22. PHẨM QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ
ĐỨC VƯƠNG BỒ TÁT THỨ HAI MƯƠI HAI
Lúc bấy giờ
Đức Thế Tôn bảo
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát : “ Nầy
Thiện nam tử ! Nếu có
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn như vậy, thời đặng mười
công đức mà hàng
Thanh Văn Bích Chi Phật chẳng có.
Công đức nầy chẳng thể nghĩ bàn, người nghe đến sẽ kinh sợ.
Công đức nầy chẳng phải trong ngoài, chẳng phải khó dễ, chẳng phải tướng phi tướng, không có
tướng mạo, chẳng phải là
thế pháp, trong
thế gian không có. Đây là mười
công đức :
Công đức thứ nhứt có năm điều : Một là chỗ chẳng nghe có thể đặng nghe, hai là nghe rồi có thể làm
lợi ích, ba là có thể dứt tâm
nghi hoặc, bốn là
trí huệ chánh trực, năm là có thể biết tạng
bí mật của
Như Lai.
Những gì là chỗ chẳng nghe có thể được nghe ? Chính là nghĩa
vi mật rất sâu : Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh, Phật và Pháp cùng tăng không có sai khác,
tánh tướng của
Tam Bảo là thường, lạc, ngã, tịnh, tất cả chư Phật không
rốt ráo nhập Niết Bàn là
thường trụ không
biến đổi. Lại
Niết Bàn của
Như Lai chẳng phải có không, chẳng phải
hữu vi vô vi, chẳng phải
hữu lậu vô lậu, chẳng phải sắc
phi sắc, chẳng phải danh phi danh, chẳng phải tướng phi tướng, chẳng phải
hữu phi hữu, chẳng phải vật phi vật, chẳng phải nhơn quả, chẳng phải đãi phi đãi, chẳng phải
minh ám, chẳng phải xuất phi xuất, chẳng phải thường
phi thường, chẳng phải đoạn phi đoạn, chẳng phải
thỉ chung, chẳng phải
quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải ấm phi ấm, chẳng phải nhập phi nhập, chẳng phải giới phi giới, chẳng phải
thập nhị nhơn duyên, chẳng phải
phi nhơn duyên. Những
pháp như vậy đều
vi mật rất sâu, từ trước chỗ chẳng nghe mà có thể được nghe. Lại có chỗ chẳng nghe, như là tất cả sách vỡ
ngoại đạo :
Tỳ Đà Luận, Tỳ Dà La Luận,
Vệ Thế Sư Luận,
Ca Tỳ La Luận, cùng tất cả kỹ nghệ,
chú thuật, y dược,
thiên văn, địa lý v.v…, nay ở nơi kinh nầy mà đặng biết tất cả. Lại có mười một
bộ kinh trừ
Tỳ Phật Lược, cũng không có những nghĩa rất sâu như vậy, nay do kinh nầy mà đặng biết rõ đó. Đây gọi là chỗ chẳng nghe mà có thể được nghe.
Nghe rồi có thể làm
lợi ích, chính là
nếu có thể nghe và
lãnh thọ kinh Đại Niết Bàn nầy, thời có thể biết rõ tất cả
kinh điển Phương Đẳng Đại Thừa những
nghĩa vị rất sâu.
Ví như đối với tấm
gương sáng sạch, người thấy
rõ ràng sắc tượng của mình. Cũng vậy,
Bồ Tát cầm gương
Đại Niết Bàn thời đặng thấy rõ tất cả nghĩa rất sâu của
kinh điển Đại Thừa. Cũng như có người ở trong nhà tối cầm ngọn đuốc lớn thời thấy rõ các đồ vật. Cũng vậy
Bồ Tát cầm đuốc
Đại Niết Bàn thời đặng thấy rõ nghĩa rất sâu của
Đại Thừa. Cũng như
mặt trời mọc có ngàn muôn ánh sáng soi rõ chỗ
u ám của các núi, làm cho
mọi người thấy những vật rất xa. Cũng vậy,
huệ nhựt thanh tịnh Đại Niết Bàn nầy chiếu rõ chỗ rất sâu của
Đại Thừa, làm cho hàng
nhị thừa xa thấy
Phật đạo, vì có thể nghe và
lãnh thọ kinh Đại Niết Bàn vi diệu nầy .
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu có
Đại Bồ Tát nghe và
lãnh thọ kinh Đại Niết Bàn nầy thời đặng biết
danh tự của tất cả pháp.
Nếu có thể biên chép
đọc tụng thông thuộc vì người
giảng thuyết,
suy nghĩ ý nghĩa thời rõ biết
nghĩa lý của tất cả pháp.
Nầy
Thiện nam tử ! Người nghe và
lãnh thọ thời chỉ biết
danh tự mà chẳng biết
ý nghĩa.
Nếu có thể biên chép
thọ trì đọc tụng, vì người
giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời có thể rõ biết được nghĩa.
Nầy
Thiện nam tử ! Người nghe kinh nầy, nghe có
Phật tánh nhưng chưa có thể thấy được. Nếu biên chép
đọc tụng vì người
giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời thấy được
Phật tánh. Người nghe kinh nầy, nghe có danh từ
bố thí nhưng chưa có thể thấy được
Đàn Ba La Mật, nếu biên chép
đọc tụng vì người
giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời có thể thấy được
Đàn Ba La Mật, nhẫn đến
Bát Nhã Ba La Mật cũng vậy.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát nếu có thể nghe
kinh Đại Niết bàn nầy thời biết pháp biết nghĩa đủ cả hai đức
vô ngại, đối hàng
Sa Môn,
Bà La Môn, hoặc
chư thiên,
Ma Vương,
Phạm Vương, trong tất cả
thế gian đều đặng
vô sở úy, vì
đại chúng khai thị
phân biệt mười hai bộ kinh,
diễn thuyết ý nghĩa không có
sai lầm, có thể tự biết chẳng chờ học với người được gần
vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đây gọi là nghe rồi có thể làm
lợi ích.
Nầy
Thiện nam tử ! Có thể dứt tâm nghi lầm. Nghi có hai thứ : Một là nghi nơi danh từ, hai là nghi
ý nghĩa. Người nghe kinh nầy, dứt tâm nghi danh từ, người
suy nghĩ ý nghĩa thời dứt tâm nghi
ý nghĩa.
Nghi lại có năm thứ : Một là nghi Phật
quyết định nhập Niết Bàn hay chăng ? Hai là nghi Phật có phải
thường trụ chăng ? ? Ba là nghi Phật có phải chơn lạc chăng ? Bốn là nghi Phật có phải chơn tịnh chăng ? Năm là nghi Phật có phải chơn ngã chăng ? Người nghe kinh nầy thời dứt hẳn lòng nghi Phật
nhập Niết Bàn. Biên chép
đọc tụng vì người
giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời dứt hẳn bốn điều nghi, thường, lạc, ngã, tịnh.
Nghi lại có ba tbhứ : Một là nghi
Thanh Văn là có hay là không ? Hai là nghi
Duyên Giác là có hay là không ? Ba là nghi
Phật thừa là có hay là không ? Người nghe kinh nầy thời dứt hẳn ba điều nghi như vậy. Còn biên chép
đọc tụng vì người
giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời có thể rõ biết tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu có
chúng sanh chẳng nghe
kinh Đại Niết Bàn nầy, thời tâm họ nhiều sự
nghi ngờ. Như
nghi hoặc thường hay vô thường, hoặc lạc hay chẳng lạc, hoặc tịnh hay chẳng tịnh, hoặc ngã hay
vô ngã, hoặc mạng hay phi mạng, hoặc
chúng sanh hay phi
chúng sanh, hoặc
rốt ráo hay chẳng
rốt ráo, hoặc đời khác, hoặc đời đã qua, hoặc có, hoặc không, hoặc khổ, hoặc chẳng phải khổ, hoặc tập, hoặc chẳng phải tập, hoặc đạo hoặc chẳng phải đạo, hoặc diệt hoặc chẳng phải diệt, hoặc pháp, hoặc
phi pháp, hoặc thiện hoặc
bất thiện, hoặc không hoặc chẳng phải không. Người nghe kinh nầy thời dứt hẳn các điều nghi như vậy.
Thiện nam tử ! Nếu có người chẳng nghe kinh nầy thời lại có nhiều tâm nghi. Như nghi
sắc uẩn là ngã ư ? Thọ, tưởng, hành, thức, là ngã ư ? Nhãn là năng kiến ư ? Ngã là năng kiến ư ?
Thọ tưởng hành thức là năng kiến ư ? Ngã là năng kiến ư ?
Sắc uẩn thọ báo ư ? Ngã
thọ báo ư ?
Thọ tưởng hành thức thọ báo ư ? Ngã
thọ báo ư ?
Sắc uẩn đến đời khác ư ? Ngã đến đời khác ư ?
Thọ tưởng hành thức cũng như vậy. Những pháp
sanh tử là có thỉ có chung ư ? hay là vô thỉ vô chung ư ? Người nghe kinh nầy cũng dứt hẳn được những điều nghi như vậy. Lại có người nghi nhứt
xiển đề phạm bốn tội nặng tạo tội
ngũ nghịch, hủy báng
kinh Đại Thừa Phương Đẳng, hạng người nghe kinh nầy cũng dứt hẳn được những điều nghi như vậy.
Lại có người nghi
thế gian có ngằn mé hay không có ngằn mé ? Có
thập phương thế giới hay không
thập phương thế giới. Người nghe kinh nầy cũng dứt hẳn được những điều nghi như vậy. Đây gọi là có thể dứt tâm nghi lầm, có
trí huệ chánh trực không
tà vạy. Vì nếu tâm nghi thời chỗ
nhận thấy chẳng chánh. Tất cả
phàm phu nếu chẳng đặng nghe
kinh Đại Niết Bàn nầy thời chỗ
nhận thấy tà vạy. Nhẫn đến
Thanh Văn Duyên Giác chỗ thấy biết cũng vạy vò. Vì
phàm phu ở trong
hữu lậu mà thấy là thường, lạc, ngã, tịnh nơi
Như Lai lại thấy là
vô thường khổ,
bất tịnh,
vô ngã, thấy có
chúng sanh có
thọ mạng, có
tri kiến, chấp
trời Phi Tưởng, Phi
Phi Tưởng là
Niết Bàn, thấy trời
Tự Tại có
tám thánh đạo,
chấp có, chấp đoạn, các sự
nhận thấy như vậy gọi là
tà vạy.
Đại Bồ Tát nếu đặng nghe
kinh Đại Niết Bàn nầy
tu hành thánh hạnh thời dứt trừ được những điều
tà vạy như vậy.
Hàng
Thanh Văn Duyên Giác thấy
Bồ Tát từ
trời Đâu Suất hoá hiện ngự trên
Bạch tượng giáng thần vào thai mẹ tại thành
Ca Tỳ La, cha hiệu
Tịnh Phạn, mẹ tên
Ma Gia. Ở thai đủ mười tháng sanh ra. Lúc sanh ra chưa đến đất,
Thiên Đế Thích đưa tay đở,
Nan Đà Long Vương và
Bạt Nan Đà Long Vương phun nước tắm.
Đại Thần Vương Ma Ni Bạt Đà cầm lọng báu đứng hầu phía sau.
Địa thần hoá
hoa sen đở dưới chân.
Bồ Tát đi qua bốn phương đều đủ bảy bước. Lúc đến Thiên Miếu các thiên tượng đều
đứng dậy tiếp nghinh. Tiên
A Tư Đà hai tay bồng
xem tướng, xem xong Tiên nhơn buồn khổ thương phận mình sắp chết chẳng được thấy
Bồ Tát thành Phật. Lớn lên đến thầy học sách, học toán số, cỡi ngựa, bắn cung, đồ sắm, các nghề nghiệp. Ở trong thâm cung cùng vui với sáu muôn thể nữ. Ra ngoài thành dạo chơi đến vườn
Ca Tỳ La,
dọc đường gặp người già, người bịnh, người chết, và gặp thầy
Sa Môn mặc
pháp phục đi trên đường, khi
trở về cung, thấy các thể nữ
hình mạo như xương khô, xem cung điện không khác gò mả.
Nhàm chán, nửa đêm vượt thành
xuất gia, đến chỗ các
Đại Tiên nhơn Uất Đà Dà,
A La La v.v… nghe giảng nói về
Thức Vô Biên Xứ và
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Nghe rồi
quan sát kỹ biết những xứ ấy là
vô thường, khổ,
bất tịnh,
vô ngã, bèn bỏ đi đến núi Tuyết, dưới cội cây
tu khổ hạnh trọn sáu năm. Sau đó biết
khổ hạnh chẳng đặng thành
vô thượng chánh giác, bèn đến tắm rửa trong sông
A Nậu Bạt Đề. Tắm xong nhận lấy cháo sữa của cô gái chăn bò dâng. Ăn xong lại đến ngồi dưới
cây Bồ Đề,
phá ma Ba Tuần đặng thành
vô thượng chánh giác. Đến thành
Ba La Nại chuyển pháp luân lần đầu độ năm vị
Tỳ Kheo, nhẫn đến ở rừng
Ta La nơi thành
Câu Thi Na nầy
nhập Niết Bàn . Các điều
nhận thấy như vậy gọi là chỗ thấy biết vạy vò của
Thanh Văn Duyên Giác.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát nghe và
lãnh thọ kinh Đại Niết Bàn nầy, thời dứt trừ đặng những điều thấy biết như vậy.
Nếu có thể biên chép
đọc tụng thông thuộc vì người
diễn thuyết suy nghĩ ý nghĩa, thời đặng
trí huệ chánh trực không
tà vạy.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, biết rõ
Bồ Tát từ vô lượng kiếp nhẫn lại chẳng từ
trời Đâu Suất giáng thần thai mẹ, nhẫn đến thành Câu ThiNa
nhập Niết Bàn. Đây gọi là chỗ thấy biết
chánh trực của
Đại Bồ Tát.
Ï
Có thể biết nghĩa
thâm mật của
Như Lai, tức là biết rõ
Đại Niết Bàn, tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh,
sám trừ bốn giới trọng, trừ tâm hủy báng
chánh pháp, hết tội
ngũ nghịch, dứt nhứt
xiển đề, rồi sau đặng thành
vô thượng chánh giác.
Lại nghĩa
thậm thâm là dầu biết
chúng sanh thiệt không có ngã, nhưng
nghiệp quả đời
vị lai chẳng mất ; dầu giết
năm ấm hiện đây dứt hết, nhưng nghiệp
thiện ác trọn chẳng hư mất ; dầu có các
hành nghiệp nhưng không có
tác giả ; dầu có chỗ đến nhưng không có người đi; dầu có
trói buộc nhưng không người bị trói ; dầu có
Niết Bàn nhưng không có người diệt ; đây gọi là nghĩa
bí mật rất sâu.
Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Như tôi hiểu nghĩa được nghe chỗ chưa từng nghe của Phật nói thời nghĩa nầy chẳng phải. Vì nếu pháp là có lẽ ra
quyết định có, pháp nếu là không lẽ ra
quyết định không.
Nếu không thời lẽ ra chẳng sanh, nếu có thời lẽ ra chẳng diệt, như nghe thời là nghe, nếu chẳng nghe thời là chẳng nghe, sao lại nói rằng nghe chỗ chẳng nghe. Bạch
Thế Tôn ! Nếu chẳng nghe đây là chẳng nghe, còn nếu đã nghe thời lại chẳng nghe, vì đã đặng nghe. Sao lại nói rằng nghe lại chẳng nghe ?
Ví như người đi, nếu đã đến thời chẳng đi còn đi thời chẳng đến. Cũng như đã sanh thời chẳng sanh, còn chẳng sanh thời là chẳng sanh. Đã đặng thời chẳng đặng, còn chẳng đặng thời là chẳng đặng. Nghe rồi thời chẳng nghe, còn chẳng nghe thời là chẳng nghe. Bạch
Thế Tôn ! Nếu chẳng nghe mà nghe đó, thời tất cả
chúng sanh chưa có
Bồ Đề lẽ ra cũng có đó, người chưa đặng
Niết Bàn lẽ ra cũng đặng đó, người chưa thấy
Phật tánh lẽ ra cũng thấy
Phật tánh, sao lại nói rằng bực
Thập Trụ Bồ Tát dầu thấy
Phật tánh nhưng chưa đặng
rõ ràng.
Bạch
Thế Tôn ! Nếu chẳng nghe mà nghe, thời
đức Như Lai thuở xưa từ ai mà đặng nghe. Nếu nói rằng đặng nghe, cớ sao trong
kinh A Hàm đức Như Lai lại nói là không có thầy, nếu chẳng nghe thời là chẳng nghe mà
đức Như Lai đặng thành
vô thượng chánh giác, thời tất cả
chúng sanh chẳng nghe lẽ ra cũng đặng thành
vô thượng chánh giác. Nếu
đức Như lai chẳng nghe
kinh Đại Niết Bàn mà thấy
Phật tánh, thời tất cả
chúng sanh chẳng nghe kinh nầy lẽ ra cũng được thấy
Phật tánh.
Bạch
Thế Tôn ! Phàm là sắc thời hoặc có thể thấy, hoặc chẳng thấy được, tiếng cũng như vậy, hoặc là có thể nghe, hoặc chẳng được nghe.
Đại Niết Bàn nầy chẳng phải sắc chẳng phải tiếng , sao lại nói rằng có thể thấy
nghe được.
Bạch
Thế Tôn !
Quá khứ đã diệt thời chẳng thể nghe,
vị lai chưa đến cũng chẳng thể nghe, lúc
hiện tại lóng nghe thời chẳng gọi là nghe, nghe rồi khiến dứt lại chẳng thể nghe.
Kinh Đại Niết Bàn nầy cũng chẳng phải
quá khứ vị lai hiện tại, nếu chẳng phải
thời gian thời chẳng thể nói, nếu chẳng thể nói thời chẳng thể nghe, sao lại nói rằng
Bồ Tát tu
kinh Đại Niết Bàn nầy được nghe chỗ chẳng nghe.
Phật nói : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện nam tử ! Nay ông khéo biết tất cả
pháp như huyễn, như dương diệm, như thành
Càn Thát Bà, như dấu vẽ trong nước, cũng như bóng nước, bọt nước, cây chuối rỗng không chẳng chắc thiệt, chẳng phải mạng, chẳng phải ngã, không có khổ vui, như chỗ thấy biết của
Thập Trụ Bồ Tát” .
Lúc đó trong
đại chúng thoạt có ánh sáng lớn chiếu đến, ánh sáng nầy chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, mà thấy là xanh vàng đỏ trắng, chẳng phải sắc, chẳng phải sáng, mà thấy là sắc là sáng, chẳng phải thấy mà thấy.
Đại chúng gặp ánh sáng nầy
thân tâm vui thích như
Tỳ Kheo nhập
Sư tử Vương Định
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn : Ai phóng ánh sáng nầy ?”
Đức Như Lai yên lặng chẳng đáp.
Ca Diếp Bồ Tát lại hỏi
Văn Thù Sư Lợi :
Nhơn duyên gì mà có ánh sáng nầy chiếu đến
đại chúng ?
Văn Thù Sư Lợi yên lặng chẳng đáp.
Vô Biên Thân Bồ Tát lại hỏi
Ca Diếp Bồ Tát : “ Ai phóng ánh sáng nầy ?”
Ca Diếp Bồ Tát yên lặng chẳng đáp.
Tịnh Trụ Vương Tử
Bồ Tát lại hỏi
Vô Biên Thân Bồ tát : “
Duyên cớ gì trong
đại chúng đây có ánh sáng nầy ?”
Vô Biên Thân Bồ Tát yên lặng không đáp.
Lần lượt đến năm trăm vị
Bồ Tát xoay vần hỏi nhau , nhưng không ai
giải đáp.
Đức Thế Tôn hỏi
Văn Thù Sư Lợi : “
Duyên Cớ gì trong
đại chúng đây có ánh sáng nầy ?
Văn Thù Sư Lợi đáp : “ Bạch
Thế Tôn ! Ánh sáng nầy gọi là
trí huệ.
Trí huệ chính là
thường trụ.
Pháp thường trụ không có
nhơn duyên, sao
đức Phật lại hỏi
duyên cớ gì có ánh sáng nầy .”
Ánh sáng nầy gọi là
Đại Niết Bàn,
Đại Niết Bàn thời gọi là
thường trụ,
pháp thường trụ chẳng từ
nhơn duyên, sao
đức Phật lại hỏi
duyên cớ gì có ánh sáng nầy.
Ánh sáng nầy chính là
Như Lai,
Như Lai chính là
thường trụ,
pháp thường trụ chẳng từ
nhơn duyên, sao
đức Phật lại hỏi
duyên cớ.
Ánh sáng nầy gọi là
Đại Từ Đại Bi,
đại từ bi gọi là
thường trụ,
pháp thường trụ chẳng phải từ
nhơn duyên, sao
đức Phật lại hỏi
duyên cớ.
Ánh sáng nầy chính là
niệm Phật,
niệm Phật là
thường trụ,
pháp thường trụ chẳng từ
nhơn duyên, sao
đức Phật lại hỏi
duyên cớ.
Áng sáng nầy là đạo
bất cộng với tất cả
Thanh Văn Duyên Giác, đạo
bất cộng là
thường trụ,
pháp thường trụ chẳng từ
nhơn duyên, sao
đức Phật lại hỏi
duyên cớ,
Đức Thế Tôn cũng có
nhơn duyên : Nhơn dứt
vô minh chứng đặng
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Phật nói : “ Nầy
Văn Thù Sư Lợi ! nay ông chớ nhập
đệ nhứt nghĩa đế, nên dùng
thế đế để
giải đáp.”
Văn Thù Sư Lợi nói : “ Bạch
Thế Tôn ! Từ đây qua phương đông cách hai mươi
hằng hà sa thế giới, có cỏi
bất động, chổ Phật ngự rộng một muôn hai ngàn do diên. Cõi đó toàn
thất bảo không có đất đá, bằng thẳng êm dịu không có hầm hố. Cây cối toàn bằng bốn chất vàng, bạc
lưu ly và
pha lê, trên cây
thường có hoa trái. Nếu có
chúng sanh nào được ngửi
mùi thơm của hoa nầy thời
thân tâm an vui nhập
đệ tam thiền. Khắp nơi có hai ngàn sông lớn nước sông đủ tám vị
công đức, nếu có
chúng sanh nào tắm trontg nước đó thời
thân tâm vui vẻ như nhập
đệ nhị thiền. Trong sông có nhiều thứ hoa đẹp : Những
hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng. Hai bờ sông cũng có các thứ
hoa thơm đẹp. Đáy sông toàn trải cát vàng. Có những thềm bực bằng vàng, bạc,
lưu ly cùng
pha lê nhiều màu, nhiều giống chim đẹp bay đậu trên đó.ï Lại có
vô lượng cọp, sói,
sư tử v.v… Các
cầm thú ấy xem nhau như con đẻ. Trong cỏi đó không có những
tội ác cùng hạng nhứt
xiển đề. Khí hậu điều hòa không có lạnh nóng
đói khát khổ sở, không có
tham dục,
sân hận phóng dật tật đố. Không
mặt trời mặt trăng thời tiết như
cõi trời Đao Lợi.
Nhân dân cõi đó đồng có ánh sáng, không có tâm
kiêu mạn. Tất cả đều là
Bồ Tát Đại Sĩ đầy đủ
thần thông, có
công đức lớn,
tôn trọng chánh pháp, mến tu
Đại Thừa, có
đại từ bi thương xót tất cả
chúng sanh.
Đức Phật ở cõi đó hiệu là
Mãn Nguyệt Quang Minh Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Lúc
đức Phật đó
thuyết pháp, tòan thể
chúng sanh trong cõi
Bất Động đều được nghe.
Đức Phật đó vì
Lưu Ly Quang
Bồ Tát mà
giảng thuyết kinh Đại Niết Bàn đến đọan
Bồ Tát tu hành kinh nầy thời đều đặng nghe chỗ chẳng đặng nghe.
Lưu Ly Quang
Bồ Tát gạn hỏi
đức Phật Mãn Nguyệt Quang Minh, như tại đây Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát vừa hỏi
đức Như Lai giống nhau không khác.
Đức Phật Mãn Nguyệt Quang Minh bảo
Lưu Ly Quang
Bồ Tát rằng : Phương Tây của cõi
Bất Động nầy cách hai mươi
hằng hà sa Phật độ có
cõi Ta Bà, cõi ấy đầy những đất đá gai chông hầm hố gò nỗng,
thường có những khổ về
đói khát lạnh nóng. Nhơn dân
cõi Ta Bà chẳng biết
cung kính Sa Môn,
Bà La Môn,
cha mẹ Sư Trưởng, phần nhiều tham đắm
phi pháp,
tà pháp, chẳng tin
chánh pháp,
thọ mạng của họ ngắn ngủi. Nhiều kẻ
gian trá bị chánh quyền
trừng phạt. Dầu đã có nước để cai trị, nhưng vua quan chẳng biết
vừa đủ sanh lòng tham kéo binh đánh chiếm nước khác làm cho những người vô tội bị
chết oan. Các nhà
lãnh đạo thật hành những điều
phi pháp như vậy, nên
Tứ Thiên Vương các
Thiên thần không
hoan hỷ, thường giáng
tai họa ; Hạn hán, bão lụt,
mất mùa đói khát, nhơn dân nhiều bịnh,
vô lượng sự
khổ não.
Cõi Ta Bà đó có
Phật hiệu Thích Ca Mưu Ni
Như Lai mười hiệu đầy đủ, hiện ở thành
Câu Thi Na trong rừng
Ta La Song Thọ, vì
đại chúng diễn thuyết kinh Đại Niết Bàn,
hiện có Bồ Tát tên
Quang Minh Biến Chiếu CaoQuý Đức Vương đã đem việc nầy hỏi đức
Thích Ca Mâu Ni, nay
đức Phật đó đương
giải đáp, ông nên mau qua cõi đó sẽ được nghe.
Bạch
Thế Tôn !
Lưu Ly Quang
Bồ Tát vâng lời đức Phật Mãn Nguyệt Quang Minh cùng tám muôn bốn ngàn vị
Đại Bồ Tát sắp đến đây. Do
nhơn duyên nầy nên hiện điềm phóng ánh sáng. Đây là có
duyên cớ mà có ánh sáng nầy.
Lúc đó
Lưu Ly Quang
Bồ Tát cùng tám muôn bốn ngàn
Đại Bồ Tát mang theo các thứ phan lọng,
hương hoa,
chuỗi ngọc nhiều thứ
kỹ nhạc, đồng đến rừng
Ta La nơi thành
Câu Thi Na, đầu mặt lễ chưn Phật, đem đồ
cúng dường dưng lên,
cung kính đi nhiễu bên hữu ba vòng rồi ngồi qua một phía.
Đức Phật hỏi
Lưu Ly Quang
Bồ Tát : Ông vì đến mà lại, hay vì chẳng đến mà
Lại ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Đến cũng chẳng lại, chẳng đến cũng chẳng lại. Tôi
quán sát nghĩa nầy đều không có lại. Các
hành pháp nếu là thường cũng chẳng lại, nếu là
vô thường cũng không có lại. Nếu người thấy có
chúng sanh tánh thời có lại, chẳng lại. Nay tôi chẳng thấy
chúng sanh có
định tánh, thời đâu có lại cùng chẳng lại. Người có
kiêu mạn thời thấy có đi, có lại. Người không
kiêu mạn thời không thấy có đi, có lại. Người có chấp lấy tạo tác thời thấy có đi có lại. Người
không chấp lấy tạo tác thời không thấy có đi, có lại.
Nếu thấy
Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn thời có đi, có lại. Người chẳng thấy
Như Lai nhập Niết Bàn thời không đi, không lại.
Người chẳng nghe
Phật tánh thời có đi , có lại. Người nghe
Phật tánh thời không đi không lại.
Nếu thấy hàng
Thanh Văn Bích Chi Phật có
Niết Bàn thời thấy có đi có lại. Người chẳng thấy hàng
Thanh Văn Bích Chi Phật có
Niết Bàn thời không đi, không lại.
Nếu người thấy hàng
Thanh Văn Bích Chi Phật là thường, lạc, ngã, tịnh, thời có đi, có đến. Nếu người không thấy thời không đi, không đến.
Nếu thấy
Như Lai không có thường, lạc, ngã, tịnh thời có đi có đến. Nếu thấy
Như Lai là
thường lạc, ngã, tịnh thời không đi không đến.
Bạch
Thế Tôn ! Xin để việc đó lại. Nay tôi có chỗ muốn hỏi mong
đức Phật thương xót cho phép.
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử ! Giờ đây phải lúc
tùy ý ông hỏi ta sẽ
giải đáp cho ông. Vì chư Phật khó gặp như
hoa Ưu Đàm, pháp cũng khó được nghe, trong
mười hai bộ kinh, bộ
Phương Đẳng Đại thừa lại khó hơn. Vì thế nên phải
chuyên tâm lóng nghe và
lãnh thọ.
Lưu Ly Quang
Bồ Tát bạch Phật :
Thế Tôn ! Thế nào là
Đại Bồ Tát có thể
tu hành kinh Đại Niết Bàn được nghe chỗ chẳng nghe.
Phật khen rằng : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện nam tử ! Nay ông muốn
cùng tận biển
Đại Thừa Đại Niết Bàn, lại gặp Phật có thể khéo
giải thuyết. Phật là
lương y có thể khéo nhổ mũi tên độc
nghi ngờ của ông. Phật có
đuốc huệ soi sáng Phật tánh cho ông. Ông muốn qua khỏi sông lớn
sanh tử Phật có thể làm
thuyền sư cho ông, ông ở nơi Phật tưởng là
cha mẹ, Phật cũng ở nơi ông tưởng là một. Lòng ông
tham của báu
chánh pháp, gặp Phật có nhiều pháp lại hay
bố thí. Ông nên lóng nghe khéo
suy nghĩ đó.
Nầy
Thiện nam tử ! Khi
nghe pháp rồi phải sanh lòng kính tin
tôn trọng. Đối với
chánh pháp chớ tìm cầu chỗ lỗi, chớ nghĩ
tham sân si. Chớ nhìn xem
dòng họ tốt xấu của
pháp sư . Sau khi
nghe pháp chớ sanh lòng
kiêu mạn, chớ gì
cung kính,
danh dự,
lợi dưỡng , phải vì được
lợi ích pháp vị cam lồ độ thế gian. Cũng chớ nghĩ rằng, tôi
nghe pháp rồi trước tự độ mình sau sẽ
độ người, trước sẽ tự
giải thoát sau sẽ
giải thoát cho người, trước tự an thân sau sẽ làm cho người được an, trước tự được
Niết Bàn sau sẽ làm cho người được
Niết Bàn. Nên có
quan niệm bình đẳng đối với Phật, Pháp, Tăng. Trong
sanh tử phải có
quan niệm là khổ oan lớn. Đối với
Đại Niết Bàn phải
quan niệm là thường, lạc, ngã, tịnh. Trước vì người sau sẽ vì mình. Nên vì
Đại Thừa chớ vì
Nhị Thừa. Nên không
trụ trước đối với tất cả pháp, cũng chớ chuyên chấp tất cả
pháp tướng. Đối với các pháp chớ có lòng tham,
thường có quan niệm biết pháp, thấy pháp.
Nầy
Thiện nam tử ! Ông có thể
hết lòng nghe pháp như vậy, đây thời gọi là được nghe chỗ chẳng nghe.
Nầy
Thiện nam tử ! Có chẳng nghe mà nghe, có chẳng nghe mà chẳng nghe, có nghe mà chẳng nghe, có nghe mà nghe.
Nầy
thiện nam tử ! Như chẳng sanh mà sanh, chẳng sanh mà chẳng sanh, sanh mà chẳng sanh, sanh mà sanh.
Như chẳng đến mà đến, chẳng đến mà chẳng đến, đến mà chẳng đến, đến mà
đến.
_ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào là chẳng sanh mà sanh ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! An trụ nơi
thế đế, lúc mới
xuất thai đây gọi là chẳng sanh mà sanh.
_ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào là chẳng sanh mà chẳng sanh ?
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Niết Bàn đây không có tướng sanh, đây gọi là chẳng sanh mà chẳng sanh.
_ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào gọi là sanh mà chẳng sanh ?
Nầy
Thiện nam tử !
Cứ theo thế đế , lúc chết thời gọi là sanh mà chẳng sanh.
_ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào là sanh mà sanh ?
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
phàm phu thời gọi là sanh mà sanh. Vì
phàm phu sanh, sanh chẳng dứt, vì tất cả
hữu lậu niệm niệm sanh luôn, đây gọi là sanh mà sanh. Bực
tứ trụ Bồ Tát thời gọi là sanh mà chẳng sanh, vì sanh mà
tự tại.
Nầy
Thiện nam tử ! Trên đó là nói về
nội pháp. Còn về
ngoại pháp cũng có chưa sanh mà sanh, chưa sanh mà chưa sanh, sanh mà chưa sanh, sanh mà sanh. Như hột giống lúa chưa mọc mầm, được
tứ đại hòa hiệp, công người
săn sóc, rồi sau mới mọc lên đây gọi là chưa sanh mà sanh. Như hột giống hư và hột giống chưa gặp đủ duyên, thời gọi là chưa sanh mà chưa sanh. Như mầm đã mọc mà chẳng lớn thêm, thời gọi là sanh mà chưa sanh. Như mầm lớn thêm thời gọi là sanh mà sanh. Tất cả
ngoại pháp hữu lậu sanh mà sanh như vậy.
_ Bạch
Thế Tôn !
Pháp hữu lậu nếu có sanh, thời là
thường hay vô thường ?
Sanh nếu là thường, thời
pháp hữu lậu không có sanh, sanh nếu là
vô thường thời
hữu lậu là thường.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu sanh có thể tự sanh, thời
sanh không tự tánh.
