QUÁN KHÔNG
Một câu chuyện về quán "Không"
Trúc Nguyên kể
Một vị
thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được
rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên
phá sản,
nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không
tìm ra cách
giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử.
Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái:
- Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
Cô gái buồn bã nói:
- Tôi bị người yêu ruồng bỏ, tôi không muốn sống nữa, bởi vì không có anh ấy tôi không sống nỗi.
Vị thương gia vừa nghe xong lập tức nói:
- Ồ! Lạ nhĩ, sao lúc chưa có bạn trai, cô có thể tự sống được.
Cô gái vừa nghe xong liền bừng tỉnh và bỏ ngay ý định tự tử.
Ngay lúc đó vị thương gia nọ cũng chợt nhận ra rằng: Khi chưa giàu có ta vẫn sống bình thường, ta cũng tay trắng làm nên mà!
Lúc đó cô gái quay sang hỏi vị thương gia:
- Đêm hôm lạnh lẽo như vậy, anh ra đây để làm gì?
Vị thương gia ậm ừ trả lời:
- Ừ… đâu có làm gì, chỉ là tản bộ chút vậy thôi”.
Thì ra, dù đã mất tất cả nhưng thực sự cũng chỉ bằng lúc ta chưa có mà thôi. Đây là một tuệ giác lớn! Phần lớn thế hệ chúng ta từng sinh ra trong chiến tranh, lớn lên trong giai đoạn đất nước đói nghèo, gia sản chỉ gói gọn trong một chiếc ba lô nhưng vẫn yêu đời, tin tưởng vào tương lai tươi sáng thì giờ đây rủi thời dẫu có thất thế sa cơ đến tay trắng cũng chẳng đến nỗi nào, vì trước đây ta có cái gì đâu! Ai thấy được điều này là có trí tuệ. Vì khổ đau, vật vả, thù
hận thậm chí quyên sinh khi mất mát xảy ra, xét cho cùng cũng chỉ thiệt
cho mình.
Nhờ quán không nên người con gái trong câu chuyện trên khi mất người yêu nghĩ rằng không có người yêu thì không
sống nỗi, chợt thấy rõ rằng trước khi chưa gặp “kẻ phản bội” kia thì ta
vẫn sống vui, liền lập tức đổi ý không trầm mình xuống sông nữa. Người thương gia trắng tay cũng đổi ý khi ngộ ra rằng trước đây ta cũng từ tay
trắng mà lên. Bây giờ trắng tay nhưng cũng chỉ bằng ngày xưa chứ chưa mất mát tí gì.
Con người sinh ra đời với hai bàn tay trắng và dù thành công hay thất bại thì cũng trở về cát bụi với hai bàn tay không, vậy thì sá gì với được mất, có không, vì vô thường thay đổi vốn là bản chất của cuộc đời này. Chúng ta hãy quán chiếu thật sâu sắc vào sự chuyển biến vô thường của cuộc đời để sống bình thường trước mọi biến động có thể xảy đến với ta bất cứ lúc nào.
(http://www.lieuquanhue.vn/index.php/9/5801.html)
_____________________________________________________________
LỜI BBT:
Theo
tông Thiên Thai của ngài
Trí Giả đại sư,ngài
áp dụng pháp
Tam quán, quán Không, quán Giả, quán Trung,
y cứ bài kệ trong quyển
Trung Quán Luận của Bồ-tát
Long Thọ:
Nhân duyên sở sanh pháp
Ngã thuyết tức thị không
Diệc danh vi giả danh
Diệc danh trung đạo nghĩa.
Nhân duyên sanh các pháp
Ta nói tức là không
Cũng gọi là giả danh
Cũng gọi nghĩa Trung đạo.
