Ăn Chay Để Chống Lại Biến Đổi Khí Hậu

10/12/200912:00 SA(Xem: 42965)
Ăn Chay Để Chống Lại  Biến Đổi Khí Hậu

ĂN CHAY ĐỂ CHỐNG LẠI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
TS. Nguyễn Thọ Nhân

 

Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới. Bảo vệ Môi trường để có một thế giới tốt lành trong đó con người được phát triển hài hòa là điều mong ước của nhân loại.

Nhưng từ vài thập niên trở lại đây, các nhà khoa học còn phát hiện ra một hiện tượng mà các hệ lụy đã bắt đầu tác động lên đời sống của tất cả chúng ta: đó là hiện tượng biến đổi khí hậu.

Những hệ lụy ấy thật muôn hình muôn vẻ nhưng loài người đã bắt đầu cảm nhận được sức tàn phá của chúng ngày một tăng cao.Khoa học đã phát hiện và đánh giá mức độ nghiêm trọng của hiện tượng biến đổi khí hậu trong hiện tại cũng như từ lâu chúng ta đã cảm nhận được các tác hại của việc môi trường bị hủy hoại. Nếu không có những tác động tích cực để bảo vệ môi trường và giảm thiểu các tác nhân gây biến đổi khí hậu, thì trong tương lai, con cháu chúng ta phải gánh chịu những hậu quả vô cùng to lớn.

Đứng trước một vấn đề cấp báchnghiêm trọng ở tầm cỡ này, toàn thể cộng đồng quốc tế đã vào cuộc để tìm hiểu nguyên nhân và diễn biến của hiện tượng biến đổi khí hậu nhằm tìm ra những biện pháp ứng phógiảm thiểu các tác nhân gây hại. Liên Hiệp quốc, qua hai cơ quan chuyên môn của mình là Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) và Chương trình Môi trường của Liên Hiệp quốc (UNEP) đã cho thành lập Ủy ban Liên Chính Phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) năm 1988. IPCC tập hợp được các chuyên gia hàng đầu trên thế giới trong tất cả các lĩnh vực có liên quan đến biến đổi khí hậu và đã công bố 4 báo cáo đánh giá tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới vào những năm 1990, 1995, 2001 và 2007. Tất cả các báo cáo ấy đều được đánh giá rất cao và được các nhà khoa học trên thế giới công nhận như những tài liệu chính thức về biến đổi khí hậu. Ngay sau khi cho công bố báo cáo lần thứ tư năm 2007, IPCC được trao giả thưởng Nobel Hòa bình (cùng với cựu phó tổng thống Mỹ Al Gore) về các hoạt động của mình.

Biến đổi khí hậu và các hệ lụy của nó

Một trong những kết luận quan trọng của các báo cáo IPCC là các biến đổi khí hậu hiện nay đều có xuất xứ từ các hoạt động của con người . Thật vậy, các tác nhân chính gây biến đổi khí hậu là những khí thải nhà kính như đioxit cacbonic (CO2), mêtan (CH4), oxit nitrơ (N2O)…Người ta nhận thấy nồng độ của các chất khí ấy trong khí quyển đã tăng lên đột biến từ khoảng 250 năm trở lại đây tức là từ khi bắt đầu kỷ nguyên công nghiệp hóa mà khởi điểm là khoảng năm 1750. Đi kèm với việc gia tăng nồng độ của các khí thải nhà kính là các hiện tượng biến đổi khí hậu mà đặc trưng nhất là việc gia tăng nhiệt độ trái đất với những hệ lụy quan trọng của nó. Những biểu hiện của hiện tượng biến đổi khí hậu còn gồm có:

- Mực nước biển dâng cao khi các tấm băng ở hai cực tan dần,

- Lượng mưa thay đổi thất thường, nhiều vùng trên thế giới sẽ có hạn hán kéo dài, nhiều vùng khác lại bị lũ lụt trầm trọng

- Lưu lượng nước trên các sông ngòi thay đổi thất thường , khi thì quá cao trong mùa mưa và khi thì quá thấp trong mùa khô

-Các hiện tượng cực đoan như bão, lũ sẽ tăng cao cả về tần suất và về cường độ.