Nếu có thể sanh cái khác
duyên cớ gì chẳng sanh
vô lậu.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu lúc chưa sanh mà có sanh, sao lại
đến nay mới gọi là sanh. Nếu lúc chưa sanh là không sanh, cớ sao chẳng nói
hư không là sanh ?
Phật nói : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện nam tử ! Chẳng sanh mà sanh, không thể nói được,
cho đến sanh mà sanh cũng không thể nói được, sanh cùng
bất sanh đều không thể nói được. Vì có
nhơn duyên nên cũng có thể nói được.
Thế nào là chẳng sanh mà sanh chẳng thể nói được ? Chẳng sanh lại gọi là sanh, làm sao có thể nói được, vì nó sanh.
Thế nào là sanh mà sanh, chẳng thể nói được ? Vì sanh mà sanh nên là sanh, vì sanh mà sanh nên là chẳng sanh, cũng chẳng nói được.
Thế nào là sanh mà chẳng sanh, chẳng thể nói được ? Sanh thời gọi là sanh, sanh chẳng tự sanh, nên chẳng thể nói được.
Thế nào là chẳng sanh mà chẳng sanh, chẳng thể nói được ? Chẳng sanh gọi là
Niết Bàn, vì
Niết Bàn chẳng sanh nên chẳng thể nói được, vì
Niết Bàn do tu mà chứng đặng.
Thế nào là sanh cũng chẳng thể nói được ? Vì sanh vốn là không .
Thế nào là chẳng
sanh không thể nói được ? Vì có chứng đặng.
Thế nào là vì có
nhơn duyên cũng có thể nói được ? Mười pháp
nhơn duyên làm sanh tác nhơn do đây nên cũng có thể nói được.
Nầy
Thiện nam tử ! Nay ông chớ nhập
thậm thâm không định, vì
đại chúng căn trí chậm lụt.
Nầy
Thiện nam tử !
Pháp hữu vi sanh cũng là thường, do trụ
vô thường, nên sanh cũng
vô thường. Trụ cũng là thường do sanh mà sanh nên trụ cũng
vô thường. Dị cũng là thường, do pháp
vô thường nên dị cũng
vô thường. Hoại cũng là thường, do trước không nay có nên hoại cũng
vô thường.
Nầy
Thiện nam tử ! Vì cứ nơi tánh, nên sanh trụ dị hoại đều là thường, vì
niệm niệm diệt nên không thể nói là thường, vì
Đại Niết Bàn nầy có thể dứt diệt được, nên lại gọi là
vô thường.
Nầy
Thiện nam tử !
Pháp hữu lậu lúc chưa sanh, đã có tánh sanh, vì thế nên sanh có thể sanh được. Pháp
vô lậu vốn
không tánh sanh, vì thế nên
sanh không thể sanh được. Như lửa có tánh sẵn gặp duyên thời phát. Mắt có
tánh thấy đủ duyên thời thấy.
Sanh pháp của
chúng sanh cũng như vậy, do tánh sẵn có, gặp
nhơn duyên của nghiệp,
cha mẹ hòa hiệp thời bèn có sanh.
Lưu Ly Quang
Bồ Tát cùng tám muôn bốn ngàn
Đại Bồ Tát nghe pháp nầy rồi, vọt thân lên
hư không cao bảy
cây Đa La,
chắp tay cung kính bạch Phật : “
Thế Tôn ! Tôi nhờ
đức Như Lai ân cần dạy bảo, do
Đại Niết Bàn mới đặng tỏ ngộ
ý nghĩa nghe chỗ chẳng nghe, cũng làm cho tám muôn bốn ngàn
Bồ Tát nầy
hiểu rõ những nghĩa chẳng sanh mà sanh v.v… của các pháp.
Bạch
Thế Tôn ! Nay tôi đã tỏ ngộ dứt hết
nghi ngờ, nhưng trong hội nầy có một
Bồ Tát hiệu là
Vô Úy lại muốn thưa hỏi mong
đức Phật cho phép.
Phật bảo Vô Úy Bồ Tát : “ Nầy
Thiện nam tử !
Tùy ý ông hỏi, ta sẽ vì ông giải
nói”.
Vô Úy Bồ Tát cùng tám muôn bốn ngàn
Bồ Tát đồng
đứng dậy nghiêm chỉnh y phục, quỳ
chắp tay bạch Phật : “
Thế Tôn !
Chúng sanh cõi Ta Bà nầy phải thật hành hạnh nghiệp gì để được sanh về cõi
Bất Động ?
Bồ Tát cõi đó thế nào mà đặng đầy đủ
trí huệ, đầy đủ các
công hạnh, có
oai đức lớn,
trí huệ lanh lẹ, nghe liền
hiểu rõ ?”
Đức Phật liền nói kệ rằng :
Chẳng hại mạng
chúng sanh.
Giữ gìn các
cấm giới.
Bẩm
thọ pháp của Phật.
Thời sanh cõi
Bất Động.
Chẳng đoạt của người khác.
Thường
ban cho tất cả.
Tạo
chiêu đề tăng phường.
Thời sanh cõi
Bất Động.
Chẳng phạm
vợ con người,
Vợ nhà chẳng
phi thời.
Thí
trì giới ngọa cụ,
Thời sanh cõi
Bất Động.
Chẳng vì mình hoặc người,
Cầu lợi và
khủng bố.
Giữ lời chẳng
vọng ngữ.
Thời sanh cõi
Bất Động.
Chớ phá
thiện tri thức,
Xa lìa quyến thuộc ác.
Thường nói lời hòa hiệp,
Thời sanh cõi
Bất Động.
Như các bực
Bồ Tát,
Thường lìa lời
ác khẩu.
Nói ra người thích nghe,
Thời sanh cõi
Bất Động.
Nhẫn đến lúc giỡn cười,
Chẳng nói lời
phi thời.
Giữ gìn lời
chánh pháp,
Thời sanh cõi
Bất Động.
Thấy người đặng
lợi dưỡng,
Thường sanh lòng
vui mừng.
Chẳng sanh lòng tật đố,
Thời sanh cõi
Bất Động.
Chẳng
não hại chúng sanh,
Thường sanh
lòng từ bi.
Chẳng làm
phương tiện ác,
Thời sanh cõi
Bất Động.
Tà kiến bác
bố thí.
Không
cha mẹ, khứ lai.
Chẳng có
tà kiến ấy.
Thời sanh cõi
Bất Động.
Đường xa làm giếng tốt.
Trồng rừng rậm cây trái.
Thường thí người
khất thực.
Thời sanh cõi
Bất Động.
Đối với Phật, Pháp, Tăng.
Cúng một đèn một hương.
Nhẫn đến dưng một hoa,
Thời sanh cõi
Bất Động.
Nếu vì cớ sợ sệt.
Lợi dưỡng cùng
phước đức.
Chép một kệ kinh nầy.
Thời sanh cõi
Bất Động.
Nếu vì cầu phước lợi.
Được ở trong một ngày.
Đọc tụng kinh điển nầy.
Thời sanh cõi
Bất Động.
Nếu vì đạo
vô thượng,
Trong một ngày một đêm.
Thọ trì bát quan trai.
Thời sanh cõi
bất động.
Chẳng cùng người
phạm tội.
Người hủy báng
Đại Thừa.
Đồng
ở chung một chỗ.
Thời sanh cõi
Bất Động.
Nếu thí cho người bịnh.
Nhẫn đến một trái cây.
Vui mừng mà
săn sóc.
Thời sanh cõi
Bất Động.
Chẳng lạm dùng của Tăng.
Khéo giữ vật của Phật.
Tô quét chỗ
Phật Tăng.
Thời sanh cõi
Bất Động.
Tạo tượng và tháp Phật.
Chừng bằng ngón tay cái.
Thường sanh lòng
vui mừng.
Thời sanh cõi
Bất Động.
Nếu vì
kinh điển nầy.
Đem thân cùng
của cải.
Cúng dường người thuyế pháp.
Thời sanh cõi
Bất Động.
Nếu nghe và biên chép.
Thọ trì cùng
đọc tụng.
Tạng
bí mật của Phật.
Thời sanh cõi
Bất Động.
Vô Úy Bồ Tát Bạch Phật : “
Thế Tôn ! Nay tôi đã biết những
công hạnh đặng sanh về cõi nước
Bất Động.
Thế Tôn ! Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát nầy vì khắp
xót thương tất cả
chúng sanh nên trước kia có chỗ thưa hỏi, nếu
đức Như Lai giải thuyết thời có thể
lợi ích an vui cho hàng trời, người,
bát bộ.
Đức Phật bảo Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện nam tử ! Ông nên
hết lòng lóng nghe, tôi sẽ vì ông
phân biệt giải thuyết.
Vì có
nhơn duyên nên chưa đến chẳng đến. Vì có
nhơn duyên nên chẳng đến mà đến, vì có
nhơn duyên nên đến mà chẳng đến. Vì có
nhơn duyên nên đến mà đến.
Nầy
Thiện nam tử ! Xét về chẳng đến gọi là
Đại Niết Bàn. Hàng
phàm phu chưa đến bởi có
tham dục sân khuể và
ngu si. Vì hai nghiệp thân và khẩu chẳng
thanh tịnh, cùng
lãnh thọ tất cả vật
bất tịnh, phạm bốn
trọng tội, hủy báng
Phương Đẳng Đại thừa là hạng nhứt
xiển đề tạo tội
ngũ nghịch, do nghĩa nầy nên chưa đến chẳng đến.
Chẳng đến gọi là chẳng đến
Đại Niết Bàn. Do nghĩa gì mà được đến ? Vì dứt hẳn
tham dục sân khuể ngu si và
tội ác của thân khẩu, chẳng thọ tất cả vật
bất tịnh, chẳng phạm bốn tội trọng, chẳng hủy báng
Phương Đẳng Đại Thừa, chẳng làm hạng nhứt
xiển đề, chẳng tạo tội
ngũ nghịch. Do nghĩa nầy nên gọi là chẳng đến mà đến.
Bực
Tu Đà Hoàn tám muôn kiếp thì đến, bực
Tu Đà Hàm sáu muôn kiếp thì đến, bực
A Na Hàm bốn muôn kiếp thì đến, bực
A La Hán hai muôn kiếp thì đến,
Bích Chi Phật mười ngàn kiếp thì đến. Do nghĩa nầy nên gọi là chẳng đến mà đến.
Đến gọi là hai mươi lăm cõi. Tất cả
chúng sanh đều bị
vô lượng phiền não che đậy, qua lại chẳng ngừng dường như bánh xe lăn, đây gọi là đến
Thanh Văn Duyên Giác và
Bồ Tát vì đã đặng lìa hẳn nên gọi là chẳng đến, lại ba bực nầy vì muốn
hoá độ chúng sanh nên
thị hiện ở trong đó, nên cũng gọi là đến.
Đến chính là hai mươi lăm cõi. Tất cả
phàm phu,
Tu Đà Hoàn nhẫn đến
A Na Hàm, vì
phiền não nên gọi là đến mà đến.
Nầy
Thiện nam tử ! Nghe chỗ chẳng nghe cũng như vậy. Có chẳng nghe mà nghe, chẳng nghe mà chẳng nghe, nghe mà chẳng nghe, nghe mà nghe.
Chẳng nghe là
Đại Niết Bàn vì chẳng phải
hữu vi, vì chẳng phải
âm thanh, vì chẳng thể nói. Thế nào là cũng nghe ?
Vì đặng nghe danh từ : Thường, lạc, ngã và tịnh. Do nghĩa nầy nên gọi là chẳng nghe mà nghe.
Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Như Phật nói
Đại Niết Bàn là chẳng thể
nghe được, sao lại nói rằng thường, lạc, ngã, tịnh mà có thể
nghe được. Vì người đoạn
phiền não gọi là đặng
Niết Bàn, nếu chưa đoạn gọi là chẳng được. Do nghĩa nầy tánh
Niết Bàn trước không mà nay có. Nếu pháp
thế gian trước không mà nay có thời gọi là
vô thường.
Ví như bình bồn v.v…Trước không mà nay có, đã có hoàn không, nên gọi là
vô thường.
Niết Bàn nếu như vậy, sao lại nói rằng thường, lạc, ngã , tịnh.
Bạch
Thế Tôn ! Phàm do
trang nghiêm mà được thành đều gọi là
vô thường.
Niết Bàn nếu như vậy lẽ ra là
vô thường. Những gì
trang nghiêm Niết Bàn ? Chính là
ba mươi bảy phẩm trợ đạo, sáu
pháp Ba La Mật,
bốn tâm vô lượng, quán tướng xương trắng,
a na ba na,
lục niệm xứ, phá tích
sáu đại, do những pháp đó mà
thành tựu Niết Bàn nên là
vô thường.
Bạch
Thế Tôn ! Phàm là cóù, thời gọi là
vô thường. Nếu
Niết Bàn là có thời lẽ ra là
vô thường. Như ngày trước trong
kinh A Hàm Phật nói :
Thanh Văn Duyên Giác, chư Phật đều có
Niết Bàn, do nghĩa nầy nên gọi là
vô thường.
Bạch
Thế Tôn ! Pháp có thể thấy thời gọi là
vô thường. Như ngày trước
Đức Phật nói : Người thấy
Niết Bàn thời dứt trừ được tất cả
phiền não.
Ví như hư không chẳng có
chướng ngại nên gọi là thường.
Giả sử Niết Bàn là thường v.v… , cớ sao
chúng sanh lại có người được, người chẳng được. Như vậy
Niết Bàn đối với
chúng sanh chẳng
bình đẳng lẻ ra chẳng gọi là thường.
Ví như trăm người chung có một kẻ oán thù, nếu hại được kẻ nầy thời nhiều người được
an lạc.
Giả sử Niết Bàn là
pháp bình đẳng, lúc một người được, lẽ ra nhiều người cũng được, một người dứt
kiết sử lẽ ra nhiều người cũng dứt, nếu chẳng như vậy sao lại gọi là thường.
Như có người
cung kính cúng dường tôn trọng tán thán quốc vương, vương tử,
phụ mẫu,
sư trưởng thời được
lợi dưỡng, đây chẳng gọi là thường.
Niết Bàn cũng vậy, như ngày trước trong
kinh A Hàm đức Phật nói với
A Nan : Nếu có người
cung kính Niết Bàn thời dứt được
kiết sử hưởng thọ
vô lượng an lạc do đây nên chẳng gọi là thường.
Bạch
Thế Tôn ! Nếu trong
Niết Bàn có danh từ thường, lạc, ngã, tịnh thời chẳng gọi là thường,
như không có, sao lại có thể nói ?
Đức Phật bảo Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát : “ Thể
Niết Bàn chẳng phải trước không nay có. Nếu thể
Niết Bàn trước không nay có thời chẳng phải
vô lậu.
Pháp thường trụ, nay có Phật hay không Phật,
tánh tướng vẫn
thường trụ. Bởi
chúng sanh bị
phiền não che đậy nên chẳng thấy
Niết Bàn, bèn gọi là không.
Đại Bồ Tát dùng
giới định huệ siêng
tu tâm mình, dứt xong
phiền não bèn đặng thấy
Niết Bàn. Phải biết
Niết Bàn là
pháp thường trụ chẳng phải trước không nay có nên gọi là thường.
Như dưới giếng trong nhà tối có các thứ
châu báu, người cũng biết là có nhưng vì tối nên không thấy. Người có trí thắp đèn sáng lớn cầm soi đó thời thấy
châu báu rõ ràng. Người trí nầy trọn chẳng nghĩ rằng : Nước giếng cùng
châu báu, trước không mà nay có.
Cũng vậy,
Niết Bàn trước vốn tự có, chẳng phải nay mới có, vì
phiền não tối tăm nên
chúng sanh chẳng thấy.
Đức Như Lai đại trí thắp đèn
trí huệ, làm cho
Bồ Tát đặng thấy
Niết Bàn, thường, lạc, ngã , tịnh. Do đây nên người trí chẳng nên nói rằng
Niết Bàn trước không mà nay có.
Nầy
Thiện nam tử ! Như ông nói do
trang nghiêm nên đặng thành
Niết Bàn lẽ ra là
vô thường , nghĩa nầy cũng không phải. Vì thể của
Niết Bàn chẳng phải sanh, chẳng phải xuất, chẳng phải thiệt, chẳng phải hư, chẳng phải tạo tác mà có, chẳng phải là
pháp hữu lậu hữu vi, chẳng phải nghe, chẳng phải thấy, chẳng phải đọa, chẳng phải chết, chẳng phải tướng biệt dị, cũng chẳng phải tướng đồng, chẳng phải qua, chẳng phải lại, chẳng phải
quá khứ,
vị lai ,
hiện tại, chẳng phải một và nhiều, chẳng phải dài và vắn, chẳng phải tròn và vuông, chẳng phải nhọn và méo, chẳng phải có tướng và
không tướng, chẳng phải danh và sắc, chẳng phải nhơn và quả, chẳng phải
ngã và ngã sở. Do những nghĩa nầy nên
Niết Bàn là thường không
biến đổi. Phải
tu tập pháp lành trong
vô lượng kiếp để tự
trang nghiêm rồi mới được thấy.
Ví như duới đất có mạch nước trong mát
chúng sanh chẳng thấy được, người trí ra công đào đất, thời đặng nước.
Niết Bàn cũng như vậy.
Ví như người mù chẳng thấy
mặt trời mặt trăng lương y điều trị thời đặng thấy.
Mặt trời mặt trăng chẳng phải là trước không mà nay có.
Niết Bàn cũng như vậy từ trước đã tự có, chẳng phải mới có ngày nay.
Như người có tội bị trói nhốt trong khám, lâu ngày mãn tù mới được thả ra,
trở về nhà đặng thấy
cha mẹ anh em
vợ con quyến thuộc.
Niết Bàn cũng như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Ông nói vì
nhơn duyên nên pháp
Niết Bàn lẽ ra
vô thường, nghĩa nầy chẳng đúng.
Nầy
Thiện nam tử ! Xét về nhơn có năm thứ : Một là sanh nhơn, hai là hòa hiệp nhơn, ba là trụ nhơn, bốn là
tăng trưởng nhơn, năm là viễn nhơn. Sanh nhơn chính là nghiệp
phiền não, cũng như hột giống của cây cỏ.
Hòa hiệp nhơn,
như pháp lành hòa hiệp với tâm lành, pháp chẳng lành hòa hiệp với tâm chẳng lành, pháp
vô ký hòa hiệp cùng tâm
vô ký.
Trụ nhơn, như dưới có cột thời nóc nhà chẳng sập, núi, sông, cây cối, nhơn mặt đất mà đặng đứng vững, cũng vậy, nhờ có
tứ đại cùng
vô lượng phiền não mà
chúng sanh đặng an trụ.
Tăng trưởng nhơn, do uống ăn
y phục v.v… làm cho
chúng sanh Tăng trưởng.
Ví như lửa chẳng đốt, chim chẳng ăn thời hột giống của cây cỏ được
Tăng trưởng. Như hàng
Sa Môn,
Bà La Môn nhờ thầy lành bạn tốt mà được
Tăng trưởng. Như nhờ
cha mẹ mà con được
Tăng trưởng.
Viễn nhơn, như nhơn
thần chú mà quỉ chẳng hại được, độc chẳng trúng được, như nhờ
quốc vương không có trộm cướp, như nương đất nước mà mầm mọc lên, như nước khuấy, công người là Viễn nhơn của chất tô. Như ánh sáng màu sắc v.v…là Viễn nhơn của
nhãn thức, tinh huyết của
cha mẹ là Viễn nhơn của
chúng sanh. Như
thời tiết v.v… đều gọi là Viễn nhơn.
_ Nầy
Thiện nam tử ! Thể
Niết Bàn chẳng phải do nhơn như vậy làm thành, sao ông lại nói là
vô thường ?
_ Lại có hai thứ nhơn : Một là tác nhơn, hai là liễu nhơn. Như khí cụ của thợ gốm thời gọi là tác nhơn, như đèn đuốc
vân vân soi vật trong tối thời gọi là liễu nhơn.
_ Nầy
Thiện nam tử !
Đại Niết Bàn chẳng do tác nhơn mà có, chỉ do liễu nhơn.
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, sáu
pháp Ba La Mật gọi là liễu nhơn.
Bố thí là nhơn của
Niết Bàn, chẳng phải là nhơn của
Đại Niết Bàn.
Đàn Ba La Mật mới được gọi là nhơn của
Đại Niết Bàn.
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là nhơn của
Niết Bàn, chẳng phải nhơn của
Đại Niết Bàn.
Vô lượng vô số pháp trợ
Bồ Đề mới được gọi là nhơn của
Đại Niết Bàn.
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Tại sao
bố thí chẳng được gọi là
Đàn Ba La Mật ?
Bố thí thế nào mới được gọi là
Đàn Ba La Mật, nhẫn đến
Bát Nhã Ba La Mật ? Thế nào gọi là
Niết Bàn và
Đại Niết Bàn ?
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát tu hành Đại Thừa Phương Đẳng Đại Niết Bàn, chẳng nghe
bố thí cũng chẳng thấy
bố thí. Chẳng nghe
Đàn Ba La Mật cũng như chẳng thấy nhẫn đến chẳng nghe
Bát Nhã, chẳng thấy
Bát Nhã, cũng chẳng nghe chẳng thấy
Bát Nhã Ba La Mật. Chẳng nghe chẳng thấy
Niết Bàn và
Đại Niết Bàn.
Đại Bồ Tát tu
Đại Niết Bàn, biết và thấy
pháp giới,
hiểu rõ thật tướng không có tất cả tướng : Không có tướng hòa hiệp giác tri. Đặng tướng
vô lậu, tướng
vô tác, tướng
như huyễn hóa, tướng
ánh nắng, tướng thành
Càn Thát Bà, tướng trống không.
Bồ Tát thấy được những tướng như vậy thời không tham, sân, si, chẳng nghe chẳng thấy. Đây gọi là
Đại Bồ Tát an trụ
thật tướng.
Đại Bồ Tát tự biết đây là
bố thí, đây là
Đàn Ba La Mật nhẫn đến đây là
Bát Nhã, đây là
Bát Nhã Ba La Mật, đây là
Niết Bàn, đây là
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Thế nào là
bố thí mà chẳng phải
Ba La mật ? Thấy có người xin rồi sau mới cho, đây là
bố thí chẳng phải
Ba La Mật.
Nếu không người xin tâm tự thí xả, thời gọi là
Đàn Ba La Mật. Nếu
bố thí có
thời gian thời gọi là
bố thí chẳng phải
Ba La Mật. Nếu thường thật hành
bố thí thời gọi là
Đàn Ba La Mật, nếu
bố thí rồi
trở lại sanh lòng
hối hận đây gọi là
bố thí chẳng phải
Ba La Mật. Thí rồi chẳng
ăn năn thời gọi là
Đàn Ba La Mật.
Đại Bồ Tát đối với
của cải có bốn
quan niệm lo sợ : Một là vua quan
tịch thâu, hai là trộm cướp, ba là nước lụt, bốn là lửa cháy, do đó nên
vui vẻ đem
bố thí, đây gọi là
Đàn Ba La Mật nếu mong được
báo đền mà
bố thí thời chẳng phải
Ba La Mật.
Bố thí chẳng mong
báo đền thời gọi là
Đàn Ba La Mật.
Nếu vì kinh sợ, vì
tiếng tăm lợi lộc, vì
gia pháp tương truyền, vì cầu vui
cõi trời, vì
kiêu mạn, vì hơn người, vì
quen thân, vì cầu
báo đền thời như là buôn bán đổi chác. Như người trồng cây để được bóng mát, được bông trái, hoặc để được cây gỗ. Nếu người
tu hành mà
bố thí như vậy thời gọi là
bố thí chẳng phải
Ba La Mật.
Đại Bồ Tát tu hành Phương Đẳng Đại Niết Bàn, chẳng thấy người
bố thí cũng như chẳng thấy kẻ
lãnh thọ và
của cải, chẳng thấy
thời tiết, chẳng thấy
phước điền hay chẳng phải
phước điền, chẳng thấy
nhơn duyên,
quả báo, chẳng thấy người làm kẻ thọ, chẳng thấy nhiều hay ít, tịnh hay
bất tịnh, chẳng khinh người
lãnh thọ cũng như chẳng khinh thân mình hay
của cải, chẳng
để ý người
ngó thấy hay không
ngó thấy, chẳng chấp mình cùng người chỉ vì
pháp thường trụ
Phương Đẳng Đại Niết Bàn mà thật hành
bố thí chỉ
vì lợi ích tất cả
chúng sanh mà thật hành
bố thí, vì dứt tất cả
phiền não cho
chúng sanh mà thật hành
bố thí, chỉ vì
chúng sanh nên chẳng thấy người thí kẻ thọ cùng
của cải, mà thật hành
bố thí.
Ví như người té xuống biển lớn, ôm lấy
tử thi mà được
thoát nạn.,
Đại Bồ Tát tu
Đại Niết Bàn lúc thật hành
bố thí cũng như ôm lấy
tử thi để được vào bờ.
Ví như có người bị nhốt trong ngục kín, cửa nẻo đều đóng chặt, chỉ có lỗ cầu xí, bèn
do nơi đó chui ra mà được
thong thả,
Đại Bồ Tát tu hành Đại Niết Bàn lúc thật hành
bố thí cũng như vậy.
Ví như người sanh qúy phải nạn gấp kinh sợ không có chỗ dựa nương, bèn
nương nhờ chiên đà la.
Đại Bồ Tát tu
Đại Niết Bàn thật hành
bố thí cũng như vậy
Ví như người
bịnh nặng, vì muốn được
lành mạnh nên uống chất thuốc dơ.
Đại Bồ Tát tu
Đại Niết Bàn thật hành
bố thí cũng như vậy.
Như
Bà La Môn gặp lúc
mất mùa đói khát vì mạng sống nên
ăn thịt chó,
Đại Bồ Tát tu
Đại Niết Bàn thật hành
bố thí cũng như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Trong
Đại Niết Bàn những việc như vậy,
từ vô lượng kiếp
đến nay chẳng nghe mà được nghe
giới luật cùng
Thi La Ba La Mật nhẫn đến
Bát Nhã cùng
Bát Nhã Ba La Mật, như trong
kinh Tạp Hoa đức Phật đã giảng rộng.
Nầy
Thiện nam tử ! Thế nào là
Bồ Tát tu
Đại Niết Bàn chẳng nghe mà được nghe ?
Mười hai bộ kinh nghĩa lý thâm thúy từ trước chẳng nghe, nay nhơn kinh nầy mà được nghe đầy đủ. Trước dầu được nghe nhưng chỉ nghe
danh tự, nay ở kinh nầy mới đặng nghe
nghĩa lý.
Thanh Văn Duyên Giác chỉ nghe
danh tự của
mười hai bộ kinh mà chẳng nghe
nghĩa lý, nay ở kinh nầy được nghe đầy đủ. Đây gọi là chẳng nghe mà được nghe.
Trong tất cả kinh của
Thanh Văn Duyên Giác chẳng nghe
đức Phật có thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng
rốt ráo nhập diệt,
Tam Bảo và
Phật tánh không có tướng sai khác, người phạm bốn
trọng tội, hủy báng
kinh điển Đại Thừa, tạo tội ngũ ngịch và nhứt
xiển đề, tất cả đều có
Phật tánh. Nay ở kinh nầy mà đặng nghe đó. Đây gọi là chẳng nghe mà được nghe.
Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Nếu nhứt
xiển đề v.v… mà có
Phật tánh, tại sao bọn họ lại đọa
địa ngục ?
Bạch
Thế Tôn !
Giả sử bọn họ có
Phật tánh, sao lại nói là không có thường, lạc, ngã, tịnh ?
Nếu dứt căn lành gọi là nhứt
xiển đề, lúc dứt căn lành tại sao
Phật tánh lại chẳng dứt ?
Phật tánh nếu dứt sao lại nói rằng thường, lạc, ngã, tịnh ? Như
Phật tánh chẳng dứt sao lại gọi là
nhứt xiển đế ?
Bạch
Thế Tôn ! Phạm bốn tội nặng gọi là
bất định, hủy báng
kinh Đại Thừa, tạo tội
ngũ nghịch cùng nhứt
xiển đề đều gọi là
bất định. Những hạng nầy nếu
quyết định làm sao đặng thành
Vô Thượng Bồ Đề,
Tu Đà Hoàn nhẫn đến
Bích Chi Phật cũng gọi là
bất định, vì nếu
quyết định lẽ ra
Tu Đà Hoàn nhẫn đến
Bích Chi Phật đều chẳng được thành
Vô Thượng Bồ Đề.
Bạch
Thế Tôn ! Nếu phạm bốn tội nặng là chẳng
quyết định, thời
Tu Đà Hoàn nhẫn đến
Bích Chi Phật cũng là chẳng quyết địnyh,
chư Phật Như Lai cũng lại chẳng
quyết định như thế
thể tánh Niết Bàn cũng lại chẳng
quyết định, tất cả pháp cũng chẳng
quyết định. Tại sao chẳng
quyết định gọi là nhứt
xiển đề. Trừ nhứt
xiển đề thời
thành Phật đạo.
Chư Phật Như Lai lẽ ra cũng như vậy,
nhập Niết Bàn rồi
đáng lẽ cũng lại trở ra chẳng
nhập Niết Bàn. Nếu
như vầy thời tánh
Niết Bàn cũng là chẳng nhứt định. Vì chẳng nhứt định nên biết chẳng có thường, lạc, ngã, tịnh. Sao lại nói rằng : Nhứt
xiển đề v.v… sẽ đặng
Niết Bàn ?”
Đức Phật nói : “
Lành thay !
Lành thay ! Ông vì muốn
lợi ích an lạc chúng sanh, vì
lòng từ bi
xót thương thế gian, vì muốn sách tấn các
Bồ Tát phát Bồ Đề tâm, nên hỏi Phật những điều như vậy
Ông đã gần gũi
vô lượng chư Phật
quá khứ trồng những căn lành, từ lâu đã
thành tựu công đức Bồ Đề hàng phục các loài ma, đã
giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh đưa họ đến
vô thượng chánh giác, từ lâu đã
thông đạt tạng
thâm mật của
Như Lai, đã từng đem những nghĩa
thâm mật như trên thưa hỏi
hằng hà sa chư Phật thuở
quá khứ. Tất cả
thế gian hoặc người hoặc trời hoặc
Sa Môn hoặc
Bà La Môn hoặc
Ma Vương,
Phạm Vương, ta đều không thấy ai có thể hỏi được như vậy. Ông nên
thành tâm lóng nghe.
Nầy
Thiện nam tử ! Nhứt
xiển đề cũng chẳng nhứt định. Vì nếu nhứt định thời nhứt
xiển đề trọn không thể đặng thành
vô thượng chánh giác. Vì chẳng nhứt định nên có thể đặng thành.
Như ông hỏi :
Phật tánh chẳng dứt, sao nhứt
xiển đề lại dứt căn lành ?
Nầy
Thiện nam tử ! Căn lành có hai thứ : Trong và ngoài.
Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, nên chẳng dứt.
Căn lành lại có hai thứ :
Hữu lậu và
vô lậu.
Phật tánh chẳng phải
hữu lậu vô lậu nên chẳng dứt.
Lại có hai thứ căn lành : Thường và
vô thường.
Phật tánh chẳng phải thường , chẳng phải
vô thường nên chẳng dứt.
Nếu là những thứ bị dứt, thời
trở lại đặng. Nếu chẳng
trở lại đặng thời gọi là chẳng dứt. Nếu dứt rồi
trở lại đặng thời gọi là nhứt
xiển đề. Phạm bốn tội nặng, hủy báng
đại thừa, tạo tội
ngũ nghịch cũng chẳng nhứt định như vậy. Vì nếu nhứt định thời những hạng nầy trọn chẳng thể đặng
vô thượng Bồ Đề.
Sắc cùng tướng của sắc, hương, vị, xúc, sanh đến
vô minh, ấm, nhập , giới, hai mươi lăm cõi,
bốn loài sanh, tất cả pháp cũng đều không có tướng nhứt định.
Ví như nhà
ảo thuật ở trong
đại chúng biến hóa làm quân lính,
chuỗi ngọc đồ trang sức, xóm làng, thành ấp, rừng cây, suối, ao, sông, giếng. Trong
đại chúng có bọn trẻ thơ vì không đủ trí, nên lúc xem coi cho đó là thiệt. Người trí biết đó là
hư dối , do sức
ảo thuật làm lầm mắt người.
Tất cả
phàm phu nhẫn đến
Thanh Văn Bích Chi Phật, đối với tất cả pháp thấy có tướng nhứt định. Chư Phật
Bồ Tát đối với tất cả pháp chẳng thấy tướng nhứt định.
Ví như mùa hạ thấy ánh sáng dợn, trẻ thơ cho là nước. Người trí trọn chẳng nhận là nước thiệt, chỉ là
ánh nắng gợn làm lầm mắt người.
Tất cả
phàm phu Thanh Văn Duyên Giác thấy tất cả pháp đều cho là thật. Chư Phật
Bồ Tát chẳng thấy có tướng nhứt định.
Ví như khe núi, do tiếng mà có vang. Trẻ thơ cho là thiệt tiếng. Người trí hiểu là
không thật, chỉ có tướng tiếng phỉnh dối nơi
nhĩ thức.
Tất cả
phàm phu Thanh Văn Duyên Giác đối với tất cả pháp thấy có tướng nhứt định. Chư Phật
Bồ Tát hiểu rõ đều
không tướng nhứt định, thấy là tướng
vô thường,
tướng không tịch,
tướng không sanh diệt. Do nghĩa nầy,
Đại Bồ Tát thấy tất cả pháp là tướng
vô thường.
