 5: Phj cận vùng Lộc Uyển nhìn từ trên đỉnh khu
phế tháp Chakhandi, Thành phố Ba La Nại (Vanarasi).
 
Hình 6: Hoà Thượng Giác Nhiên cùng đoàn Hàn hương chụp hình
lưu niệm ngay bên hông phế tháp Chakhandi, Thành phố Ba La Nại (Vanarasi).
 
 
XXVI
 
QUẦN THỂ TƯỢNG ĐỨC PHẬT &
NĂM ANH EM KIỀU TRẦN NHƯ
 
     Bên cạnh ngôi Tháp là nơi thờ tượng Phật đang thuyết pháp cho năm anh em A Nhã Kiều Trần Như. Theo những người quản lý khu di tích Lộc Uyển thì những pho tượng nầy chỉ mới được xây đắp vào năm 1988 ngay tại địa điểm mà người ta cho rằng gần 26 thế kỷ về trước, tại chính nơi nầy, Đức Thế Tôn đã thuyết giảng bài pháp đầu tiên cho năm anh em ông Kiều Trần Như. Dầu chỉ mới được làm sau nầy nhưng những pho tượng nầy có đường nét rất sắc xảo. Phía sau quần thể tượng là một cội Bồ Đề được mang từ Tích Lan về trồng tại đây vào năm 1931, chúng quanh cội Bồ Đềhình ảnh của các vị Phật quá khứ. Tương truyền sau khi thấy Đức Phật nhận bát sữa của nàng Sujata, năm anh em Kiều Trần Như đã từ bỏ Đức Phật vì cho rằng Ngài đã đi sai đường bằng cách từ bỏ pháp tu khổ hạnh. Chính vì vậy mà sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật đã trải qua bảy tuần lễ đầu tại những khu vực quanh Bồ Đề Đạo Tràng. Đến tuần lễ thứ tám, Ngài muốn trao lại bức thông điệp cứu khổ của Ngài đến với mọi người. Thoạt tiên, Ngài nghĩ tới những vị thầy của mình lúc ban đầu như các vị A La Ra Ka La Ma (Alara Kalama) và Uất Đà Ka La Ma Tử (Uddaka Ramaputta), nhưng cả hai đều đã nhập diệt trước đó. Sau đó, Đức Phật nghĩ đến năm anh em Ạ Nhã Kiều Trần Như, những người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước đây, và Ngài biết rằng họ đang trú tại khu Cườn Nai (Sarnatha), nên Ngài quyết định đi đến đó để thuyết pháp độ họ. Đức Phật đi bộ trên 250 cây số từ Bồ Đề Đạo Tràng đến Vườn Nai trong thành Ba La Nại. Ngài đã băng qua sông Hằng Hà để đi đến các đền đài của thành phố Kasi, rồi sau đó Ngài du hành đến Sarnatha . Tại đây Ngài đã gặp lại họ, tuy nhiên, khi mới thấy thấp thoáng bóng của Ngài trở lại khu Vườn Lộc Uyển, họ đã dự tính ngoảnh mặt làm ngơ, nhưng khi thấy dáng vẻ uy nghi của Đức Phật, cả 5 anh em Kiều Trần Như đã tự động đến gặp Ngài. Thoạt đầu họ không chịu đảnh lễ Ngài với lòng tôn kính như xưa. Tuy nhiên, khi Đức Phật càng bước tới gần họ, thấy cốt cách oai nghi và dáng vẻ sáng ngời của Ngài, họ quyết định đảnh lễ và lắng nghe thời Chuyển Pháp Luân đầu tiên của Đức Phật. Bài pháp nói về ‘Trung Đạo’, loại bỏ cả hai thái cực hưởng thọ dục lạctu hành khổ hạnh. Đức Phật đã dõng dạc tuyên thuyết: “a này các Tỳ Kheo, Như Lai không hề xa hoa, không hề ngừng cố gắng và không trở về đời sống lợi dưỡng. Như LaiĐức Thế Tôn, là đấng Toàn Giác. Như Lai đã thành đạo quả Vô Sanh Bất DiệtNhư Lai sẽ giảng dạy giáo pháp. Nếu hành động đúng theo lời giáo huấn của Như Lai, các thầy cũng sẽ sớm chứng ngộ bằng trí tuệ trực giác, và trong kiếp sống nầy các thầy sẽ hưởng một đời sống cùng tột thiêng liêngtrong sạch. Này các Tỳ Kheo, có hai cực đoan mà những người từ bỏ thế tục để tìm cầu con đường giải thoát không nên tu tập. Những gì là hai? Một là truy tầm và đắm say trong ngũ dục. Đây chỉ là sự theo đuổi hạ liệt, Trần tục, đê tiện, thô thiển và ô uế chứ không có ích lợi. Hai là thực hành tu khổ hạnh, khổ đau và thô thiển chứ không có lợi ích gì. Này các Tỳ Kheo, từ bỏ và tránh xa hai cực đoan này là đi theo con đường ‘Trung Đạo’ do Như Lai giác ngộ, mở tâm và mắt, đưa đến an tịnh, nhất thiết trí, giải thoátcuối cùng đạt đến Niết Bàn.”