Thấy các pháp do nhân duyên sanh, Thể tánh đều không tức là quán Không. Thể tánh các pháp là không, song khi duyên hợp giả có, tức là quán Giả. Không giả đều buông, chỉ còn nhất tâm Chân như, tức là quán Trung đạo đệ nhất nghĩa. Để biết thêm về quán Không, xin mời qúy độc giả xem bài dưới đây của đại sư Ấn Thuận:
Quán không của Tam Luận
Đại sư Ấn Thuận
Thích Nguyên Chơn dịch (Trích từ Diệu Vân Tập)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác. Luận Đại Trí Độ 12 nêu ra 3 loại Không là Phân phá không, Quán không và Thập bát không. "Phân phá không" tức là Tích pháp không (Không, do phân tích) mà tông Thiên Thai đã nói. Như lấy bông vải làm ví dụ, nếu phân tích sợi bông vải này đến cực vi, rồi phân tích đến lúc không còn cái gì để phân tích được nữa, tức hiện ra tướng Không, vì thế cực vi gọi là Lân hư. Đó là luận về mặt vật chất chiếm hữu không gian; còn về thời gian thì phân tích đến sát-na, tức một niệm ngắn nhất, không còn tướng trước sau, lại phân tích đến khi không còn mang đặc tính của thời gian nữa, thì cũng hiện ra tướng Không. Từ pháp Phân phá này mà phân tích đến "không" tất cả những tồn tại trong thời gian và không gian. "Quán không" là nói từ tác dụng của quán tâm. Như quán bông vải là xanh thì thành bông vải xanh, nếu quán là màu vàng tức thành bông vàng ... Quán 10 biến xứ, chính là trình bày cụ thể phương pháp này. Do phương pháp quán Không mà biết cảnh sở quán là không. Ví dụ như chỉ một người nữ mà kẻ oán thù thấy thì sân hận, tình nhân thấy thì yêu thích, con thấy thì kính mến, chim thú thấy thì sợ hãi bỏ chạy. Vì thế, thương ghét, đẹp xấu đều tùy theo quán tâm bất đồng mà thay đổi. Vì quán cảnh không thật thể nên gọi là Quán không.
Trong 18 Không thì Kinh Bát-nhã chú trọng đến Tự tánh không. Tự tánh không là bản thể của bất cứ một pháp nào, bản thể này bất khả đắc, mà đương thể tức không. Luận Đại Trí Độ tuy có nói đến 3 loại Không quán, nhưng chưa phân biệt về triệt để và không triệt để. Căn cứ theo các bộ luận của ngài Long Thọ thì 3 loại Không quán này đều khiến cho người thấu đạt nghĩa Không. Vì thế Luận Đại Trí Độ gồm thâu tất cả mà nói có 3
loại Không. Nếu khảo sát tỉ mỉ sự giải thích của các pháp Đại Tiểu thừa, thì "Phân phá không" là phương pháp thường dùng của các Luận sư A-tỳ-đạt-ma. Như Hữu bộ, dùng quán huệ phân tích Sắc đến Lân hư, vượt khỏi Lân hư tức là Không. Nhưng Hữu bộ không thừa nhận tất cả pháp đều Không, trái lại thừa nhận cực vi có tự tánh. Nhờ phân tích mà biết những
sự vật nào đó là giả hợp có, những cái nào là nguyên tố (cực vi sau cùng) cho giả hữu sở y.
Đối với Tâm pháp thì cũng dùng phương pháp này để phân tích đến một niệm
sát-na. Phương pháp này đã không thể đạt đến tất cả đều không, trái lại
trở thành chỗ căn cứ cho tự tánh thật hữu. Như phân tích cực vi đến chỗ
cuối cùng là có ngôn thuyết, có phương pháp phân tích, rồi đến có ngôn thuyết mà không thể phân tích, cũng có ngôn thuyết có phương pháp mà không phân tích được. Nhưng thế nào đi nữa, cuối cùng cũng là cực vi có tánh thật tại. Cổ nhân nói "Thanh gỗ 1 thước, mỗi ngày cắt đi mãi mãi vẫn không bao giờ hết". Pháp Phân phá không, vốn là "Tán không" nói trong Kinh A-hàm, tuy không được triệt để, nhưng có thể làm phương tiện,
vì thế ngài Long Thọ cũng có dẫn dụng.
Quán không chính là pháp quán mà các nhà Duy Thức sử dụng. Phương pháp này các nhà Kinh bộ từ xưa đã ứng dụng rất phổ biến. Họ nói 12 xứ (căn cảnh) không thật có, tức thành lập cảnh Sở quán chẳng thật. Sau này các nhà Duy Thức Đại thừa sử dụng pháp Quán không này một cách cực đoan. Như
nói : "Quỷ, bàng sanh, trời, người, mỗi mỗi tùy theo chỗ cảm ứng mà cảnh hiển hiện sai khác, nghĩa này không chân thật". Như cá thấy nước là
nhà, trời thấy là lưu ly, quỷ thấy là máu mủ, người thấy là nước trong.