Nầy
Thiện nam tử ! Cũng có
định tướng, chính là thường, lạc, ngã, tịnh nơi quả
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Quả
Tu Đà Hoàn cũng chẳng
quyết định, vì chẳng
quyết định nên trãi qua tám muôn kiếp đặng
vô thượng chánh giác. Quả
Tu Đà Hàm cũng chẳng
quyết định, vì
trải qua sáu muôn kiếp đặng
vô thượng chánh giác Quả
A Na Hàm cũng chẳng
quyết định, vì
trải qua bốn muôn kiếp đặng
vô thượng chánh giác. Quả
A La Hán cũng chẳng
quyết định, vì
trải qua hai muôn kiếp đặng
vô thượng chánh giác.
Bích Chi Phật cũng chẳng
quyết định, vì
trải qua mười ngàn kiếp đặng
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nầy
Thiện nam tử ! Hôm nay
Như lai ở trong rừng
Ta La Song Thọ nơi thành
Câu Thi Na,
thị hiện nằm
dựa trên giường
sư tử sắp
nhập Niết Bàn, làm cho chúng
đệ tử chưa
chứng quả A La Hán cùng các
lực sĩ rất lo rầu, cũng làm cho trời, người,
A Tu la,
Càn Thát Bà,
Ca Lâu La,
Khẩn Na La,
Ma Hầu La Già v.v… trần thiết đồ
cúng dường. Muốn khiến
mọi người dùng ngàn bức vải lông vấn thân
Như Lai,
bảy báu làm quan tài, đựng đầy dầu thơm, chất những
gỗ thơm để thiêu đó. Chỉ trừ hai thứ chẳng thể cháy được : Một là y lót mình, hai là lớp vải vấn phía ngoài hết. Vì
chúng sanh nên
phân chia xá lợi làm tám phần.
Tất cả hàng
Thanh Văn đệ tử đều cho rằng
Đức Như Lai nhập Niết Bàn. Phải biết
Đức Như Lai cũng chẳng
quyết định rốt ráo nhập Niết Bàn, vì
đức Như Lai thường trụ chẳng
biến đổi. Do nghĩa nầy nên
Đức Như Lai nhập Niết Bàn cũng chẳng nhứt định.
Nầy
Thiện nam tử ! Nên biết
Như Lai cũng chẳng
quyết định.
Như Lai chẳng phải Thiên. Có bốn hạng thiên : Một là
thế gian thiên, hai là
sanh thiên, ba là
tịnh thiên, bốn là
nghĩa thiên.
Thế gian thiên, lệ như các vị
Quốc vương. Từ
Tứ Thiên Vương nhẫn đến
trời Phi Tưởng Phi
Phi Tưởng gọi là
Sanh Thiên. Từ
Tu Đà Hoàn đến
Bích Chi Phật gọi là
Tịnh Thiên.
Thập trụ Bồ Tát v.v… gọi là
Nghĩa Thiên, vì có thể
hiểu rõ nghĩa của các pháp, chính là thấy
nghĩa không của tất cả pháp.
Nầy
Thiện nam tử !
Như Lai chẳng phải
Quốc Vương, chẳng phải
Tứ Thiên Vương, nhẫn đến trời Phi
Phi Tưởng, cũng chẳng phải
Tu Đà Hoàn,
Bích Chi Phật,
Thập Trụ Bồ Tát. Do đây nên
Như Lai chẳng phải Thiên. Mặc dù như vậy, nhưng
chúng sanh cũng gọi Phật là
Thiên Trung Thiên. Vì thế nên
Như Lai chẳng phải là Thiên cũng chẳng phải là chẳng phải Thiên, chẳng phải là người cũng chẳng phải là chẳng phải người, chẳng phải là quỷ, cũng chẳng phải là chẳng phải quỷ, chẳng phải là
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ, chẳng phải là
chúng sanh cũng chẳng phải là chẳng phải
chúng sanh, chẳng phải là pháp cũng chẳng phải là chẳng phải pháp, chẳng phải là sắc cũng chẳng phải là chẳng phải sắc, chẳng phải là dài, vắn cũng chẳng phải là chẳng phải dài, vắn. Chẳng phải là tướng cũng chẳng phải là chẳng phải tướng, chẳng phải là tâm cũng chẳng phải là chẳng phải tâm, chẳng phải là
hữu lậu, chẳng phải là
vô lậu, chẳng phải là
hữu vi, chẳng phải là
vô vi, chẳng phải là thường, chẳng phải là
vô thường, chẳng phải là
huyễn hóa cũng chẳng phải là chẳng phải
huyễn hóa, chẳng phải là danh cũng chẳng phải là chẳng phải danh, chẳng phải là định cũng chẳng phải là chẳng phải định, chẳng phải có không cũng chẳng phải là chẳng phải có không, chẳng phải
ngôn thuyết cũng chẳng phải là chẳng phải
ngôn thuyết, chẳng phải
Như Lai cũng chẳng phải là chẳng phải
Như Lai. Do nghĩa nầy nên
Như Lai chẳng
quyết định.
Nầy
Thiện nam tử ! Cớ sao
Như Lai chẳng gọi là
thế gian Thiên ?
Thế gian Thiên chính là của vị
Quốc Vương.
Đức Như Lai từ vô lượng kiếp đã bỏ ngôi
Quốc Vương, cho nên
Như Lai chẳng phải là
Quốc Vương.
Như Lai giáng sanh nơi nhà vua
Tịnh Phạn tại
thành Ca Tỳ La Vệ, nên
Như Lai chẳng phải là chẳng phải
Quốc Vương.
Như Lai từ lâu đã lìa khỏi các cõi, nên chẳng phải là
sanh thiên.
Như Lai lên
trời Đâu Suất xuống
Diêm Phù Đề, nên chẳng phải là chẳng phải
sanh Thiên.
Như Lai chẳng phải
Tu Đà Hoàn nhẫn đến
Bích Chi Phật, nên
Như Lai chẳng phải là
Tịnh Thiên.
Tám pháp trong đời chẳng
ô nhiễm được, dường như
Liên Hoa chẳng dính bụi, nước, nên
Như Lai chẳng phải là chẳng phải
Tịnh Thiên.
Như Lai chẳng phải là
Thập Trụ Bồ Tát, nên
Như Lai chẳng phải là
Nghĩa Thiên.
Như Lai thường tu
mười tám nghĩa không, nên
Như Lai chẳng phải là chẳng phải
Nghĩa Thiên.
Như Lai chẳng phải là người vì
Như Lai từ vô lượng kiếp đã lìa
quả báo người.
Như Lai giáng sinh thành
Ca Tỳ La nên chẳng phải là chẳng phải người.
Như Lai chẳng phải là quỷ vì chẳng hại tất cả
chúng sanh.
Như Lai cũng dùng thân quỷ để
hóa độ chúng sanh nên chẳng phải là chẳng phải quỷ.
Như Lai chẳng phải là
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ vì từ lâu đã lìa
ác nghiệp, cũng hiện thọ thân trong
ác đạo để
giáo hóa chúng sanh, nên
Như Lai cũng chẳng phải là chẳng phải
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ,
Như Lai chẳng phải là
chúng sanh vì từ lâu đã lìa tánh
chúng sanh.
Có lúc
Như Lai diễn thuyết chúng sanh, nên cũng chẳng phải là chẳng phải
chúng sanh.
Các pháp mỗi mỗi đều có tướng sai khác.
Như Lai chỉ có một tướng, nên chẳng phải là pháp.
Như Lai là
pháp giới nên cũng chẳng phải là chẳng phải pháp.
Như Lai chẳng nhiếp trong mười
sắc pháp, nên chẳng phải là sắc.
Thân
Như Lai có
ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, nên chẳng phải là chẳng phải sắc.
Vì dứt tất cả sắc nên
Như Lai chẳng phải là cao. Tất cả
thế gian không ai thấy được đỉnh đầu của
Như Lai, nên chẳng phải là chẳng phải cao.
Từ lâu, đã
xa lìa kiêu mạn, nên
Như Lai chẳng phải là thấp. Vì độ
Trưởng Giả,
Cù Sư La,
Như Lai hiện thân ba thước, nên chẳng phải là chẳng phải thấp.
Từ lâu đã
xa lìa các
hình tướng, nên
Như Lai chẳng phải là tướng.
Như Lai biết rành tất cả tướng, nên chẳng phải là chẳng phải tướng.
Như Lai rỗng rang như
hư không, nên chẳng phải là tâm. Vì
Như Lai có mười
tâm trí lực, cũng có thể rõ biết tâm của
chúng sanh, nên cũng chẳng phải là chẳng phải tâm.
Vì
Như Lai là thường, lạc, ngã , tịnh, nên chẳng phải là
hữu vi.
Như Lai thị hiện có đến, đi, ngồi, nằm cùng
thị hiện Niết Bàn nên chẳng phải là
vô vi.
Vì có
thân phần đoạn nên
Như Lai chẳng phải là thường.ï Lại vì có biết, vì có nói năng, vì có họ tên, vì có
cha mẹ, vì có bốn
oai nghi, vì có nơi chỗ, do đây nên
Như Lai chẳng phải là thường. Phàm pháp có sanh gọi là
vô thường.
Như Lai là
vô sanh nên chẳng phải là chẳng phải thường. Phàm
pháp thường trụ thời khắp tất cả chỗ như
hư không, không chỗ nào không có,
Như Lai khắp tất cả chỗ cũng như vậy nên là thường. Những pháp
vô thường thời chỗ nầy có, chỗ kia không,
Như Lai chẳng như vậy nên là thường. Pháp
vô thường thời có lúc có lúc không,
Như Lai chẳng như vậy nên là thường.
Pháp thường trụ không danh, sắc, không nhơn,
không quả,
Như Lai cũng như vậy nên là thường.
Pháp thường trụ chẳng nhiếp trong
thời gian ba đời,
Như Lai cũng như vậy nên là thường.
Vì dứt tất cả tâm luống dối, nên
Như Lai chẳng phải là
huyễn hóa.
Như Lai có lúc chia một thân làm
vô lượng thân,
vô lượng thân hiệp làm một thân,
đi thẳng qua núi qua vách không bị
chướng ngại, đi trên nước như đất, vào trong đất như nước, đi trên
hư không như đất bằng, thân tuôn ra khói lửa, hực hở như đống lửa, hiện tiếng mây sấm
chấn động, hoặc hiện làm thành ấp xóm làng nhà cửa núi sông cây cối, hoặc
hiện thân to lớn, hoặc thân nhỏ, thân nam, thân nữ, thân đồng nam, thân
đồng nữ, vì thế nên
Như Lai cũng chẳng phải là chẳng phải
huyễn hóa.
Trong rừng
Ta La nơi thành
Câu Thi Na,
Như Lai thị hiện nhập Niết Bàn vì thế nên
Như Lai chẳng phải
quyết định. Do vì thường, lạc, ngã tịnh nên
Như Lai cũng chẳng phải là chẳng
quyết định.
Vì đã dứt ba thứ lậu : Một là
dục lậu tức là tất cả
phiền não ở
dục giới trừ
vô minh ; hai là
hữu lậu tức là tất cả
phiền não sắc giới và
vô sắc giới trừ
vô minh ; ba là
vô minh lậu tức là
vô minh trong
tam giới.
Vì thế nên
Như Lai chẳng phải
hữu lậu.
Tất cả
phàm phu đối với đời
vị lai đều có tâm nghi :
Trong đời vị lai sẽ có thân hay chẳng có thân ?
Trong đời qua khứ thân vốn có hay là vốn không ?
Trong đời hiện tại thân nầy có hay thân nầy không ? Nếu có ngã, thời ngã ấy là sắc hay là chẳng phải sắc ? Là tưởng hay chẳng phải tưởng ? Thân nầy thuộc về cái khác hay chẳng thuộc ? Là có mạng có thân hay có thân không mạng ? Thân cùng mạng là
thường hay vô thường ? Thân cùng mạng do
Tự Tại Thiên tạo ư ?
Thời tiết tạo ư ? Vô nhơn tạo ư ? Thế tánh tạo ư ?
Vi trần tạo ư ? Pháp cùng
phi pháp tạo ư ?
Sĩ phu tạo ư ?
Phiền não tạo ư ?
Cha mẹ tạo ư ? Ngã ở nơi tâm hay ở nơi nhãn ? Ngã thắp đầy trong thân ư ? Ngã từ đâu đến, đi đến chỗ nào ? Ai sanh ai chết ? Ngã thuở
quá khứ là
chủng tánh nào ? Đời
vị lai sẽ thuộc
chủng tánh nào ? Thuở
quá khứ, thân nầy của ta là nam hay nữ ? Nếu ta
sát sanh sẽ phải tội hay không tội ? Nhẫn đến uống rượu sẽ có tội hay không tội ? Ta tự gây tạo hay vì người mà gây tạo ? Ngã
thọ báo hay thân
thọ báo ?
Vô lượng điều
nghi chấp như vậy
che đậy chúng sanh làm cho tâm
phiền muộn. Do những điều
nghi chấp nầy sanh ra sáu thứ
quan niệm : Một là
quyết định có ngã, hai là
quyết định không ngã; ba là ngã thấy là ngã; bốn là ngã thấy là không ngã; năm không ngã thấy là ngã; sáu là ngã làm ngã thọ ngã biết. Những
quan niệm trên đây gọi là
tà kiến.
Như Lai đã dứt hẳn
vô lượng cội gốc
tà kiến,
hữu lậu như vậy, nên
Như Lai chẳng phải
hữu lậu.
Đại Bồ Tát tu
thánh hạnh Đại Niết Bàn cũng dứt hẳn được những lậu như vậy. Chư Phật thường tu
thánh hạnh nên là
vô lậu.
Nầy
Thiện nam tử !
Phàm phu chẳng thể khéo nhiếp năm căn thời có ba thứ lậu, bị
nghiệp ác kéo dắt đến nơi chỗ chẳng lành.
Ví như ngựa dữ tánh hung hăng, có thể làm cho người cỡi đến chỗ hiểm nạn. Người không khéo nhiếp năm căn cũng như vậy, có thể làm cho người đó
xa lìa pháp lành đến những chỗ ác.
Ví như voi dữ chưa điều thuận, người cỡi nó chẳng thể
tùy ý, nó đưa người xalìa thành ấp đến nơi rừng sâu. Chẳng khéo điều nhiếp năm căn nó sẽ dắt người
xa lìa thành ấp
Niết Bàn đến nơi rừng rậm
sanh tử.
Ví như tôi nịnh bảo vua làm ác, như đứa con hư chẳng tuân lời dạy của
cha mẹ sư trưởng, chẳng khéo nhiếp
ngũ căn nó sẽ khiến người làm ác chẳng thuận pháp lành.
Phàm phu chẳng nhiếp
ngũ căn thường bị
địa ngục súc sanh ngạ quỉ tàn hại, như giặc cướp hại người lành.
Phàm phu chẳng nhiếp
ngũ căn chạy theo ngũ trần, như người
chăn trâu chẳng khéo
giữ gìn để trâu làm hại lúa mạ.
Phàm phu chẳng nhiếp
ngũ căn nên thường ở trong
ba cõi chịu nhiều sự
khổ não.
Đại Bồ Tát lúc tu
Thánh hạnh Đại Niết Bàn,
thường có thể khéo nhiếp
ngũ căn, dứt trừ
tham dục,
sân khuể,
ngu si,
kiêu mạn , tật đố, để được
thành tựu tất cả pháp lành.
Nếu người có thể khéo
giữ gìn ngũ căn thời nhiếp được tâm, nếu nhiếp được tâm thời nhiếp
ngũ căn.
Ví như có người
ủng hộ Quốc Vương thời là
ủng hộ Quốc Gia,
ủng hộ Quốc Gia thời là
ủng hộ Quốc Vương.
Đại Bồ Tát nếu đặng nghe
kinh Đại Niết Bàn nầy thời được
trí huệ vì được
trí huệ thời được
chuyên niệm. Nếu
ngũ căn tán loạn thời
chánh niệm có thể nhiếp dừng lại, vì là
niệm huệ vậy. Như người chăn giỏi,
giả sử trâu sút dây đi ăn lúa mạ của người thời liền bắt lại. Nhờ
niệm huệ nên
Đại Bồ Tát thâu nhiếp
ngũ căn chẳng cho
tán loạn. Nhờ có
niệm huệ nên
Đại Bồ Tát chẳng thấy
ngã tướng, chẳng thấy tướng
ngã sở, chẳng thấy
chúng sanh cùng chỗ
thọ dụng. Thấy tất cả pháp đồng là
pháp tánh, sanh ra tướng đất đá ngói sạn. Như nhà cửa do nhiều duyên hiệp lại thành không có tánh nhứt định. Thấy
chúng sanh do
tứ đại ngũ ấm hiệp thành
không tánh quyết định. Vì
không tánh quyết định nên
Bồ Tát ở trong đó chẳng sanh tham đắm. Tất cả
phàm phu vì thấy có
chúng sanh nên khởi
phiền não.
Đại Bồ Tát tu
Đại Niết Bàn vì có
niệm huệ nên đối với
chúng sanh chẳng sanh
tham trước.
Đại Bồ Tát tu
kinh Đại Niết Bàn chẳng
chấp trước tướng
chúng sanh mà hiện làm ra những
pháp tướng. Như thợ vẽ dùng các thứ màu vẽ thành những
hình tượng : Hoặc nam, hoặc nữ, hoặc trâu, hoặc ngựa.
Phàm phu không
trí huệ thấy đó thời cho rằng có tướng
nam nữ v.v… thợ vẽ rõ biết không có
nam nữ. Cũng vậy vì có
niệm huệ nên
Đại Bồ Tát đối với tướng sai khác của các pháp thấy là một tướng, trọn chẳng thấy tướng
chúng sanh.
Đại Bồ Tát tu
kinh Đại Niết Bàn vì khéo
quán sát pháp tướng nên lúc thấy
nam nữ đoan chánh trọn chẳng sanh lòng
tham trước.
Đại Bồ Tát biết
ngũ dục không có thiệt vui, chẳng tạm dừng, như chó ngậm xương khô, như người
cầm lửa đi ngược gió, như
rắn độc đựng trong trấp, như trong
chiêm bao lượm được trái cây trên đường, như khối thịt bầy chim đuổi theo, như bóng nước, như dấu vẽ trong nước, như dệt hết đường canh chỉ, như người tù dắt ra chợ, như vật mượn tạm.
Bồ Tát quan sát ngũ dục nhiều lỗi ác như vậy.
Đại Bồ Tát quán sát chúng sanh vì sắc hương vị xúc, nên
từ vô lượng kiếp
đến nay, chịu nhiều
khổ não. Trong một kiếp, mỗi
chúng sanh, xương nơi thân chất như thành
Vương xá, như núi
Tỳ Phú La. Uống sửa mẹ nhiều như nước trong bốn biển. Máu trong thân chảy ra nhiều hơn nước bốn biển. Nước mắt khíoc người chết của
cha mẹ, anh em,
vợ con,
quyến thuộc, nhiều hơn nước bốn biển. Dùng tất cả cỏ cây trên mặt đất làm thẻ dài bốn tấc để đếm
cha mẹ cũng không thể hết.
Từ vô lượng kiếp, hoặc ở
địa ngục súc sanh ngạ quỷ chẳng
thể tính đếm. Vò quả đất nầy bằng trái táo còn có thể dễ hết, nhưng
sanh tử rất khó hết.
Đại Bồ Tát quán sát tất cả
chúng sanh vì
ngũ dục mà chịu
vô lượng sự khổ như vậy, do đây
Bồ Tát chẳng mất
niệm huệ.
Ví như trong đời có nhóm người đông đầy chật hai mươi lăm dặm. Vua truyền một quan chức cầm một chén dầu đầy đi qua giữa đám đông ấy không được làm đổ, nếu đổ rơi một giọt sẽ bị tội chết. Vua lại sai một người cầm gươm
theo sau nếu thấy dầu đổ thời chém. Vì
sợ chết nên quan chức ấy
hết lòng gìn giữ chén dầu, đi qua khỏi đám đông chẳng làm đổ một giọt.
Cũng vậy,
Đại Bồ Tát ở trong
sanh tử chẳng mất
niệm huệ, nên dầu thấy
ngũ dục mà
tâm không tham trước. Lúc bấy giờ
ngũ căn của
Bồ Tát thanh tịnh, vì
ngũ căn thanh tịnh nên
giữ gìn giới căn đầy đủ.
Tất cả
phàm phu ngũ căn chẳng
thanh tịnh chẳng khéo
giữ gìn nên gọi là căn lậu.
Bồ Tát đã dứt hẳn nên là
vô lậu.
Như Lai đã dứt hẳn cội gốc nên chẳng phải là lậu.
Nầy
Thiện nam tử ! Lại có ly lậu.
Đại Bồ Tát vì muốn được quả Phật
vô thượng cam lồ nên lìa các ác lậu.
Nếu có thể tu hành kinh Đại Niết Bàn, biên chép,
thọ trì,
đọc tụng,
giải thuyết,
tư duy ý nghĩa, đây gọi là
xa lìa.
Nầy
Thiện nam tử ! Ta chẳng thấy trong
mười hai bộ kinh có kinh nào lìa được các ác lậu như
kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn nầy.
Ví như ông thầy giỏi dạy các
đồ đệ, trong hàng
đồ đệ người
thuận theo lời thầy dạy thời chẳng gây tạo việc ác.
Cũng vậy
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thời tâm chẳng gây tạo
nghiệp ác.
Ví như trong đời có người giỏi
chú thuật, nếu ai
một lần nghe được chú nầy trong bảy năm chẳng bị trúng độc,
rắn độc chẳng cắn được, nếu có người tụng thuộc chú nầy thời
trọn đời không có những sự
họa hại. Cũng vậy, nếu có
chúng sanh một lần nghe
kinh Đại Niết Bàn nầy thời trọn bảy kiếp chẳng bị đọa
ác đạo. Nếu có người biên chép,
đọc tụng,
giải thuyết,
tư duy ý nghĩa, thời
quyết định thấy
Phật tánh đặng
vô thượng Bồ Đề.
Kinh Đại Niết Bàn nầy có
vô lượng công đức như vậy. Nếu người nào biên chép,
đọc tụng,
giải thuyết,
tư duy ý nghĩa của kinh nầy, thời thiệt là
đệ tử Phật, khéo
lãnh thọ giáo pháp của Phật, là người mà Phật thường thấy thường nhớ, là người biết rõ Phật chẳng
nhập Niết Bàn. Người nầy ở tại chỗ nào thời Phật cũng ở trong đó, thường nhận sự
cúng dường của người nầy, hoặc hiện làm
Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni,
Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di,
Bà La Môn,
Phạm Chí, người
nghèo khổ ăn xin. Người nầy hoặc ở trong
chiêm bao thấy
tượng Phật, hoặc thấy Trời, thấy
Sa Môn,
Thánh Vương,
Quốc Vương,
Sư Tử Vương,
hoa sen,
hoa Ưu Đàm, hoặc thấy núi cao, biển lớn,
mặt trời,
mặt trăng, hoặc thấy
Bạch Tượng,
bạch Mã, hoặc thấy
cha mẹ, đặng bông, đặng trái,
vàng bạc,
lưu ly,
pha lê những
châu báu, thấy sữa, lạc, tô,
đề hồ v.v…, nên biết chính là
Như Lai nhận sự
cúng dường. Người nầy sau khi
tỉnh giấc vui mừng liền đặng những đồ vật
cần dùng, tâm chẳng nghĩ điều ác, thích thật hành điều lành.
Nầy
Thiện nam tử !
Kinh Đại Niết Bàn có
vô lượng vô số công đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy, nay ông phải tin lấy lời của Phật.
Nếu người nào muốn thấy Phật, muốn
cung kính Phật, muốn đồng
pháp tánh mà thấy Phật, muốn đặng
không định, muốn thấy
thiệt tướng, muốn
tu tập Thủ Lăng Nghiêm định,
Sư Tử Vương định, muốn phá tám ma :
Phiền não,
ngũ ấm,
tử ma,
thiên ma,
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh, muốn đặng hưởng vui trong
loài người hay
trên trời, thời phải qua gần gũi
học hỏi cúng dường cung kính tôn trọng tán thán người
thọ trì đọc tụng biên chép
giải thuyết tư duy ý nghĩa kinh Đại Niết Bàn, rửa tay chưn cho người đó, trải giừơng chiếu
cung cấp đầy đủ tất cả đồ
cần dùng. Nếu người đó từ xa đến, phải ra rước ngoài mười do diên. Vì
tôn trọng kinh Đại Niết Bàn nên đem tất cả vật nhu dụng dưng cúng cho người đó.
Nếu không có, phải tự bán thân mình để mua sắm. Vì kinh nầy khó được gặp hơn
hoa Ưu Đàm.
Nầy
Thiện nam tử ! Ta nhớ thuở
quá khứ vô lượng vô biên na do tha kiếp, thuở đó có cõi nước hiệu là
Ta Bà,
Phật hiệu là
Thích Ca Mâu Ni đầy đủ mười hiệu, vì hàng
đại chúng tuyên nói
kinh Đại Niết Bàn. Thuở đó ta được nghe kinh nầy nơi các người bạn. Lòng ta
vui mừng muốn sắm đồ
cúng dường, nhưng vì quá nghèo thiếu nên không có một vật chi
đáng giá. Ta tự đem thân đi bán, nhưng vì
bạc phước nên chẳng ai chịu mua. Buồn tủi
trở về nhà, giữa đường ta gặp một người, bèn đem tâm sự bày tỏ. Người ấy bảo ta : Nếu ông bằng lòng làm theo nhu cầu của người thời người sẽ mua với giá năm
đồng tiền vàng. Người ấy có bịnh lạ y sĩ chế thuốc mỗi ngày cần có ba lượng thịt người. Ta
vui mừng nhận lời
yêu cầu. Người đó trả tiền trước, sau bảy ngày ta sẽ đến nhà người để theo đúng nhu cầu của người. Người ấy bằng lòng nhưng chỉ cho một ngày vì bịnh người phải gấp dùng thuốc.
Sau khi lãnh tiền ta liền đến chỗ
Phật đảnh lễ
chơn Phật, rồi đem tất cả năm
đồng tiền vàng dưng lên Phật.
Cúng dường xong, ta
chí thành lóng nghe Phật
giảng kinh Đại Niết Bàn. Lúc đó
tâm trí ta quá tối, dầu đặng nghe kinh nhưng chỉ
thọ trì được một
bài kệ :
Như Lai chứng
Niết Bàn . Dứt hẳn nơi
sanh tử. Nếu người
hết lòng nghe thường được vui
vô lượng.
Sau khi
thọ trì bài kệ trên đây rồi, ta liền đến nhà người bịnh. Nhờ ta niệm tưởng
bài kệ, nên dầu mỗi ngày cắt lấy ba lượng thịt nơi thân, nhưng ta chẳng lấy làm
đau khổ lắm. Trọn một tháng, mỗi ngày ta cắt lấy thịt cho người làm thuốc, do đó bịnh người được lành mà thân của ta cũng được
bình phục, ta liền
phát tâm vô thượntg
Bồ Đề, nguyện đời
vị lai đặng
thành Phật hiệu
Thích Ca Mâu Ni.
Nầy
Thiện nam tử ! Do
công đức của một
bài kệ ấy làm cho ta ngày nay được
thành Phật, ở trong
đại chúng tuyên nói
kinh Đại Niết Bàn nầy.
Nầy
Thiện nam tử !
Kinh Đại Niết Bàn thành tựu vô lượng vô biên công đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy, đây là tạng
bí mật rất sâu của chư Phật. Do nghĩa nầy nên người
thọ trì dứt lìa được những ác lậu. Chính là voi ác, ngựa ác, trâu ác, chó ác,
rắn độc, chỗ đất nhiều gai, gộp cao, bờ biển, nước xoáy chảy xiết, người ác, nước ác, thành ác, nhà ác, bạn ác v.v… Những nơi đó nếu là nhơn ác lậu thời
Bồ Tát liền
xa lìa, nếu chẳng phải nhơn ác lậu thời
Bồ Tát chẳng
xa lìa. Nếu thêm
hữu lậu thời
xa lìa, nếu chẳng thêm thời chẳng
xa lìa. Nếu là pháp ác thời bèn
xa lìa,
nếu có thể làm lành thời chẳng
xa lìa.
Xa lìa như thế nào ? Chẳng cầm dao gậy,
thường dùng trí huệ phương tiện mà
xa lìa đó, đây gọi là chánh
huệ viễn ly, vì muốn thêm lớn pháp lành thời phải
xa lìa pháp ác.
ĐạiBồ Tát
quán sát thân tướng của mình,
xem như ghẻ, như nhọt như oán thù, như tên độc, là chỗ khổ, là cội gốc của tất cả
thiện ác. Thân nầy dầu
bất tịnh như vậy,
Bồ Tát vẫn
săn sóc nuôi dưỡng, chẳng phải vì tham thân, chính là vì pháp lành ; chẳng phải vì
sanh tử, chính là vì
Niết Bàn ; vì thường, lạc, ngã, tịnh ; vì đạo
Bồ Đề ; vì
nhứt thừa ; vì
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vì
pháp vương.
Đại Bồ Tát thường phải
giữ gìn thân thể cho được an tòan để biên chép,
thọ trì,
đọc tụng,
giải thuyết,
tư duy ý nghĩa kinh Đại Niết Bàn nầy. Vì thế nên
Bồ Tát phải khéo
giữ gìn thân thể. Do nghĩa nầy nên
Bồ Tát đặng
xa lìa tất cả ác lậu.
Như người muốn qua sông phải khéo
giữ gìn thuyền bè. Người đi đường xa khéo
giữ gìn ngựa hay. Như nhà trồng tỉa khéo
giữ gìn phân tro. Như vì chữa độc nên khéo
giữ gìn rắn độc. Như người vì
của cải nên
nuôi dưỡng Chiên Đà La. Như vì muốn phá giặc nên
nuôi dưỡng dũng sĩ. Như người lạnh
giữ gìn ngọn lửa. Như người bịnh hủi tìm cầu thuốc độc. Cũng vậy,
Đại Bồ Tát dầu thấy thân nầy đầy
vô lượng nhớp nhơ, nhưng vì muốn
thọ trì kinh Đại Niết Bàn nên vẫn
giữ gìn nuôi dưỡng.
Đại Bồ Tát xem voi ác cùng bạn ác đồng nhau không khác, vì đều làm hại thân. Đối với voi ác,
Bồ Tát chẳng sợ bằng sợ bạn ác.Vì voi ác chỉ hại thân mà chẳng hại được tâm. Bạn ác thời hại cả hai thứ thân và tâm. Voi ác chỉ làm hại một thân. Bạn ác có thể làm hại
vô lượng thân lành
vô lượng tâm lành. Voi ác chỉ có thể
phá hoại thân hôi nhơ. Bạn ác có thể
phá hoại tịnh thân cùng
tịnh tâm. Voi ác chỉ có thể làm hại nhục thân. Bạn ác làm hại đến
pháp thân. Bị voi ác giết chẳng sa đến
ba đường ác. Bị bạn ác giết tất sa đến
ba đường ác. Voi ác chỉ là kẻ oán thù của thân. Bạn ác là kẻ oán thù của pháp lành. Do đây nên
Bồ Tát thường phải
xa lìa bạn ác.
Những ác lậu như vậy,
phàm phu chẳng
xa lìa nên sanh ác lậu,
Bồ Tát xa lìa thời chẳng sanh ác lậu.
Bồ Tát còn không có ác lậu như vậy huống là
Như Lai.
Thế nào là gần gũi ác lậu ? Tất cả
phàm phu lãnh lấy
y phục vật thực đồ nằm thuốc thang, họ vì sự đòi hỏi của
thân tâm mà tìm cầu những vật như vậy, nên gây tạo nhiều
tội ác, chẳng biết là
lỗi lầm, phải
luân hồi trong
ba đường ác, do đây nên gọi là ác lậu.
Đại Bồ Tát thấy những lỗi như vậy thời bèn
xa lìa.
Lúc cầu
y phục Bồ Tát bèn nhận lấy. Chẳng phải vì
thân mục đích chỉ vì pháp lành ; chẳng
kiêu mạn, thường khiêm tốn, chẳng vì
phục sức tốt đẹp, chỉ vì
hổ thẹn, để che lạnh
che nắng, che gió mưa ngăn muỗi mòng.
Bồ Tát dầu
lãnh thọ vật thực, nhưng lòng chẳng tham đắm chẳng vì thân chĩ vì
chánh pháp, chẳng vì
da thịt chỉ vì
chúng sanh, để trị bịnh đói, dầu đặng món
ăn ngon cũng vẫn không tham đắm.
Bồ Tát lúc nhận lấy phòng nhà cũng như vậy, chẳng để
quan niệm tham đắm ở nơi lòng, vì
che mưa gió, vì
Bồ Đề mà nhận lấy phòng nhà.
Lúc cầu thuốc thang lòng
Bồ Tát không tham đắm, chẳng phải vì mạng sống chỉ vì
chánh pháp, vì
pháp thân huệ mạng. Như người bị ung nhọt, dùng thuốc đắp lên lấy vải bó đó, như vậy là chỉ vì để rút
máu mủ cho bịnh được lành. Vì tránh gió độc nên ở trong nhà kín. Cũng vậy,
Đại Bồ Tát xem
thân thể là ung nhọt nên lấy
y phục che đậy, vì
cửu khiếu máu mủ mà tìm cầu món ăn vật uống, vì mưa gió độc nên nhận lấy phòng nhà vì bốn độc phát bịnh nên tìm cầu thuốc thang. Vì đạo
Bồ Đề mà
Bồ Tát lãnh lấy bốn thứ
cúng dường chẳng vì mạng sống.