Dựa trên những mô hình tính toán, các báo cáo của IPCC cũng dự báo các hiện tượng biến đổi khí hậu trong tương lai và đề ra những biện pháp để ứng phógiảm thiểu các tác nhân gây biến đổi khí hậu. Người ta cũng nhận thấy rằng dù con ngườicố gắng đến đâu đi nữa thì cũng chỉ có thể làm yếu đi phần nào các hiện tượng biến đổi khí hậu, các hiện tượng này sẽ kéo dài trong nhiều thế kỷ, thậm chí nhiều thiên niên kỷ.

Trong số các biện pháp đề ra, người ta thường nhắc đến Nghị định thư Kyoto. Đây là một lời cam kết của phần lớn các nước trên thế giới là sẽ giảm lượng phát tán ra không trung của 6 loại khí thải nhà kính mà quan trọng nhất là khí CO2. Nếu thực hiện được các cam kết này, người ta hy vọng là đến giữa thế kỷ 21 nồng độ khí CO2 trong không trung sẽ ổn định ở một giá trị vừa phải và các hiện tượng biến đổi khí hậu sẽ giảm đi được phần nào.

Các tiến bộ nhận thấy được giữa các kỳ công bố của những báo cáo IPCC có nguồn gốc từ việc các nhà khoa học ngày càng hiểu rõ hơn các hiện tượng vật lý gây ra biến đổi khí hậu từ đó đề ra những khuyến cáo cần thiết. Các khuyến cáo chủ chốt nhắm vào việc giảm hay ngừng hẵn việc phát tán ra không trung các khí thải nhà kính, đặc biệt là khí CO2. Vì ngành chăn nuôi gia súc để lấy thịt là một nguồn phát tán khí thải nhà kính quan trọng cho nên có thể nói rằng giảm lượng thịt tiêu thụ trong các bữa ăn trên khắp thế giới là một biện pháp hữu hiệu.

Hiệu ứng nhà kính và các khí thải nhà kính

Trái đất của chúng ta nhận năng lượng nhiệt từ mặt trời qua bức xạ chiếu xuống mặt đất. Khoảng 70% năng lượng này được hấp thụ để làm cho mặt đất ấm lên, 30% còn lại bị phản chiếu trở lại không gian (hình 1). Nhưng vì trái đất phát ra tia bức xạ hồng ngoại ở bước sóng dài nên phần lớn năng lượng bị giữ lại trong các lớp khí đã tích tụ trong khí quyển, nhiệt độ của trái đất vì thế mà còn cao hơn so với khi không có các khí này trong khí quyển. (hình 2). Đây là hiện tượng nhà kính giống như trong các nhà kính mà những người làm vườn trồng hoa quả ở các nước ôn đới sử dụng để giữ ấm cây trồng khi nhiệt độ bên ngoài xuống quá thấp. Từ hàng nghìn năm, các khí thải từ những nguồn thiên nhiên phát ra đã tích tụ trong không trung và đạt đến một nồng độ ổn định, giữ cho trái đất có một nhiệt độ trung bình khoảng 15oC phù hợp với đời sống con người. Nếu khônghiện tượng này, năng lượng nhiệt nhận được từ mặt trời sẽ thoát đi một phần và nhiệt độ trái đất lúc ấy chỉ là -18oC theo các tính toán. Nhưng khi nồng độ của các chất khí ấy lên quá cao thì năng lượng được giữ lại sẽ nhiều hơn và trái đất sẽ ấm lên.

Người ta đã bắt đầu đo nhiệt độ trái đất từ đầu thế kỷ 19 và nhận thấy rằng nhiệt độ này càng ngày càng tăng (hình 3). Qua các tính toán với những kịch bản khác nhau, người ta có thể dự đoán nhiệt độ trái đất vào cuối thế kỷ 21 và xa hơn nữa (hình 4). Các báo cáo của IPCC cho thấy rằng trong 50 năm vừa qua, nhiệt độ trái đất tăng 0,13oC mỗi thập kỷ nghĩa là gấp hai lần mức tăng trung bình trong 100 năm trở lại đây.