     Ngày đó khi vừa nghe xong thời Chuyển Pháp Luân của Đức Phật, ngài A Nhã Kiều Trần Như đã chứng ngay quả vị A La Hán, và sau đó các vị còn lại cũng lần lượt đắc Pháp Nhãn thanh tịnh khi Đức Phật thuyết đến bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhana Sutta). Và cũng kể từ đó Pháp Luân thường chuyển và Tăng đoàn được thành lập. Cũng chính tại đây, Đức Phật đã thuyết những thời pháp cực kỳ quan trọng khác, chẳng những cho năm anh em Kiểu Trần Như, mà cho hết thảy chúng sanh trên toàn cầu, như Tứ Diệu Đế và Nát a thánh Đạo… Chính nhờ những lời dạy dỗ vàng Ngọc ấy, mà kể từ thời Đức Phật đến nay có biết bao nhiêu chúng sanh đã thọ hưởng và đã đi đến chỗ an lạc, hạnh phúcgiải thoát. Cũng chính tại nơi nầy, Tăng đoàn cổ đại nhất của Đức Phật đã được thành lập. Như vậy, Sarnatha trở thành nơi chuyển bánh xe pháp đầu tiên của Đức Phật, nơi khai sanh ra Tăng đoàn đầu tiên của Đức Phật, và là chiếc nôi của Phật giáo. Thời Đức Phật còn tại thế, từ vua quan đến thường dân tại đây đều hoan hỷ đón nhận tình thần giải thoátgiáo lý bình đẳng của Đức Phật. Chẳng những thế, bài pháp thoại đầu tiên nầy của Đức Phật bao gồm một sự nhận định sáng ngời và độc đáo của một bậc đại giác ngộ về những vấn đề cơ bản nhất của cuộc đời và những giải pháp đưa đến cuộc sống an lạc, tỉnh thứchạnh phúc. Nói cách khác, chính Sarnatha là trung tâm biểu tượng chân lý, là nơi chôn nhau cắt rún của Phật giáo.
     Tưởng cũng nên nhắc lại, sau ngày Đức Phật chuyển Pháp Luân, một vị trưởng giả trong làng tên là Da Xá (Yasa) đã cùng gia quyến đến xin quy-y với Phật, và chỉ ngay sau một thời pháp của Phật, tất cả đều chứng Thánh quả. Như vật Sarnatha cũng là nơi mà Đức Phật khai sanh ra chúng Phật tử tại gia. Ngài đã thuyết giảng cho Da Xágia đình của ông rất nhiều về bổn phận hộ pháp của một người Phật tử tại gia, cũng không kém phần quan trọng và cao quý như một Sa Môn. Đức Phật không tuyên thuyết rằng tất cả mọi người phải từ bỏ đời sống thế tục để đắp y mang bát, trở thành tu sĩ làm thân ‘cô lữ vạn lý du như các vị sa môn, không cửa, không nhà, không tiền, không bạc. bởi lẽ nếu ai cũng làm như vậy thì lấy ai hộ trì giáo pháp?
Lộc Uyển ngày nay không còn các vị tu hành khổ hạnh như thời Đức Phật nữa, mà hình như chính phủ Ấn Độ muốn biến nơi đây thành một địa điểm du lịch với những khu Thánh tích Phật giáo, những nền chùa tháp xưa hãy còn sừng sững đó đây, những công viên đầy bóng mát. Dù thế nào đi nữa, thì đối với chứng tôi, Lộc Uyển vẫn là một trong những nơi thân thiết nhất trong tâm tưởng.
     Về đây và được tham bái cái nôi của Phật giáo, lòng tôi vô cùng xúc cảm và hết sức tán thán công Đức của đức Phật và các vị Thánh Tăng. Sau đó, Hoà Thượng Giác Nhiên hướng dẫn đoàn tụng một thời kinh cầu anđi nhiễu quanh các Thánh tượng và niệm Hồng đánh Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cầu nguyện cho thế giới hoà bình an lạc. Sau đó, chúng tôi lần lượt đến thăm viếng khu Vườn Nai, tháp Dhamekh (tháp Chuyển Pháp Luân), khu nền tịnh xá nơi Phật ngụ, đường Phật đi kinh hành, trụ đá A Dục, khu Tịnh Xá Mulagandhakuti,,những nền tháp khác tại Sarnatha, Bảo Tàng Viện Khảo Cổ Sarnatha, và Bảo Tàng Viện Varanasi. khu vườn Nai nằm ngay sau khu tịnh xá Mulgandhakuti. Đây là một khu đất rộng lớn, tuy không có nhiều cây như một khu rừng, nhưng cũng thanh umát mẻ hơn nhiều nơi mà chúng tôi đã đi qua trong xứ Ấn Độ. mgafy trước là khu vườn Nai thiên nhiên, với những bóng cây xanh mát, thanh utịch tĩnh, là một môi trường rất tốt cho việc tu tập thiền quán. bây giờ thì người ta rào lại và nuôi thêm rất nhiều Nai ở đó. Những chú Nai vàng ngơ ngác nhìn khách hành hương qua lại khiến tôi liên tưởng đến hình ảnh của vườn Lộc Uyển năm xưa mà lòng ngậm ngùi cho thân phận của những chú nai và của chính mình hiện tại. ngày đó, những chú nai coi vậy mà có Phước, tuy mang thân súc sanh mà ngày ngày đều được thấy Phật. còn bây giờ! Phật pháp vẫn còn đay mà chúng con vẫn tiếp tục lăn trôi trong sanh tử trầm luân.
 