Từ điều này có thể thấy các cảnh, nhà hoặc nước v.v... chẳng thật, chỉ là tùy theo nghiệp báo mỗi loài mà có sự nhận thức không giống nhau.
Kinh A-tỳ-đạt-ma Đại thừa, các sư Du-già đều căn cứ vào pháp này để thuyết minh ngoại cảnh không thật có, thành lập Vô phân biệt trí, thể chứng tự tánh ly ngôn. Điều này có thể tham khảo trong Luận Nhiếp Đại Thừa thì rõ ràng hơn. "Quán không" và "Phân phá không" giống nhau. Phân phá không nhờ phân tích giả thật mà thành lập giả danh không. Quán không, trên quan điểm nhận thức luận thì nói đến tánh vô sở hữu của cảnh
sở quán. Quán không, cũng không thể đạt đến nhất thiết pháp rốt ráo không, vì quán Không hạn định ở việc phải dùng tâm năng quán quán xét ngoại cảnh bất khả đắc, bản thân của tâm năng quán lại không thể dùng quán Không như thế để thành lập nó là không. Vì thế kết quả việc ứng dụng quán Không, tất nhiên sẽ đạt đến trạng thái còn tâm không còn cảnh.
Cảnh không tâm có, chắc chắn cũng có thể làm phương tiện để đạt đến nghĩa Không. Nhưng theo một ý nghĩa nào đó mà luận thì không chỉ sở không (cảnh) không thể triệt để, mà còn không cả cái chẳng nên không. Học giả "Phân phá không" thừa nhận cực vi và tâm, tâm sở có tự tánh, nhưng các hiện tượng do cực vi hòa hợp, hoặc ngã do 5 uẩn hòa hợp, thì đều cho là giả. Họ quên đi tánh duyên khởi của giả pháp, tức họ không thừa nhận tất cả pháp là duyên khởi. Do đó một mặt vừa không thể đạt đến
rốt ráo không, mà thành Tăng ích chấp; một mặt khác, pháp duyên khởi không nên phá hoại cũng quán thành không, tức trở thành Tổn giảm chấp. Các học giả Duy Thức đặt pháp duyên khởi vào pháp tâm và tâm sở (Y tha khởi tánh), nên không thể đạt đến tâm Vô tự tánh. Đối với tánh duyên khởi của lục trần (cảnh) thì không quan tâm đến, vì thế không thể khế hợp Trung đạo. Bồ-tát Long Thọ phát huy nghĩa Không, là xác lập nơi Tự tánh không, chẳng phải chỉ phần này là không, mà phần kia chẳng phải không; cũng chẳng phải cảnh không mà tâm chẳng không.
Luận Đại Trí Độ 74 có nêu 3 loại không là Tam-muội (Tâm) không, Sở duyên
(cảnh) không và Tự tánh không. Tam-muội không khác với quán Không trong
ba loại Không nói ở trước. Tức khi quán Không (3 Tam-muội) thì nơi tâm năng quán hiện tướng không. Như Thập biến xứ quán, khi quán màu xanh thì
tất cả pháp đều xanh, khi quán vàng thì tất cả pháp đều vàng, xanh vàng
đều là cảnh quán từ quán tâm. Như thế Không cũng do quán tưởng từ Không
quán mà có. Trong Kinh thường nói các pháp "Không" chỉ nương theo quán huệ năng quán mà quán đó là Không, vì không chấp trước ngoại cảnh và lìa
hý luận, nên gọi là Không, thật ra các pháp chẳng phải Không. Điều này nên nói rằng Không là do tâm quán tưởng mà thành, chứ chẳng phải là bản tướng của các pháp. Như thế, nếu chấp có cái bất không, thì không thể đạt đến và cũng sẽ không thừa nhận giáo thuyết liễu nghĩa Nhất thiết không.
"Sở duyên không", trái ngược với
Tam-muội không. Tức khi
cảnh giới Sở duyên không, bấy giờ Tâm năng quán mới gá vào
cảnh sở duyên không mà quán đó là không.