Bồ Tát suy nghĩ như vầy : Nếu tôi chẳng nhận lấy bốn thứ
cúng dường nầy, thời
thân thể phải chết mất, chẳng thể nhẫn thọ khổ nhọc ;
nếu không kham sự khổ nhọc thời không thể
tu tập pháp lành ; nếu kham sự khổ nhọc thời có thể
tu tập vô lượng pháp lành ; nếu tôi chẳng
kham nhẫn các sự khổ, thời sẽ sanh lòng giận hờn đối với việc nghịch trái, và sẽ sanh lòng tham đắm đối với cảnh thuận vui ; nếu tìm cầu sự vui mà chẳng đặng thời sanh lớn
vô minh mê muội.
Do đây nên
phàm phu sanh những ác lậu đối với bốn thứ
cần dùng.
Bồ Tát vì có thể
quan sát như vậy nên chẳng sanh những ác lậu, do đây nên gọi là
vô lậu.
Bồ Tát còn
vô lậu như vậy huống là
Như Lai. Vì thế nên
Như Lai chẳng gọi là
hữu lậu.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
phàm phu dù khéo
giữ gìn thân tâm nhưng vẫn còn sanh ba thứ
ác giác, do cớ nầy nên dầu phục
trừ phiền não đặng sanh
cõi trời phi
phi tưởng, nhưng vẫn
trở lại đọa trong
ba đường dữ.
Ví như có người đi qua biển lớn, sắp đến bờ mà bị chết đuối.
Phàm phu trên đây cũng vậy, sắp ra khỏi
ba cõi trở lại đọa nơi
tam đồ. Đó là do vì không có
thiện giác, chính là không có
sáu chánh niệm.
Phàm phu tâm lành kém yếu, tâm ác lại lẫy lừng. Vì tâm lành kém nên
trí huệ cũng kém. Vì
trí huệ kém nên thêm lớn những ác lậu.
Bồ Tát nhờ
huệ nhãn thanh tịnh thấy lỗi của ba thứ
giác quán, biết ba thứ
giác quán nầy có những họa hoạn thường làm oán thù đối với
ba thừa. Do ba thứ
giác quán nầy làm cho
vô lượng phàm phu chẳng thấy
Phật tánh, trong
vô lượng kiếp điên đảo cho rằng
Phật Thế Tôn không có thường, lạc, và ngã, chỉ có tịnh thôi ; lại cho rằng
Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn. Tất cả
chúng sanh là
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh, mà
điên đảo cho là có thường, lạc, ngã, tịnh. Thiệt không có
tam thừa mà
điên đảo cho là thật có
tam thừa. Đạo
nhứt thừa chơn thật mà
điên đảo cho là không có
nhứt thừa.
Ba thứ
giác quán nầy thường bị chư Phật và
Bồ Tát quở trách. Ba thứ
giác quán nầy thường hại nơi mình cũng hại đến kẻ khác. Có ba thứ
giác quán nầy thời sanh ra tất cả điều ác. Ba thứ
giác quán nầy chính là ba sợi dây trói liền
chúng sanh trong
sanh tử vô biên.
Bồ Tát thường
quán sát ba thứ
giác quán nầy. Hoặc có lúc vì
nhơn duyên đáng lẽ phải sanh
dục giác Bồ Tát yên lặng chẳng
lãnh thọ.
Ví như người
xinh đẹp sạch sẽ chẵng nhận lãnh tất cả phẩn nhơ, như hoàn sắt nóng không ai cầm lấy, như dòng
Bà La Môn chẳng nhận thịt bò ; như người no bụng chẳng nhận đồ ăn dở, như vua
Chuyển Luân chẳng ngồi chung một giường với
Chiên Đà La,
Bồ Tát khinh ghét ba thứ
ác giác chẳng nhận chẳng ham cũng như vậy.
Bồ Tát thường
suy nghĩ :
Chúng sanh biết rằng ta là
ruộng phước tốt, ta đâu nên nhận pháp ác ấy, nếu ta nhận pháp ác thời chẳng đáng là
ruộng phước của
chúng sanh. Dầu ta chẳng tự nói mình là
ruộng phước tốt, nhưng
chúng sanh thấy
hình tướng bèn nói ta là
ruộng phước. Nếu ta sanh
ác giác như vậy thời là khi dối tất cả
chúng sanh. Thuở
quá khứ, vì khi dối nên trong
vô lượng kiếp đọa
ba đường ác trôi lăn trong
sanh tử. Nếu ta có
ác tâm nhận của người cúng thí, tất cả thiên nhơn và
ngũ thông tiên đều sẽ rõ biết, sẽ bị
quở trách. Nếu ta có
ác giác nhận sự cúng thí của người, sẽ làm cho
thí chủ được
phước đức kém ít, hoặc không
phước đức, như thế ta là
kẻ thù óan của
thí chủ. Tất cả
thí chủ thường mến kính ta, sao ta lại khi dối họ mà cho làm kẻ oán thù của họ, vì ta làm cho họ được ít
phước đức, hoặc không
phước đức.
Bồ Tát thường
suy nghĩ : Ta thường tự xưng là người
xuất gia. Luận về người
xuất gia chẳng sanh
ác giác, nếu sanh
ác giác thời chẳng phải
xuất gia. Người
xuất gia thân cùng miệng phải
tương ưng, nếu chẳng
tương ưng thời chẳng phải
xuất gia. Ta bỏ
cha mẹ anh em
vợ con quyến thuộc bạn bè để
xuất gia tu hành, chính là
thời kỳ tu tập những
thiện giác, chẳng phải là
thời gian sanh
ác giác.
Ví như có người vào biển tìm
châu báu, chẳng lấy chơn châu mà lại lấy
thủy tinh. Cũng như có người bỏ
âm nhạc hay mà đi chơi giỡn trên đống phẩn nhơ. Như bỏ
bảo nữ mà giao thông với tớ gái. Như bỏ bồn vàng mà dùng chậu sành. Như bỏ vị
cam lộ mà uống thuốc độc. Như bỏ y sĩ
thân thiện tài giỏi mà cầu thuốc với y sĩ oán thù dở. Cũng vậy, ta bỏ lìa
pháp vị cam lồ của
Đại Sư Như Lai Thế Tôn, mà nhận lấy các thứ
ác giác của
ma oán. Thân người khó đặng như
hoa Ưu Đàm mà ta đã được.
Như Lai khó gặp như
hoa Ưu Đàm mà ta đã gặp. Pháp bửu
thanh tịnh khó được thấy nghe mà ta được nghe. Như con rùa đui gặp được bộng cây nổi. Mạng người chẳng dừng qua mau hơn thác nước đổ, ngày nay dầu còn khó
bảo đảm được ngày mai, sao lại
buông lung ở nơi pháp ác ? Thời
tráng kiện chẳng dừng qua mau như ngựa chạy, sao lại
tự thị sanh lòng
kiêu mạn . Bốn
ác ma rình rập tìm cầu
lỗi lầm của ta, sao lại để cho
ác giác sanh khởi !
Ví như nhà hư mục sắp sập, mạng sống của ta cũng vậy, đâu nên sanh việc ác. Phàm
Sa Môn gọi là tỏ ngộ nơi
thiện giác, ta là
Sa Môn sao lại sanh
ác giác ? Người
xuất gia phải
tu đạo lành, nay ta làm ác đâu đáng gọi là
xuất gia.
Bà La Môn gọi là người tu hạnh
thanh tịnh, nay ta thật hành
ác giác chẳng
thanh tịnh đâu gọi là chơn thật
Bà La Môn. Nay ta cũng gọi là dòng
Sát Đế Lợi. Luận về dòng
Sát Đế Lợi thời hay trừ được kẻ
oán địch, nay ta chẳng trừ được
oán địch ác giác, đâu đáng gọi là dòng
Sát Đế Lợi.
Tỳ Kheo gọi là phá
phiền não, nay ta chẳng phá được
ác giác phiền não đâu đáng gọi là
Tỳ Kheo.
Trong đời có
sáu chỗ được gặp gỡ, nay ta đã được, đâu nên để
ác giác ở nơi lòng. Những gì là
sáu chỗ khó được ? _ Một là Phật ra đời khó gặp, hai là
chánh pháp khó nghe, ba là tâm lo sợ khó sanh, bốn là khó được ở
trung quốc, năm là khó được thân người, sáu là năm căn khó đầy đủ. Sáu việc như vậy khó được mà ta đã được, vì thế nên chẳng nên sanh
ác giác.
Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn nầy thường siêng
quán sát những
ác giác như vậy.
Hàng
phàm phu chẳng thấy lỗi họa của
ác giác, nên
lãnh thọ ba thứ
ác giác, gọi đó là
lãnh thọ ác lậu.
Bồ Tát thấy như thế nên chẳng lãnh chẳng ham, nương nơi
tám thánh đạo để trừ bỏ đó, để chặt đứt đó. Do đây nên
Bồ Tát không thọ ác lậu. Sao lại nói rằng
Như Lai có ác lậu ? Do nghĩa nầy nên
Như Lai chẳng phải là
hữu lậu.
Nầy
Thiện nam tử !
Phàm phu nếu gặp lúc
thân tâm khổ não thời sanh các sự ác. Lúc bị
thân bịnh hay tâm bịnh, khiến thân khẩu, ý tạo những
nghiệp ác. Vì tạo
nghiệp ác nên
luân hồi trong
ba đường dữ thọ những sự khổ. Tại sao vậy ? Vì
phàm phu không có
niệm huệ.
Bồ Tát thường tự
suy xét rằng : Ta từ
vô số kiếp xưa
đến nay, vì
thân tâm nầy mà gây tạo những
nghiệp ác, nên phải
lưu chuyển trong
sanh tử đọa nơi
ác đạo chịu đủ sự khổ, làm cho ta
xa lìa con đường chơn chánh
ba thừa.
Suy nghĩ như vậy rồi
Bồ Tát rất sợ sệt đối với
thân tâm của mình,
lìa bỏ việc ác mà thẳng đến đạo lành.
Ví như có
Quốc Vương đem
bốn con rắn độc đựng chung trong một cái trấp, sai người
nuôi dưỡng cho ăn , tắm rửa. Vua ra lịnh nếu để một con rắn
giận dữ không
vừa lòng, thời ta sẽ xử tử nhà ngươi.
Người đó nghe
lịnh nghiêm khắc của
Quốc Vương, sợ quá bỏ trấp rắn
chạy trốn . Vua liền sai năm
Chiên Đà La cầm dao rượt theo. Người ấy
ngó ngoái lại thấy phía sau năm người rượt gấp bèn vội chạy đi. Năm người lập kế giấu dao, rồi
bí mật sai một người
giả dạng hiền lành đến khuyên bảo người ấy
trở lại. Người ấy chẳng tin chạy thẳng đến một
tụ lạc kia để ẩn trốn. Lúc đã vào trong
tụ lạc, xem thấy những nhà cửa đều không có người cũng không có đồ vật, bèn ngồi trên đất. Thoạt nghe trên không có tiếng nói : Nầy nam tử !
Tụ lạc nầy
hoang vắng không có cư dân, đêm nay sẽ có sáu tên cướp đến. Nếu người gặp cướp thời khó
bảo tồn tánh mạng. Người ấy nghe tiếng trên
hư không bảo như vậy
sợ hãi quá bèn bỏ
tụ lạc mà đi.
Dọc đường gặp một con sông nước chảy gấp. Tìm không có thuyền bè, vì sợ nên lấy các thứ cỏ cây kết làm bè. Tự nghĩ rằng : Nếu ta dừng ở nơi đây tất sẽ bị
rắn độc, năm
Chiên Đà La, một người dối
hiền lành và sáu tên cướp làm nguy hại. Còn nếu qua sông thời chiếc bè nầy không
bảo đảm có thể sẽ phải chìm chết. Nhưng thà chết đuối, trọn chẳng để kẻ ác kia làm hại.
Suy nghĩ xong, kéo bè cỏ xuống nước, thân nằm trên bè, tay ôm bè, chưn đạp nước vượt dòng nước chảy xiết mà qua sông.
Lúc đã được qua
đến bờ bên kia an ổn không họa hoạn, hết kinh sợ trong lòng rất thơ thới
vui vẻ.
Bồ Tát đặng nghe và
thọ trì kinh Đại Niết Bàn,
suy xét thân nầy như cái trấp, địa, thủy, hỏa, phong như bốn
rắn độc :
Kiến độc,
Xúc độc,
Khí độc, Nọc độc. Tất cả
chúng sanh gặp bốn
rắn độc nầy thời phải mất
thân mạng.
Tứ đại cũng như vậy : Hoặc
kiến chấp làm độc, hoặc chạm xúc làm độc, hoặc hà khí làm độc, hoặc cắn nọc làm độc, do đây nên
xa lìa những điều lành.
Bồ Tát suy xét bốn
rắn độc có bốn
dòng họ : Dòng
Sát Đế Lợi, dòng
Bà La Môn, dòng
Tỳ Xá, dòng
Thủ Đà.
Tứ đại cũng có bốn
chủng tánh : Tánh cứng, tánh ướt, tánh nóng, tánh động. Vì thế nên
Bồ Tát xem
tứ đại đồng chủng tánh với bốn
rắn độc.
Bồ Tát lại
suy xét bốn
rắn độc nầy thường rình hại người : Lúc nào sẽ nhìn ngó, lúc nào sẽ chạm xúc, lúc nào sẽ hà hơi, lúc nào sẽ cắn.
Tứ đại cũng như vậy thường rình chờ dịp để hại
chúng sanh.
Nếu bị bốn
rắn độc hại chết chẳng đến nỗi phải đọa trong
ba đường ác. Nếu bị
tứ đại giết hại tất sa vào
ba đường ác. Bốn
rắn độc nầy dầu
săn sóc nuôi dưỡng nó nhưng nó cũng thường muốn giết người. Cũng vậy, dầu thường
cung cấp, nhưng
tứ đại cũng luôn kéo dắt người tạo những
nghiệp ác. Bốn
rắn độc ấy nếu một con sân giận thời sẽ giết người. Tánh
tứ đại nếu một đại phát lên cũng có thể hại người. Bốn
rắn độc ấy dầu
ở chung một chỗ, nhưng
tâm tánh của nó đều riêng khác.
Tứ đại dầu đồng ở một thân mà tánh của mỗi đại khác nhau. Bốn
rắn độc ấy dầu có
cung kính nó cũng khó có thể gần gũi nó,
tứ đại cũng như vậy. Bốn
rắn độc ấy nếu lúc hại người, có được
phù chú thuốc men của
Sa Môn hay
Bà La Môn thời có thể chữa trị.
Tứ đại giết người dầu có
Sa Môn hay
Bà La Môn dùng
thần chú phép tắc cũng chẳng trị được. Như người trí nghe hơi tanh của
rắn độc liền tránh xa. Chư Phật
Bồ Tát nghe hơi hôi của
tứ đại cũng liền tránh xa.
Bồ Tát lại
suy nghĩ tứ đại như
rắn độc, nên rất sợ sệt chạy đi lo tu
tám thánh đạo.
Năm
Chiên Đà La dùng lệ cho
năm ấm.
Bồ Tát quán sát năm ấm như
Chiên Đà La.
Chiên Đà La thường hay làm cho người phải
xa lìa ân ái mà hội họp với oán thù. Cũng vậy,
năm ấm khiến người tham gần pháp ác mà
xa lìa những pháp lành.
Như
Chiên Đà La võ trang để tự vệ : Hoặc dao, gậy, cung tên hoặc thuẫn giáp, họ có thể hại người. Cũng vậy,
năm ấm dùng các thứ
phiền não để tự võ trang, hại những người
ngu si làm cho sa vào trong
ba cõi.
Như
Chiên Đà La bắt được người có
tội lỗi bèn giết hại. Cũng vậy,
năm ấm có những kiết sữ
thường hay hại người.
Do nghĩa nầy nên
Bồ Tát quán sát năm ấm như
Chiên Đà La.
Lại như
Chiên Đà La không tâm từ mẫn họ hại cả người thân cũng như
kẻ thù. Cũng vậy,
năm ấm hại cả pháp lành, pháp ác, không
lòng từ mẫn.
Như
Chiên Đà La não hại tất cả
mọi người,
ngũ ấm dùng các thứ
phiền não thường
não hại tất cả
chúng sanh trong dòng
sanh tử.
Chiên Đà La luôn luôn có
tâm niệm muốn giết hại,
năm ấm cũng
thường có những
kiết sử não hại.
Như người cụt chân lại không dao gậy không người
hộ vệ, phải biết người nầy ắt bị
Chiên Đà La giết hại. Cũng vậy,
chúng sanh không chân, không dao, không
hộ vệ, thời bị giặc
năm ấm làm hại. Chân lệ cho giới, dao lệ cho
trí huệ, người
hộ vệ lệ cho
thiện tri thức.
Nếu không ba điều nầy tất bị
năm ấm làm hại. Do dây nên
Bồ Tát xem
năm ấm như
Chiên Đà La.
Bồ Tát lại
quán sát năm ấm còn hơn
Chiên Đà La. Vì người bị
Chiên Đà La giết hại chẳng đọa
địa ngục, còn bị
năm ấm giết hại thời đọa
địa ngục. Do đây nên
Bồ Tát lập thệ rằng : Tôi thà
trọn đời gần
Chiên Đà La, chớ chẳng gần
năm ấm dầu chỉ tạm thời.
Chiên Đà La chỉ có thể hại nơi người
ngu si ở cõi dục. Giặc
ngũ ấm hại khắp tất cả
phàm phu chúng sanh trong
ba cõi.
Û
Chiên Đà La chỉ có thể giết hại người có tội,
năm ấm giết hại
chúng sanh không luận có tội hay không tội.
Chiên Đà La chẳng giết hại người già cả,
phụ nữ và trẻ thơ,
năm ấm giết tất cả
chúng sanh không luận già trẻ cùng
phụ nữ.
Vì thế nên
Bồ Tát quán sát năm ấm còn hơn
Chiên Đà La,
lập thệ trọn đời thà ở gần
Chiên Đà La chớ chẳng gần gũi
năm ấm dầu chỉ tạm thời.
Chiên Đà La chỉ hại người khác không bao giờ tự hại mình, giặc
năm ấm hại mình hại người hơn
Chiên Đà La.
Chiên Đà La có thể dùng lời lành,
tiền của,
châu báu lo lót mà được
thoát khỏi.
Năm ấm chẳng như vậy, không thể dùng lời lành để khuyến dụ cũng không thể dùng
tiền của châu báu lo lót mà được
thoát khỏi.
Trong ngày đêm
Chiên Đà La chẳng ắt luôn luôn giết hại,
năm ấm thời
niệm niệm thường giết hại
chúng sanh.
Chiên Đà La chỉ ở một chỗ, có thể trốn lánh khỏi,
năm ấm thời ở khắp tất cả chỗ nên không thể trốn lánh.
Chiên Đà La dầu hại người, lúc hại xong, thời chẳng theo nữa.
Năm ấm khi đã giết hại
chúng sanh lại
theo dõi luôn chẳng rời.
Do đây nên
Bồ Tát lập thệ thà
trọn đời ở gần
Chiên Đà La, quyết không gần gũi
năm ấm dầu chỉ tạm thời.
Người có
trí huệ dùng
phương tiện lành khéo
thoát khỏi đặng
năm ấm. Chính là thật hành
tám thánh đạo,
sáu Ba La Mật, bốn
vô lượng tâm mà
được giải thoát,
thân tâm chẳng bị
năm ấm làm hại. Vì thân như
kim cương, tâm như
hư không.
Do nghĩa nầy nên
Bồ Tát quán sát năm ấm có những điều chẳng lành, lòng rất sợ sệt lo tu
tám thánh đạo. Cũng như người kia sợ bốn
rắn độc cùng năm
Chiên Đà La, kiếm đường
chạy trốn không dám
ngó ngoái lại.
Kẻ giả làm
bạn thân chính là để lệ cho
tham ái.
Bồ Tát quán sát kỹ
tham ái như kẻ địch giả làm người thân. Nếu đã biết đượclà giả thời không bị hại, còn nếu chẳng rõ biết tất sẽ bị hại. Cũng vậy, nếu biết được tánh của
tham ái thời nó chẳng thể làm cho
chúng sanh luân chuyển sanh tử,
như không rõbiết thời phải
luân hồi trong sáu loài chịu đủ mọi sự khổ. Vì
tham ái làm hại khó bỏ lìa, như kẻ địch giả làm người thân nên khó
xa lìa. Kẻ
oán địch giả làm người thân, luôn rình chờ có dịp để hại người,
tham ái làm cho người
xa lìa tất cả pháp lành gần gũi tất cả pháp ác cũng như vậy.
Bồ Tát quán sát kỹ
tham ái như kẻ địch giả người thân, vì thấy mà chẳng thấy, vì nghe mà chẳng nghe, như người
phàm phu thấy lỗi
sanh tử, dầu có
trí huệ nhưng vì
si mê che đậy nên rồi lại chẳng thấy lỗi. Hàng
Thanh Văn Duyên Gúac cũng như vậy : Dầu thấy nhưng chẳng thấy, dầu nghe nhưng chẳng nghe. Do tâm
tham ái nên dầu thấy lỗi
sanh tử mà không thể mau đến
vô thượng Bồ Đề. Do nghĩa nầy nên
Bồ Tát xem
tham ái như kẻ địch giả người thân.
Như kẻ
oán địch chẳng thân mà giả là người
thiệt thân, chẳng thể gần gũi mà giả gần gũi, là ác mà giả là lành, chẳng
thân yêu mà giả là
thân yêu, để luôn luôn chờ dịp hại người.
Tham ái cũng như vậy.
Kẻ địch giả người thân, chỉ thấy được thân và miệng của họ mà chẳng biết được tâm của họ, nên họ có thể phỉnh gạt.
Tham ái hư dối khó biết nên nó có thể làm
mê lầm tất cả
chúng sanh.
Kẻ địch gỉa người thân thời có trước có sau có thể dễ
xa lìa,
tham ái không trước không sau nên khó
xa lìa được.
Kẻ địch giả người thân, ở xa thời khó biết, gần gũi thời dễ biết.
Tham ái gần gũi còn khó rõ biết huống là ở xa.
Tất cả
chúng sanh vì
tham ái mà xa
Đại Niết Bàn gần gũi
sanh tử, xa thường, lạc, ngã, tịnh mà gần
vô thường khổ
vô ngã bất tịnh. Do đây nên trong các kinh Phật nói là nhơ nhớp trong
ba cõi. Nơi việc
hiện tại vì
vô minh nên chẳng thấy lỗi họa chẳng
xa lìa được. Kẻ địch giả người thân trọn chẳng hại được người có trí. Do đây nên
Bồ Tát quán sát kỹ
tham ái nầy, lòng rất sợ lo tu
tám thánh đạo. Như người kia sợ bốn
rắn độc, năm
Chiên Đà La và một kẻ giả người thân nên kiếm đường
chạy trốn chẳng
trở lại.
Tụ lạc trống rỗng không cư dân chính là lệ cho
lục nhập.
Bồ Tát quán sát nội lục nhập trống rỗng không chỗ có như
tụ lạc trống. Như người
sợ chết kia đã vào
tụ lạc nhẫn đến chẳng thấy có một người ở, tìm khắp nơi cũng chẳng gặp được một món đồ. Cũng vậy,
Bồ Tát quán sát kỹ
lục nhập trống rỗng không chỗ có, chẳng thấy
chúng sanh, chẳng thấy một vật thật có.
Tụ lạc trống rỗng đó, đảng cướp ở xa trọn chẳng tưởng là trống rỗng.
Phàm phu cũng như vậy, đối với
lục nhập chẳng nghĩ là trống rỗng, do đó nên
luân chuyển trong
sanh tử thọ
vô lượng sự khổ.
Bồ Tát quán sát lục nhập nầy luôn
nghĩ tưởng là trống rỗng, nên chẳng bị
khổ luân hồi
sanh tử.
Bồ Tát đối với
lục nhập thường không có
quan niệm điên đảo, nên chẳng còn
luân hồi sanh tử. Như đảng cướp, lúc vào
tụ lạc trống rỗng nầy thời được an vui. Giặc
phiền não cũng như vậy, lúc vào trong
lục nhập thời được an vui. Như đảng cướp vào
tụ lạc nầy thời không lòng sợ sệt.
Giặc
phiền não ở nơi
lục nhập nầy cũng không sợ sệt như vậy. Như
tụ lạc trống rỗng là chỗ ở của các loài
ác thú :
Sư tử, cọp, sói.
Lục nhập nầy cũng là chỗ ở của tất cả
phiền não ác.
Do đây nên
Bồ Tát quán sát kỹ
lục nhập trống rỗng không chỗ có là chỗ ở của tất cả việc ác.
Tụ lạc nầy trống rỗng
không vui, mà đảng cướp tưởng là có người có vật là an vui. Đối với
lục nhập trống rỗng không chỗ có mà người ngu tưởng là có, là vui, chỉ có người trí mới biết được
sự thật.
Tụ lạc kia lúc thời có người, lúc thời không người.
Lục nhập một mặt luôn không người, vì tánh nó vốn là không, chỉ có người trí rõ biết, chẳng phải là mắt thấy được. Do đây nên
Bồ Tát quán sát lục nhập nhiều sự oán thù
tai hại, lo tu tám đạo thánh chẳng thôi chẳng nghĩ. Như người kia sợ bốn
rắn độc, năm
Chiên Đà La. Một kẻ giả
bạn thân cùng sáu tên cướp vội vã
lên đường chạy thẳng.
Sáu tên cướp dùng lệ cho
sáu trần :
Bồ Tát quán sát sáu trần nầy như sáu tên cướp hung dữ, vì
chúng nó có thể cướp tất cả những pháp lành, như sáu tên cướp có thể cướp tài vật của tất cả nhơn dân.
Như sáu tên cướp vào nhà người thời có thể cướp đoạt tất cả
tài sản hiện có trong nhà chẳng chọn tốt xấu, làm cho người giàu to thoạt vậy nghèo cùng. Giặc
sáu trần nầy lúc vào nơi sáu căn thời nó có thể cướp giựt tất cả pháp lành của người, làm cho người hết lành hết phước thành kẻ bần cùng Nhứt
Xiển Đề. Vì thế nên
Bồ Tát quán sát sáu trần như sáu tên cướp.
Như sáu tên cướp lúc muốn cướp nhà người phải nhờ người trong nhà làm nội ứng,
nếu không người nội
ứng thời bọn cướp bèn
trở lại. Giặc
sáu trần nầy cũng như vậy, lúc muốn cướp pháp lành
cần phải do bề trong
chúng sanh có những tướng
tri kiến : Thường, lạc, ngã, tịnh,
bất không v.v…
nếu không có những tướng bề trong như vậy, thời giặc
sáu trần chẳng thể cướp được pháp lành.
Người trí trong
tâm không có những tướng như vậy,
phàm phu thời có, nên
sáu trần thường đến
xâm đoạt pháp lành của
phàm phu.
Người trí có thể khéo dùng
trí huệ đề phòng giữ gìn nên chẳng bị cướp đoạt. Do đây nên
Bồ Tát quán sát sáu trần nầy như sáu tên cướp.
Như sáu tên cướp có thể làm
khổ não thân tâm của nhơn dân, giặc
sáu trần thường làm
thân tâm chúng sanh khổ não cũng như vậy.
Sáu tên cướp chỉ có thể đoạt
tài sản hiện có của người, giặc
sáu trần thường cướp đoạt pháp lành của
chúng sanh cả
ba đời.
Sáu tên cướp đến đêm tối thời
vui mừng, giặc
sáu trần ở trong
vô minh hắc ám thời nó
vui thích. Sáu tên cướp chỉ có nhà vua mới có thể dẹp bắt, giặc
sáu trần chỉ có Phật
Bồ Tát mới ngăn dứt được nó.
Sáu tên cướp nầy, lúc muốn cướp giựt, chẳng
lựa chọn người
xinh đẹp,
thông minh,
học rộng,
giàu sang hay nghèo hèn. Giặc
sáu trần lúc muốn cướp pháp lành cũng chẳng
lựa chọn người
xinh đẹp nhẫn đến nghèo hèn.
Sáu tên cướp nầy, dầu nhà vua bắt được, chặt tay chưn, nhưng vẫn không thể làm cho tâm
chúng nó hết hung ác. Giặc
sáu trần cũng như vậy, dầu
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm, chặt đứt nó, cũng chẳng thể làm cho nó chẳng cướp pháp lành. Như người
dũng kiện mới có thể dẹp hẳn sáu tên cướp nầy. Cũng vậy, chư Phật và
Bồ Tát mới có thể dẹp hẳn giặc
sáu trần.
Như có người
quyến thuộc đông, giòng họ lớn,
bà con nhiều, thời chẳng bị sáu tên cướp
xâm đoạt tài sản. Cũng vậy,
chúng sanh nếu có
thiện tri thức thời chẳng bị giặc
sáu trần cướp hại.
Sáu tên cướp nầy nếu thấy tài vật của người, thời có thể trộm cướp. Giặc
sáu trần nếu thấy, nếu biết, nếu nghe, nếu ngửi, nếu chạm, nếu hay biết, thời đều có thể cướp đoạt.
Sáu tên cướp chỉ có thể cướp đoạt
tài sản của người, cõi dục, giặc
sáu trần có thể cướp đoạt tất cả
của báu pháp lành
ba cõi.
Do đây nên
Bồ Tát quán sát kỹ
sáu trần còn hơn sáu tên cướp kia, do đây nên lo tu
tám thánh đạo thẳng tiến chẳng
trở lại. Như người kia sợ bốn
rắn độc năm
Chiên Đà La, một kẻ giả
bạn thân cùng sáu tên cướp rời bỏ
tụ lạc trống rỗng theo đường thẳng chạy đi.
Dọc đường gặp một con sông, chính là lệ cho
phiền não.
Bồ Tát quán sát phiền não nầy như sông lớn, nước sông chảy xiết có thể làm trôi
hương tượng.
Phiền não cũng có thể làm trôi bực
Duyên Giác.
Sâu khó đến đáy nên gọi là “sông”, bờ xa khó qua đến nên gọi là “lớn”. Giữa sông có nhiều loài cá hung dữ.
Phiền não cũng như vậy, chỉ có Phật và
Bồ Tát mới có thể cùng tột nên gọi là rất sâu, chỉ có Phật và
Bồ Tát mới qua đến bờ nên gọi là rộng lớn, thường hại tất cả
chúng sanh si mê nên gọi là hung dữ. Do đây nên
Bồ Tát quán sát phiền não nầy dường như sông lớn.
Như nước sông lớn có thể sanh trưởng tất cả cỏ cây lùm rừng,
phiền não cũng có thể sanh trưởng
chúng sanh hai mươi lăm cõi. Như có người té xuống sông lớn mà không
hổ thẹn,
chúng sanh sa vào trong
phiền não cũng không
hổ thẹn như té xuống sông chìm chưa đến đáy mà đã chết,
chúng sanh sa vào
phiền não luân hồi trong hai mươi lăm cõi vẫn chưa đến đáy. Trên đây nói đáy sông là lệ cho
tướng không, nếu chẳng tu
tướng không nầy, thời chẳng đặng ra khỏi hai mươi lăm cõi. Tất cả
chúng sanh vì chẳng thể khéo tu
tướng không nên thường bị
phiền não nhận chìm : Do đây nên
Bồ Tát quán sát phiền não nầy dường như sông lớn.
Như sông lớn kia chỉ có thể làm hại
thân mạng mà chẳng phá được pháp lành,
phiền não thời có thể
phá hoại tất cả pháp lành của
thân tâm.
Sông lớn kia chỉ có thể làm trôi chìm người trong cõi dục,
phiền não thời có thể hại tất cả nhơn thiên trong
ba cõi.
Sông lớn
trong đời nếu tay ôm phao, vịn bè, chưn đạp, thời có thể
đến bờ bên kia. Với
phiền não thời chỉ có
Bồ Tát tu sáu
pháp Ba La Mật mới qua khỏi được.
Như sông lớn người khó lội qua
chúng sanh cũng khó thoát qua khỏi
phiền não. Thế nào gọi là khó ? Đến bực
thập trụ Bồ Tát vẫn còn chưa
rốt ráo thoát khỏi hẳn
phiền não, chỉ có chư Phật mới
rốt ráo. Do đây nên gọi là khó qua khỏi được.
Như có người bị nước sông đẩy trôi chẳng có thể làm được việc gì,
chúng sanh bị
phiền não lôi cuốn cũng không thể
tu tập pháp lành. Như người té sông bị nước cuốn đi, người có
đủ sức thời cứu vớt được.
Chúng sanh sa vào
phiền não làm nhứt
xiển đề, hàng
Thanh Văn Duyên Giác,
Bồ Tát, Chư Phật đều không
cứu tế được. Sông lớn
trong đời phải khô cạn lúc
kiếp tận. Với
phiền não hàng
Thanh Văn Duyên Giác dầu tu
thất giác chi vẫn còn chẳng làm khô được. Vì thế nên
Bồ Tát quán sát các
phiền não dường như sông lớn.
Như người kia sợ bốn
rắn độc năm
Chiên Đà La, một kẻ giả
bạn thân cùng sáu tên cướp mà bỏ
tụ lạc trống rỗng thẳng đường chạy đi đến bên sông lớn, rồi lấy cỏ kết làm bè. Cũng vậy,
Bồ Tát sợ
tứ đại,
ngũ ấm ,
tham ái,
lục nhập,
lục trần , đến sông
phiền não, rồi tu giới,
định huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến, sáu môn
ba la mật,
ba mươi bảy phẩm trợ đạo, dùng đây làm thuyền bè để
vượt qua sông
phiền não đến bờ
Niết Bàn : Thường, lạc, ngã, tịnh kia.
Bồ Tát tu
kinh Đại Niết Bàn suy nghĩ như vầy : Nếu tôi không
suy nghĩ nhận lấy sự khổ nơi thân, sự khổ nơi tâm, thời không thể làm cho tất cả
chúng sanh qua khỏi sông
phiền não. Nhờ
suy nghĩ như vậy nên dầu có
khổ não,
Bồ Tát vẫn yên lặng nhẫn thọ. Vì nhẫn thọ thời chẳng sanh ác lậu.