Hình 1: Quần thể tượng Đức Thế Tôn đang thuyết pháp cho năm anh em Kiều Trần Như
trong Vườn Lộc Uyển, Sarnath, thành phố Ba La Nại (Varanasi).
Hình 2 & 3: Những chú nai vàng ngơ ngác trong khu Vườn Lộc Uyển,
Sarnath, thành phố Ba La Nại (Varanasi).
 
Hình 2 & 3: Những chú nai vàng ngơ ngác trong khu Vườn Lộc Uyển,
Sarnath, thành phố Ba La Nại (Varanasi).
 
 
 
XXVII
 
THÁP DHAMEKH
 
     Trong khu Vườn Lộc Uyển hãy còn một ngôi tháp có tên là Dhamekh rất lớn, đây có lẽ là ngôi tháp nổi bậc nhất trong khuôn viên Lộc Uyển, vì tháp được xây dựng trên một khoảnh đất khá cao, lại thêm chiều cao của tháp. tháp Dhamekh cao khoảng 34 mét, đường kính khoảng 28 mét, được vua A Dục xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch để ghi nhớ nơi lần đầu Đức Phật chuyển Pháp Luân, chà đây cũng là nơi Đức Phật lui tới nhiều lần để thuyết pháp ban rải ánh sáng chân lý cho chúng sanh. Theo nhiều nhà khảo cổ học thì ngôi tháp đồ sộ nầy với trên 300 bức tượng đang được trưng bày trong Viện Bảo Tàng Sarnatha hiện nay, trong đó có một pho tượng Phật đang ngồi chuyển Pháp Luân đều thuộc thời đại Gupta. Theo truyền thuyết Phật giáo thì ban đầu ngôi tháp nầy chỉ là một ngôi tháp nhỏ được xây lên để thờ xá lợi của Đức Phật, nhưng về sau nầy người ta cứ xây thêm nên ngôi tháp lớn dần theo năm tháng và cuối cùngtrở thành một kiến trúc qui mô như ngày nay. Trên tường tháp, những hoa văn sắc xảo vẫn còn y nguyên, ghi dấu một thời ‘tiếng sư tử hống’ của Đức Phật đã vang dội cùng nơi khắp chốn. Xung quanh bờ tường phía ngoài của tháp còn có 8 bệ thờ bên trong tường có khách cỡ lớn hơn người thật. Tuy nhiên, trong các bệ thờ ấy không còn một tượng Phật nào cả. Theo Phạn ngữ, Dhamekha có nghĩa là trầm tư về giáo pháp. Nhân cơ hội nầy, Hoà Thượng Thích Giác Nhiên tóm lược đại ý của bài pháp đầu tiênĐức Phật đã thuyết cho 5 anh em Kiều Trần Như, bài pháp đề cập đến con đường Trung Đạo, không bất cập cũng không thái quá. Sau đó, Hoà Thượng hướng dẫn đoàn tụng một thời kinh cầu anđi nhiễu quanh tháp để tưởng niệm nơi Đức Phật chuyển Pháp Luân lần đầu tiên.
     Theo Đại Đường Tây Vực Ký, ngài Huyền Trang đã ghi lại về nơi nầy trong khoảng thời gian ngài lưu lại như sau: “Nơi này có khoảng 30 tu viện với hơn 3.000 Tăng sĩ tu học.” Thế mà bây giờ cạnh ngôi tháp lớn chỉ còn trơ lại những nền tháp hay những đống gạch đổ nát từ các tự viện thuở xa xưa. Theo tài liệu khảo cổ học tại đây thì vào cuối thế kỷ thứ 18, hai nhà khảo cổ là đại tá MacKenzee và Cunningham khi đào với phần trên cùng của ngôi tháp đã tìm thấy một tấm bia đá nhỏ ghi rằng: ‘Dhamekha’ chính là nơi Đức Phật thuyết giảng bài pháp đầu tiên. Theo các nhà Phạn ngữ học thí từ Dhamekha có thể dịch là trầm tư về giáo pháp mà có thể nó bắt nguồn từ 2 chữ Dharma và Chakra, nghĩa là bánh xe hay Pháp luân. Tấm bia cũng ghi rõ đây chính là nơi trú ngụ của 5 anh em Kiều Trần Như khi họ rời bỏ Đức Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng. Đây là một trong những tài liệu quý giá và chính xác cho lịch sử Phật giáo. Bên cạnh tháp Dhaemkh hãy còn dấu vết của rất nhiều những nền tháp nhỏ rải rác khắp nơi trong khuôn viên Vườn Lộc Uyển.
 
NỀN TỊNH XÁ NƠI ĐỨC PHẬT NGỰ
TRONG KHU SARNATHA
 
     Sau khi rời khu Vườn Nai, chúng tôi qua thăm nền tịnh xá nơi Đức Phật từng ngự và tọa thiền, rồi lại thăm con đường nơi Đức Phật đã từng đi kinh hành. Nền tịnh xá ngày nay chỉ còn là một chuỗi gạch, lớp lớp chồng lên nhau, có lẽ được xây qua nhiều giai đoạn khác nhau. Lớp dưới cùng có một phiến đá có niên đại vào thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Theo truyền thuyết, dân gian vùng nầy gọi đó là ‘đá tạ ơn’. Có hai bia ký khắc trên trụ của mái hiên được chấp vá lại với nhau, một cái thuộc thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch, còn cái kia thuộc thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch.
 
Hình 1: Tháp Dhamekh uy nghi sừng sửng trong khu Vườn Lộc Uyển, Sarnath, thành phố Varanasi.
 
Hình 2: Hoà Thượng Giác Nhiên đang hướng dẫn đoàn đi nhiễu quanh tháp Dhamekh.
 
Hình 3: mọi người đang tham quan quanh khu Vườn Lộc Uyển.
 
Hình 4: Hoà Thượng Giác Nhiên cùng đoàn hành hương
đang chụp hình lưu niệm tại khu phế tháp Lộc Uyển.
 