Trên hình 4, ta thấy rằng tùy theo từng kịch bản mà đến cuối thế kỷ 21 nhiệt độ trái đất có thể tăng hơn cuối thế kỷ 20 1,8oC (trường hợp lạc quan nhất) hay thậm chí 4oC (trường hợp xấu nhất).

Một minh chứng rõ rệt cho việc trái đất ấm dần lên là hiện tượng tan băng ở hai cực của trái đất và ở nhiều vùng phủ băng tuyết như Greenland hay vùng Patagonia ở Nam Mỹ (hình 5).Một hậu quả của việc tan băng này là hiện tượng mực nước biển dâng cao, Người ta thấy rằng giữa các năm 1870 và 2001, nước biển đã dâng cao 20cm. Giữa năm 1993 và 2006, các vệ tinh đo đạc cho thấy nước biển đã dâng cao 3,1 mm (hình 6).

Khi so sánh với sự gia tăng nồng độ các khí thải nhà kính trong khí quyển, người ta có thể kết luận rẳng chính việc phát tán ra không trung các khí thải nhà kính như CO2 và mê tan là nguyên nhân gây biến đổi khí hậu (hình 7 và 8). Trên hình 7 ta thấy chỉ từ khi bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóa, nồng độ CO2 mới tăng lên đáng kể. Nồng độ này vào năm 1750 chỉ là 280 ppm (ppm= một phần triệu) đến năm 2005 đã lên đến 379 ppm, tức là khoảng 3000 tỷ tấn CO2 hiện có trong khí quyển. Từ năm 2000 đến năm 2005, lượng CO2 trong không trung tăng 26,4 triệu tấn mỗi năm. Đến năm 2100 người ta cố đạt đến một nồng độ trung bình 450 ppm còn nếu không có các biện pháp giảm thiểu, nồng độ này có thể lên trên 950 ppm. Cũng tương tự như thế, nồng độ khí mêtan tăng từ 600 ppb (ppb=một phần tỷ) vào thời kỳ bắt đầu công nghiệp hóa lên 1744 ppb vào năm 2005 (tương đương với 4932 triệu tấn mê tan trong khí quyển).

Để đánh giá khả năng gây biến đổi khí hậu của các loại khí thải nhà kính khác nhau, người ta thường quy về lượng CO2 tương đương.Thí dụ như khí mê tan, mặc dù nồng độ của nó trong khí quyển không đáng kể, nhưng tác động của mỗi phân tử mêtan quan trọng gấp 21 lần một phân tử CO2.

Các nỗ lực của khoa học kỹ thuật hiện nay nhắm tới mục tiêu giảm lượng khí thải nhà kính phát tán ra không trung và tìm cách giảm việc sử dụng các nhiên liệu hóa thạch như than, dầu mỏ qua việc thay thế chúng bằng những nhiên liệu ít phát tán CO2 (năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng….) Trên hình 9, người ta thấy nông nghiệp mà chủ yếu là chăn nuôi cũng tạo ra một lượng khí thải nhà kính quan trọng vì thế cho nên việc giảm các súc vật nuôi lấy thịt là một biện pháp hữu hiệu.

Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu 
trên lương thực, dinh dưỡng

Biến đổi khí hậu sẽ làm giảm sản lượng lương thực trên thế giới và tạo ra các cơn khủng hoảng lương thực trầm trọng.

Khi nồng độ khí CO2 trong không khí tăng lên thì năng suất của một số thực vật gọi là C3 như lúa, lúa mì, đậu nành, khoai tây, rau …tăng lên nhiều hơn các thực vật C4 như bắp, mía , kê, lúa miến. Tuy nhiên chất lượng của chúng có phần giảm đi, thí dụ như hàm lương can xi, tinh bột trong hạt gạo thay đổi cũng như nhiệt độ gelatin hóa của nó.