Bồ Tát còn không có những ác lậu, huống là
Như Lai. Do đây nên chư Phật là
vô lậu. Vì
Như Lai thường đi trong
hữu lậu, chính là
hiện thân trong hai mươi lăm cõi, nên hàng
Thanh Văn cùng kẻ
phàm phu cho rằng Phật là
hữu lậu. Thật ra
chư Phật Như Lai chơn thật
vô lậu. Do
nhơn duyên trên đây nên
chư Phật Như Lai không có tướng
quyết định. Và cũng do những cớ trên đây nên người phạm bốn tội nặng, hủy báng
kinh Đại Thừa và nhứt
xiển đề đều không
quyết định.
Cao Qúy Đức Vương
Bồ Tát nói : “ Phải lắm ! Phải lắm ! Đúng như lời
đức Phật dạy, tất cả pháp đều không
quyết định, do đây nên biết
Như Lai cũng chẳng
rốt ráo nhập Niết Bàn.
Như vừa rồi
đức Phật nói trong đoạn
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn nghe chỗ chẳng nghe, có nói đến
Niết Bàn cùng
Đại Niết Bàn. Bạch Thế
Tôn ! Thế nào là
Niết Bàn ? Thế nào là
Đại Niết Bàn ?
Đức Phật khen : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
Bồ Tát đặng niệm
tổng trì, mới có thể thưa hỏi như ông .
Nầy
Thiện nam tử ! Như người đời nói : Có biển, có biển lớn ; có sông, có sông lớn ; có núi, có núi lớn ; có thành, có thành lớn ; có
chúng sinh, có
chúng sinh lớn ; có vua, có vua lớn ; có người, có người lớn ; có trời, có trời lớn ; có đạo, có đạo lớn ;
Niết Bàn cũng như vậy : Có
Niết Bàn và có
Đại Niết Bàn.
Thế nào là
Niết Bàn ?
Như người đói đặng chút ít cơm ăn thời gọi là được an vui. Như người bịnh được lành thời gọi là an vui. Như người kinh sợ đặng chỗ nương dựa thời được an vui. Như người nghèo cùng đặng
châu báu thời được an vui. Như người
quán xương trắng chẳng sanh lòng
tham dục thời được an vui. Tất cả sự an vui trên đây cũng gọi là
Niết Bàn, nhưng chẳng được gọi là
Đại Niết Bàn, vì còn trong
phạm vi tương đối.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu người
phàm phu nhẫn đến hàng
Thanh Văn, hoặc nhơn
thế tục, hoặc nhơn
thánh đạo, mà dứt được
kiết sử, cõi dục thời được an vui. Có thể dứt
kiết sử cõi sơ thiền nhẫn đến có thể dứt
kiết sử cõi Phi
Phi Tưởng thời được an vui. Những sự an vui nầy cũng gọi là
Niết Bàn, nhưng chẳng được gọi là
Đại Niết Bàn, vì còn có
tập khí phiền não.
Thế nào gọi là
tập khí phiền não ?
Hàng
Thanh Văn Duyên Giác còn có
tập khí phiền não, chính là những
quan niệm : Thân tôi, áo tôi, tôi đi, tôi đến, tôi nói, tôi nghe,
chư Phật Như Lai nhập Niết Bàn, bổn tánh
Niết Bàn không ngã, không lạc, chỉ có thường và tịnh, Phật, Pháp và Tăng có tướng sai khác,
Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn, chỗ chứng đặng
Niết Bàn của
Thanh Văn,
Duyên Giác cùng chư Phật đồng nhau không sai khác, những
quan niệm trên đây là
tập khí phiền não. Vì thế nên chỗ chứng đặng của hàng
nhị thừa chẳng phải là
Đại Niết Bàn, vì không có thường, lạc, ngã, tịnh. Có thường, lạc, ngã, tịnh mới được gọi là
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử !
Ví như vùng nào có thể chứa đựng tất cả những dòng nước thời gọi là biển lớn. Chỗ nào
Thanh Văn,
Duyên Giác,
Bồ Tát và Chư Phật
chứng nhập thời gọi là
Đại Niết Bàn.
Tứ Thiền, ba môn
tam muội,
tám pháp bội xả,
tám pháp thắng xứ, mười pháp nhứt thiết xứ, vị nào có thể
nhiếp thủ vô lượng pháp lành như vậy thời gọi là
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử !
Ví như có con sông,
hương tượng lớn nhứt lội không đến đáy thời gọi là sông lớn. Hàng
Thanh Văn ,
Duyên Giác nhẫn đến
thập trụ Bồ Tát chẳng thấy
Phật tánh thời gọi là
Niết Bàn, chẳng phải
Đại Niết Bàn.
Nếu có thể thấy rõ
Phật tánh thời được gọi là
Đại Niết Bàn.
Chỉ có đại
tượng vương mới có thể tột đến đáy sông lớn
Đại Niết Bàn. Đại
tượng vương đây là lệ cho chư Phật.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu các
đại lực sĩ trải qua nhiều
thời gian không thể leo lên được, mới gọi là núi lớn. Hàng
Thanh Văn Duyên Giác và
Bồ Tát không thể thấy được mới gọi là
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Nơi trấn giữ của các vị
tiểu vương thời gọi là thành nhỏ, chỗ của vua
Chuyển Luân Vương trấn đóng mới gọi là thành lớn. Chỗ
chứng nhập của
Thanh Văn Duyên Giác : Tám muôn, sáu muôn, bốn muôn, hai muôn, một muôn kiếp, thời gọi là
Niết Bàn. Chỗ
chứng nhập của
Như Lai vô thượng pháp vương mới được gọi là
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử !
Ví như có người thấy bốn đội binh lòng chẳng sợ sệt, nên biết người nầy gọi là
đại chúng sanh. Nếu có
chúng sanh đối với
ác đạo phiền não ác nghiệp mà chẳng sợ sệt, có thể ở trong đó mà rộng độ
chúng sanh, nên biết người nầy đặng
Đại Niết Bàn.
Nếu có người
cúng dường cha mẹ,
cung kính Sa Môn và
Bà La Môn thật
hành pháp lành,
lời nói thành thật không có khi dối, có thể nhẫn những sự ác hại, lại hay
bố thí cho kẻ nghèo thiếu, thời gọi là bực đại trượngphu. Cũng vậy,
Bồ Tát có
đại từ bi thương xót tất cả, xem
chúng sanh như
cha mẹ, đưa
chúng sanh qua khỏi sông
sanh tử, đem đạo
nhứt thừa chơn thật chỉ dạy cho
chúng sanh, đây gọi là
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Chữ đại là nói chẳng thể nghĩ bàn, nếu chẳng thể nghĩ bàn mà
chúng sanh chẳng thể tin được, thời gọi là
Đại Niết Bàn, chỉ có Phật và
Bồ Tát thấy được. Lại do
vô lượng nhơn duyên rồi sau mới có thể được nên gọi là đại. Vì có
đại ngã nên gọi là
Đại Niết Bàn. Vì
Niết Bàn không có
đại ngã là
tự tại nên gọi là
đại ngã.
Đại tự tại là vì có tám điều
tự tại : Một là có thể
thị hiện một thân làm nhiều thân, số thân lớn nhỏ nhiều như
vi trần đầy khắp
mười phương vô lượng thế giới. Thân
Như Lai thiệt chẳng phải
vi trần vì sức
đại tự tại mà
thị hiện vi trần thân.
Tự tại như vậy thời gọi là
đại ngã.
Hai là
thị hiện một thân
vi trần đầy khắp cõi
đại thiên, thiệt ra thân
Như Lai chẳng đầy nơi cõi
đại thiên, vì là
vô biên, do sức
tự tại nên
thị hiện đầy khắp cõi
đại thiên.
Tự tại như vậy gọi là
đại ngã.
Ba là có thể đem thân khắp cõi
đại thiên nầy bay trên
hư không nhẹ nhàng đến nơi hai mươi
hằng hà sa thế giới mà không
chướng ngại. Thiệt ra thân
Như Lai không có nặng nhẹ, do sức
tự tại nên làm có nhẹ có nặng, đây gọi là
đại ngã.
Bốn là
Như Lai chỉ có
nhứt tâm an trụ chẳng động, do sức
tự tại,
vô lượng thân hình hóa hiện ra đều làm cho có tâm. Cũng do sức
tự tại, có lúc
Như Lai làm một việc mà khiến cho tất cả
chúng sanh đều được
thành tựu. Do sức
tự tại thân
Như Lai thường ở một cõi mà làm cho tất cả
chúng sanh ở cõi khác đều thấy.
Tự tại như vậy gọi là
đại ngã.
Năm là căn
tự tại, với một căn
Như Lai có thể thấy sắc, nghe tiếng, ngửi mùi, nếm vị,
cảm xúc, hay biết. Sáu căn của
Như Lai thật ra chẳng thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm, biết, do sức
tự tại nên làm cho sáu căn đều
tự tại, do đây gọi là
đại ngã.
Sáu là vì
tự tại nên chứng đặng tất cả pháp, thật ra tâm
Như Lai không có
quan niệm chứng đặng, vì là
vô sở đắc. Nếu pháp là có thời có thể gọi là
chứng đắc, pháp vẫn
không thật có, đâu được gọi là
chứng đắc.
Giả sử Như Lai có
quan niệm chứng đắc thời chư Phật chẳng được
Niết Bàn. Do vì không
chứng đắc nên gọi là được
Niết Bàn. Do
tự tại mà chứng được tất cả pháp nên gọi là
đại ngã.
Bảy là
diễn thuyết tự tại.
Như Lai diễn thuyết nghĩa một
bài kệ trãi qua
vô lượng kiếp cũng chẳng hết như nói về giới, định, thí , huệ v.v…
Đức Như Lai chẳng có
quan niệm rằng ta nói người nghe, cũng chẳng nghĩ là một
bài kệ. Người đời dùng bốn câu làm một
bài kệ,
Như Lai thuận theo thế tục nên cũng nói là
bài kệ. Tất cả
pháp tánh cũng không có
ngôn thuyết, do sức
tự tại nên
Như Lai diễn thuyết, vì
diễn thuyết nên gọi là
đại ngã.
Tám là
Như Lai khắp đầy tất cả chỗ như
hư không. Tánh
hư không chẳng thể thấy được.
Như Lai thiệt cũng chẳng thể thấy được, vì
tự tại nên làm cho
chúng sanh được thấy.
Tự tại như vậy gọi là
đại ngã.
Do nghĩa
tự tại nầy nên gọi là
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Như kho báu chứa nhiều thứ
châu báu lạ kỳ nên gọi là
đại tạng. Cũng vậy, tạng pháp rất sâu, rất diệu của
Như Lai chứa đầy những pháp kỳ lạ chẳng thể nghĩ bàn, nên gọi là
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Phật nhiều
vô biên mới gọi là đại,
Niết Bàn vô biên,
vô lượng nên gọi là đại. Nầy
Thiện nam tử ! Lại vì có
đại lạc nên gọi là
đại Niết Bàn,
Niết Bàn vốn không sự vui, do vì bốn điều vui nên gọi là
đại Niết Bàn. Một là vì dứt những sự vui, chẳng dứt sự vui thời gọi là khổ, nếu có khổ thời chẳng gọi là thiệt vui. Vì dứt sự vui nên không có khổ, không
khổ không vui mới gọi là
đại lạc. Tánh
Niết Bàn không
khổ không vui nên
Niết Bàn gọi là
đại lạc. Do nghĩa nầy mà gọi là
đại Niết Bàn.
Vui có hai thứ : Vui của
phàm phu và vui của chư Phật. Vui của
phàm phu là
vô thường bại hoại, nên không có thiệt vui. Vui của chư Phật là thường là không
biến đổi nên gọi là
đại lạc. Lại có ba thứ thọ : Một là
khổ thọ, hai là
lạc thọ, ba là bất khổ
bất lạc thọ. Bất khổ
bất lạc đây cũng là khổ.
Niết Bàn dầu cũng chẳng khổ, chẳng vui nhưng là thật vui, do đây nên gọi là
Đại Niết Bàn.
Hai là vì đại
tịch tịnh gọi là
đại lạc. Tánh
Niết Bàn là đại
tịch tịnh, vì
xa lìa tất cả sự ồn náo, do đại
tịch tịnh nên gọi là
Đại Niết Bàn.
Ba là vì biết tất cả nên gọi là
đại lạc.
Như Lai biết tất cả nên gọi là
Đại Niết Bàn.
Bốn là vì thân chẳng hư hoại nên gọi là
đại lạc. Thân
Như Lai là thân
kim cương không hư hoại, chẳng phải thân
phiền não, chẳng phải thân
vô thường, nên gọi là
đại lạc, là
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử !
Danh tự của
thế gian hoặc có
nhơn duyên đặt ra hoặc không
nhơn duyên đặt ra. Có
nhơn duyên đặt ra như
Xá Lợi Phất, vì bà mẹ tên là
Xá Lợi, nhơn tên mẹ mà đặt tên ông là
Xá Lợi Phất. Như Ma Vu La đạo nhơn, vì sanh quán tại nước Ma Vu La, nhơn tên nước mà đặt tên cho đạo nhơn. Như
Mục Kiền Liên,
Mục Kiền Liên chính là họ, nhơn họ đặt tên gọi là
Mục Kiền Liên. Như ta sanh trong dòng
Cù Đàm, nhơn
dòng họ đặt tên gọi ta là
Cù Đàm. Như nhà
thông thái Tỳ Xá Khư,
Tỳ Xá Khư chính là tên một ngôi sao, nhơn ngôi sao nầy đặt tên là
Tỳ Xá Khư. Như người có sáu ngón tay, nhơn đây gọi là người sáu ngón. Như danh từ Phật nô, Thiên nô, nhơn nơi Phật, nhơn nơi Thiên, mà gọi là Phật nô, Thiên nô. Như nhơn nơi ẩm ướt sanh ra nên gọi là loài
thấp sanh. Như nhơn nơi tiến mà gọi là
Ca Ca La, gọi là Cứu Cứu La. Những danh từ như vậy là có
nhơn duyên mà đặt tên.
Không
nhơn duyên mà đặt ra, như
hoa sen, như đất, nước, gió, lửa ,
hư không. Như một danh từ
mạn đà bà chỉ cho hai vật :
Điện đường và uống nước,
điện đường chẳng phải uống nước nhưng cũng đều được gọi là
mạn đà bà. Như tát
bà sa đa gọi là xà cái, thiệt chẳng phải là xà cái. Như trên đây gọi là không nhơn mà
lập danh tự.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Niết Bàn đây cũng không có
nhơn duyên mà
lập danh tự. Như
hư không chẳng nhơn sự trống rỗng nhỏ mà gọi là
đại không,
Niết Bàn cũng chẳng nhơn nơi tướng nhỏ mà gọi là
Đại Niết Bàn.
Ví như có một vật chẳng thể cân lườntg chẳng thể nghĩ bàn thời gọi là đại,
Niết Bàn cũng chẳng thể cân lường chẳng thể nghĩ bàn nên gọi là
Đại Niết Bàn.
Do vì thuần
thanh tịnh nên gọi là
Đại Niết Bàn.
Thanh tịnh có bốn thứ : Một là hai mươi lăm cõi gọi là
bất tịnh, vì có thể dứt hẳn nên gọi là
thanh tịnh.
Thanh tịnh đây tức là
Niết Bàn.
Niết Bàn nầy cũng đặng gọi là có. Nhưng thiệt ra
Niết Bàn chẳng phải là có,
Như Lai thuận theo thế tục nên nói
Niết Bàn là có.
Ví như người đời chẳng phải cha gọi là cha chẳng phải mẹ gọi là mẹ, chẳng phải thiệt
cha mẹ mà nói là
cha mẹ. Cũng vậy,
tùy thuận theo
thế tục nên nói chư Phật có
Đại Niết Bàn.
Hai là vì nghiệp
thanh tịnh. Tất cả
phàm phu vì nghiệp chẳng
thanh tịnh nên không có
Niết Bàn.
Như Lai vì nghiệp
thanh tịnh nên gọi là đại tịnh, do đại tịnh nên gọi là
Đại Niết Bàn.
Ba là vì
thân thanh tịnh. Thân
vô thường thời gọi là chẳng
thanh tịnh. Thân
Như Lai thường trụ không
biến đổi nên gọi là đại tịnh, vì đại tịnh nên gọi là
Đại Niết Bàn.
Bốn là vì
tâm thanh tịnh. Tâm nếu có ác lậu thời gọi là chẳng
thanh tịnh. Tâm của Phật
vô lậu nên gọi là đại tịnh, vì đại tịnh nên gọi là
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Đây gọi là nam tử nữ nhơn
tu hành kinh Đại Niết Bàn nầy
thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ nhứt.
Nầy
Thiện nam tử ! Kế đây là
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bànn
thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ hai.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, xưa chỗ chẳng được mà nay được, xưa chỗ chẳng thấy mà nay được thấy, xưa chỗ chẳng nghe mà nay được nghe, xưa chỗ chẳng đến mà nay được đến, xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
Thế nào gọi là xưa chẳng được mà nay được ? Chính là nói về
thần thông.
Thần thông có hai thứ : Một là ngoài, hai là trong.
Thần thông ngoài thời cùng
ngoại đạo giống nhau.
Thần thông trong lại có hai thứ : Một là của
nhị thừa hai là của
Bồ Tát.
Thần thông của
Bồ Tát, hàng
Thanh Văn Bích Chi Phật chẳng có được. Hàng
nhị thừa biến hóa một tâm hiện làm một chẳng hiện được nhiều.
Bồ Tát ở trong một tâm thời có
thể hiện đủ tất cả thân trong
lục đạo, do vì được
thế lực của
kinh Đại Niết Bàn. Đây gọi là xưa chỗ chẳng được mà nay được. Lại
Bồ Tát được thân
tự tại, tâm
tự tại. Tất cả
phàm phu thân cũng như tâm đều chẳng
tự tại hoặc tâm theo nơi thân, hoặc thân theo nơi tâm.
Ví như người say, rượu ở trong thân, lúc bấy giờ thân động tâm cũng động theo, cũng như thân mõi mệt thì tâm cũng mõi mệt theo, đây thời gọi là tâm theo nơi thân. Lại như trẻ thơ, thân nó nhỏ bé, tâm nó nhỏ theo, người lớn thân lớn thì tâm cũng lớn theo. Lại như có người
thân thể thô rít, tâm họ thường nghĩ đến dầu mỡ muốn thoa cho được trơn nhuyễn, đây cũng gọi là tâm theo nơi thân.
Thế nào gọi là thân theo nơi tâm ? Chính là đi, đến, ngồi, nằm, thật hành
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn, người
sầu não thời thân gầy héo, người
vui mừng thời thân tươi nở, người kinh sợ thời thân run rẩy,
chuyên tâm thính
pháp thời thân
vui vẻ, người buồn khóc thời nước mũi nước mắt chảy tuôn đây thời gọi là thân theo nơi tâm.
Bồ Tát thời chẳng như vậy
thân tâm đều được
tự tại,
Đại Bồ Tát hiện thân tướng như
vi trần, thân
vi trần nầy có thể khắp đến
vô lượng vô biên hằng hà sa thế giới không bị
chướng ngại, mà tâm
Bồ Tát thường định vẫn không
di động, đây thời gọi là tâm chẳng theo nơi thân, và cũng gọi là xưa chỗ chẳng đến mà nay được đến, vì tất cả
Thanh văn,
Bích Chi Phật chẳng thể đến được mà
Bồ Tát đến được. Tất cả
Thanh Văn,
Bích Chi Phật dầu dùng
thần thông chẳng có thể biến thân nhỏ như
vi trần khắp đến
vô lượng hằng hà sa thế giới.
Thanh Văn,
Bích Chi Phật lúc thân động thời tâm cũng động theo.
Bồ Tát chẳng như vậy, tâm dầu chẳng động mà thân đến khắp tất cả chỗ, đây gọi là tâm chẳng theo nơi thân. Lại
Bồ Tát hóa thân lớn bằng
đại thiên thế giới, đem thân to lớn nầy chui vào thân nhỏ như
vi trần, tâm của
Bồ Tát cũng chẳng nhỏ theo.
Thanh Văn,
Bích Chi Phật dầu có thể
hóa thân to lớn như
đại thiên thế giới nhưng chẳng thể đem thân to lớn nầy chui vào thân nhỏ như
vi trần.
Trong việc nầy
nhị thừa còn chẳng làm được huống là có thể khiến tâm chẳng động theo. Đây gọi là
Bồ Tát tâm chẳng theo nơi thân.
Đại Bồ Tát dùng một
âm thanh có thể làm cho tất cả
chúng sanh trong
đại thiên thế giới đều nghe trong tâm
Bồ Tát trọn chẳng nghĩ rằng khiến
âm thanh nầy khắp đến các
thế giới làm cho
chúng sanh được nghe,
Bồ Tát nói rằng do tôi
thuyết pháp làm cho
chúng sanh được nghe nên biết người nầy trọn chẳng thể đặng
vô thượng chánh giác. Vì
tâm tưởng như trên đây là tâm
sanh tử, tất cả
Đại Bồ Tát đã hết tâm
sanh tử nầy vì thế nên
thân tâm của
Bồ Tát chẳng
theo dõi nhau.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
phàm phu thân tâm theo nhau.
Bồ Tát chẳng như vậy, vì
hóa độ chúng sanh nên dầu
hiện thân nhỏ nhưng tâm chẳng bé nhỏ vì
tâm tánh của
Bồ Tát luôn rộng lớn. Dầu lúc
hiện thân lớn như
đại thiên thế giới, nhưng tâm cũng chẳng lớn. Do nghĩa nầy nên tâm của
Bồ Tát chẳng theo nơi thân
Đại Bồ Tát đã từ vô lượntg,
vô số kiếp
xa lìa rượu chẳng uống, nhưng tâm cũng động,
tâm không buồn khổ mà thân cũng
rơi lệ, thiệt
không kinh sợ mà thân cũng run rẩy, do đây nên biết rằng
Bồ Tát thân tâm tự tại, chẳng
theo dõi nhau.
Đại Bồ Tát dầu hiện một thân, mà các
chúng sanh mỗi người tự thấy sai khác.
Thế nào là
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, xưa chỗ chẳng nghe mà nay được nghe ?
Đại Bồ Tát trước lấy tướng các thứ tiếng : Tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng người, tiếng ốc, tiếng trống, tiếng ống tiêu, tiếng ca, tiếng
Cười v.v…
Mà luyện tập đó, do luyện tập nên có thể nghe tất cả tiếng của những
địa ngục trong
vô lượng đại thiên thế giới, lại càng
tu tập thêm nên được
nhĩ căn khác lạ, khác hơn
thiên nhĩ của
Thanh Văn Bích Chi Phật. Vì
nhĩ căn thanh tịnh của
nhị thừa nếu nương
tứ đại tịnh diệu, của
Sơ Thiền thời chỉ nghe tiếng
cõi Sơ Thiền chẳng
nghe được cõi
Nhị Thiền, nhẫn đến
Tứ Thiền cũng như vậy, dầu có thể trong một lúc được nghe tất cả
tiếng trong đại thiên thế giới nhưng chẳng thể
nghe được tiếng trong vô lượng vô biên trong
hằng sa thế giới. Do nghĩa nầy nên gọi là BồTát xưa chỗ chẳng nghe mà nay được nghe,
Bồ Tát dầu nghe tiếng tâm mà trong lòng vẫn không có tướng nghe tiếng chẳng có tướng thường, lạc, ngã, tịnh, tướng chủ, tướng y, tướng tác, tướng nhơn, tướng định, tướng quả. Do nghĩa nầy nên các vị
Bồ Tát xưa chỗ chẳng nghe mà nay được nghe.
Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Như Phật nói
Bồ Tát chẳng thấy có tướng định,
không tướng quả thời không được đúng. Vì trước kia
Như Lai nói : Nếu có người nghe một chữ một câu
kinh Đại Niết Bàn nầy
quyết định được thành
vô thượng Bồ Đề. Giờ đây sao
Như Lai lại nói là
không định không quả ? Nếu được
vô thượng Bồ Đề thời chính là tướng
quyết định, chính là tướng quả, sao lại nói rằng
không định không qua ? Vì nghe
tiếng ác thời sanh tâm ác vì sanh tâm ác thời đọa
tam đồ, nếu đọa
tam đồ thời là định quả, sao lại nói rằng
không định không quả ?
Như Lai khen rằng : “
Lành thay ! Ông có thể thưa hỏi như vậy.
Giả sử Chư Phật nói các
âm thanh là có tướng định quả, đây thời chẳng phải là tướng của Chư Phật, mà là tướng
Ma vương, là tướng
sanh tử, là tướng
xa lìa Niết Bàn. Vì tất cả Chư Phật chỗ nói ra không có tướng định quả.
Ví như dùng lưỡi dao sáng soi mặt người ; dựng đứng thời thấy mặt dài, để ngang thời thấy mặt rộng. Do nghĩa đây nên Chư Phật phàm nói ra không có tướng định quả.
Đại Niết Bàn thiệt chẳng phải kết quả của tiếng.
Giả sử Niết Bàn là quả của tiếng thời
Niết Bàn chẳng phải là
pháp thường trụ.
Ví như những pháp
trong đời theo nhơn mà sanh, có nhơn thời có quả, không nhơn thời
không quả, vì nhơn
vô thường nên quả cũng
vô thường, nhơn cũng làm quả, quả cũng làm nhơn, do nghĩa nầy nên tất cả
pháp không có tướng nhứt định.
Giả sử Niết Bàn từ nhơn mà sanh, vì nhơn
vô thường nên quả cũng
vô thường. Nhưng
Niết Bàn chẳng từ nhơn mà sanh, thể
Niết Bàn chẳng phải là quả, vì thế nên
Niết Bàn là
thường trụ. Do nghĩa đây nên thể của
Niết Bàn là
không định không quả.
Nầy
Thiện nam tử ! Luận về
Niết Bàn, cũng có thể nói là định, cũng có thể nói là quả.
Niết Bàn của tất cả chư Phật là thường, lạc, ngã, tịnh, nên nói là
định không sanh già hư hoại nên nói là định. Nhứt
Xiển Đề phạm bốn tội nặng, hủy báng
Đại Thừa, tạo tội
ngũ nghịch, rời bỏ bổn tâm, thời
quyết định chứng đặng
Niết Bàn, nên gọi là định.
Nầy
Thiện nam tử ! Như ông vừa nói : Nếu có người nghe một chữ, một câu
kinh Đại Niết Bàn, thời đặng
vô thượng Bồ Đề. Đối với nghĩa nầy, ông còn chưa
hiểu rõ. Ông nên lóng nghe ! Nếu có người nghe một câu, một chữ
kinh Đại Niết Bàn, trong tâm chẳng có
quan niệm tướng chữ, tướng câu, chẳng có tướng nghe, tướng Phật, tướng nói pháp, đây gọi là tướng,
vô tướng. Do tướng
vô tướng nên đặng
vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện nam tử ! Như ông vừa nói vì nghe
tiếng ác, mà đến
tam đồ, nghĩa đó không phải. Vì chẳng phải
tiếng ác mà đến
tam đồ. Phải biết quả nầy là do tâm ác. Vì như có người nghe
tiếng ác mà tâm chẳng sanh ác, do đây nên biết chẳng phải do
tiếng ác mà đọa trong
tam đồ. Nhưng
chúng sanh do nơi phiền não ác tâm quá nhiều mà phải sanh vào
ba đường ác, chẳng phải là
do nơi tiếng ác. Nếu tiếng có tướng
quyết định, những người nghe
tiếng ác, lẽ ra tất cả đều sanh tâm ác. Nay nghe
tiếng ác, mà có người sanh tâm ác, có người chẳng sanh tâm ác, nên biết rằng tiếng không có tướng
quyết định. Do vì
không tướng quyết định nên dầu nghe
tiếng ác mà chẳng sanh tâm ác.
_ Bạch
Thế Tôn ! Tiếng
nếu không quyết định, cớ sao
Bồ Tát nay đặng nghe chỗ xưa chẳng nghe ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! Tiếng không có tướng
quyết định nên làm cho
Bồ Tát nay được nghe chỗ xưa chẳng nghe. Do nghĩa nầy nên
Như Lai nói xưa chỗ chẳng nghe, mà nay được nghe.
Nầy
Thiện nam tử ! Thế nào là chỗ xưa chẳng thấy mà nay được thấy ?
Đại Bồ Tát tu
kinh Đại Niết Bàn, trước lấy tướng sáng : Những ánh sáng
mặt trời,
mặt trăng,
tinh tú, đèn đuốc,
bảo châu, lửa. Do
tu tập ánh sáng mà đặng
nhãn căn khác lạ, khác hơn
Thiên nhãn của
Thanh Văn Duyên Giác.
Thiên nhãn của
Nhị thừa nếu nương nơi
nhãn căn tứ đại cõi dục thời chẳng thấy
sơ thiền, nếu nương nơi
nhãn căn sơ thiền thời chẳng thấy cõi trên, cũng chẳng thấy
nhãn căn của chính mình, nhiều lắm là thấy tột đến
đại thiên thế giới.
Đại Bồ Tát chẳng tu
thiên nhãn, thấy
sắc thân tốt đẹp đều là tướng xương trắng, dầu thấy
sắc tướng trong
hằng hà sa thế giới khác, nhưng chẳng tưởng là
sắc tướng, chẳng tưởng là tướng thường, tướng có, tướng vật, tướng
danh tự, chẳng tưởng là tướng thấy, cũng chẳng nói
nhãn căn nầy có tướng
thanh tịnh vi diệu, chỉ thấy là tướng
nhơn duyên cùng tướng chẳng phải
nhơn duyên. Thế nào là
nhơn duyên ? Sắc là
cảnh duyên của
nhãn căn.
Giả sử sắc chẳng phải là
nhơn duyên, thời tất cả
phàm phu lẽ ra chẳng thấy tướng sắc. Thế nào là chẳng phải
nhơn duyên ?
Đại Bồ Tát dầu thấy sắc nhưng chẳng tường là tướng sắc , do đây nên chẳng phải là duyên. Vì thế nên
thiên nhãn thanh tịnh của
Bồ Tát khác vơi
thiên nhãn của
Thanh Văn Duyên Giác. Trong một lúc,
Bồ Tát thấy khắp chư
Phật hiện tại ở
mười phương thế giới. Cũng có thể thấy
vi trần. Hàng
Thanh Văn Duyên Giúac chẳng thấy được như thế.
Bồ Tát dầu thấy
nhãn căn của mình mà vẫn không có tướng thấy, thấy tướng
vô thường, thấy thân của
phàm phu có ba mươi sáu vật, chứa đầy những thứ
bất tịnh, thấy rõ như xem trái
a ma lặc trong bàn tay. Nếu thấy
sắc tướng của
chúng sanh,
Bồ Tát biết người nầy là
căn tánh đại thừa hay
tiểu thừa. Đụng chạm đến
y phục của họ,
Bồ Tát cũng biết người đó có những căn lành hay căn chẳng lành. Do đây nên gọi là xưa chỗ chẳng thấy mà nay được thấy, cũng gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết. Vì khi thấy thời biết chỗ xưa chẳng biết, do vì biết nên thấy chỗ xưa chẳng thấy.
Nầy
Thiện nam tử ! Thế nào là
Bồ Tát xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết ?
Đại Bồ Tát dầu biết tâm tham, sân, si của
phàm phu, nhưng vẫn chẳng tưởng là tâm và
tâm sở, chẳng tưởng là
chúng sanh cùng vật. Thường tu tướng
rốt ráo không
đệ nhứt nghĩa, do
tu tập tướng không, nên biết được chỗ xưa chẳng biết.
Biết như thế nào ? Biết không có
ngã không có
ngã sở, biết tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh. Vì có
Phật tánh nên hàng Nhứt
Xiển Đề rời bỏ được bổn tâm thời sẽ đặng
vô thượng chánh giác. Những điều trên đây hàng
Thanh Văn Duyên Giác chẳng biết được mà
Bồ Tát có thể biết. Vì thế nên gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
Đại Bồ Tát tu
kinh Đại Niết Bàn nhớ đời
quá khứ tất cả
chúng sanh bao nhiêu những dòngạo
cha mẹ, anh em,
vợ con,
quyến thuộc,
bạn thân,
kẻ thù.
Trong một niệm Bồ Tát đặng trí khác lạ, khác với
trí huệ của
Thanh Văn,
Duyên Giác. Thế nào là khác ?
Trí huệ của
Thanh Văn,
Duyên Giác nhớ đến
dòng họ cha mẹ v.v… Của
chúng sanh đời
quá khứ mà có tướng
dòng họ cha mẹ v.v…
Bồ Tát dầu nghĩ nhớ
dòng họ cha mẹ thuở
quá khứ, nhưng trọn chẳng tưởng có tướng
dòng họ cha mẹ v… Mà thường thấy
tướng không tịch. Đây gọi là
Bồ Tát xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn đặng
tha tâm trí khác với
Thanh Văn,
Duyên Giác. Thế nào là khác ? Hàng
Thanh Văn Duyên Giác lúc dùng một niệm trí biết tâm của người, thời chẳng thể biết tâm của
chư thiên,
ngạ quỉ,
súc sanh,
địa ngục.
Trong một niệm Bồ Tát biết khắp tất cả tâm của
lục đạo chúng sanh. Đây gọi là
Bồ Tát xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
Bồ Tát lại ở nơi trong một tâm rõ biết từ
sơ tâm đến tâm thứ mười sáu của
Tu Đà Hòan. Do đây nên gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết. Đây là
Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ hai.
Nầy
Thiện nam tử ! Thế nào là
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ ba ?