 
XXVIII
 
TRỤ ĐÁ CỦA VUA A DỤC
TRONG VƯỜN LỘC UYỂN
 
     Đoàn chúng tôi tiếp tục thăm viếng trụ đá do vua A Dục dựng lên. Theo truyền thuyết Phật giáo, thì vua A Dục là vị quốc vương đầu tiên trong lịch sử Ấn Đọ có liên quan đến vùng Sarnatha. Vào khoảng năm 250 trước Tây lịch, vua A Dục, một trong những vị đại đế của triều đại Khổng Tước (Maurya), một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo mà có rất nhiều người gọi ông là một vị Á Phật. Ông đã tiến hành rất nhiều cuộc chiến tranh xâm lăng các lân quốc nhỏ. Tuy nhiên, sau trận chiến tiêu diệt bộ tộc Kalinga, những cảnh tượng giết chóc và bắt làm tù binh hàng trăm ngàn người đã khiến cho lương tâm ông bị cắn rức, và ông đã quyết định chuyển hướng bằng cách trở thành một Phật tử và dùng giáo pháp nhà Phật làm kim chỉ nam trong việc trị dân. Sau đó, ông đã vận dụng tất cả lòng nhiệt thành và khả năng sẵn có của mình để truyền bá thông điệp của Đức Phật đi khắp mọi nơi. Ông cũng là vị quốc vương Ấn Độ lần đầu tiên đích thân đến vùng Sarnatha chiêm báixây dựng trụ đá này để đánh dấu nơi Đức Phật đã chuyển Pháp Luân lần đầu tiên và để kỷ niệm nơi Đức Phật thành lập Tăng Đoàn đầu tiên gồm 5 anh em Ạ Nhã Kiều Trần Như, cũng như Da Sá cùng 54 người bạn trong thành Ba La Nại. Theo truyền thuyết Phật giáo thì trụ đá nầy cao 15,25 mét (có sách viết cao trên 21 mét, tuy nhiên, theo thiển ý thì khó có lý để dựng lên một trụ đá giữa trời mà đường kính chỉ có 7 tấc trong khi chiều cao lên đến 21 mét, như vậy thuyết 15,25 mét có thế đứng vững hơn), có tượng hình 4 con sư tử trên đầu. Phần chân trụ gồ ghề và đặt trên một nền đá lớn, phần thân trụ thon và thẳng, đường kính, dường kính bên dưới là 71 phân, đường kính bên dưới trụ là 71 phân, đường kính bên trên trụ là 56 phân, trụ được mài bóng láng trước khi được khắc lên chỉ dụ của nhà vua. Đây chẳng những là một tác phẩm nghệ thuật vô giá trong kho tàng lịch sử Phật Giáo và cũng là phế tích có niên đại xưa nhất được tìm thấy trong Khu vươn Lộc Uyển nầy, mà còn là một chứng liệu lịch sử xác thực của Phật giáo nữa. Trụ được làm bằng một loại sá thạch tuyệt hảo, nên trải qua mười mấy thế kỷ mà nó không bị thói gian tàn phá. Ngược lại nêu không giảo nghiệm niên đại, người ta cứ tưởng đây là những trụ đá mới về sau nầy, vì chúng vẫn còn sáng chói. Trải qua nhiều cuộc biến động, trụ đá A Dục đã bị vùi lấp vào quên lãng của thời gian cũng như không gian qua nhiều thứ kỷ. Mãi đến khoảng năm 1934, nhà khảo cổ Kittoe mới tìm thấy một mảnh của trụ đá tại đây. Sau khi giảo nghiệm niên đại, người ta xác nhận đây chính lá trụ đá do vua A Dục dựng lên vào thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch để đánh dấu nơi Đức PhậtTăng đoàn của Ngài được thành lập. Tuy trụ đã bị gãy gần sát đất, nhưng những nét chỉ dụ của vua A Dục trên đá vẫn còn đó. Hiện phần trên của trụ đá được chính phủ Ấn Độ cho đem trưng bày trong Viện Bảo Tàng Khảo Cổ Lộc Uyển, còn phần dưới và những khúc gãy khác được tái tạo lại và để nguyên tại chỗ khai quật.
     Trên trụ đá có khắc ba tấm bia ký và chữ trên bia ký là loại chữ Phạn. Tấm bia ký thứ nhất trừ 2 dòng đầu bị bể nên không còn thấy rõ, phần còn lại hãy còn rất rõ ràng như sau: “… Tăng đoàn không được chia rẽ. Bất cứ người nào, dù là quý thầy hay quý cô phân chia bè phái, sẽ bị cho mặc y trắng và đuổi ra khỏi tự viện. Sắc chỉ nầy phải được thông báo khắp cộng đồng Tăng Ni. Đấng Hoàng đế đã dạy: “Hãy sao chép lại sắc chỉ nầy và hãy dán ở những giảng đường của tu viện một bản sao khác cho các Phật tử tại gia. Những Phật tử tại gia đến Bố Tát cần phải biết những sắc chỉ nầy…” tấm bia ký thứ hai thuộc giai đoạn Kushans, có nhắc đến năm thứ 40 thời vua Asvaghosha. Vị vua nầy cai trụ xứ Kausambi, nhưng cũng có thời chiếm cứ toàn cõi Na La Nại và Sarnatha. Bia ký thứ ba được khắc vào thời đại Gupta, đề cập đến các vị tổ sư của trường phái Chánh Lượng Bộ (Sammitiya) và Độc Tử Bộ (Vatsiputraka). Phế tích của những trụ đá tại vùng Sarnatha hiện được xem như là những chứng tích hùng hồn về sự huy hoàng của Phật giáo từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ 12 sau Tây lịch. Sau khi quan sát những trụ đá tại đây, ngài Huyền Trang đã ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Về phía Tây Nam ngôi chùa có một tháp do vua A Dục xây dựng, dù đã bị đổ nát, nhưng vẫn còn một trụ đá bóng loáng, chẳng khác gì Ngọc thạch. Đây là những trụ đá nhẵn bóng như Ngọc Bích và chiếu sáng như gương. Những ai đến đây chiêm báithành tâm đảnh lễ, thì tuỳ theo lời cầu nguyện của mình, sẽ thấy những hình ảnh tốt hay xấu ứng hiện. Chính tại chỗ này, sau khi đắc thành đạo quả, Đức Phật đã chuyển Pháp Luân lần đầu tiên.” Hiện nay người ta cho rào phế tích của trụ đá lại trong một khuôn rào bằng sắt cao trên 2 mét để bảo vệ phần còn lại của nó. Tưởng cũng nên nhắc lại là hiện nay hình sư tử trên các trụ đá của vua A Dục đã trở thành quốc huy của Ấn Độ và trên lá quốc kỳ Ấn Độ, bánh xe Pháp nằm ở giữa cũng được lấy ra từ trụ đá có tượng sư tử ở đây. Như vậy, Sarnatha chẳng những là niềm tự hào cho nước Ấn dân Ấn, mà còn là niềm tự hào cho những Phật tử khắp nơi, và cho cả thế giới nữa.
 
TỊNH XÁ MULAGANDHAKUTI
TRONG VƯỜN LỘC UYỂN
 
     Trong khuôn viên Vườn Lộc Uyển, Tích Lan đã xây một ngôi Tịnh Xá tên Mulagandhakuti Vihara vào năm 1931 với lối kiến trúc giống như Đại Bảo Tháp tại Bồ Đề Đạo Tràng để thờ xá lợi Phật. Theo các vị sư người Tích Lan đang trụ trì trong tịnh xá thì ngôi tịnh xá này được xây ngay trên nền của túp lều nguyên thủy nơi mà Đức Phật đã từng trú ngụ trong thời gian Ngài ở Sarnath, vì vậy mà ngôi tịnh xá nầy mới có tên là Hương Phòng Nguyên Thuỷ (Original Fragrant Hut). Theo lịch sử Phật giáo Ấn Độ thì trong nhiều thế kỷ sau nầy, hương phòng của Đức Phật được trùng tu nhiều lần và từ từ phát triển thành một ngôi chùa lớn mà ngài Huyền Trang có ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Hàng rào lớn của chùa cao khoảng 70 thước, trên mái hình cây xoài mạ vàng. Nền chùa bằng đá và cầu thang cũng vậy, những ngôi tháp và khung thờ bằng gạch. Những khung thờ được sắp xếp kế tiếp nhau và mỗi khung đều có thờ một tượng Phật bằng đồng, kích thước bằng như Đức Phật thật và tượng ngồi ở tư thế đang chuyển bánh xe pháp.”
 
NHỮNG NỀN THÁP KHÁC TẠI SARNATH
 
     Ngoài những khu phế tích chính, Sarnath ồn có rất nhiều tháp khác. Tháp Chaukhadi hình bát giác được vua Akbar xây vào năm 1588 trên một mô đất lớn để tưởng niệm vua cha là Humayun đã đến chiêm bái nơi nầy. tháp Dharmarajika, gần trụ đá A Dục do chính vị vua nầy xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch để thờ xá lợi Phật và cũng để đánh dấu nơi chuyển Pháp Luân đầu tiên của Đức Thế Tôn. Trong những lần khai quật cho thấy ngôi tháp nầy đã được xây thêm sáu lần rộng hơn ngôi tháp nguyên thuỷ của nó. Nền tháp nguyên thuỷ thời vua A dục có đường kính là 13,49 mét, xây bằng loại gạch có kích thước 49,50x36,80x6,40 cm cũng như những loại gạch mỏng và nhẹ khác. Ngày trước khi ngài Huyền Trang đến đây vào tiền bán thứ kỷ thứ 7 (629-646) thì ngôi tháp hãy còn cao 30 mét, thế mà hiện nay chỉ còn trơ lại một cái nền gạch cao không đầy một mét, trông thật là tiêu điều buồn bã.
 