Nhiệt độ không khí có ảnh hưởng lớn đến năng suất cây trồng vì các loại cây lương thực hiện nay đã thích nghi với nhiệt độ bình thường, sự tăng hay giảm nhiệt độ sẽ làm giảm năng suất của chúng. Người ta dự đoán rằng, với việc trái đất ấm dần lên năng suất nông nghiệp ở các nước đang phát triển sẽ giảm đi từ 9 đến 21%, trong khi ở các nước phát triển năng suất chỉ giảm 6%. Theo báo cáo Stern của chính phủ Anh quốc, nếu nhiệt độ trái đất tăng lên 3oC, giá lương thực trên thế giới sẽ tăng 40%và ở vùng nhiệt đới sẽ có từ 100 đến 500 triệu người thiếu đói.

Các hiện tượng cực đoan như nắng nóng, rét đậm rét hại, bão lũ cũng làm cho sản xuất lương thực bị ảnh hưởng. Trong đợt nắng nóng vào mùa hè năm 2003, sản lượng bắp ở Pháp đã giảm đi 20% so với năm 2002 còn sản lượng hoa quả giảm 25%.

Một ảnh hưởng xấu của biến đổi khí hậu đến sản xuất lương thực xảy ra khi mực nước biển dâng cao. Người ta tính rằng vào năm 2100, mực nước biển sẽ cao hơn mực nước năm 2000 là 0,48 m trong trường hợp tốt nhất (nồng độ CO2 khí quyển là 450 ppm) và là 0,96 m trong trường hợp xấu (nồng độ khí CO2 là 950 ppm) Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 2007, Việt Nam là một trong 5 nước chịu ảnh hưởng xấu nhất của hiện tượng mực nước biển dâng cao (hình 10).

Khi mực nước biển dâng cao 1m, trong số 5 nước nêu trên thì Việt Nam bị thiệt hại nhiều nhất về số dân bị ảnh hưởng (gần 11%), về giá trị GDP bị giảm (11%). về diện tích các đô thị bị ngập (10%) và về diện tích các vùng ngập nước ngập mặn đã bị mất đi. Về tỷ lệ đất nông nghiệp bị mất (7%) Việt nam chỉ ít hơn Ai Cập (13%). Sản lượng nông nghiệp của ta sẽ bị giảm đi khoảng 5 triệu tấn thóc.

Một nguyên nhânliên quan đến biến đổi khí hậu và làm cho an ninh lương thực trên thế giới bị tổn hại: đó là việc nhiều quốc gia chuyển một phần đất trồng cây lương thực thành đất trồng cây sản xuất nhiên liệu sinh học. Một khi không đủ lương thực thì người ta phải chấp nhận sự suy giảm về mặt dinh dưỡng.

Cộng đồng quốc tế hiện nay đang tìm các biện pháp giảm thiểu các khí thải nhà kính, đặc biệtthành phần quan trọng nhất, khí CO2. Các khí khác như mê tan, oxit nitrơ cũng được để ý đến nhiều và người ta thường quy các khí thải nhà kính vào CO2 để có khí CO2 tương đương (CO2e). Mặc dù lượng mê tan trong không trung ít hơn nhiều so với lượng CO2 nhưng tác động của nó để gây ra biến đổi khí hậu lại lớn hơn nhiều, một phân tử mêtan gây ảnh hưởng trên khí hậu gấp 21 lần một phân tử CO2. Đối tương mà khoa học nhắm đến trước hết là các nhiên liệu hóa thạch (than, dầu mỏ…) vì chúng tạo ra nhiều khí thải nhà kính. Ngành chăn nuôi súc vật để lấy thịt cũng là một nguồn tạo ra khí thải nhà kính quan trọng cho nên việc giảm thiểu các loại gia súc cũng là một biện pháp hữu hiệu.

Tổng quan về ngành chăn nuôi trên thế giới

Ngành chăn nuôi súc vật để lấy thịt dùng cho bữa ăn đang phát triển rất nhanh chóng nhất là ở những nước đang phát triển. Lượng thịt sản xuất trên thế giới tăng lên rất nhanh trong những năm cuối của thế kỷ 20:

Năm ....... Sản lượng thịt (triệu tấn)

1950 .......... 45
1980 .......... 73
1990 .......... 170
1997 .......... 210
1999 .......... 217
2000 .......... 233
2002 .......... 239
2006 .......... 276