Đại Bồ Tát bỏ
lòng từ đặng
lòng từ, lúc đặng
lòng từ chẳng do
nhơn duyên. Thế nào là bỏ
lòng từ đặng
lòng từ ? Từ gọi là
thế đế.
Đại Bồ Tát bỏ
lòng từ thế đế đặng
lòng từ đệ nhứt nghĩa.
Lòng từ đệ nhứt nghĩa chẳng do
nhơn duyên.
Lòng từ nếu là có thể bỏ thời gọi là
lòng từ của
phàm phu,
lòng từ nếu có thể được thời gọi là
lòng từ vô duyên của
Bồ Tát, đặng
lòng từ lân mẫn, đặng
lòng từ của
Như Lai,
lòng từ nầy là
lòng từ không
nhơn duyên. Lại bỏ
lòng từ của
hoàng môn, của người không căn, hai căn, nữ nhơn, đồ tể thợ săn v.v… cũng bỏ
lòng từ của
Thanh Văn,
Duyên Giác, đặng
lòng từ vô duyên của
Bồ Tát. Chẳng còn thấy
lòng từ của mình cũng chẳng thấy
lòng từ của người, cũng chẳng thấy
trì giới,
phá giới. Dầu tự thấy lòng bi nhưng chẳng thấy tướng
chúng sanh. Dầu có chịu khổ nhưng chẳng thấy người chịu khổ. Vì
Bồ Tát tu hành chơn
thật không đệ nhứt nghĩa nên
thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ ba như vậy. Nầy
Thiện nam tử ! Thế nào là
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ tư ? Nơi đây có mười việc : Một là căn lành sâu không bị lay động, hai là đối với thân mình có
quan niệm quyết định, ba là chẳng thấy
phước điền và chẳng phải
phước điền, bốn là
tu tập công hạnh thanh tịnh Phật độ, năm là
diệt trừ ba thứ
hữu dư, sáu là dứt trừ
nghiệp duyên, bảy là
tu thân thanh tịnh, tám là rõ biết các duyên, chín là lìa những
oán địch, mười là dứt trừ
nhị biên.
Thế nào là căn lành sâu khó lay động. Căn lành đây là nói chẳng
phóng dật, chẳng
phóng dật là căn lành của
vô thượng Bồ Đề. Cội gốc pháp lành của tất cả chư Phật đều do chẳng
phóng dật. Vì chẳng
phóng dật nên những căn lành khác lần lần được
tăng trưởng. Như trong các thứ
dấu chân,
dấu chân của voi là hơn hết, ở trong các pháp lành, chẳng
phóng dật cũng là hơn hết. Như trong các thứ ánh sáng, ánh sáng
mặt trời là hơn hết, chẳng
phóng dật cũng là hơn hết các pháp lành khác. Như vua
Chuyển Luân là bực nhứt trong các vua
chúa, chẳng
phóng dật cũng là bực nhứt trong các pháp lành. Như trong các dòng nước, bốn sông là hơn hết, chẳng
phóng dật cũng là hơn hết trong các pháp lành, như
núi Tu Di là bực nhứt trong các núi, chẳng
phóng dật cũng là hạng bực nhứt trong các pháp lành. Như
hoa sen xanh hơn tất cả những hoa mọc trong nước, chẳng
phóng dật cũng là hơn hết trong các pháp lành. Như hoa
Bà Lợi Sư Ca hơn tất cả thứ hoa mọc trên đất, chẳng
phóng dật cũng hơn hết các pháp lành khác. Như trong các loài thú,
Sư Tử là hơn hết, chẳng
phóng dật hơn những pháp lành khác. Như trong các loài chim, kim súy điểu là bực nhứt, chẳng
phóng dật cũng là bực nhứt trong các pháp lành. Như trong loài thân to lớn, vua
A Tu La,
La Hầu La, là to hơn cả, chẳng
phóng dật cũng là hơn hết trong các pháp lành. Như trong tất cả
chúng sanh,
đức Như Lai là
tôn quí nhứt, chẳng
phóng dật cũng là bực nhứt trong các pháp lành. Như trong các đoàn thể,
chư Tăng là hơn hết, chẳng
phóng dật cũng hơn hết trong các pháp lành. Như trong
giáo pháp của Phật,
kinh Đại Niết Bàn là hơn hết, chẳng
phóng dật cũng là hơn hết trong các pháp lành. Do những nghĩa nầy nên căn lành chẳng
phóng dật sâu bền khó lay động.
Thế nào là do chẳng
phóng dật mà được thêm lớn các căn lành ? Những căn lành : Tín, Giới,
Bố Thí,
trí huệ,
nhẫn nhục,
đa văn,
tinh tấn,
niệm định,
thiện tri thức đều do chẳng
phóng dật mà được thêm lớn.
Nầy
Thiện nam tử ! Thế nào là đối với thân mình
Bồ Tát có
quan niệm quyết định ?
Bồ Tát quyết định biết rằng thân của ta đây
quyết định sẽ làm
pháp khí vô thượng bồ đề ở đời
vị lai, chẳng có tâm hẹp nhỏ, chẳng có tâm
biến đổi, chẳng sanh tâm
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, chẳng sanh
tâm ma, tâm tự hưởng vui, tâm
sanh tử. Thường vì
chúng sanh cầu
tâm từ bi. Đây gọi là
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn đối với thân mình sanh lòng
quyết định.
Nầy
Thiện nam tử ! Thế nào là
Bồ Tát chẳng thấy
phước điền và chẳng phải
phước điền ? Những gì là
phước điền ?
Ngoại đạo trì giới trên đến chư Phật đây gọi là
phước điền. Nếu có người nghĩ rằng những bực nầy thuộc về
phước điền nên biết
tâm niệm nầy hẹp kém.
Đại Bồ Tát quán sát tất cả
chúng sanh không ai chẳng phải là
phước điền do vì
Bồ Tát khéo
tu tập niệm xứ khác lạ, nên
quán sát chúng sanh không thấy có
trì giới cùng hủy giới. Thường
quán sát bốn
pháp bố thí của Phật nói ra đều đặng
quả báo thanh tịnh. Những gì là bốn thứ
bố thí ? Một là
thí chủ thanh tịnh, người thọ chẳng
thanh tịnh. Hai là
thí chủ chẳng
thanh tịnh, người thọ
thanh tịnh, ba là
thí chủ cùng người thọ đều
thanh tịnh. Bốn là
thí chủ cùng người thọ đều chẳng
thanh tịnh.
Thí chủ có đủ
trì giới đa văn trí huệ rõ biết nhơn cùng quả
bố thí, người thọ thời
phá giới tà kiến không tin
bố thí cùng
quả báo, đây gọi
thí chủ thanh tịnh mà người thọ chẳng
thanh tịnh.
Nếu
thí chủ phá giới tà kiến không tin
bố thí cùng
quả báo, người thọ thời
trì giới đa văn trí huệ biết có nhơn cùng quả
bố thí, đây gọi là
thí chủ chẳng
thanh tịnh người thọ thời
thanh tịnh.
Nếu người
bố thí cùng người thọ đều
trì giới đa văn trí huệ biết có
bố thí cùng
quả báo, đây gọi là người thí người thọ đều
thanh tịnh.
Nếu người thí người thọ đều
phá giới tà kiến không tin nhơn cùng quả
bố thí, đây gọi là người thí kẻ thọ đều chẳng
thanh tịnh.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu như vậy tại sao lại nói
Bồ Tát được qủa báo
thanh tịnh, vì không thí, không báo nên gọi là
thanh tịnh ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! Nếu có người chẳng thấy
bố thí cùng
quả báo bố thí, nên biết rằng, người nầy chẳng gọi là
phá giới tà kiến.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
y theo nhị thừa nói rằng chẳng thấy
bố thí cùng
quả báo, đây gọi là
phá giới tà kiến. Nếu nương
kinh Đại Niết Bàn nầy mà chẳng thấy
bố thí cùng
quả báo thời gọi là
trì giới chánh kiến.
Đại Bồ Tát có
niệm xứ khác lạ, do
tu tập niệm xứ nầy nên chẳng thấy
chúng sanh trì giới phá giới người thí người thọ và
quả báo bố thí, nên được gọi là
trì giới chánh kiến. Vì những nghĩa trên đây nên
Đại Bồ Tát chẳng thấy
phước điền và chẳng phải
phước điền.
Thế nào gọi là
thanh tịnh cõi Phật ?
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì
vô thượng Bồ Đề vì độ
chúng sanh, nên lìa tâm giết hại. Do căn lành nầy nguyện cùng tất cả
chúng sanh đồng
thành Phật, nguyện
chúng sanh đặng
thọ mạng dài lâu có
thế lực lớn được
thần thông lớn. Do sức
thệ nguyện nầy, nên đời
vị lai lúc
Bồ Tát thành Phật, tất cả
chúng sanh trong cõi nước được
thọ mạng dài lâu có
thế lực lớn và
thần thông lớn.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì
vô thượng Bồ Đề vì độ
chúng sanh, nên lìa tâm trộm cướp. Đem căn lành nầy nguyện cùng tất cả
chúng sanh, đồng
thành Phật. Nguyện cõi nước thuần là
bảy báu,
chúng sanh đầy đủ vật
cần dùng tùy theo ý muốn. Do sức
thệ nguyện nầy, nên đời
vị lai lúc
Bồ Tát thành Phật, cõi nước thuần là
bảy báu,
chúng sanh giàu đủ
tùy ý tự tại.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì
vô thượng bồ dề, vì độ
chúng sanh, nên lìa tâm
tham dục. Đem căn lành nầy nguyện cùng
chúng sanh đồng
thành Phật. Nguyện tất cả
chúng sanh không có
tham dục,
sân khuể,
ngu si, cũng không có người
đói khát khổ não. Do sức
thệ nguyện nầy, nên đời
vị lai lúc
Bồ Tát thành Phật chúng sanh trong cõi nước
xa lìa tâm
tham dục sân khuể,
ngu si, không có người
đói khát khổ não.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì
vô thượng Bồ Đề vì độ
chúng sanh nên lìa tâm
vọng ngữ. Đem căn lành nầy nguyện tất cả
chúng sanh cùng
thành Phật. Nguyện các cõi nước
thường có cây bông, cây trái, cây
mùi thơm,
chúng sanh đều được tiếng
nói tốt. Do sức
thệ nguyện nầy nên đời
vị lai lúc
Bồ Tát thành Phật, cõi nước
thường có cây bông, cây trái, cây
mùi thơm chúng sanh đều được tiếng
nói tốt thanh tịnh.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì
vô thượng Bồ Đề vì độ
chúng sanh nên
xa lìa tâm
lưỡng thiệt. Đem căn lành nầy nguyện cùng tất cả
chúng sanh đồng
thành Phật. Nguyện các cõi nước tất cả
chúng sanh thường hòa hiệp nhau, cùng nhau giảng nói
chánh pháp. Do sức
thệ nguyện nầy, nên đời
vị lai lúc
Bồ Tát thành Phật, tất cả
chúng sanh trong cõi nước đều hòa hiệp nhau cùng nhau
giảng luận pháp yếu.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì
vô thượng Bồ Đề, vì độ
chúng sanh nên
xa lìa tâm
ác khẩu. Đem căn lành nầy nguyện cùng tất cả
chúng sanh đồng
thành Phật, nguyện các cõi nước mặt đất bằng thẳng, không có sạn sỏi
gai góc,
chúng sanh đều có
tâm bình đẳng. Do sức
thệ nguyện nầy, nên đời
vị lai lúc
Bồ Tát thành Phật, cõi nước bằng thẳng không có sạn sỏi
gai góc, tâm
chúng sanh đều
bình đẳng.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì
vô thượng Bồ Đề, vì độ
chúng sanh nên lìa
lời nói vô nghĩa. Đem căn lành nầy nguyện cùng tất cả
chúng sanh đồng
thành Phật. Nguyện
chúng sanh không có
khổ não. Do sức
thệ nguyện nầy, nên đời
vị lai lúc
Bồ Tát thành Phật, tất cả
chúng sanh trong cõi nước không có
khổ não.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì
vô thượng Bồ Đề vì độ
chúng sanh nên
xa lìa tâm
tham lam tật đố. Đem căn lành nầy nguyện cùng tất cả
chúng sanh đồng
thành Phật. Nguyện
chúng sanh không có
tham lam tật đố,
não hại,
tà kiến. Do sức
thệ nguyện nầy, nên đời
vị lai lúc
Bồ Tát thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước đều không có tâm
tham lam, tật đố,
não hại,
tà kiến.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì
vô thượng Bồ Đề vì độ
chúng sanh, nên
xa lìa tâm
não hại. Đem căn lành nầy nguyện cùng tất ca ûchúng sanh đồng
thành Phật. Nguyện
chúng sanh đồng
tu tập đại từ đại bi, đặng bực nhứt tử. Do sức
thệ nguyện nầy nên đời
vị lai lúc
Bồ Tát thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước đều
tu tập đại từ đại bi, được bực nhứt tử.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì
vô thượng Bồ Đề vì độ
chúng sanh nên
xa lìa tà kiến đem căn lành nầy nguyện cùng tất cả
chúng sanh đồng
thành Phật. Nguyện
chúng sanh đều được
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật. Do sức
thệ nguyện nầy, nên đời
vị lai lúc
Bồ Tát thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước đều được
thọ trì Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, đây gọi là Bồ Tat
tu hành thanh tịnh cõi Phật.
Thế nào
Đại Bồ Tát dứt trừ
hữu dư ?
Hữu dư có ba thứ : Một là
phiền não dư báo, hai là
dư nghiệp, ba là dư hữu.
Nếu có
chúng sanh quen gần
tham dục, báo nầy
thành thục phải đọa nơi
địa ngục, ra khỏi
địa ngục phải thọ thân
súc sanh :
Bồ câu,
se sẽ v.v… các loài chim, ca,ù trạch cùng khỉ, vượn cheo, nai v.v… Nếu được làm người, thời phải thọ thân
hoàng môn,
phụ nữ, hai căn, không căn,
dâm nữ. Nếu được
xuất gia thời
phạm giới trọng
ban đầu. Đây gọi là dư báo.
Nếu có
chúng sanh quen gần sân, khuể, báo nầy
thành thục phải đọa
địa ngục. Ra khỏi
địa ngục phải thọ thân
súc sanh :
Rắn độc,
sư tử, cọp, sói, beo, gấu, mèo, chồn , ó, diều, v.v… Nếu được làm người thời đủ cả mười sáu
nghiệp ác. Nếu được
xuất gia thời
phạm giới trọng thứ ba. Đây gọi là dư báo.
Nếu có
chúng sanh quen gần
ngu si, báo nầy
thành thục sẽ đọa
địa ngục. Ra khỏi
địa ngục phải thọ thân
súc sanh : Voi, heo, bò, trâu, dê, rận, rệp, muỗi, ruồi, kiến, mối v.v… Nếu được làm người thời bị đui, điếc, câm, ngọng, lưng gù, tàn tật, thời không thể học tập. Nếu được
xuất gia thời ưa
phạm giới trọng. Đây gọi là dư báo.
Nếu có người quen gần
kiêu mạn, báo nầy
thành thục sẽ đọa
địa ngục. Ra khỏi
địa ngục thọ thân
súc sanh : Lạc đà, lừa , ngựa, chó v.v… Nếu được làm người thọ thân tôi tớ nghèo cùng ăn xin. Nếu được
xuất gia thường bị
chúng sanh khinh tiện,
phạm giới thứ tư. Đây gọi là dư báo.
Như trên đây gọi là
phiền não dư báo.
Đại Bồ Tát do
tu tập kinh Đại Niết Bàn đều có thể
trừ diệt.
Thế nào là
dư nghiệp ? Tất cả nghiệp của
phàm phu, nghiệp của
Thanh Văn :
Tu Đà Hoàn có nghiệp bảy lần thọ thân,
Tư Đà Hàm có nghiệp hai lần thọ thân,
A Na Hàm có
nghiệp thọ thân cõi sắc, đây gọi là
dư nghiệp.
Đại Bồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn đều có thể dứt trừ những
nghiệp dư nầy.
Thế nào là dư hữu ?
A La Hán đặng quả
A La Hán,
Bích Chi Phật đặng quả
Bích Chi Phật, không nghiệp, không
kiết sử, mà còn hai quả, đây gọi là dư hữu.
Đại Bồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn đều có thể trừ ba thứ
hữu dư trên đây, nên gọi là
Đại Bồ Tát diệt trừ hữu dư.
Thế nào là
Bồ Tát tu thân thanh tịnh ?
Đại Bồ Tát tu giới bất sát có năm thứ tâm : Hạ, trung, thượng, thượng thượng, thượng trung thượng, nhẫn đến
chánh kiến cũng lại như vậy. Năm mươi tâm nầy gọi là
sơ phát tâm.
Quyết định đầy đủ
thành tựu năm mươi tâm nầy đây gọi là
viên mãn. Một trăm tâm như vậy gọi là một trăm
phước đức. Đầy đủ một trăm phước làm thành một tướng tốt.
Lần lượt đầy đủ
thành tựu ba mươi hai tướng tốt, thời gọi là
thân thanh tịnh. Sở dỉ lại tu tám mươi vẻ đẹp, vì
trong đời có
chúng sanh phụng thờ tám mươi vị
Thiên Thần :
Thập nhị nhựt Thần, mười hai vị Trời lớn, năm ngôi sao lớn, sao
Bắc Đẩu, Mã Thiên ,
Hành Đạo Thiên,
Bà La Đọa
Bạt Xà Thiên,
Công Đức Thiên,
Nhị Thập Bát Tú,
Địa Thiên,
Phong Thiên,
Thủy Thiên ,
Hỏa Thiên,
Phạm Thiên , Lâu Đà Thiên, Nhơn Đề Thiên,,
Câu Ma La Thiên, Bát Tý Thiên,
Ma Hê Thủ La Thiên,
Bàn Xà La Thiên, Qủi Tử Mẫu Thiên,
Tứ Thiên Vương Thiên, Tạo Thơ Thiên,
Bà Tẩu Thiên, đây gọi là tám mươi. Vì những
chúng sanh nầy mà
Bồ Tát tu tập tám mươi vẻ đẹp để
trang nghiêm nơi thân. Đây gọi là
Bồ Tát tu thân thanh tịnh. Vì tám mươi
thiên thần nầy được
chúng sanh kính trọng, nên
Bồ Tát tu tập tám mươi vẻ đẹp,
thân thể không đổi dời, làm cho
chúng sanh tùy theo lòng tin, đều được thấy, sanh lòng
tôn kính mà
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Ví như có người muốn thỉnh
Quốc Vương, thời phải sửa sang trần thiết nhà cửa cho thật sạch sẽ khéo léo, sắm đủ trăm thứ
thực phẩm thơm ngon rồi sau mới rước
Quốc Vương ngự đến nhà. Cũng vậy,
Đại Bồ Tát muốn thỉnh
đấng Pháp Vương Vô Thượng Bồ Đề, thời phải trước
tu thân cho thật
thanh tịnh, rồi sau
Pháp Vương mới đến ngự.
Ví như có người muốn uống chất
cam lộ thời phải trước rửa thân thật sạch. Cũng vậy,
Đại Bồ Tát muốn uống
Pháp vị Vô Thượng Bát Nhã Ba La Mật, trước phải tu tám mươi vẻ đẹp để
trang nghiêm nơi thân.
Ví như đem bình vàng, chậu bạc đựng nuớc
trong sạch thời cả trong lẫn ngoài đều
trong sạch. Cũng vậy,
Đại Bồ Tát dùng
thân thanh tịnh chứa
Vô Thượng Bồ Đề, thời trong ngoài đều
thanh tịnh.
Như y trắng
Ba La Nại dễ ăn màu thuốc nhuộm, vì chất y vốn trắng sạch. Cũng vậy,
Đại Bồ Tát do
thân thanh tịnh nên mau thành
Vô Thượng Bồ Đề.
Do nghĩa nầy nên
Đại Bồ Tát tu thân thanh tịnh, thế nào là
Bồ Tát khéo biết các duyên ?
Đại Bồ Tát chẳng thấy
sắc tướng, chẳng thấy sắc duyên, chẳng thấy sắc thể, chẳng thấy sắc sanh, chẳng thấy sắc diệt, chẳng thấy một tướng, chẳng thấy nhiều tướng, chẳng thấy người thấy, chẳng thấy
tướng mạo, chẳng thấy người thọ, vì đã rõ
nhơn duyên. Như đối với sắc, tất cả pháp cũng như vậy. Đây gọi là
Bồ Tát rõ biết các duyên.
Thế nào là
Bồ Tát lìa các
thù địch ?
Bực
Ngũ Trụ Bồ Tát chẳng xem
phiền não là oán thù. Vì do
phiền não mà
Bồ Tát có thọ sanh, do thọ sanh nên có thể xoay vần
giáo hoá chúng sanh.
Những gì là oán thù đối với
Bồ Tát ?
Chính là kẻ hủy báng
kinh điển Đại Thừa.
Bồ Tát thọ
sanh không sợ
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỉ, chỉ sợ kẻ hủy báng
kinh điển Đại Thừa. Có
tám thứ ma là oán thù của
Bồ Tát,
xa lìa được
tám thứ ma nầy thời gọi là lìa
thù địch.
Thế nào là
Bồ tát xa lìa hai bên ?
Hai bên là hai mươi lăm cõi và ái
phiền não.
Bồ Tát luôn
xa lìa hai mươi lăm cõi cùng ái
phiền não.
Đây gọi là
Đại Bồ tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ tư.
Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Như lời
đức Phật vừa
nói : Nếu
Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thời thành tựu mười
công đức như vậy. Cớ sao
Đức Như Lai chỉ tu có chín điều mà không tu
tịnh độ ?”
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử ! Từ xưa ta thường
tu tập đủ cả mười điều. Tất cả
Đại Bồ Tát cùng tất cả
Như Lai không có ai là chẳng
tu tập trọn cả mười điều như vậy.
Giả sử thế giới đầy dẫy nhơ uế, không bao giờ
Như Lai xuất hiện nơi ấy.
Nầy
Thiện nam tử ! Ông chớ cho rằng chư Phật
xuất hiện nơi
thế giới nhơ uế. Nên biết rằng
tâm tưởng như vậy là kém hẹp chẳng tốt. Ông nên biết rằng thiệt ra ta không có
xuất hiện nơi
Diêm Phù Đề.
Như có người nói riêng
cõi nầy có mặt nhựt, mặt nguyệt, cõi khác không có.
Lời nói nầy không có
nghĩa lý.
Nếu có
Bồ Tát nói
cõi nầy nhơ uế
xấu xa, cõi khác
thanh tịnh xinh đẹp đây cũng là lời không có
nghĩa lý.
Nầy
Thiện nam tử ! Về phương Tây, cách
cõi Ta Bà nầy bốn mươi hai
hằng hà sa cõi Phật, có
thế giới tên là
Vô Thắng, những sự
trang nghiêm xinh đẹp trong cõi đó đều
bình đẳng, như cõi
Cực Lạc, như cõi
Mãn Nguyệt.
Hiện tại ta
xuất hiện trong cõi
Vô Thắng đó. Vì
hoá độ chúng sanh nên ta
thị hiện chuyển pháp luân nơi
Diêm Phù Đề nầy.
Chẳng phải riêng gì thân ta
thị hiện chuyển pháp luân nơi
cõi nầy, mà tất cả Chư Phật cũng
chuyển pháp luân trong
cõi nầy.
Do nghĩa nầy nên Chư Phật đều tu đủ cả mười điều như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Do
thệ nguyện, nên đời
đương lai,
Từ Thị Bồ Tát làm cho
cõi nầy trở thành thanh tịnh trang nghiêm.
Do nghĩa nầy nên tất cả
thế giới của chư Phật đều
thanh tịnh trang nghiêm.
Nầy
Thiện nam tử ! Thế nào là
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn,
thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ năm ? Nơi đây có năm điều
công đức, một là nơi thân các căn đều
trọn vẹn ; hai là chẳng sanh chốn
biên địa, ba là
chư Thiên Thần mến tưởng ; bốn là thường được
chư Thiên,
Ma Vương,
Sa Môn,
Bà La Môn v.v…
cung kính, năm là được
trí túc mạng. Do
năng lực kinh Đại Niết Bàn mà
Bồ Tát đồng đủ năm
công đức như vậy.
Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Ngày trước Phật dạy : Nếu có người
bố thí thời được năm
công đức. Sao nay
Như Lai lại bảo nhơn
kinh Đại Niết Bàn mà đặng năm
công đức ?”
Phật nói : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện nam tử ! Các
công đức ấy đều có nghĩa sai khác. Nay ta sẽ vì ông mà giảng nói.
Năm điều
công đức do
bố thí mà được là
không định, không thương, không tịnh, không thắng, không lạ, không phải
vô lậu, không thể
lợi ích an lạc xót thương tất cả
chúng sanh.
Nếu là năm điều
công đức do
y theo kinh Đại Niết Bàn mà được thời là định, là thường, là tịnh, là thắng, là lạ, là
vô lậu, có thể
lợi ích an lạc xót thương tất cả
chúng sanh.
Nầy
Thiện nam tử ! Xét về người
bố thí thời
xa lìa đói khát.
Kinh Đại Niết Bàn có thể làm cho
chúng sanh đều được
xa lìa bịnh
khát ái trong hai mươi lăm cõi.
Do nơi bố thí làm cho
sanh tử nối luôn,
kinh Đại Niết Bàn có thể làm cho
sanh tử phải dứt. Nhơn
bố thí nên thọ lấy pháp
phàm phu., nhơn
kinh Đại Niết Bàn mà được pháp
Bồ Tát. Do
bố thí nên dứt được sự nghèo
cùng khổ não,
kinh Đại Niết Bàn có thể dứt tất cả sự nghèo thiếu về pháp. Do
bố thí mà có phần, có quả, do
kinh Đại Niết Bàn mà được
vô thượng Bồ Đề không phần
không quả.
Đây gọi là
Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ năm.
Thế nào là
Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ sáu ?
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn được
Kim Cang Tam Muội. An trụ trong
chánh định nầy thời phá tan được tất cả pháp. Thấy tất cả pháp đều là
vô thường, đều là tướng lay động, là
nhơn duyên của sự
khủng bố,
bịnh khổ, cướp trộm,
niệm niệm dứt hoại không chơn thiệt. Tất cả đều là
cảnh giới của ma, không có tướng đáng thấy.
Đại Bồ Tát an trụ trong
tam muội nầy, nhẫn đến không thấy một
chúng sanh thiệt. Vì
chúng sanh mà
Bồ Tát tinh cần tu tập Thi La Ba La Mật, nhẫn đến
Bát Nhã Ba La Mật. Nếu
Bồ Tát còn thấy có một
chúng sanh thời không thể
rốt ráo đầy đủ
Đàn Ba La Mật nhẫn đến
Bát Nhã Ba La Mật.
Nầy
Thiện nam tử !
Ví như vật gì bị chất
kim cang dóa đập thời đều bể tan, mà chất
kim cang nầy không hề hư tổn. Cũng vậy, pháp gì bị
Kim cang tam muội chiếu đến thời đều nát rã, mà
tam muội nầy không hề
hao tổn.
Trong các thứ
châu báu, chất
kim cang là hơn tất cả. Cũng vậy, trong các
tam muội,
Kim cang tam muội là thứ nhứt. Vì
Bồ Tát tu tập tam muội nầy thời tất cả
tam muội đều đến quy thuộc.
Như các vua chúa nhỏ đều đến quy thuộc
Chuyển Luân Thánh Vương, tất cả
chánh định đều đến quy thuộc
Kim cang tam muội.
Ví như có người là
kẻ thù địch của
quốc gia mọi người đều nhàm ghét, ai giết được người nầy thời cả nước đều
ngợi khen công lao. Cũng vậy,
Bồ Tát tu tập Kim Cang tam muội có thể
phá hoại oán thù của tất cả
chúng sanh, thế nên thường được tất cả
tam muội tôn kính.
Ví như có người mạnh mẽ không ai
cự lại, nếu có người thắng được người nầy thời được người đời
khen tặng. Cũng vậy,
Kim Cang tam muội có sức phá dẹp những pháp khó phá, nên được tất cả
tam muội đến quy thuộc.
Như người đến tắm nơi biển lớn, phải biết rằng người nầy đã dùng nước của các sông ngòi suối ao. Cũng vậy,
Bồ Tát tu tập Kim Cang tam muội, thời là đã
tu tập tất cả
tam muội khác.
Như trong
Hương Sơn có một suối nước tên
A Na Bà Đạp Đa, người nào được uống nước suối nầy thời không có những bịnh hoạn, vì nước suối nầy đủ tám vị. Cũng vậy,
Kim Cang tam muội đủ tám
chánh đạo,
Bồ Tát tu tập tam muội nầy thời dứt sạch những
bịnh nặng phiền não tội lỗi.
Như người
cúng dường Trời Ma Hê Thủ La, thời là đã
cúng dường tất cả
Chư Thiên. Cũng vậy, người
tu tập Kim Cang tam muội thời là đã
tu tập tất cả
tam muội khác.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
Bồ Tát an trụ trong
Kim Cang tam muội thời thấy tất cả
pháp không bị
chướng ngại, như xem trái
A Ma Lặc trong bàn tay.
Bồ Tát nầy dầu được thấy như vậy, nhưng trọn không có
quan niệm là thấy tất cả pháp.
Như có người ngồi nơi ngã tư đường, thấy
mọi người đi, đứng, ngồi, nằm. Cũng vậy,
Bồ Tát an trụ
Kim Cang tam muội thời thấy sự
sanh diệt mọc lặn của tất cả pháp.
Như người lên núi cao trông xa thấy rõ tất cả cảnh vật. Cũng vậy,
Bồ Tát lên núi
Kim Cang chánh định thời thấy rõ tất cả pháp.
Như
mùa xuân, trời mưa láy pháy, giọt mưa
li ti không có chỗ hở trống, người mắt sáng thời thấy
rõ ràng. Cũng vậy,
Bồ Tát đặng mắt
thanh tịnh Kim Cang tam muội, thấy rõ những
thế giới thành hoại ở
mười phương, không
chướng ngại.
Như do núi
Càn Đà, bảy
mặt trời đồng mọc, bao nhiêu cây cối nơi núi ấy đều cháy cả. Cũng vậy,
Bồ Tát tu tập Kim Cang tam muội thời bao nhiêu rừng rậm
phiền não liền
tiêu diệt.
Như chất
kim cang dầu có thể
phá nát tất cả vật, nhưng trọn không có
quan niệm rằng ta hay
phá nát. Cũng vậy,
Bồ Tát tu tập Kim Cang tam muội có thể phá
phiền não mà trọn chẳng có
quan niệm niệm rằng ta hay
phá hoại phiền não. Như quả đất có thể
giữ gìn muôn vật nhưng trọn chẳng có
quan niệm rằng sức ta có thể
giữ gìn ; lửa cũng chẳng nghĩ rằng ta hay đốt cháy ; nước cũng chẳng nghĩ rằng ta hay
thấm nhuần ; gió cũng chẳng nghĩ rằng ta hay thổi động ;
hư không cũng chẳng nghĩ rằng ta hay dung chứa ;
Niết Bàn cũng chẳng nghĩ rằng ta làm cho
chúng sanh đặng
diệt độ. Cũng vậy,
Kim Cang tam muội dầu có
thể diệt trừ tất cả
phiền não, nhưng vẫn không nghĩ rằng ta hay
diệt trừ.
Nếu có
Bồ Tát an trụ nơi
Kim Cang tam muội nầy,
trong khoảng một niệm biến
vô lượng thân như Phật, khắp cả
hằng hà sa thế giới ở
mười phương, dầu
biến hoá như vậy nhưng
Bồ Tát vẫn không có lòng
kiêu mạn. Vì
Bồ Tát thường nghĩ rằng : Ai có
chánh định nầy và
biến hoá được như vậy ? Chỉ có
Bồ Tát an trụ
Kim Cang tam muội nầy mới có thể
biến hóa như vậy.
Bồ Tát nầy trong một niệmđi khắp
hằng hà sa thế giới ở
mười phương rồi
trở về bổn xứ, dầu có
thần lực như vậy nhưng cũng chẳng nghĩ rằntg ta được
thần lực ấy đó là do sức của
Kim Cang tam muội.
Bồ Tát nầy lại ở
trong một niệm có thể dứt những
phiền não của
chúng sanh trong
hằng hà sa thế giới ở
mười phương, mà vẫn không có
quan niệm rằng ta hay dứt
phiền não của
chúng sanh, đó là do sức
Kim Cang tam muội.
Bồ Tát nầy dùng một tiếng nói để
thuyết pháp làm cho tất cả
chúng sanh riêng theo loài của mình mà đặng
hiểu rõ, lại
thị hiện một
sắc thân mà làm cho tất cả
chúng sanh đều riêng thấy
sắc thân riêng khác.
Bồ Tát ở an một chỗ thân không
dời đổi mà có thể làm cho
chúng sanh theo chỗ ở của nó đều đặng thấy
Bồ Tát diễn nói một pháp : Hoặc giới, hoặc nhập, mà tất cả
chúng sanh đều riêng theo chỗ đã
hiểu biết mà đặng nghe đó.
Bồ Tát an trụ
Kim Cang tam muội dầu thấy
chúng sanh mà vẫn không có tướng
chúng sanh, dầu thấy
nam nữ nhưng
không tướng nam nữ, dầu thấy sắc thọ vị nhưng không có tướng sắc thọ vị, dầu thấy ngày đêm mà không có tướng ngày đêm, dầu thấy tất cả pháp nhưng không có tướng tất cả pháp, dầu thấy tất cả
phiền não kiết sử cũng không có tướng tất cả
phiền não, dầu thấy
tám thánh đạo mà không có tướng
tám thánh đạo, dầu thấy
Bồ Đề thấy
Niết Bàn nhưng không có tướng
Bồ Đề,
Niết Bàn, vì tất cả pháp vốn không có tướng.