VIỆN BẢO TÀNG KHẢO CỔ SARNATH
 
     Bên kia khu thánh tích Sarnath là viện Bảo Tàng Khảo Cổ Sarnath, được chính phủ thuộc địa Anh bảo trợ và ông Vieroy Lord Curzon đứng ra xây cất vào năm 1905. Đây là một trong những viện Bảo Tàng lâu đời nhất của xứ Ấn Độ. Bên trong trưng bày nhiều bộ sưu tập về Mỹ thuật và điêu khắc Phật giáo đã khai quật được trong khu Sarnath. Trong gian phòng lớn của viện, người ta trưng bày trụ đá có đầu sư tử. Đây là tác phẩm điêu khắc hùng vĩ thuộc nghệ thuật thời Khổng Tước (Maurya) vào thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch . Trụ này cao khoảng 2,31 mét, được chạm trổ rất khéo léo và sống động. Đây cũng chính là quốc huy của nước Cộng a hoà Ấn độ. Biểu tượng này cũng được thấy trên các đồng bạc Rupees của nước Ấn. Trong viện Bảo Tàng Sẩnthcofn có tượng Đức Thế Tôn đang chuyển Pháp Luân, một kiệt tác dưới thời Gupta, với nét điêu khắc tuyệt hảo, làm nổi bậc ý chísức mạnh kiên cường của Đấng Thế Tôn, dù Ngài đang ở trong tư thế thiền định tĩnh mặc. Nhìn pho tượng người ta thấy ở Ngài toát ra đầy đủ những nét đại tù, đại bi, đại hỷđại xả của một đấng đại giác. Đã qua rồi biết bao nhiêu là suy thịnh thịnh suy của Phật giáo tại vùng Sarnath ói riêng và trên khắp xứ Ấn Độ nói chung. Nhìn những pho tượng mất đầu, gãy tay, gãy chân… có ai trong chúng ta có thể tránh khỏi cảm xúc ngậm ngùi chùa xót cho số phận nghiệt ngã của Phật giáo trên đất nước nầy. Bên cạnh sự vươn dậy của Ấn Độ giáo vào thế kỷ thứ 10, cùng với những ông vua tàn bạo của đạo quân Hồi giáo quá khích thời đó như Mohammad Gori, Sultan Muhammad Ghazan và Mughal, chỉ trong vòng không đầy 3 thế kỷ, từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ thứ 14, mà hầu như tất cả các đền đài chùa tháp Phật giáo đều bị đập phá tan tành, tất cả kinh sách đều bị thiêu hủy, hàng chục, hàng trăm ngàn chư Tăng bị tàn sát một cách dã man. Ngày nay hầu như những phế tích đã bị dìm sâu vào lòng đất, chỉ có một số ít được khai quật và phục hoạt trở lại mà thôi. Nếu không nhờ những bài bút ký của các ngài Pháp HiểnHuyền Trang, cũng như nếu không có sự nhiệt tâm của các ngài đại tá MacKenzee (1815), Alexander Cunningham (1835), Major Kittoe (1851), Thomas (1853), Horn (1856), Oertel (1905), Hargraves (1914)… có lẽ giờ nầy các Thánh tích ở Sarnath và các nơi khác vẫn còn nằm yên trong lòng đất như số phận nghiệt ngã của chính Đạo Phật ngay trên đất Ấn.
 
Hình 1: Trụ đá do vua A Dục dựng lên trong khu Lộc Uyển vào thế kỷ thứ 2 trước Tây Lịch.
 
Hình 2: Tượng Đức Phật trong Tịnh Xá Mulagandhakuti Vihara,
trong tư thế ngồi kiết già đang chuyển Pháp Luân tại Sarnath, thành phố Varanasi.
 
Hình 3: Nền phế tích khu Tịnh xá Lộc Uyển và những phế tháp nhỏ chung quanh.
 
Hình 4: Nền phế tích khu Tịnh xá Lộc Uyển và những phế tháp nhỏ chung quanh.
 
 
XXIX
 
VIỆN BẢO TÀNG VARANASI
 
     Sau khi thăm viếng Vườn Lộc Uyển, đoàn chúng tôi ra xe để tiếp tục đi thăm Bảo Tàng Viện VARANASI và đảnh lễ xá lợi Phật. Đây cũng là một trong những viện bảo tàng lớn của Ấn Độ. Tuy nhiên, không như tại viện bảo tàng Sarnath viện bảo tàng Varanasi trưng bày đi tích của cả Ấn giáo lẫn Phật giáo. Vì thế có rất nhiều vị trong đoàn, dù đã đi đến tận nơi những lại không chịu vào, có lẽ các vị chỉ thích thú thăm viếng chiêm bái những gì có liên quan đến Phật giáo mà thôi.
     Khoảng 2 giờ chiều, đoàn về lại khách sạn ăn trưa. Sau đó, lúc 3 giờ chiều Hoà Thượng ngỏ lời cảm ơntán thán công Đức của chư Tăng Ni và Phật tử trong đoàn hành hương. Khoảng 4 giờ chiều, đoàn ra nhà ga xe lửa Varanasi, và lúc 6 giờ rưởi chiều, tàu Shiv Ganga Express khởi hành đưa chúng tôi trở về New Delhi.
     Khoảng 7 giờ rưởi sáng ngày 9 tháng 12 năm 2005, đoàn chúng tôi về đến New Delhi. Đoàn Canada và Hoà Thượng nghỉ tại khách sạn Grand, trong khi đoàn từ Mỹ và Pháp thì nghỉ bên khách sạn Tourist. Cả buổi chiều ngày 9 tháng 12, chúng tôi dạo phố Tân Đề Li và mua sắm quà lưu niệm.
 
ĐỀN TAJ MAJAL-AGA
 
     Khoảng 5 giờ sáng ngày 10 tháng 12, đoàn khởi hành đi Agra thăm viếng ngôi đền nổi tiếng Taj Mahal-Agra, dù đường sá tương đối tốt, chúng tôi vẫn phải mất trên 2 giờ xe buýt. Đền Taj Majal-Agra là một trong bảy kỳ quan của thế giới. Nó là niềm tự hào của dân tộc Ấn Độ. Đền được xây vào thế kỷ thứ 16, với lối kiến trúc cẩm thạch trắng khá độc đáo, nghệ thuật điêu khắc tỉ mỉ và sắc xảo. Sau đó đoàn đi qua Agra Fort thăm viếng cung điện của nhà vua. Từ bên cung điện Agra Fort có thể nhìn thấy đền Taj Mahal rất rõ ràng. Đoàn chúng tôi về lại New Delhi lúc 10 giờ rưởi tối cùng ngày.
 