Từ năm 1950 đến năm 2000, lượng thịt sản xuất trên thế giới đã tăng từ 45 triệu tấn lên 233 triệu tấn tức là khoảng 5 lần trong khi dân số trên thế giới chỉ tăng gấp đôi, từ 2,7 tỷ lên 6,7 tỷ người. Lượng thịt tiêu thụ hàng năm tính theo đầu người ở các nước đang phát triển tăng lên từ 14 đến 28 kg giữa các năm 1980 và 2002, con số tương ứng ở các nước phát triển là 73 và 78 kg, sản lượng thịt trên toàn thế giới tăng từ 73 triệu tấn lên 239 triệu tấn.. Thịt từ các súc vật thuộc loài nhai lại (trâu, bò, dê cừu) tăng ít hơn thịt heo,gà, vịt. Trên hình 11, ta thấy có những thay đổi rất lớn về lượng thịt tiêu thụ hàng năm của mỗi người dân ở một số nước.

Ngành chăn nuôi gia súc để lấy thịt không những tạo ra những lượng khí thải nhà kính quan trọng gây biến đổi khí hậu trong tương lai mà trước mắt nó còn là một nguồn gây ô nhiễm môi trường quan trọng.

Ngành chăn nuôi lấy thịt gây ô nhiễm môi trường

Chăn nuôi là một ngành gây ô nhiễm môi trường rất lớn.

Ô nhiễm không khí : những chất khí như mêtan, ammônhác… bay ra từ các chất thải và phân súc vật gây ô nhiễm trầm trọng chung quanh các trại chăn nuôi lớn

Ô nhiễm nguồn nước: những chất thải ra từ các trại chăn nuôi vào các nguồn nước có thể là ni tơ (dưới dạng ammônhác, Nitơ phân tử, các nitrát,…). 64% lượng ammônhác do con người tạo nên là từ chăn nuôi. Ammônhac trong không khí sẽ gây ra những trận mưa axit rất tai hại. Nitrát là một chất có hại cho sức khỏe con người nhất là trẻ em nếu uống nước có lẫn các nitrat. Phốtpho có trong phân súc vật thải vào các nguồn nước cũng là một chất gây ô nhiễm, tuy không độc như ni tơ. Trong một tài liệu của Tổ chức Lương Nông quốc tế năm 2004, người ta đã xác định lượng nitơ và phốt pho chảy vào biển Đông từ Việt Nam, Thái Lan và tỉnh Quảng Đông (Trung quốc) có nguồn gốc từ việc chăn nuôi heo. Riêng đối với Việt Nam, các ô nhiễm Nitơ và Phốt pho từ việc nuôi heo chiếm 38 và 92% của tổng lượng trong các nguồn nước, trong khi tỷ lệ đóng góp của các loại nước thải gia đình chỉ là 12 và 5%.

Các loại vi sinh vật và ký sinh trùng thải ra từ phân, rác chăn nuôi cũng là một hiểm họa lớn cho sức khỏe con người.

Ngoài ra ngành chăn nuôi còn thải vào các nguồn nước uống những kháng sinh, hoóc môn tăng trọng đã được đưa vào thức ăn gia súc. Ngoài các tác động đến môi trường của những phân, rác trong chăn nuôi thì các khâu giết mổ, thuộc da …cũng đều gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Các kim loại nặng do súc vật thải ra sau khi ăn các thực phẩm có trộn thuốc chữa bệnh hay thuốc tăng trọng cũng có hại cho sức khỏe con người.

Một tác động lớn đến môi trường của ngành chăn nuôi là việc chiếm giữ tài nguyên nước, đặc biệt quan trong ở các vùng khô cằn. Ngành chăn nuôi cần rất nhiều nước, sử dụng 8% lượng nước do con người khai thác không những để cho súc vật uống (nước chiếm từ 60 đến 70% trọng lượng cơ thể) mà còn trong việc trồng cây thực phẩm cho súc vật. Trên thế giới, 90% đậu nành được dùng làm thức ăn gia súc. Nếu để sản xuất 1kg bắp người ta chỉ cần 900 lít nước thì muốn có 1kg thịt bò, lượng nước cần dùng lên đến 15500 lít.