Bồ Tát nầy do sức
Kim Cang tam muội nên thấy tất cả
pháp bổn lai không có tướng.
Nầy
Thiện nam tử ! Thế nào gọi là
Kim Cang tam muội ? Như chất
Kim cang nếu ở trong
ánh nắng thời màu sắc chẳng nhứt định. Cũng vậy,
Kim Cang tam muội ở trong
đại chúng cũng chẳng nhứt định, vì thế nên gọi là
Kim Cang tam muội.
Như chất
Kim cang tất cả người đời không thể
bình luận giá cả. Cũng vậy,
Kim Cang tam muội có bao nhiêu
công đức tất cả trời người không thể nghĩ lường được, do đây nên lại gọi là
Kim Cang tam muội.
Như người nghèo đặng báu
Kim cang thời hết nghèo cùng khốn khổ, lại khỏi ác quỉ tà độc. Cũng vậy,
Đại Bồ Tát được
tam muội nầy thời có thể dứt hết
phiền não khổ hoạn
xa lìa các ma tà độc, do đây nên gọi là
Kim Cang tam muội.
Đây gọi là
Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ sáu.
Thế nào là
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ bảy ?
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát nầy nghĩ rằng : Pháp gì có thể làm
nhơn duyên gần với
Đại Niết Bàn ?
Bồ Tát nầy liền biết có bốn điều : Làm
nhơn duyên gần, nếu rời bốn pháp nầy thời không thể được
Đại Niết Bàn : Vì thế nên nói rằng siêng tu tất cả
khổ hạnh mà được
Đại Niết Bàn, thời không đúng.
Đây là bốn điều : Một là gần gũi bạn lành ; hai là
chuyên tâm nghe pháp ; ba là nhiếp niệm
tư duy ; bốn là
tu hành đúng pháp.
Như có người mang bịnh : Hoặc nóng, hoặc lạnh, hư lao, các tà quỉ độc, người bịnh nầy, tìm đến
lương y,
lương y liền theo bịnh cho thuốc. Người bịnh nầy
hết lòng y theo lời
chỉ dẫn của
lương y, uống thuốc đúng cách, bịnh được lành, thân được an. Người bịnh dụ cho
Bồ Tát.
Lương y dụ cho
thiện tri thức. Phương thuốc của
lương y nói dụ cho
kinh Đại Thừa.
Y theo lời
chỉ dẫn của
lương y dụ cho khéo
suy nghĩ nghĩa lý của
kinh Đại Thừa. Hiệp thuốc uống đúng cách dụ cho
tu hành đúng pháp. Bịnh lành dụ cho dứt hết
phiền não. Thân an dụ cho đặng
Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh.
Ví như có
Quốc Vương muốn cai trị đúng pháp, làm cho nhơn dân được an vui, nhà vua hỏi cách cai trị nơi các quan. Các quan bèn đem cách thức của Tiên Vương tâu với
Quốc Vương.
Quốc Vương liền
chí tâm tin tưởng thật hành theo, đúng
như pháp cai trị nước nhà, làm cho cả nước không giặc cướp, nhơn dân an vui.
Quốc Vương dụ cho
Bồ Tát, các quan dụ cho bạn lành. Cách thức cai trị của các quan tâu dụ cho
mười hai bộ kinh.
Quốc Vương hết lòng tin tưởng thật hành dụ cho
Bồ Tát nhiếp tâm tư duy nghĩa lý của
mười hai bộ kinh.
Quốc Vương cai trị đúng
pháp dụ cho
Bồ Tát tu hành đúng theo sáu môn
Ba La Mật. Cả nước không giặc cướp dụ cho
Bồ Tát đã lìa
phiền não kiết sử. Nhơn dân được an vui dụ cho
Bồ Tát chứng được
Đại Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh.
Như có người bị bịnh phong hủi, có
trí thức bảo rằng : Nếu ông đến được bên
núi Tu Di thời bịnh có thể lành. Vì nơi đó có vị thuốc hay như
cam lộ, uống được thuốc đó thời bịnh gì cũng lành. Người bịnh
tin theo lời đi đến bên núi hái lấy thuốc
cam lồ mà uống, tật bịnh liền hết, thân được an vui. Người bịnh dụ cho
phàm phu.
Trí thức dụ cho
Đại Bồ Tát.
Tin theo lời bảo dụ cho
bốn tâm vô lượng.
Núi Tu Di dụ
tám thánh đạo. Vị thuốc
cam lồ dụ cho
Phật tánh. Bịnh hủi được lành dụ lìa
phiền não. Đặng an vui dụ đặng
Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh.
Ví như có người nuôi những
đệ tử thông minh trí huệ, ngày đêm người nầy luôn dạy dỗ chẳng biết mõi.
Bồ Tát cũng như vậy, tất cả
chúng sanh hoặc tin, hoặc chẳng tin,
Bồ Tát luôn
giáo hóa không biết nhàm mõi.
Nầy
Thiện nam tử !
Thiện tri thức là nói chư Phật
Bồ Tát và hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, cùng những người tin
kinh Đại Thừa. Thế nào gọi là
thiện tri thức ? Hàng
thiện tri thức có thể chỉ dạy cho
chúng sanh xa lìa mười điều ác,
tu hành mười điều lành, do nghĩa nầy nên gọi là
thiện tri thức. Lại hàng
thiện tri thức lời nói đúng
như pháp thật hành đúng như
lời nói, chính là tự mình chẳng
sát sanh cũng bảo người chẳng
sát sanh, nhẫn đến tự mình có
chánh kiến, cũng đem
chánh kiến dạy cho người.
Nều có thể được như đây thời gọi là chơn thiệt
thiện tri thức. Tự mình
tu tập Bồ Đề cũng có thể dạy người
tu hành Bồ Đề. Tự mình
tu hành chánh tín,
trì giới,
bố thí,
đa văn,
trí huệ, cũng có thể dạy người như vậy, do đây nên gọi là
thiện tri thức.
Nầy
Thiện nam tử ! Hàng
thiện tri thức có
thiện pháp. Những gì là thiện
pháp ? Những việc của mình thật hành chẳng mong
cầu tự vui, mà thường vì
chúng sanh cầu an vui, thấy người khác có lỗi không rao nói, miệng thường tuyên nói những việc thuần thiện, do đây nên gọi là
thiện tri thức.
Nầy
Thiện nam tử ! Như
mặt trăng từ đêm mùng một đến đêm rằm lần lần thêm lớn đầy đủ. Cũng vậy,
thiện tri thức làm cho những người
học đạo lần lần
xa lìa pháp ác, thêm lớn pháp lành. Nếu người gần gũi
thiện tri thức, từ trước chưa có
giới định huệ giải thoát,
giải thoát tri kiến nay bèn có đó, người chưa đầy đủ thời được thêm rộng, do vì gần gũi
thiện tri thức. Sự gần gũi nầy làm cho người lại được rõ thấu nghĩa sâu của
mười hai bộ kinh.
Nếu có thể chăm nghe nghĩa sâu của
mười hai bộ kinh thời gọi là thính pháp. Nghe
kinh Đại Thừa thời gọi là chơn thật thính pháp. Chơn thật thính
pháp chính là nghe
kinh Đại Niết Bàn, nghe có
Phật tánh,
Như Lai rốt ráo chẳng
nhập Niết Bàn, do đây nên gọi là
chuyên tâm thính pháp.
Chuyên tâm thính pháp gọi là
tám thánh đạo, do
tám thánh đạo có thể dứt
tham dục,
sân khuể,
ngu si, nên gọi là thính pháp. Xét về người thính pháp gọi là
mười một pháp không, do
pháp không nầy đối với tất cả pháp chẳng thấy có
tướng mạo. Xét về người thính pháp gọi là
sơ phát tâm nhẫn đến
rốt ráo tâm
vô thượng Bồ Đề, nhơn nơi
sơ tâm mà đặng
Đại Niết Bàn, chẳng phải do
nghe pháp mà đặng
Đại Niết Bàn. Chính là do
tu tập nên chứng
Đại Niết Bàn. Như người bịnh dầu
nghe lời chỉ dẫn của
lương y cùng tên của món thuốc nhưng chẳng thể lành bịnh, phải do uống thuốc bịnh mới được lành. Dầu nghe mười hai
nhơn duyên nhưng chẳng thể dứt được tất cả
phiền não,
cần phải nhiếp niệm khéo
tư duy mới dứt được
phiền não. Đây gọi là pháp nhiếp niệm
tư duy thứ ba. Lại do nghĩa gì gọi là nhiếp niệm
tư duy ? Đây là nói ba môn
tam muội :
Không tam muội,
vô tướng tam muội,
vô tác tam muội. Không là đối với hai mươi lăm cõi chẳng thấy một cõi nào là có thật.
Vô tác là đối với hai mươi lăm cõi chẳng mong cầu.
Vô tướng là không có
mười tướng, chính là không có
sắc tướng, thinh tướng, hương tướng, vị tướng, xúc tướng, sanh tướng,
trụ tướng, diệt tướntg, nam tướng,
nữ tướng.
Tu tập ba môn
tam muội như vậy thời gọi là
Bồ Tát nhiếp niệm
tư duy.
Thế nào gọi là
tu hành đúng pháp ? Chính là
tu hành Đàn Ba La Mật nhẫn đến
Bát Nhã Ba La Mật, biết tướng chơn thật của ấm nhập giới, cũng biết
Thanh Văn,
Duyên Giác chư Phật đồng một đạo mà
nhập Niết Bàn, chính là thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng sanh già, bịnh, chết, chẳng
đói khát,
khổ não, chẳng
thối chuyển chẳng hư mất.
Nầy
Thiện nam tử ! Người hiểu nghĩa sâu của
Đại Niết Bàn, thời biết chư Phật trọn chẳng
rốt ráo nhập Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Bực
thiện tri thức chơn thật thứ nhứt là
Bồ Tát và chư Phật, vì bực nầy
thường dùng ba pháp khéo
điều ngự : Một là
lời nói hoàn toàn dịu hòa, hai là
hoàn toàn quở trách, ba là dịu hòa cùng
quở trách. Do đây nên
Bồ Tát và chư Phật là bực
thiện tri thức chơn thật. Phật và
Bồ tát là bực đại
lương y nên gọi là
thiện tri thức, vì biết bịnh, biết thuốc, cho thuốc đúng bịnh.
Ví như lương y thông thạo tám môn trị bịnh xem bịnh có
ba tướng : Phong, nhiệt, hàn. Người bịnh phong cho uống thuốc dầu tô, người bịnh nhiệt cho uống thuốc
thạch mật, người bịnh hàn cho uống nước gừng. Do biết gốc bịnh cho thuốc được lành nên gọi là
lương y. Cũng vậy, Chư Phật và
Bồ Tát biết
phàm phu có ba thứ bịnh :
Tham dục,
sân khuể,
ngu si. Người
tham dục dạy quán tướng xương trắng, người
sân khuể dạy
quán từ bi, người
ngu si dạy quán mười hai
nhơn duyên. Do đây nên chư Phật và
Bồ Tát gọi là
thiện tri thức.
Như thuyền chủ vì giỏi đưa người nên gọi là
đại thuyền chủ. Cũng vậy, Chư Phật và
Bồ Tát đưa
chúng sanh khỏi biển
sanh tử nên gọi là
thiện tri thức.
Nầy
Thiện nam tử ! Do Phật và
Bồ Tát làm cho
chúng sanh được
tu hành đầy đủ những căn lành.
Ví như núi Tuyết là nơi sản xuất những cội gốc thuốc hay
vi diệu. Cũng vậy, chư Phật và
Bồ Tát là chỗ xuất sanh tất cả căn lành, do đây nên gọi là
thiện tri thức.
Trong núi Tuyết có vị
hương dược tên là
Ta Ha, người nào thấy thuốc nầy thời được sống lâu, không có
bịnh khổ,
bốn thứ độc không làm hại được. Người nào rờ đụng thuốc nầy thời sống lâu đủ một trăm hai mươi tuổi. Người nào nhớ thuốc nầy thời được
trí túc mạng. Đó là do
thế lực của vị thuốc nầy. Cũng vậy, chư Phật và
Bồ Tát, nếu ai được thấy thời tất cả
phiền não đều trừ,
bốn ma chẳng nhiễu loạn được. Người nào gần gũi chư Phật và
Bồ Tát, vì được
nghe pháp, nên được
trường thọ chẳng bị
sanh tử. Người nào tưởng niệm chư Phật và
Bồ Tát thời được
vô thượng Bồ Đề. Do đây nên chư Phật và
Bồ Tát gọi là
thiện tri thức.
Như trong
Hương Sơn có ao
A Na Bà Đạp Đa, từ ao nầy thành nguồn
bốn con sông lớn :
Sông Hằng, sông
Vân Đầu, sông Tư Đà, sông Bác Xoa. Người đời thường nói rằng : Nếu người có tội tắm nơi bốn con sông nầy thời tội đều
tiêu diệt. Nên biết
lời nói nầy là
hư vọng chẳng thật. Chỉ có chư Phật và
Bồ Tát mới là chơn thật. Vì người nào được gần gũi thời
tất cả tội chướng đều
tiêu trừ. Do đây nên chư Phật và
Bồ Tát gọi là
thiện tri thức.
Ví như trên mặt đất có bao nhiêu cỏ thuốc, rừng cây, trăm giống lúa, mía nho, các thứ bông trái. Gặp trời nắng hạn sắp khô chết,
Nan Đà Long Vương vì
xót thương chúng sanh nên ra khỏi biển lớn làm mưa xối xuống, nhờ đó tất cả cỏ cây bông trái đều được tươi tốt. Cũng vậy, tất cả
chúng sanh có bao nhiêu căn lành sắp
tiêu diệt, chư Phật và
Bồ Tát sanh lòng
đại bi từ biển
trí huệ rưới pháp
cam lồ, làm cho
chúng sanh được mười hai pháp lành. Do đây nên chư Phật và
Bồ Tát gọi là
thiện tri thức.
Ví như lương y thông thạo tám môn trị bịnh, thấy những người bịnh thời lo chữa trị, không ngó đến
dòng họ, đẹp xấu cũng không nghĩ đến
châu báu, do đây nên người đời xưng tặng là đại
lương y. Cũng vậy, chư Phật và
Bồ Tát thấy
chúng sanh có bịnh
phiền não, liền sanh
lòng từ mẫn mà
thuyết pháp, không ngó đến
dòng họ đẹp xấu cùng
của cải,
chúng sanh được
nghe pháp,
phiền não liền
trừ diệt. Do đây nên chư Phật và
Bồ Tát gọi là
thiện tri thức. Do vì gần gũi
thiện hữu nên được gần
Đại Niết Bàn.
Thế nào là
Bồ Tát nhờ
nghe pháp mà đặng gần với
Đại Niết Bàn ? tất cả
chúng sanh do
nghe pháp mà có
tín căn, vì có
tín căn nên thích thật hành
bố thí ,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn ,
thiền định và trí huệ, được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả Phật. Do đây nên biết rằng được những pháp lành đều là
thế lực của sự
nghe pháp.
Ví như trưởng giả chỉ có một con trai, ông sai con đến nước khác buôn bán đổi chác. Ông chỉ rành đường sá, rồi lại dặn rằng : Nếu gặp
dâm nữ thời con phải
cẩn thận, chớ gần gũi, nếu
thương yêu gần gũi thời mất
tiền của và
thân mạng cũng khó bảo toàn, cũng chớ
giao du với người tệ ác. Người con kính
thuận theo lời dạy của cha,
thân tâm an ổn được nhiều
của báu mang về.
Đại Bồ Tát giáo hóa chúng sanh cũng như vậy, chỉ rành đường đạo cùng những pháp chướng ác. Nhờ
nghe pháp mà
chúng sanh xa lìa những điều ác, đầy đủ những pháp lành đây là do sự thính pháp mà được gần với
Đại Niết Bàn.
Ví như gương sáng soi rõ mặt người. Cũng vậy, người được
nghe pháp thời thấy rõ pháp lành, pháp ác, do đây nên được gần
Đại Niết Bàn.
Ví như nhà tìm
châu bảo chẳng biết đường sá, có người
hiểu biết chỉ đường, bèn đến được chỗ
châu báu. Cũng vậy, tất cả
chúng sanh muốn đến chỗ lành để lấy
pháp bảo, chẳng biết
phương pháp tu hành, nhờ
Bồ Tát chỉ dạy,
chúng sanh tuân theo mà được đến chỗ lành đặng
pháp bảo vô thượng Đại Niết Bàn. Đây là do
nghe pháp mà đặng gần với
Đại Niết Bàn.
Ví như voi say hung dữ, có nhà điều tượng dùng móc sắt móc rách da đầu, voi say liền điều thuận hết tâm hung dữ. Cũng vậy, tất cả
chúng sanh do tham, sân , si nên muốn gây tạo nhiều
tội ác,
Bồ Tát vì họ
thuyết pháp, làm cho họ dứt hết tâm ác, do đây nên gần được
Đại Niết Bàn. Vì thế nên
Như Lai ở trong các kinh bảo hàng
đệ tử phải
nhiếp tâm lóng nghe và
lãnh thọ mười hai bộ kinh, tu
bảy giác chi, lìa năm thứ cái chướng. Do
tu tập bảy giác chi thời được gần
Đại Niết Bàn.
Do thính pháp mà
Tu Đà Hoàn lìa những sự
khủng bố :
Trưởng giả Tu Đạt Đa trước kia mang
bịnh nặng, ông rất lo rầu sợ sệt. Sau khi được nghe
Xa Lợi Phất nói bực
Tu Đà Hoàn có bốn
công đức, dùng mười thứ ví dụ để
an ủi.
Trưởng giả nghe rồi liền hết sợ sệt. Đây cũng là do thính pháp mà được gần
Đại Niết Bàn, vì được mở thông
pháp nhãn.
Trong đời có ba người : Một là không con mắt, hai là một con mắt, ba là đủ hai mắt. Người không con mắt dụ cho thường chẳng được
nghe pháp. Người một con mắt dụ cho được tạm thời
nghe pháp mà
tâm không được an trụ. Người đủ hai con mắt dụ cho
chuyên tâm nghe pháp lãnh thọ và
thực hành, do đây được gần
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Ngày trước lúc ta ở thành
Câu Thi Na,
Xá Lợi Phất đương
bịnh khổ. Ta sai
A Nan đến
thuyết pháp. Lúc đó
Xá Lợi Phất nghe
A Nan thuyết pháp, bèn bảo bốn người
đệ tử khiêng giường bịnh đến chỗ Phật để
nghe pháp. Do
phước lực nghe
Phật thuyết pháp nên Xá Lơiï Phất được lành bịnh
thân thể an ổn. Vì thế nên nghe
chánh pháp thời được gần
Đại Niết Bàn.
Thế nào là
Bồ Tát do
tư duy mà được gần
Đại Niết Bàn ? Nhơn sự
tư duy nầy mà tâm
được giải thoát. Vì tất cả
chúng sanh thường bị
ngũ dục ràng buộc, do
tư duy nên đều
được giải thoát. Đây là do
tư duy mà được gần
Đại Niết Bàn.
Tất cả
chúng sanh thường bị thường, lạc, ngã, tịnh làm
điên đảo. Do
tư duy nên được thấy các pháp là
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh. Nhờ sự thấy nầy mà hết
điên đảo. Đây cũng là do
tư duy mà được gần
Đại Niết Bàn.
Tất cả pháp có bốn tướng : sanh tướng, lão tướng, bịng tướng,
diệt tướng. Do bốn tướng nầy làm cho
phàm phu đến
Tu Đà Hoàn bị nhiều sự
khổ não. Nếu người có thể nhiếp niệm khéo
tư duy, dầu gặp bốn tướng nầy nhưng chẳng bị
khổ não. Đây cũng là do
tư duy mà được gần
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả pháp lành đều do
tư duy mà được. Vì có người dầu
trải qua vô lượng vô biên vô số kiếp
chuyên tâm thính pháp, nếu chẳn
tư duy thời trọn không thể được
vô thượng Bồ Đề. Đây cũng là do
tư duy mà được gần
Đại Niết Bàn.
Nếu có
chúng sanh tin Phật, Pháp, Tăng không
biến đổi nên sanh lòng
cung kính. Nên biết rằng đây là do
năng lực của sự nhiếp niệm
tư duy mới được dứt trừ tất cả
phiền não. Đây cũng là do
tư duy mà được gần
Đại Niết Bàn.
Thế nào là
Bồ Tát tu hành đúng
chánh pháp ? Nầy
Thiện nam tử ! Dứt những pháp ác tu các pháp lành thời gọi là
Bồ Tát tu hành đúng pháp. Lại thấy tất cả pháp trống rỗng không chỗ có, không thường, không lạc, không ngã, không tịnh, do sự thấy biết nầy nên thà bỏ
thân mạng chẳng phạm
cấm giới. Đây gọi là
Bồ Tát tu hành đúng pháp.
Tu có hai thứ : Chơn thật và chẳng thật. Chẳng biết tướng của
Niết Bàn,
Phật Tánh,
Như Lai, Pháp, Tăng,
thật tướng, tướng
hư không v.v… đây gọi là chẳng thật. Nếu biết thời gọi là chơn thật.
Thế nào gọi là biết tướng của
Niết Bàn ?
Niết Bàn có tám điều : Một là sạch hết, hai là tánh lành, ba là thật, bốn là chơn, năm là thường, sáu là lạc, bảy là ngã, tám là tịnh.
Niết Bàn lại có tám điều : Một là
giải thoát, hai là tánh lành, ba là chẳng thật, bốn là chẳng chơn, năm là
vô thường, sáu là vô lạc, bảy là
vô ngã, tám là vô tịnh.
Niết Bàn lại có sáu tướng : Một là
giải thoát, hai là tánh lành, ba là chẳng thật, bốn là chẳng chơn, năm là
an lạc, sáu là
thanh tịnh.
Nếu
chúng sanh y theo đạo thế tục mà dứt
phiền não, thời
Niết Bàn đó có tám điều
giải thoát chẳng chơn thật, vì là
vô thường. Vì
vô thường nên là
không thật, vì
không thật thời không chơn. Dầu dứt
phiền não nhưng rồi sẽ khổ
trở lại, do đây nên không có thường, lạc, ngã, tịnh, đây gọi là
Niết Bàn có tám điều
giải thoát không thật.
Thanh Văn Duyên Giác vì dứt phiến não nên gọi là
giải thoát nhưng chưa được
vô thượng Bồ Đề, đây gọi là chẳng thật vì chẳng thật nên chẳng chơn. Đời
vị lai sẽ được
vô thượng Bồ Đề nên là
vô thường. Vì được
tám thánh đạo vô lậu nên gọi là
thanh tịnh an lạc, đây gọi là
Niết Bàn có sáu tướng.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu biết như vậy đó là biết
Niết Bàn, chẳng gọi là biết
Phật tánh,
Như Lai, Pháp, Tăng,
thật tướng,
hư không.
Phật tánh có sáu điều : Một là thường, hai là tịnh, ba là thật, bốn là thiện, năm là sẽ thấy, sáu là chơn.
Phật tánh lại có bảy điều : Sáu điều như trên, bảy là có thể chứng, đây gọi là
Bồ Tát biết
Phật tánh.
Như Lai chính là tướng
giác ngộ, tướng lành, là thường, lạc, ngã, tịnh, là
giải thoát chơn thật, dạy đạo có thể thấy được, đây gọi là
Bồ Tát biết tướng
Như Lai.
Pháp là hoặc lành chẳng lành, hoặc thường chẳng thường, hoặc lạc chẳng lạc, hoặc ngã chẳng ngã, hoặc tịnh chẳng tịnh, hoặc tri chẳng tri, hoặc giải chẳng giải, hoặc chơn chẳng chơn, hoặc tu chẳng tu, hoặc sư chẳng phải sư, hoặc thật chẳng thật, đây gọi là
Bồ Tát biết
pháp tướng.
Thế nào là
Bồ Tát biết Tăng tướng ?
Tăng là thường, lạc, ngã, tịnh, là tướng
đệ tử, tướng có thể thấy, là thiện , là chơn, chẳng thật, vì tất cả
Thanh Văn sẽ được
thành Phật, vì tỏ ngộ chơn tánh nên gọi là chơn. Đây gọi là
Bồ Tát biết tướng của Tăng.
Thiệt tướng là : Hoặc thường,
vô thường, hoặc lạc, vô lạc, hoặc ngã,
vô ngã, hoặc tịnh, vô tịnh, hoặc thiện,
bất thiện, hoặc có, hoặc không, hoặc
Niết Bàn, hoặc chẳng phải
Niết Bàn, hoặc
giải thoát, hoặc chẳng phải
giải thoát, hoặc tri, hoặc bất tri, hoặc đoạn, hoặc
bất đoạn, hoặc chứng, hoặc chẳng chứng, hoặc tu, hoặc chẳng tu, hoặc thấy, hoặc chẳng thấy, đây gọi là
thiệt tướng, chẳng phải là
Niết Bàn Phật tánh,
Như Lai, Pháp, Tăng,
hư không.
Đây gọi là
Bồ Tát nhơn tu
kinh Đại Niết Bàn nầy biết tướng sai khác của
Niết Bàn,
Phật tánh,
Như Lai, Pháp, Tăng,
thiệt tướng,
hư không.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát tu
kinh Đại Niết Bàn chẳng thấy
hư không, vì Phật và
Bồ Tát dầu có
ngũ nhãn nhưng chẳng thấy, chỉ có
huệ nhãn mới thấy được. Chỗ thấy của
huệ nhãn là không có pháp thấy được nên gọi là thấy. Nếu là không có vật gọi là
hư không, thời
hư không ấy gọi là thật, do vì thật thời gọi là thường không, vì thường không nên không có lạc, ngã và tịnh.
Nầy
Thiện nam tử ! Trống không gọi là không có pháp, không có pháp gọi là trống không. Như
trong đời chỗ không có vật gọi là trống không, tánh
hư không cũng như vậy, vì không chỗ có nên gọi là
hư không.
Nầy
Thiện nam tử ! Tánh
chúng sanh cùng tánh
hư không đều không có thiệt tánh. Như có người nói rằng :Trừ dứt những vật có rồi sau mới là không. Nhưng
hư không nầy thiệt chẳng thể làm ra, vì là không chỗ có, đã không chỗ có nên biết là không có
hư không. Tánh
hư không nầy
nếu có thể làm ra thời gọi là
vô thường, nếu là
vô thường thời chẳng gọi là
hư không.
Nầy
Thiện nam tử ! Như người đời nói rằng
hư không là
không sắc chất, không cách ngại, là thường chẳng
biến đổi, do đây nên
trong đời gọi tánh
hư không là
đại chủng thứ năm. Nhưng
hư không nầy thiệt ra không có tánh, do ánh sáng nên gọi là
hư không, thật ra không có
hư không. Như
thế đế thiệt ra không có tánh vì
thuận theo chúng sanh mà nói là có
thế đế.
Nầy
Thiện nam tử ! Thể
Niết Bàn cũng không có chỗ trụ, chính nơi chư Phật dứt sạch
phiền não mà gọi là
Niết Bàn.
Niết Bàn chính là thường, lạc, ngã, tịnh.
Niết Bàn dầu là lạc, nhưng chẳng phải là
thọ lạc, bèn là sự vui
tịch diệt vi diệu vô thượng. Chư Phật có hai thứ vui : Một là
tịch diệt lạc, hai là giác tri lạc. Thể
thiệt tướng có ba thứ vui : Một là
thọ lạc, hai là tịnh diệt lạc, ba là giác tri lạc.
Phật tánh có một thứ vui, vì sẽ được thấy, lúc chứng
vô thượng Bồ Đề thời gọi là
Bồ Đề lạc.
Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát bạch Phật : “ Bạch
Thế Tôn ! Nếu chỗ
phiền não dứt là
Niết Bàn thời không phải. Vì
xưa kia lúc
Đức Như Lai mới
thành Phật, đi đến bờ
sông Ni Liên Thiền,
Ma Vương cùng
quyến thuộc đến chỗ Phật thưa rằng :
Thời kỳ Niết Bàn đã đến sao
Thế Tôn chẳng nhập ?”
Phật bảo Ma Vương : Nay ta chưa có hàng
đa văn đệ tử giới hạnh tinh nghiêm Trí huệ thông minh, có thể
giáo hoá chúng sanh, nên ta chẳng
nhập Niết Bàn.
Nếu nói rằng chỗ
phiền não dứt là
Niết bàn,
Bồ Tát từ vô lượng kiếp đã dứt
phiền não, cớ sao chẳng đặng gọi là
Niết Bàn ? Đều đồng dứt, cớ sao gọi riêng chư Phật có
Niết Bàn, còn
Bồ Tát thời không ? Nếu dứt
phiền não chẳng phải là
Niết Bàn cớ sao ngày trước
đức Như Lai bảo ông Sanh Danh : Chính thân của ta đây là
Niết Bàn. ?
Lúc
Như Lai ở nước
Tỳ Xá Ly,
Ma Vương lại đến thưa :
Thế Tôn ngày trước nói rằng vì chưa có hàng
đệ tử đa văn trì giới thông minh trí huệ có thể
giáo hóa chúng sanh, nên
Thế Tôn chẳng
nhập Niết bàn. Nay đã đầy đủ cớ sao
Thế Tôn chẳng nhập ?
Như Lai bảo
Ma Vương : Sau đây ba tháng ta sẽ
nhập Niết Bàn.
Bạch
Thế Tôn !
Giả sử diệt độ chẳng phải
nhập Niết bàn, tại sao
đức Như Lai lại hẹn ba tháng sẽ
nhập Niết Bàn ?
Bạch
Thế Tôn ! Nếu dứt
phiền não là
Niết Bàn, ngày trước lúc
đức Như Lai ngồi nơi
đạo tràng Bồ Đề dứt hết
phiền não bèn là
Niết Bàn, sao lại nói với
Ma Vương sau ba tháng sẽ
nhập Niết Bàn ?
Bạch
Thế Tôn ! Nếu lúùc đó là
Niết Bàn, tại sao lại
tuyên bố đến cuối đêm sẽ
nhập Niết Bàn ?
Đức Như Lai là đấng thành thiệt, cớ sao lại nói những lời
hư vọng như vậy ?
Phật bảo Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát : “ Nầy
Thiện nam tử !
Như Lai đã đặng tướng lưỡi rộng dài, phải biết rằng
Như Lai từ vô lượng kiếp đã lìa
vọng ngữ. Tất cả chư Phật và
Bồ Tát phàm có nói ra đều là lời
thành thật chắc chắn không
hư dối.
Nầy
Thiện nam tử ! Ngày trước
Ma Ba Tuần thỉnh Phật nhập Niết Bàn, mà
Ma Vương chẳng biết tướng
Niết Bàn. Ý
Ma Vương cho rằng chẳng
giáo hoá chúng sanh yên lặng
bất động đó là
Niết Bàn.
Ví như người đời thấy có ai chẳng nói chẳng làm, bèn cho rằng người nầy như chết. Ý
Ma Vương cũng như vậy.
Nầy
Thiện nam tử !
Như Lai chẳng nói
Phật Pháp và
chúng Tăng không có tướng sai khác. Chỉ nói
thường trụ và
thanh tịnh hai pháp nầy không sai khác. Phật cũng chẳng nói Phật cùng
Phật tánh và
Niết Bàn không có tướng sai khác, chỉ nói
thường hằng bất biến là không sai khác, Phật cũng chẳng nói
Niết Bàn và
thiệt tướng không có tướng sai khác, chỉ nói
thường trụ và thật chẳng
biến đổi không có sai khác.
Nầy
Thiện nam tử ! Có lúc hàng
Thanh Văn đệ tử của ta sanh sự tránh tụng, như các
Tỳ Kheo ở nước Câu Diêm Vi trái lời dạy của Phật phạm nhiều
cấm giới, chẳng
kính trọng Phật, Pháp, Tăng,
giới luật hòa thượng. Những
Tỳ Kheo ác nầy chẳng tin lời dạy của Phật. Vì những người nầy mà ta bảo
Ma Ba Tuần ông chớ lo rằng chậm. Sau ba tháng ta sẽ
nhập Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Nhơn vì các
Tỳ Kheo ác nầy, khiến hàng
Thanh Văn chẳng thấy thân của ta, chẳng nghe ta
thuyết pháp, bèn cho rằng
Như Lai nhập Niết Bàn. Chỉ hàng
Bồ Tát thấy được thân ta, thường nghe ta
thuyết pháp, nên chẳng cho rằng Phật
nhập Niết Bàn.
Dầu hàng
Thanh Văn nói rằng
Như Lai nhập Niết Bàn, nhưng thật ra ta chẳng
nhập Niết Bàn.
Nếu
Thanh Văn đệ tử của ta nói rằng
Như Lai nhập Niết Bàn, phải biết người nầy chẳng phải
đệ tử của Phật, là bè đảng của ma, là người
tà kiến chẳng phải
chánh kiến. Nếu nói
Như Lai chẳng
nhập Niết bàn, phải biết người nầy thiệt là
đệ tử Phật, là người
chánh kiến chẳng phải bè đảng của ma.
Nầy
Thiện nam tử ! Ta chẳng thấy trong hàng
đệ tử có người nào cho rằng
Như Lai chẳng
giáo hóa chúng sanh yên lặng
bất động gọi là
Niết bàn.
Ví như trưởng giả có đông con cái, đi đến xứ khác chưa
trở về. Những người con đều cho rằng cha mình đã chết. Như
trưởng giả nầy thiệt chẳng chết, mà những người con
điên đảo tưởng rằng chết. Cũng vậy, hàng
Thanh Văn đệ tử vì chẳng thấy Phật, bèn cho rằng
Như Lai đã
nhập Niết Bàn trong rừng
Ta La nơi thành
Câu Thi Na, nhưng thật ra ta chẳng
nhập Niết Bàn, mà hàng
Thanh Văn tưởng là
nhập Niết Bàn.