THĂM VIẾNG TĂNG NI SINH
ĐANG DU HỌC TẠI ẤN ĐỘ
 
     Khoảng 5:30 giờ chiều, Hoà Thượng Giác Nhiên hướng dẫn đoàn hành hương tới khách sạn Ashoka, New Delhi, thăm viếng các vị Tăng Ni Sinh đang du học tại Ấn Độ. Đây cũng là cơ hội để Phật tử khắp nơi, từ Mỹ, Canada, và Pháp gặp gỡ Tăng Ni sinh đang du học tại Ấn Độ. Trong buổi họp mặt nầy, Hoà Thượng Giác Nhiên đã họp mặt hầu hết các vị Tăng Ni sinh nhằm hỏi thăm sức khỏe, khuyến tấn việc học tập và tặng quà cũng như một số tịnh tài cho các vị Tăng Ni sinh. hoà Thượng Giác Nhiên đã nói trong sự xúc động: “a trước khi đến thăm quí vị, tôi đã mang theo một số tịnh tài, nhưng thấy số tịnh tài ấy không thấm vào đâu với tổng số Tăng Ni sinh đang du học ở Ấn Đọ, nên tôi đã làm một chuyến hoàng pháp bên Úc Châu từ 30 tháng 10 đến 25 tháng 11, tôi đã thuyết trên 50 thời pháp, đồng thời kêu gọi thêm sự đóng góp của quí Phật tử ở Úc Châu. Tôi nói vì tôi đã quá già, nay (2008) đã 84 tuổi, có thể đây là lần cuối cùng tôi đi hoằng hoá tại Úc. Phật tử tại Úc đã hết lòng hỗ trợ cho tôi trong chuyến sang Ấn Độ đây để hỗ trợ cho các vị, dược thêm chút nào hay chút ấy, nhằm góp phần cho sự đào tạo Tăng tài cho Phật giáo Việt Nam, bất kể quí vị thuộc hệ phái nào.” Lời nói chân tình của Hoà Thượng Giác Nhiên khiến cho ai nấy cũng đều xúc động đến ngấn lệ lưng tròng. Trước khi ra về, một vị Tăng sinh, đại diện cho nhóm Tăng Ni sinh du học đã phát biểu: “Nguyện cầu Hồng ân Tam Bảo luôn gia hộ cho Hoà Thượng pháp thể luôn khinh an, để Ngài tiếp tục hoẵng hoá độ sinh, tiếp tục nằm rải lòng từ đến cho mọi người, và để Tăng Ni sinh chúng con thỉnh thoảng còn tiếp tục nhận được sự trợ giúp của Ngài.” Riêng thầy Thích Chúc Thông từ Đài Loan đã tâm sự: “Tôi là thầy tu Bắc Tông, nhưng khi gặp được Hoà Thượng a giác Nhiên, lòng từ bi nhân ái của Ngài khiến tôi không còn thấy đâu là bờ mé của Bắc Nam nữa. Đức độ của Hoà Thượng vượt hẳn bờ mé của bất cứ sự phân biệt nào nếu có.”
 
 
Hình 1: Hình chụp bên trong Bảo Tàng Viện Varanasi.
 
Hình 2: Bia tưởng niệm ngay cổng vào cung điện Taj-Mahal, New Delhi.
 
Hình 3: Cung điện Taj-Mahal, New Delhi, từ phía trước đằng xa nhìn vào.
 
Hình 4: Cung điện Taj-Mahal, New Delhi, nhìn từ bên hông.
 
Hình 5: Ngoài cổng cung điện Amar Singh tại Agra, New Delhi,
được vua Akbar xây dựng vào năm 1565.
 
Hình 6: Bên hông cung điện Amar Singh tại Agra, New Delhi.
 
Hình 7: Khu Lưu Xá Tăng Sinh tại khu Đại học New Delhi.
 
 
 
 
XXX
 
PHẦN CUỐI: LÊN ĐƯỜNG RỜI XỨ ẤN
 
     Khoảng 11 giờ tối ngày 11 tháng 12 năm 2005, đoàn chúng tôi tiễn đưa đoàn Canada do thầy Thích Minh Giác hướng dẫn lên máy bay về lại Canada. Sáng ngày 12 tháng 5, một số trong các đoàn từ Pháp và Mỹ tiếp tục đi thăm viếng New Delhi, một số anh em chúng tôi ở lại khách sạn nghỉ ngơi, một số tháp Tùng Hoà Thượng Giác Nhiên đi thăm chư Tăng Ni đang du học tại Ấn Độ tại học xá và thăm viếng trường Đại Học New Delhi, cùng phân khoa Phật Học của trường. Sau đó, chúng tôi lại ra phố New Delhi tiếp tục mua sắm quà lưu niệm. Khoảng 11 giờ sáng ngày 13 tháng 12 năm 2005, Hoà Thượng Giác Nhiên cùng đoàn lên đường trở về Mỹ, chấm dứt một chuyến ĐẾN THIÊN TRÚC CHIÊM BÁI & ĐẢNH LỄ PHẬT TÍCH vào cuối năm 2005.
 