Sở duyên này không, tất nhiên năng quán chẳng
thể không. Loại này gần giống với
Quán Không trong ba loại Không
nói trước. Nhưng
Quán Không là luận theo cảnh tùy
quán tâm mà
biến chuyển, còn
Sở duyên không là nói theo
cảnh sở duyên không thật. Ngài
Long Thọ từng
bình luận : "Có người nói : Ba Tam-muội,
vô tướng,
vô tác,
tâm số pháp là không; vì không cho nên quán các pháp là không. Có người nói : Các pháp
sở duyên như sắc ... đều không. Vì
sở duyên không cho nên gọi là Không Tam-muội". Đối với việc này Phật nói : "Chẳng phải do Không Tam-muội mà nói không, cũng chẳng vì các pháp
sở duyên như ngoại sắc ...
mà không..., lìa hai bên này mà nói
Trung đạo, đó là nói các pháp do
nhân duyên hòa hợp sanh. Các pháp
hòa hợp này không
nhất định cho nên gọi là không". Ngài
Long Thọ nói : "Không có pháp
nhất định cho nên không". Trong Kinh Bát-nhã nói tất cả pháp do duyên hợp mà thành, duyên hợp tức không, không này, là
Tất cánh không vô tự tánh. Do đây có thể biết,
nghĩa Không của
Trung quán là nếu theo
nhân quả của
pháp duyên khởi, thì từ
duyên khởi mà biết
vô tự tánh, từ
vô tự tánh mà biết tất cả
pháp
rốt ráo đều không. Nếu
thiên chấp hoặc
Tam-muội không, hoặc
Sở duyên không, thì chỉ trên mặt
nhận thức luận cũng không thể từ
duyên khởi mà biết không, không
đạt đến kết quả tất cả pháp đều không.
Tự không và Tha không, là hai loại
Không quán bất đồng. Như quán kia là không, nếu luận theo Tự không thì
đương thể của hoa là không, theo Tha không thì hoa này
không thật có, nên nói là không. Nhưng chẳng phải
bản thân của hoa là không. Phẩm
Chân Thật Nghĩa trong LUẬN DU-GIÀ ghi : "Do pháp kia cho nên không, pháp kia thật là không. Từ đây mà kia không, nên
đây thật là có; do
đạo lý ấy, cho nên nói là không". Nghĩa là do pháp này không mà bỏ pháp kia, không có pháp kia nên nói là không, chỉ nói pháp này có. Các nhà
Duy Thức nói Không, cho dù
giải thích khéo léo thế nào đi nữa,
vĩnh viễn cũng không thể ra khỏi vòng Tha không này. Tha không luận này, không phải do các nhà
Duy Thức sáng lập, mà do Tát-bà-đa
bộ khởi xướng.
Luận sư nổi tiếng Thế Hữu từng nói Không và
Vô ngã giống
nhau, vì
Vô ngã là
liễu nghĩa rốt ráo, còn Không chẳng được như thế. Như nói
năm uẩn vô ngã, đó là
rốt ráo, thật là
vô ngã.
Nếu nói
năm uẩn là không, thì chẳng
rốt ráo. Vì
năm uẩn vô ngã, cho nên Phật nói không, nhưng
năm uẩn chẳng thể là không. Nếu nói "Các hành là không", tức là nói các
hành không có
Ngã và Ngã sở, cho nên không, chứ chẳng phải "hành" là không. Các nhà
Duy Thức kế thừa tư tưởng này, cho nên nói từ
Y tha không mà
xa lìa tướng
Biến kế sở chấp, gọi đó là Không;
nhưng
Y tha khởi là
tự tướng hữu, chẳng thể nói là không. Tha không luận như thế đã sớm
kết hợp với
Tự tánh hữu một cách
chắc chắn và tất nhiên rồi. Nói
xa hơn thì
tư tưởng Tha không đã thấy trong Kinh Trung A-hàm, như
Kinh Tiểu Không trong Trung A-hàm chính là nói về Tha không luận.
Tư tưởng này có
liên quan đến Phật giáo ở Tây bắc
Ấn Độ. Tha không
trong
Kinh Tiểu Không, tức là trừ bỏ một vài pháp này, lưu giữ một vài pháp kia, vốn là pháp "Thiền định thứ tự", gọi đó là Không mà chẳng thể lập
Nhất thiết không. Kinh này dùng "Lộc tử mẫu
giảng đường đều không" làm dụ.