Ngành chăn nuôi cũng chiếm giữ rất nhiều diện tích đất để làm các đồng cỏ và để trồng các cây thực phẩm cho súc vật. Đất làm đồng cỏ chiếm đến 26% diện tích đất trên thế giới không bị băng tuyết bao phủ, đất trồng thức ăn chăn nuôi chiếm 33% đất trồng trọt được trên thế giới. Khoảng 70% rừng vùng Amazon đã bị phá để dùng cho chăn nuôi.

Thịt là một sản phẩm sử dụng không hợp lý

Thịt là một loại prôtêin cao cấp nhưng việc sản xuất ra nó tỏ ra rất lãng phí. Người ta tính rằng, hiện nay trên thế giới 1/3 ngũ cốc được dùng làm thức ăn trong chăn nuôi cũng như 90% sản lượng đậu nành. Để có được 1kg thịt bò người ta cần 10 kg ngũ cốc làm thức ăn cho chăn nuôi, 1 kg thịt heo cần từ 4 đến 5,5 kg ngũ cốc, 1 kg thịt gia cầm cần 2,1 đến 3 kg ngũ cốc.

Phải sử dụng từ 7 đến 16 kg đậu nành để tạo ra 1 kg thịt do đó người ta đã lãng phí 90% prôtêin, 99% hydratcacbon và 100% chất xơ là những chất cần cho sức khỏe con người. Nếu chỉ trồng rau, quả, ngũ cốc cho người ăn thì 1 hécta đất có thể nuôi 30 người trong khi nếu sử dụng đất để trồng thức ăn cho chăn nuôi để sản xuất ra thịt, trứng, sữa thì 1 hécta chỉ nuôi được từ 5 đến 10 người dân.

Tác động quan trọng nhất của ngành chăn nuôi trên biến đổi khí hậu là việc thải ra nhiều khí nhà kính trong quá trình sản xuất thịt.

Ngành chăn nuôi tạo nhiều khí thải nhà kính 
gây biến đổi khí hậu

Chăn nuôi là một ngành tạo ra nhiều khí thải nhà kính trong rất nhiều khâu, phá rừng để dành đất trồng trọt các thức ăn cho gia súc, sản xuất phân đạm, sử dụng nhiên liệu trong các máy nông nghiệp…. Các gia súc thuộc loài nhai lại còn phát ra khí mê tan qua việc tiêu hóa trong ruột của chúng và phân súc vật nếu không được ủ kín sẽ cho thoát mêtan và oxit nitrơ ra không trung. Trên hình 12, người ta biểu thị lượng khí CO2 tương đương (tính bằng kg) phát tán ra cho mỗi kg thành phẩm như lúa gạo, thịt, len cừu….

Hiện nay, ngành nông nghiệp tạo ra 22% khí thải nhà kính trong lượng khí thải tổng cộng phát tán ra không trung. Trong số đó, chăn nuôi đóng góp đến 80%, nghĩa là ngành chăn nuôi tạo ra 18% tổng lượng khí thải nhà kính. Trong lượng khí thải này có 9% là CO2, 37% là mêtan và 65% là oxit nitrơ. Nếu mêtan mạnh gấp 21 lần CO2 trong việc gây ra biến đổi khí hậu thì oxit nitrơ còn mạnh gấp 296 lần. Năm 2007, một nhà nghiên cứu người Nhật đã tính rằng để có 1 kg thịt bò người ta đã cho thoát ra không trung 36,4 kg khí CO2 tức là tương đương với việc lái xe liên tục trong 3 tiếng đồng hồ đồng thời quên tắt đèn trong nhà hay cũng tương đương với việc thắp một bóng đèn 100 watt trong 20 ngày. Khí thải nhà kính có nguồn gốc từ ngành chăn nuôi còn nhiều hơn khí thải nhà kính có nguồn gốc từ mọi phương tiện giao thông trên thế giới (xe cộ đường bộ, hàng không ...) chỉ là 14%.

Hình 13 cho thấy tỷ lệ khí thải nhà kính phát ra từ các khâu có liên quan đến chăn nuôi.