THAY LỜI KẾT
 
     Chúng tôi không có duyên may như chư Tăng Ni, được xuất dương du học nơi xứ Phật, nhưng một lần trong đời được chiêm báiđảnh lễ các Thánh tích thiêng liêng ấy, thiết tưởng cũng đủ mãn nguyện cho một đời người. Một lần đến tận nơi, thấy tận mắt những di sản tinh thần vô giá ấy, dù bây giờ nơi chốn ấy chỉ còn trơ lại một nền đá hay một đống gạch vụn, cũng đủ làm trào dâng niềm cảm xúc không thể diễn tả được bằng lời. Một lần được mục kích sông Hằng, con sông thiêng liêng không riêng gì cho dân Ấn, mà cho cả một vùng trời của thế giới phương Đông, cũng đủ làm cho tâm hồn mình thanh thản, dù có ai đó cho rằng như vậy là quá thần thoại và hoang tưởng cũng không sao. Một lần tận mắt mục kích những địa danh, chẳng những liên hệ với người dân Ấn, mà chúng còn thân thương và quan trọng đối với rất nhiều dân tộc trên thế giới. Có người con Phật nào mà không cảm thấy thân thương với những địa danh Lâm Tỳ Ni, Ca Tỳ La Vệ, Vương Xá Thành, Bồ Đề Đạo Tràng, sông Ni Liên Thiền, núi Linh Thứu, tu viện Na Lan Đà, Trúc Lâm Tịnh Xá, thành Tỳ Xá Ly, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, tháp Vô Não, thành Câu Thi Na, thành Ba La Nại, vườn Lộc Uyển, sông Hằng Hà, vân vân.
     Trong nhiều thế kỷ nay, bức tranh toàn cảnh tại vùng Đông Bắc Ấn Độ không còn là di sản văn hóa của riêng dân tộc Ấn Độ nữa, mà từ bấy lâu nay nó đã trở thành di sản chung cho toàn thế giới, Phật giáo cũng như không Phật giáo, Ấn giáo cũng như không Ấn giáo. Ngày nay, lịch sử Phật giáo tại xứ Ấn đã sang trang. Ngay chính nơi sản sanh ra nó mà không có tới một phần trăm dân số theo đạo Phật, quả là một vấn đề đáng suy gẫm. Nhìn lại quá trình phát triển của Phật giáo trên đất nước Ấn kể từ ngày Đức Thế Tôn thành đạo cho tới ngày nay, đạo Phật đã trải qua trên 15 thế kỷ hưng thịnh khắp từ Bắc Ấn tới Nam Ấn, nhưng chính Đức Thế Tôn đã dạy về luật vô thường thì có cái gì mà trường tồn mãi đâu? Đúng như Thế Tôn tiên đoán, tại xứ Ấn độ sau 500 năm chánh pháp, đến 500 năm tượng pháp, rồi 500 mạt pháp phải đến. Như vậy sau 15 thế kỷ, đến thế kỷ thứ 13, Phật giáoẤn Độ đang trong thời mạt pháp của xứ này lại vướng nạn xâm lăng từ đạo quân Hồi giáo dã man. Chính đạo quân ấy đã khai tử Phật giáo ngay trên cái nôi sanh ra nó. Ôi cũng là luật “sanh-trụ-dị-diệt”! Ôi luật thạnh suy của trời đất! Phật giáo đã chính thức tàn lụi trên đất Ấn ngay từ thế kỷ thứ 13. Và thời kỳ đen tối này kéo dài trong nhiều thế kỷ. Trong suốt thời kỳ đen tối đó, từng đoàn ngoại nhân xâm lăng đã đến thay phiên nhau tàn phá tất cả những gì có dính líu đến Phật giáo, vì họ không thể nào chịu đựng nổi chân lý không thể nghĩ bàn của Phật giáo. Chân lý đó trong sáng và sẵn sàng lật đổ mọi huyền hoặc u mê. Chính vì vậytrải qua nhiều triều đại của các vị vua theo Hồi giáo, tất cả các đền đài và chùa tháp Phật giáo đều bị đập phá, các kinh sách quí báu của Phật giáo đều bị đốt sạch, chư Tăng Phật giáo đều bị bắt và giết sạch. Suốt thời kỳ điêu tàn của Phật giáo trên đất nước Ấn Độ, tất cả những chùa tháp uy nghiêm, tất cả những kinh điển thánh ngôn... đều bị vùi sâu trong lòng đất trong nhiều thế kỷ. Một thời hoàng kim về văn hóa Phật giáo của những dân tộc vùng Bắc Ấn bị chính con cháu họ quên lãng và quay lưng ngoảnh mặt. Cả một vùng không gian bao la trở thành hoang địa, không còn thấy một dấu tích gì cho thấy thời hoàng kim xưa cũ nữa. Lịch sử Phật giáo của vùng Bắc Ấn nói riêng, và của cả Ấn Độ nói chung bị phủ một màu tang thương đen tối không có cơ may quang phục. Cũng giống như hoàn cảnh Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, để tự tồn, chư Tăng Ni phải giả dại qua ải, tất cả đều biến thành những thầy tụng, có vợ có con để tránh sự theo dõi cú vọ của những tên Tây khát máu, luôn chực chờ tiêu diệt toàn bộ Phật giáo trên đất nước Việt Nam. Cũng như vậy, để sinh tồn, chư Tăng bên Ấn Độ, từ thế kỷ thứ 13 mãi đến thế kỷ thứ 18, đã phải đào tỵ sang Miến Điện, Népal, Sri Lanka, Tây Tạng, vân vân, để lại cả nước Ấn Độ bao la trong nhiều thế kỷ vắng bóng Phật giáo.
     May mà vào thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch, một vị Á Phật đã ra đời (A Dục) và đã kịp thời đưa Phật giáo sang các xứ Nam Ấn (Sri Lanka) và Đông Độ (Trung Quốc). May mà chính vị Á Phật ấy lại dựng những trụ đá với những bia ký khắc trên đó, ghi rõ những chỉ dụ liên quan đến Phật giáo. Và may mà chúng ta còn có những nhà chiêm bái nổi tiếng Trung Hoa vào thế kỷ thứ 5 và thứ 7 như các ngài Pháp Hiển, Huyền TrangNghĩa Tịnh... Họ đã không màng an nguy, trải qua hàng chục năm du hành đến xứ Phật để thỉnh kinh, để học hỏi giáo lý Phật đà, và để ghi lại những diễn tiến Phật giáo tại xứ này từ thời nó được Đức Thế Tôn khai sáng. Bây giờ lịch sử Phật giáo tại Ấn Độ đã sang trang, nhưng lịch sử tại đó cũng đã an bài một cách khắc nghiệt cho số phận của đạo Phật trên đất nước này với chưa đầy một phần trăm dân số của xứ này theo đạo Phật. Ôi nghiệt ngã làm sao cho số phận của một tôn giáogiáo lý của nó sáng ngời như ánh bình minh trên sông Hằng!
     Nói gì thì nói, những người con Phật không thể ngồi đó bi quan trước định luật vô thường. Chúng ta hành hương về xứ Phật, không phải tiêu cực đến những vùng đất thiêng này để góp nhặt cát đá của những vùng đất này về làm quà kỷ niệm suông, hay chúng ta không chỉ đến đó để ngậm ngùi thương tiếc cho một thời vàng son đã qua. Mà những người con Phật phải có thái độ tích cực hơn để phục hoạt Phật giáo ngay chính trên chiếc nôi của nó. Tất cả những bia ký của hoàng đế A Dục, tất cả những ký sự của các ngài Pháp Hiển, Huyền TrangNghĩa Tịnh... sẽ góp phần tích cực trong việc khai quật những Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo. Rồi đây Phật giáo tại Ấn Độ sẽ được phục hoạt cũng như các Thánh tích Lâm Tỳ Ni, Ca Tỳ La Vệ, Vườn Nai, Câu Thi Na sẽ được phục hoạt và sẽ được chính hàng hậu duệ của Đức Thế Tôn và chư Thánh Tăng trên đất nước của Ngài nâng niu gìn giữ.