Lộc tử mẫu giảng đường không, tức là nói trong
giảng đường không
có nai, dê ... Vì thế nói là không, mà chẳng phải là
giảng đường trống không, cũng chẳng phải là trong
giảng đường không có Tỳ-kheo, cũng chẳng
phải
nơi khác không có dê nai, như thế mới gọi là không. Đây là
Không quán đơn giản.
Kinh Lăng Nghiêm gọi đây là "Bỉ bỉ không" quá
thô thiển, không nên
sử dụng. Loại
Không quán "Do kia nên không, kia thật là không,
do nơi đây mà kia không, nên đây thật có", rất nhiều dạng thức, nhưng
phương pháp căn bản vẫn không thay đổi. Vì thế
nghĩa Không của các nhà
Duy Thức dùng
Tha không luận của
Phật giáo Tây bắc Ấn làm gốc, tuy có
tiếp nhận thuyết
Nhất thiết pháp không của Đại thùa, nhưng vẫn còn
cách biệt. Tự không cũng bắt nguồn từ A-hàm. Như KINH TẠP A-HÀM ghi : "Thường là không
...,
ngã ngã sở là không, vì
tự tánh như thế". Nghĩa là
đương thể của thường,
ngã và ngã sở tức không; chẳng phải là ngoài không có riêng thường, ngã,
ngã sở chẳng không. Thường, ngã,
ngã sở sở dĩ là không, vì
tự tánh của nó như thế. Như Kinh
Thắng Nghĩa Không (335) trong TẠP A-HÀM
ghi : "Vô ngã,
vô ngã sở mà có
nghiệp báo nhân quả lưu chuyển". Nhưng đó chẳng phải là trong
Thắng nghĩa đế có
nhân quả nghiệp báo lưu chuyển.
Vì thế nói "Tục số pháp, tức là đây có nên kia có, đây sanh nên kia sanh, nghĩa là
Vô minh duyên Hành ...".
Tương tục hữu của
Duyên khởi nhân quả là
Thế tục đế, trong
Thắng nghĩa đế không có
ngã và ngã sở, tức
là Không.
Tóm lại, Tự không là từ nơi
đương thể của pháp mà
đạt được không, Tha không thì
từ không của pháp này mà trừ bỏ pháp kia để đạt không. Vì thế,
Thế tục giả danh không và
Thắng nghĩa tất cánh không của
Trung Quán, các nhà Tha không luận không thể
thừa nhận. Họ căn
cứ theo ý
kiến của chính mình mà tu chỉnh rằng : "Nhất thiết
giai không là
bất liễu nghĩa". Điều này
trái với lập trường của
Tự tánh không. Sau này các
học giả Duy Thức khi luận về Không, thì chỉ nói đến việc trừ bỏ
Biến kế
sở chấp. Như thế, không
chỉ không thể nói
duyên khởi từ Không hiển, mà chẳng thể ngay đó
xác nhận được các pháp đều không, vì thế Tự không và Tha không
căn bản đã bất đồng.
Giả sử dẫn dụng
Thành Duy Thức Luận : "Nếu chấp
Duy thức là thật có, cũng là pháp chấp", rồi cho rằng
Duy Thức cũng nói
Tâm Tâm sở pháp của
Duyên khởi là không, thì không
tránh khỏi chuyện gán ép. Tôi
cảm thấy Nhất thiết giai không của các nhà
Trung Quán, chủ yếu được
hiển thị từ
nhân quả duyên khởi, còn tông
Duy Thức thì bàn từ mặt
nhận thức luận. Nhà
Duy Thức cho rằng từ
nhân quả duyên khởi để luận về không là chung cho
Tiểu thừa, không
triệt để.
Đại thừa cần phải từ
nhận thức mà
thuyết minh. Như
LUẬN NHIẾP ĐẠI THỪA ghi : "Tự nhiên tự
thể không,
tự tánh chẳng bền trụ, như chẳng có
chấp thủ, nên nói vô tự tánh".
Vô tự tánh, chẳng phải là nói
tự tánh hoàn toàn không có.