Trước hết là khí mê tan sinh ra trong tiêu hóa của các loài nhai lại. (86 triệu tấn/ năm). Trong dạ dày của chúng, hiện tượng lên men vi sinh biến các chất xơ thành những sản phấm hấp thụ được trong ruột, mê tan là một chất thải tiêu hóa sẽ bị tống ra ngoài.

Phân súc vật khi phân hủy trong môi trường yếm khí cũng phát ra khí mê tan (18 triệu tấn mỗi năm). Người ta có thể sử dụng phân súc vật để tạo ra khí sinh vật trong các hầm ủ hay bể tiêu hóa. Phân súc vật còn cho thoát ra một lượng lớn oxit nit rơ (khoảng 3,6 triệu tấn/năm).

Khí CO2 phát tán ra không trung có nguồn gốc từ chăn nuôi có thể là:

CO2 phát sinh trong việc sản xuất phân đạm để bón cho các loại cây dùng làm thức ăn gia súc. Phần lớn khí này phát ra từ các nhiên liệu hóa thạch như khí đốt (hay than đá) dùng trong công nghiệp chế biến ammônhác. Người ta tính rằng khí CO2 phát ra trong khâu này khoảng 41 triệu tấn/năm.

CO2 phát sinh trong việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch để sản xuất thức ăn gia súc, phân bón, thuốc trừ sâu… trong máy móc nông nghiệp, trong vận chuyển, cày cấy, gặt hái, trong tưới tiêu …Tổng lượng CO2 phát ra khoảng 90 triệu tấn/năm.

CO2 từ việc sử dụng đất cho chăn nuôi, thí dụ như phá rừng để cải tạo thành đồng cỏ, đất trồng trọt cây thực phẩm gia súc, bón phân chuồng để trồng lúa nước…Người ta ước tính lượng CO2 phát ra trong khâu này lên đến 2,4 tỷ tấn/năm. Thay đổi việc sử dụng đất cũng làm phát tán ra không trung khoảng 28 triệu tấn CO2 còn hiện tượng sa mạc hóa do chăn nuôi cũng phát tán ra không trung 100 triệu tấn khác mỗi năm.

CO2 thoát ra không trung qua hiện tượng thở của súc vật tuy rất lớn (khoảng 3 tỷ tấn) nhưng vì các loại thực vật chúng ăn vào đã hình thành bằng cách rút CO2 từ khí trời cho nên trong nghị định thư Kyoto, người ta không tính đến lượng khí thải này, đây chỉ là chu kỳ tuần hoàn của CO2 trong thiên nhiên mà thôi.

Giảm số lượng súc vật chăn nuôi để chống lại biến đổi khí hậu

Các khí thải nhà kính là nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng biến đổi khí hậu. Hiện tượng này chỉ có càng ngày càng trầm trọng, ít ra cũng trong nhiều thế kỷ tới. Ngành chăn nuôi là một trong những nguồn phát ra khí thải nhà kính quan trọng, cho nên một biện pháp hữu hiệu là giảm số lượng súc vật chăn nuôi và giảm lượng thịt tiêu thụ trong các bữa ăn.

Tháng 8 năm 2008, tiến sĩ Rajendra Pachauri, chủ tịch Ủy ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu IPCC, người đã thay mặt Ủy ban nhận giải thưởng Nobel đã lên tiếng khuyên người ta nên ăn ít thịt để góp phần vào việc bảo vệ môi trường và chống lại biến đổi khí hậu. Ông đưa ra những con số rất hùng hồn là một người ăn chay trong 70 năm đã giảm được 100 tấn khí CO2 tung ra không trung và chỉ cần ăn chay mỗi tuần một ngày thì một người dân châu Âu có thể làm giảm đi 170 kg CO2 trong một năm. Chính tiến sĩ Pachauri đã ăn chay từ 10 năm nay và cho là đã giảm được 12 tấn CO2.

Có lẽ không cần ăn trường chay nhưng ăn ít thịt đã là một đóng góp của mỗi người trong công cuộc chung của nhân loại nhằm tránh các hệ lụy của biến đổi khí hậu.

TS. Nguyễn Thọ Nhân
Viện Năng lượng Nguyên tử Quốc gia (Hội Dinh dưỡng Việt Nam)

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.