     Cuộc hành hương về thăm Xứ Phật & Tham Bái Phật Tích của chúng tôi coi như đã hoàn mãn, nhưng hương vị của cuộc hành trình thiêng liêng nầy vẫn còn phảng phất trong tâm tư của mỗi người. Đã chiêm bái hầu hết các Thánh tích, đã nghe hầu hết các truyền thuyết cũng như chánh sử về Đức Phật, chúng ta mới thấy được sự bình dị và mộc mạc của chính Đức Phật. Lúc nào Ngài cũng hoà mình với thiên nhiên, với cỏ cây, với đất trời. Tại Lâm Tỳ Ni, chúng ta thấy dù Ngài là con của một vị vua trị vì một vương quốc trù phú, nhưng khi sanh ra Ngài không sanh ra trong cung vàng điện ngọc, giữa nệm ấm chăn êm, mà Ngài lại sanh ra giữa một vườn cây thiên nhiên của núi rừng Hy Mã. Khi lớn lên, Ngài không khứng chịu cảnh sống trong kinh thành tráng lệ nguy nga với cuộc sống xa hoa trong khi thần dân của Ngài hãy còn trầm luân trong thống khổ triền miên. Thế nên Ngài đã rời bỏ cũng vàng điện ngọc, ra đi về với núi rừng để tầm đạo giải thoát. Khi Ngài thành đạo dưới cội Bồ Đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, cũng trên một vùng đất hoang dã của khu Gaya. Lúc chuyển Pháp Luân, Ngài đã làm rung chuyển đất trời trong một khu Vườn Nai thanh u tĩnh mịch chứ không tại một đền tháp nào như bao nhiêu đạo sĩ thời bấy giờ. Để rồi cuối cùng trước khi nhập diệt, Ngài lại cũng về một nơi vắng vẻ của vùng Câu Thi Nabuông bỏ xác thân tứ đại giữa hai hàng cây Sa La. Ngài quả thật là một vĩ nhân, một bậc đại giác ‘vô tiền tuyệt hậu.’ Ngài là một bậc Thánh đã khai mở chân lý giải thoát cho chúng sanh mọi loài, rồi sau đó Ngài an nhiên ra đi, không muốn để lại một dấu tích nào tại những nơi hoang dã. Thế nhưng hậu bối đời sau chúng con vẫn muốn tìm về những dấu tích ấy, cho dù những nơi ấy ngày nay chỉ còn trơ lại những nền tháp hay những đống gạch vụn vỡ. Nhưng đối với chúng con, tất cả đều là đi tích khai sanh ra một nền văn hoá thật vĩ đại, thật tuyệt vời mà chúng con đang thọ hưởng. Riêng đối với dân tộc Việt Nam chúng ta, đạo Phật và dân tộc quê hương tương quan như xương máu với thịt da. Sự thịnh suy thăng trầm của đạo pháp và đất nước đã bao đời nay gắn liền nhau như hình với bóng. Hình ảnh đấng Cha Lành lại một lần nữa đậm nét trong mỗi chúng ta. Ngài cũng là một con người như bao nhiêu con người khác nhưng Ngài đã dũng cảm vượt thoát khỏi bờ mé sanh tử để tìm đường giải thoát cho chúng sanh vạn loài. Chính vì vậy mà từng nơi chúng ta chiêm bái, từng chiếc lá Bồ Đề rơi rụng trong Bồ Đề Đạo Tràng, từng đống gạch vụn vỡ nơi Vườn Lâm Tỳ Nithành Ca Tỳ La Vệ, hay từng nhúm cát, từng giọt nước trên sông Hằng, hoặc những chú nai vàng ngơ ngác trong khu Vườn Lộc Uyển… đều là những bài pháp thật, những món quà muôn thuởĐức Thế Tôn như muốn trao truyền lại cho chúng ta trong lần trở về tìm lại cội nguồn nầy. Và phải thật tình mà nói, ai trong chúng ta đều vẫn còn mang tâm trạng ngậm ngùi, dù rằng người con Phật ai ai cũng hiểu rõ luật vô thường, nhưng làm sao khỏi ngậm ngùi cho một thời hoàng kim của những nơi thiêng liêng, những nơi đã từng lưu lại bóng dáng của đấng Cha Lành. Ngậm ngùi cho thân phận kém phước vô duyên nên không được sanh ra vào thời có Phật, để rồi hôm nay dù có được diễm phúc đến đây, đến tận nơi, thấy tận mắt những dấu tích một thời đã ôm ấp từng bước chân đi của Đức Phật, chúng ta chỉ còn biết xúc độngtự hứa với lòng quyết chí đi theo bước chân Ngài. Chúng con xin nguyện đem sự tinh tấn tu trì nơi tự thân, và chúng con cũng nguyện đem hết những an lạc, tỉnh thứchạnh phúc mà mình đang có được trong tu tập chia sẻ đến chúng sanh mọi loài, để ai nấy đều có được sự an lạc, tỉnh thứchạnh phúc như nhau. Đây chính là những gì mà chúng con muốn cúng dường lên mười phương chư Phật.
     Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành tri ân thầy Bổn Sư, Hoà Thượng Thích Giác Nhiên, Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới, người đã tận tình dạy dỗ từng li từng tí trên bước đường hướng thượng. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm tạ chư Tăng Ni sinh du học tại Ấn Độ như các vị Minh Thành, Giác Hành, Minh Huệ, Minh Hoa, Minh Thường, Minh Sang, Giác Phổ, và các sư cô Liên Phụng, Liên Mẫn, Liên Hiệp, Liên Quí, Liên Trân… đã tận tình hướng dẫn các đoàn hành hương trong suốt cuộc hành hương về thăm xứ Phật. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm tạ các anh Thiện Minh, Thiện Tài, Thiện Trí, Thiện Phước, Viên Giác… đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trong suốt cuộc hành trình. Cuối cùng, chúng tôi xin hồi hướng công đức đến tất cả mọi người tham dự thầu sự trong chuyến hành hương, hay chỉ tham dự qua sự tường trình của chúng tôi đều được tròn đầy phước báu với cuộc sống an lạc, tỉnh thứchạnh phúc. Nguyện cầu Hồng ân Tam Bảo luôn gia hộ cho mọi người luôn an lạc trên bước đường hướng thượng. Mong một ngày không xa nào đó pháp giới chúng sanh đều sớm quy ngưỡng dưới ánh Từ Quang của Đấng Từ Phụ, để cùng nhau theo chân Ngài bước theo con đường giải thoát, hạnh phúcan lạc miên viễn. Mong Lắm thay!!!
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
14/10/2014(Xem: 6614)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.