Như pháp vị lai thì sanh ở
vị lai, ắt phải đợi duyên,
nhất định không thể
tự nhiên sanh, vì thế gọi là
Vô tự tánh.
Quá khứ đã diệt là
vô thể, tức là nói Tự
thể không.
Hiện tại sanh diệt không dừng là "Tự
tánh không bền trụ", tức theo sự
lưu chuyển của
nhân quả ba đời mà nói
Vô tự tánh. Kinh A-hàm cũng có cách nói này. Vì thế Nhiếp Luận cho đó là pháp chung với
Tiểu thừa. "Như
chẳng có
chấp thủ, nên nói Vô tự tánh", đây là luận theo
Biến kế vô tự tánh, nếu đối với tất cả pháp mà chấp
tự tướng,
cộng tướng,
ngã tướng,
pháp tướng đều là theo tên lập nghĩa, y nghĩa lập tên, là
giả danh lập bày, chẳng phải là
tự tướng hữu. Lìa phi
Tự tướng hữu của
Biến kế này tức là
Không vô tự tánh của
Đại thừa. Đây là điều mà tông
Duy Thức cho rằng chẳng cùng với
Tiểu thừa, nhưng nếu
nghiên cứu kỹ câu : "Tướng
chấp
thủ chẳng có" thì Kinh A-hàm cũng thường nói đến "Bất khả thủ, bất khả đắc". "Như chẳng có chấp thủ", thì các
học giả Thanh văn cũng có
thể đạt
đến vậy.
Kinh 926 trong TẠP A-HÀM ghi : "Khi Ca-chiên-diên nhập vào
chân thật (
Thắng nghĩa thiên), thì
không chấp thủ tất cả tướng mà nhập định". Bản dịch khác lại ghi : "Chỉ vì nhờ vào
nhân duyên hòa hợp mà có các tên, quán các pháp này
không tịch thì không thấy có pháp và phi pháp". Phẩm
Chân Thật dẫn câu này và cho là
giáo chứng của
pháp tánh ly ngôn. Thế thì đâu thể nói pháp
Thanh văn không có ? Do đó có thể biết, trên mặt
nhận thức không chấp thủ các tướng là không thì cũng còn là cộng
Tiểu thừa.
Y cứ vào
pháp duyên khởi nhân quả để rõ
vô tự tánh không, thì chẳng giống với ba thuyết của Nhiếp Luận.
Duyên sanh tức
vô tự tánh,
tự tánh bất khả đắc là không, vì
vô tự tánh không, cho nên
hý luận chấp có tự tánh là
điên đảo, mà chánh quán
như thật tức chẳng
chấp thủ các tướng. Khi nhập
Thắng nghĩa thiên, chẳng
chấp thủ tất cả tướng, nhưng tất nhiên sẽ không lìa
nhân quả duyên khởi mà
an lập. KINH BÁT-NHÃ ghi :
"Nếu thật có một pháp thì Phật và Bồ-tát lẽ ra phải có lỗi lầm". Có
chấp trước tức là pháp
nhiễm ô, không
thanh tịnh. Điều này Kinh A-hàm cũng đã có nói đến. Y vào
pháp duyên khởi nhân quả để
hiển thị tất cả
pháp không là
Không môn, chẳng
chấp thủ tất cả tướng là
Vô tướng môn.
Không môn,
Vô tướng môn,
Vô tác môn, tuy
phương tiện có
thể không đồng, nhưng thật ra một ngộ thì tất cả đều ngộ.
Tam giải thoát môn cùng duyên
thật tướng.
Trung Quán dùng
Không môn của
duyên khởi vô tự tánh làm gốc,
nhưng cũng luận đến
Vô tướng môn. Còn các nhà
Duy Thức chỉ
từ Không quán để nói "chẳng bằng có sở thủ" thì không thể ngay nơi
nhân quả mà
đạt được không. Đây là điểm bất đồng của hai tông. Trên đã nói
duyên khởi vô tự tánh, là để nói đến định nghĩa của Không. Điều mà ngài
Long Thọ nói đến nhiều, chính là điểm bất đồng với các
học phái khác. Vì thế không thể theo văn hiểu nghĩa mà thấy các danh từ
Duyên khởi,
Tự tánh không rồi vội cho là
đồng quy về một mối.
(Thư Viện Hoa Sen)