Ví như ngọn đèn sáng, có người che kín đó, những kẻ không biết cho rằng đèn đã tắt, nhưng đèn sáng nầy thiệt chẳng tắt, vì không biết nên cho là tắt. Cũng vậy, hàng
Thanh Văn đệ tử dầu có
huệ nhãn nhưng bị
phiền não che đậy làm cho tâm
điên đảo chẳng thấy được thân chơn thật của Phật, bèn tưởng là
Phật diệt độ, nhưng thiệt ra ta chẳng
diệt độ.
Như người
sanh manh chẳng thấy
mặt trời mặt trăng, chẳng biết ngày đêm sáng tối, vì chẳng biết bèn nói rằng không có
mặt trời mặt trăng thiệt, do vì không thấy nên sanh
tưởng điên đảo. Cũng vậy, hàng
Thanh Văn đệ tử, vì chẳng thấy
Như Lai bèn cho rằng Phật
nhập Niết Bàn. Nhưng thật ra
Như Lai chẳng
nhập Niết Bàn.
Ví như mây mù
che khuất mặt trời mặt trăng, kẻ
ngu si cho rằng không có
mặt trời mặt trăng. Cũng vậy, Vì các
phiền não che đôi mắt
trí huệ nên hàng
Thanh Văn chẳng thấy
Như Lai bèn cho rằng
Như Lai nhập Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Đây là
đức Như Lai thị hiện Anh Nhi Hạnh chớ chẳng phải
diệt độ.
Nầy
Thiện nam tử ! Như lúc
mặt trời lặn, vì
Hắc Sơn che khuất mặt trời, nên
chúng sanh Diêm Phù Đề chẳng thấy, nhưng thật ra
mặt trời không có lặn, vì không thấy nên
chúng sanh tưởng là lặn. Cũng vậy, hàng
Thanh Văn đệ tử bị
phiền não che ngăn chẳng thấy thân Phật, vì chẳng thấy nên cho rằng
Như Lai nhập Niết Bàn, nhưng thiệt ra Phật chẳng
nhập Niết Bàn.
Do đây nên Phật ở nước
Tỳ Da Ly bảo
Ma Ba Tuần : Sau ba tháng ta sẽ
nhập Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử !
Như Lai thấy trước rằng
Ca Diếp Bồ Tát sau ba tháng căn lành sẽ
thành thục, cũng thấy núi
Hương Sơn ông
Tu Bạt Đà La an cư xong sẽ đến chỗ ta, nên ta bảo
Ma Ba Tuần sau ba tháng sẽ
nhập Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Có năm trăm
lực sĩ mãn ba tháng cũng sẽ
phát tâm vô thượng Bồ Đề, vì họ nên ta bảo
ma Ba Tuần sau ba tháng Phật sẽ
nhập Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Bọn ông
Thuần Đà năm trăm
Lê Xa tử, và
Am La nữ
Sau ba tháng thời
đạo tâm vô thượng sẽ
thành thục, vì những người nầy nên ta bảo
ma Ba Tuần sau ba tháng
Như Lai sẽ
nhập Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Ông
Tu Na Sát Đa theo hàng
ngoại đạo Ni Kiền Tử, ta vì ông
thuyết pháp trọn mười hai năm, ông chẳng tin chẳng thọ, chẳng bỏ
tà kiến, ta biết
ác tâm tà kiến của ông sau ba tháng
quyết định có thể dứt trừ, nên ta bảo
ma Ba Tuần sau ba tháng Phật sẽ
nhập Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Do
nhơn duyên gì mà ngày trước ở bên sông Ni Liên, ta bảo
ma Ba Tuần vì chưa có hàng
đệ tử đa văn trí huệ nên Phật chẳng
nhập Niết Bàn ?
Lúc đó ta muốn
chuyển pháp luân độ các ông
Kiều Trần Như v.v…, cũng muốn độ các ông
Da Xá, muốn độ bọn ông Úc Dà
trưởng giả, muốn độ vua
Tần Bà Ta La nước
Ma Dà Đà cùng
vô lượng nhơn thiên, muốn độ thầy trò
Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp,
Na Đề Ca Diếp, Dà Da
Ca Diếp, cũng muốn độ các ông
Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên v.v… Vì thế nên ta bảo
ma Ba Tuần :
Như Lai chẳng
nhập Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Có
Niết Bàn chẳng phải là
Đại Niết Bàn. Chẳng thấy
Phật tánh mà dứt
phiền não thời gọi là
Niết Bàn chẳng phải
Đại Niết Bàn. Bởi chẳng thấy
Phật tánh nên không có thường, ngã, chỉ có lạc và tịnh, do đây nên dầu dứt
phiền não mà chẳng được gọi là
Đại Niết Bàn. Nếu thấy
Phật tánh dứt
phiền não thời gọi là
Đại Niết Bàn, vì thấy
Phật tánh nên được gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Nầy
Thiện nam tử ! “ Niết” nghĩa là chẳng, “ Bàn” nghĩa là dệt, nghĩa chẳng dệt gọi là
Niết Bàn. “Bàn” lại có nghĩa là che, chẳng bị che bèn gọi là
Niết Bàn. Bàn lại có nghĩa là đi đến, chẳng đi chẳng đến gọi là
Niết Bàn. “ Bàn” lại có nghĩa là
bất định, không
bất định gọi là
Niết Bàn. “Bàn” lại có nghĩa là mới cũ, không mới cũ gọi là
Niết Bàn. “Bàn” lại có nghĩa là
chướng ngại, không
chướng ngại gọi là Niêt Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Có hàng
đệ tử của phái
Ưu Lâu Khư, phái
Ca Tỳ La nói “Bàn:” là
danh tướng, không
danh tướng gọi là
Niết Bàn. “Bàn” lại có nghĩa là có; không có thời gọi là
Niết Bàn. “Bàn” lại có nghĩa là hòa hiệp; không hòa hiệp gọi là
Niết Bàn. “Bàn” lại có nghĩa là khổ ; không khổ gọi là
Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Người dứt
phiền não chẳng gọi là tu
Niết Bàn, chẳng sanh
phiền não thời gọi là
Niết Bàn.
Chư Phật Như Lai vĩnh viễn chẳng khởi
phiền não nên gọi là
Niết Bàn. Có
trí huệ ở nơi tất cả
pháp không có
chướng ngại thời gọi là
Như Lai.
Như Lai chẳng phải
phàm phu,
Thanh Văn,
Duyên Giác,
Bồ Tát. Đây gọi là
Phật tánh.
Thân tâm trí huệ của
Như Lai khắp đầy
vô lượng vô biên,
vô số cõi, không bị
chướng ngại, đây gọi là
hư không.
Như Lai thường trụ không có
biến đổi, đây gọi là
thật tướng.
Do nghĩa nầy nên
Như Lai thiệt chẳng
rốt ráo nhập Niết Bàn.
Đây gọi là
Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ bảy.
Thế nào là
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ tám ?
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn : Trừ dứt năm việc,
xa lìa năm việc,
thành tựu sáu việc,
tu tập năm việc,
giữ gìn một việc, gần gũi bốn việc, tin thuận nhứt thật, tâm thiện
giải thoát, huệ thiện
giải thoát.
Trừ dứt năm việc, chính là trừ
năm ấm : Sắc, thọ, tưởng, hành, thức : Năm thứ nầy hay làm
chúng sanh sống chết nối mãi, chẳng rời
gánh nặng chia lìa
tụ họp, buộc ràng trong
ba đời, không thể cầu tìm cho ra
nghĩa lý ; do những lẽ nầy nên gọi là “ẤM”.
Đại Bồ Tát dầu thấy
sắc ấm, nhưng chẳng thấy tướng của nó, vì trong mười món sắc suy tìm tánh của nó trọn không thể được, vì
thuận theo thế tục mà gọi là “ẤM”.
Có một trăm lẻ tám thứ thọ,
Bồ Tát dầu thấy
thọ ấm, nhưng vẫn không thấy tướng của thọ. Vì thọ dầu có một trăm lẻ tám, nhưng tất cả không có
nghĩa lý quyết định thật.
Như sắc và thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Vì thấy rõ
năm ấm là cội gốc sanh ra
phiền não, nên
Đại Bồ Tát dùng
phương tiện làm cho dứt.
Đại Bồ Tát xa lìa năm việc, chính là
xa lìa năm kiến chấp :
Thân kiến,
biên kiến,
tà kiến,
kiến thủ,
giới thủ. Do
năm kiến chấp nầy sanh ra sáu mươi hai thứ
kiến chấp. Vì những thứ
kiến chấp nầy mà
sanh tử nối mãi chẳng dứt, nên
Bồ Tát ngăn ngừa không gần gũi.
Đại Bồ Tát thành tựu sáu việc, chính là
thành tựu sáu chánh niệm :
Niệm Phật,
niệm Pháp,
niệm Tăng, niện Thiên,
niệm Thí,
niệm Giới.
Đại Bồ Tát tu tập năm việc, chính là
tu tập năm định : Tri định,
tịch định,
thân tâm thọ khóai lạc định, vô lạc định,
Thủ Lăng Nghiêm định.
Tu tập năm thứ
định tâm nầy thời gần với
Đại Niết Bàn, vì thế nên
Đại Bồ Tát chuyên cần tu tập.
Bồ Tát giữ gìn một việc, chính là
giữ gìn tâm
Bồ Đề.
Đại Bồ Tát luôn siêng năng
gìn giữ tâm
Bồ Đề, như người đời
săn sóc đứa con một, như người chột mắt
giữ gìn một mắt còn lại, như đi giữa rừng
hoang vắng giữ gìn người
dẫn đường. Do
gìn giữ tâm
Bồ Đề mà được
vô thượng Bổ Đề, do được
vô thượng Bồ Đề nên có đủ thường, lạc, ngã và tịnh, chính là
Đại Niết Bàn do đây nên
Bồ Tát gìn giữ một tâm
Bồ Đề nầy.
Bồ Tát gần gũi bốn việc, chính là gần
bốn tâm vô lượng :
Đại từ,
đại bi,
đại hỉ,
đại xả : Do bốn tâm nầy có thể làm cho
vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ Đề, nên
Bồ Tát luôn gần gũi.
Bồ Tát tin thuận nhứt thật, chính là rõ biết tất cả
chúng sanh đều về nơi đạo
duy nhứt, đạo
duy nhứt nầy là
Đại Thừa : Nơi
Đại Thừa nầy, chư Phật và
Bồ Tát chia ra làm
ba thừa để
dụ dẫn chúng sanh.
Bồ Tát tâm thiện
giải thoát chính là đã dứt hẳn tham, sân, si.
Bồ Tát huệ thiện
giải thoát, chính là
Đại Bồ Tát rõ biết tất cả
pháp không chướng ngại. Do
huệ giải thoát nên những pháp từ xưa chưa nghe mà nay được nghe, từ xưa chưa thấy mà nay được thấy, từ xưa chưa đến mà nay được đến.
Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Như lời Phật nói : “ Tâm giải thoát”, xét ra không đúng nghĩa. Vì tâm vốn không
hệ phược. Bổn tánh của
tâm không bị tham, sân, si,
hệ phược. Đã là vốn không
hệ phược, sao lại nói là
giải thoát ?
Thế Tôn ! Nếu bổn tánh của tâm chẳng bị tham kiết
hệ phược, do
nhơn duyên gì mà có thể
hệ phược được tâm ?
Ví như vắt sừng, vì vốn không sữa nên dầu tốn nhiều
công lực vẫn không do đâu có sữa chảy ra. Nếu vắt vú bò,
tốn công ít mà được nhiều sữa. Cũng vậy, tâm vốn không tham, sao nay lại có. Nếu trước vốn không mà sau mới có, thời chư Phật và
Bồ Tát vốn không tham, nay
đáng lẽ đều có.
Thế Tôn ! Như
thạch nữ vốn không con, dầu tốn nhiều
công lực, nhiều
nhơn duyên vẫn không thể có con. Cũng vậy, tâm vốn không tham, dầu gây tạo nhiều duyên, cũng không do đâu sanh được tham.
Thế Tôn ! Như dùi cây ướt không thể được lửa. Cũng vậy, dầu dùi tìm nơi tâm vẫn không thể có tham. Tại sao tham kiết
hệ phược được tâm .
Thế Tôn !
Ví như ép cát không thể có dầu. Cũng vậy, dầu ép nơi tâm vẫn không có tham. Phải biết rằng tham cùng tâm, lý nghĩa của hai thứ riêng khác nhau. Thiết sử có tham, đâu
nhiễm ô được tâm.
Thế Tôn !
Ví như đem nọc cắm giữa
hư không trọn không thể đứng cứng được. Cũng vậy, đem tham cắm vào tâm, trọn không thể
hệ phược được tâm, dầu dùng nhiều
nhơn duyên.
Thế Tôn ! Nếu tâm vốn không tham mà lại gọi là
giải thoát, thời chư Phật và
Bồ Tát sao chẳng nhổ gai trong
hư không ?
Thế Tôn ! Tâm
quá khứ không gọi là
giải thoát. Tâm
vị lai cũng
không giải thoát ; tâm
hiện tại chẳng
cùng chung với đạo ; thế thời tâm nào gọi là
được giải thoát ?
Thế Tôn ! Như
ngọn đèn quá khứ không
thể diệt tối ;
ngọn đèn vị lai cũng không
thể diệt tối ;
ngọn đèn hiện tại lại không
thể diệt tối ; vì sáng cùng tối, hai thứ ấy không
đồng thời có. Tâm cũng như vậy, sao lại nói rằng tâm
được giải thoát ?
Thế Tôn ! Tham cũng là có. Nếu tham là không, thời lúc thấy người nữ lẽ ra chẳng sanh tham. Nếu do người nữ mà sanh tham, thời tham là có thật. Vì có tham nên đọa
ba đường ác.
Thế Tôn ! Như có kẻ thấy tượng vẽ người nữ cũng sanh tham, vì sanh tham nên thành có nhiều
tội lỗi. Nếu vốn không tham, tại sao thấy tướng vẽ lại sanh tham ? Nếu
tâm không tham, tại sao
Như Lai nói
Bồ Tát tâm
được giải thoát ? Nếu tâm có tham, sao lại phải chờ thấy người nữ rồi sau mới sanh. Người không thấy thời không sanh ?
Hiện tại tôi thấy có
quả báo ác do tham gây ra, nên biết tham là có sân và si cũng như vậy.
Thế Tôn ! Như
chúng sanh có thân không ngã, mà
phàm phu chấp có ngã ; dầu
chấp có ngã nhưng không vì thế mà đọa ba
ác đạo. Tại sao người tham đối với
không tướng nữ sanh tưởng là nữ mà phải đọa ba
ác đạo ?
Thế Tôn !
Ví như dùi cây sanh lửa, nhưng tánh lửa nầy trong các duyên đều không có, cớ gì mà được sanh ra lửa ?
Thế Tôn ! Cũng vậy , trong
sắc không có tham, trong thinh, hương, vị, xúc, pháp cũng đều không có tham, tại sao nơi sắc v.v… lại sanh ra tham ? Nếu trong các duyên đều không có tham, tại sao riêng
chúng sanh có tham, mà chư Phật và
Bồ Tát không sanh tham ?
Thế Tôn ! Tâm cũng là
bất định. Nếu tâm là nhứt định thời không có
tham sân si. Nếu tâm đã là
bất định, sao lại nói rằng tâm
được giải thoát ? Tham cũng là
bất định, nếu đã là
bất định, tại sao lại nhơn nơi tham mà sanh ra ba
ác đạo ? Kẻ tham cùng
cảnh giới, cả hai đều
bất định. Vì đồng chung duyên một cảnh sắc, hoặc sanh tham, hoặc sanh sân, hoặc sanh si. Nếu cả hai đều
bất định, tại sao
đức Như Lai nói rằng
Bồ Tát tu
Đại Niết Bàn thời tâm
được giải thoát ?
Phật bảo Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát :
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện nam tử ! Tâm cũng chẳng bị tham kiết
hệ phược, cũng chẳng phải chẳng bị
hệ phược ; chẳng phải
giải thoát, cũng chẳng phải
giải thoát ; chẳng phải có ; chẳng phải không ; chẳng phải
hiện tại, chẳng phải
quá khứ chẳng phải
vị lai.
Vì tất cả pháp đều không
tự tánh.
Nầy
Thiện nam tử ! Có các nhà
ngoại đạo cho rằng :
Nhơn duyên hòa hiệp thời có quả sanh ra.
Nếu trong các duyên vốn
không tánh sanh mà có thể sanh ra, thời
hư không vốn chẳng sanh lẽ ra cũng sanh được quả. Nhưng
hư không vẫn chẳng sanh vì chẳng phải là nhơn.
Do vì trong các duyên vốn cá tánh của quả, nên hòa hiệp thời sanh được quả.
Như người đời khi muốn xây vách thời dùng bùn đất khô dùng cọ màu, lúc muốn
vẽ vời thời dùng cọ màu mà chẳng dùng cỏ cây, may áo thời dùng kim chỉ mà chẳng dùng cây bùn, cất nhà thời dùng bùn cây mà chẳng dùng kim chỉ. Người dùng đến vật đó là vì nó có thể sanh ra quả, vì sanh được quả nên biết trong các nhơn tất đã có tánh. Nếu là
không tánh, thời trong một vật lẽ ra phải xuất sanh tất cả vật.
Nếu là đáng lấy, đáng làm, đáng đem ra, nên biết rằng trong đó tất cả trước có tánh của quả. Nếu là không có tánh của quả thời người chẳng lấy, chẳng làm, chẳng đem ra. Chỉ có
hư không là chẳng lấy, chẳng làm nên có thể xuất sanh tất cả muôn vật, do vì có nhơn.
Như hột
ni câu đà mọc lên cây
ni câu đà ; trong sửa có tánh chất
đề hồ ; trong sợi chỉ có tánh của vải ; trong đất sét có tánh của cái bình.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
phàm phu bị
vô minh làm
mù lòa nên bày ra định thuyết : Sắc có nghĩa
tham luyến, tâm có tánh tham. Họ lại cho rằng : Tâm
phàm phu có tánh tham, cũng có tánh
giải thoát gặp duyên tham thời tâm sanh tham, nếu gặp được duyên
giải thoát thời
tâm giải thoát.
Những thuyết nầy đều không đúng nghĩa.
Có hạng
phàm phu lại cho rằng : Trong tất cả nhơn đều không có quả; nhơn có hai thứ :
Vi tế và thô đại ; tế thời là thường, thô thời
vô thường. Từ nhơn
vi tế chuyển thành nhơn thô, từ nhơn thô nầy lại chuyển
thành quả. Vì nhơn thô
vô thường nên quả cũng
vô thường.
Có hạng
phàm phu lại cho rằng :
Tâm không có nhơn, tham cũngkhông có nhơn, do
thời tiết thời sanh tâm tham.
Vì không biết được tâm
nhơn duyên, nên những hạng nầy
luân hồi trong
sáu đường, chịu đủ mọi sự
sanh tử.
Ví như con chó bị xiềng, trọn ngày đi quanh cột không thể thoát lìa. Cũng vậy, tất cả
phàm phu bị xiềng
vô minh cột vào cột
sanh tử, cứ vòng quanh mãi ở hai mươi lăm cõi không
thoát ly được.
Ví như có kẻ sa vào hầm xí, đã được ra khỏi rồi lại té vào hầm. Như người bịnh được lành
trở lại làm nhơn cho bịnh. Như người đi đường xa gặp chỗ
hoang vắng, đã đi qua được rồi
trở lại nữa. Như đã tắm rửa sạch sẽ
trở lại lấy bùn đất trét vào. Cũng vậy, tất cả
phàm phu đã được
thoát khỏi cõi
Vô Sở Hữu, chỉ chưa
thoát khỏi cõi Phi
Phi Tưởng,
trở lại sa vào đến ba
ác đạo. Vì tất cả
phàm phu chỉ biết
quán sát nơi quả, mà chẳng
suy gẫm nhơn duyên.
Như con chó đuổi theo cục đất chẳng
chạy theo người. Cũng vậy, hạng
phàm phu chỉ nhìn nơi quả mà chẳng nhìn nơi
nhơn duyên. Do chẳng thấy biết
nhơn duyên nên từ cõi Phi
Phi Tưởng sa đến ba
ác đạo.
Nầy
Thiện nam tử ! Chư Phật và
Bồ Tát trọn không bảo nhứt định rằng : Trong nhơn có quả, trong nhơn
không quả, trong nhơn cũng có cũng
không quả, trong nhơn chẳng phải có chẳng phải
không quả.
Nếu kẻ nào cho rằng trong nhơn
quyết định có quả,
không quả, cũng có cũng
không quả, chẳng phải có chỗ phải
không quả, nên biết rằng đây là bè lũ của ma, là thuộc về loài ma là người
tham ái, chẳng thể dứt hẳn sự
hệ phược của
sanh tử, người nầy chẳng rõ biết
tâm tướng và tham tướng.
Nầy
Thiện nam tử ! Chư Phật và
Bồ Tát hiển bày lý
trung đạo : Dầu nói các pháp là chẳng phải có, chẳng phải không, nhưng chẳng
quyết định. Vì nhơn nơi nhãn, sắc, minh, tâm và niệm mà có thức sanh ra. Thức nầy
quyết định chẳng ở trong nhãn, chẳng ở trong sắc, chẳng ở trong minh, chẳng ở trong tâm, chẳng ở trong niệm, cũng chẳng ở chặn giữa, chẳng phải có chẳng phải không.
Vì từ các
duyên sanh ra nên gọi là có. Vì không
tự tánh nên gọi là không. Do đây nên
Như Lai nói các pháp là chẳng phải có chẳng phải không.
Nầy
Thiện nam tử ! Chư Phật và
Bồ Tát trọn không
quyết định nói tâm có tánh
thanh tịnh và tánh chẳng
thanh tịnh, tánh tịnh cùng
bất tịnh, vì tâm vốn
vô trụ.
Do từ nơi
duyên sanh ra nên nói là chẳng phải không, lại vì vốn không có tánh tham nên nói là chẳng phải có.
Nầy
Thiện nam tử ! Do từ nơi
nhơn duyên mà tâm sanh ra tham, do từ nơi
nhơn duyên mà tâm
được giải thoát.
Nhơn duyên có hai thứ : Một là theo
sanh tử, hai là theo
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Vì có
nhơn duyên mà tâm cùng với
tham sanh ra, chung với tham cùng diệt, có
nhơn duyên tâm cùng với
tham sanh mà chẳng chung với tham cùng diệt. Có
nhơn duyên tâm chẳng cùng với
tham sanh mà chung với tham cùng diệt. Có
nhơn duyên tâm chẳng cùng với
tham sanh cũng chẳng cùng với tham diệt.
Nầy
Thiện nam tử ! Có hạng
phàm phu chưa dứt tâm tham,
huân tập tâm tham, những kẻ nầy, tâm của họ chung với tham cùng sanh cùng diệt.
Như
chúng sanh cõi dục, tất cả đều có khí vị
sơ thiền, hoặc tu hay chẳng tu, gặp
nhơn duyên thời bèn được ; nơi đây nói
nhơn duyên chính là cho
hỏa tai. Cũng vậy, tất cả
phàm phu hoặc
huân tập hay không
huân tập, tâm của họ chung với tham cùng sanh, chung với tham cùng diệt, vì họ chẳng dứt tham vậy.
Hàng
Thanh Văn vì có
nhơn duyên nên sanh tâm tham, vì sợ tâm tham nên
tu tập quán
bạch cốt, đây gọi là tâm cùng
tham sanh mà chẳng cùng tham diệt. Lại hàng
Thanh Văn chưa
chứng quả A La Hán vì có
nhơn duyên nên sanh tâm tham, lúc đã chứng
A La Hán thời tham liền diệt, đây cũng gọi là tâm cùng
tham sanh mà chẳng chung với tham cùng diệt.
Đại Bồ Tát lúc chứng bực
Bất Động cũng như vậy.
Thế nào là tâm chẳng cùng
tham sanh mà chung với tham cùng diệt ?
Đại Bồ Tát đã dứt tâm tham, vì độ
chúng sanh mà
thị hiện có tham, vì
thị hiện nên có thể làm cho
vô lượng chúng sanh học tập
thành tựu pháp lành. Đây gọi là tâm chẳng cùng
tham sanh mà với tham cùng diệt.
A LA Hán,
Duyên Giác, Chư Phật, Chư
Bồ Tát trừ
Bất Động Địa, gọi là tâm chẳng chung với tham cùng sanh cùng diệt.
Do những nghĩa trên đây, nên chư Phật và
Bồ Tát chẳng
quyết định nói
tâm tánh vốn
thanh tịnh,
tâm tánh vốn không
thanh tịnh.
Nầy
Thiện nam tử ! Tâm nầy chẳng cùng với tham hòa hiệp, cũng chẳng cùng với sân, si hòa hiệp.
Như
mặt trời,
mặt trăng, dầu bị khói bụi mây mù và
La Hầu A Tu La che chướng, làm cho
chúng sanh không thấy, nhưng tánh
mặt trời mặt trăng trọn chẳng cùng hòa hiệp với năm thứ ấy.
Cũng vậy, dầu do
nhơn duyên mà tâm sanh tham, nhưng thật ra
tâm tánh chẳng cùng tham hòa hiệp.
Nếu là tâm tham thời chính là tánh tham. Nếu là tâm chẳng tham thời chính là tánh chẳng tham. Tâm chẳng tham không thể làm tham. Tâm tham không thể chẳng tham.
Do nghĩa trên đây nên
kiết sử tham dục không thể làm
nhiễm ô được tâm.
Chư Phật và
Bồ Tát đã phá hẳn tham kiết, nên gọi là tâm
được giải thoát.
Tất cả
chúng sanh vì do
nhơn duyên mà sanh tham kiết, vì do
nhơn duyên mà
được giải thoát.
Nầy
Thiện nam tử ! Như núi Tuyết, chỗ cao vót. Người cùng khỉ vượn đều không đi được, hoặc có chỗ vượn đi được mà người không đi được, hoặc có chỗ vượn cùng người đều đi được.
Chỗ mà người cùng vượn đều đi được đó, như thợ săn dùng keo nhựa bày trên bàn để bắt vượn. Vì
ngu si, vượn đến lấy bàn tay rờ bóc, tay dính vào nhựa. Muốn gỡ tay, vượn dùng chơn đạp, lại dính luôn chơn. Muốn gỡ chơn, vượn dùng miệng cạp, lại dính cả miệng. Hai tay, hai chưn cùng miệng của vượn đều
dính khắn vào nhựa không thể thoát được. Bấy giờ thợ lấy gậy xỏ vượn mang về nhà.
Chỗ cao vót của núi Tuyết dùng dụ cho
chánh đạo của Phật và
Bồ Tát chứng. Khỉ vượn dụ cho
phàm phu. Thợ săn dụ cho
ma Ba Tuần. Keo nhựa dụ cho
tham dục.
Người cùng khỉ vượn đều không thể đi là dụ cho
phàm phu và
Ma Vương Ba Tuần đều không thể đi đến.
Khỉ vượn đi được mà người thời không, dụ hàng
ngoại đạo, có
trí huệ, các
ác ma dù có dùng
ngũ dục cũng không
hệ phược được họ.
Người cùng khỉ vượn đều đi được là dụ cho tất cả
phàm phu cùng
ma Ba Tuần luôn ở trong
sanh tử không thể
tu hành. Hàng
phàm phu bị
ngũ dục hệ phược nên
ma Ba Tuần tha hồ mang đi. Như thợ săn kia bắt khỉ vượn mang về nhà.
Nầy
Thiện nam tử ! Như
Quốc Vương ở trong nước mình thời
thân tâm an lạc, nếu qua đến nươc khác thời tất phải gặp nhiều sự
khổ não. Cũng vậy, tất cả
chúng sanh nếu có thể tự trụ nơi
cảnh giới của mình thời được
an lạc, nếu đến
cảnh giới khác tất gặp
ác ma bị những
khổ não.
Tự
cảnh giới là chỉ
tứ niệm xứ.
Cảnh giới khác là nói
ngũ dục.
Thế nào gọi là hệ thuộc nơi ma ? Có những
chúng sanh nơi
vô thường thấy là thường, nơi thường lại thấy là
vô thường ; nơi khổ thấy là lạc, nơi lạc lại thấy là khổ ; nơi
bất tịnh thấy là tịnh , nơi tịnh lại thấy là
bất tịnh ; nơi
vô ngã thấy là ngã, nơi ngã lại thấy là
vô ngã . Nơi chẳng phải
giải thoát thấy là
giải thoát nơi thiệt
giải thoát lại thấy là chẳng
giải thoát. Nơi chẳng phải thừa thấy là thừa, nơi thừa lại thấy là chẳng phải thừa. Những hạng nầy gọi là kẻ hệ thuộc nơi ma. Phàm kẻ hệ thuộc nơi ma thời tâm họ không
thanh tịnh.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu thấy các
pháp thiệt có tướng nhứt định là tổng là biệt, nên biết rằng người nầy lúc thấy sắc liền
chấp tướng sắc, nhẫn đến lúc thấy thức cũng
chấp tướng thức. Lúc thấy
nam nữ, nhựt , nguyệt, ấm, nhập, giới v.v…liền
chấp tướng nam, tướng nữ nhẫn đến tướng nhập, tướng giới. Kẻ có
kiến chấp nầy gọi là hệ thuộc nơi ma. Kẻ hệ thuộc nơi ma thời tâm họ không
thanh tịnh.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu thấy ngã là sắc, trong sắc có ngã, trong ngã có sắc, sắc thuộc nơi ngã ; nhẫn đến thấy ngã là thức, trong thức có ngã, trong ngã có thức, thức thuộc nơi ngã.
Kiến chấp nầy hệ thuộc nơi ma, người nầy không phải
đệ tử Phật.
Nầy
Thiện nam tử ! Hàng
Thanh Văn đệ tử của ta
xa lìa mười hai bộ kinh của
Như Lai, mà
tu tập theo sách vở của những
ngoại đạo, chẳng tu
công hạnh tịch diệt xuất gia, thuần kinh doanh sự vụ
tại gia thế tục. Những gì là sự vụ
tại gia thế tục ? Nhận chứa tất cả vật
bất tịnh, tôi tớ, ruộng, nhà, voi, ngựa, xe cộ, đà, lừa, gà, chó, khỉ, vượn , heo, dê, các thứ lúa bắp ;
xa lìa sư trưởng,
chúng Tăng, gần gũi
cư sĩ bạch y, trái phản
Thánh giáo. Bảo hàng
bạch y rằng :
Đức Phật cho phép Tỳ Kheo nhận chứa những vật
bất tịnh. Đây gọi là sự vụ
tại gia.
Có các
đệ tử chẳng vì
Niết Bàn, chỉ vì
lợi dưỡng mà nghe thọ
mười hai bộ kinh, ăn dùng của
thường trụ như
của riêng mình,
tham tiếc nhà người cùng
danh tiếng, gần gũi
Quốc Vương và các Vương Tử, bói xủ
lành dữ,
suy tính đầy vơi, bài bạc,
thân thiện Tỳ Kheo Ni cùng các xử nữ, chứa hai hạng
sa di, thường đến nhà hàng thịt, thợ săn, quán rượu, và chổ ở của
Chiên Đà La, buôn bán
các loại, tự tay làm đồ ăn, nhận đi xứ lân quốc, lãnh lịnh đi thơ. Nên biết rằng người như trên đây là
quyến thuộc của ma, không phải
đệ tử Pohật. Do
nhơn duyên nầy mà tâm cùng tham chung sanh, chung diệt. Sân và si cũng như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Do đây nên
tâm tánh chẳng phải tịnh, cũng chẳng phải
bất tịnh. Vì thế nên ta nói rằng tâm
được giải thoát.
Nếu có người không nhận, không chứa tất cả vật
bất tịnh, vì
Đại Niết Bàn mà
thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, biên chép
giải thuyết. Nên biết rằng người nầy thật là
đệ tử Phật. Người nầy không đi nơi
cảnh giới của
ác ma Ba Tuần. Người nầy chính là
tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Vì
tu tập nên chẳng cùng tham mà sanh, cũng chẳng cùng với tham mà diệt.
Đây gọi là
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ tám.
Thế nào là
thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ chín ?
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn, đầu tiên phát năm điều thời được
thành tựu phần
công đức nầy : Một là
tín tâm ; hai là
trực tâm ; ba là giới ; bốn là gần gũi bạn lành, năm là
học rộng nghe nhiều.
Thế nào là
tín tâm ?
Bồ tát tin nơi
TAM BẢO,
bố thí cúng dường thời có
quả báo. Tin nơi hai đế lý, đạo
nhứt thừa không có nẻo nào khác, vì muốn
chúng sanh mau
được giải thoát mà chư Phật và
Bồ tát phân biệt làm
ba thừa. Tin đế lý
đệ nhứt nghĩa. Tin thiện
phương tiện : Đây gọi là tin.
Người có
lòng tin như trên đây, không ai
phá hoại được. Do
đức tin nầy mà được tánh thánh nhơn. Người nầy
tu hành bố thí không luận ít nhiều đều được gần nơi
Đại Niết Bàn, chẳng đọa nơi
sanh tử. Như
bố thí,
trì giới ,
đa văn và
trí huệ cũng vậy. Dầu có
tín tâm nầy nhưng cũng chẳng chấp. Đây là
Bồ Tát tu
Đại Niết Bàn thành tựu điều
ban đầu.
Thế nào là
trực tâm ?
Đại Bồ Tát đối với
chúng sanh, có lòng
chất trực.
Tất cả
chúng sanh , nếu gặp
nhơn duyên thời móng lòng dua vạy.
Bồ Tát thời không như vậy, vì
hiểu rõ các pháp đều là
nhơn duyên.
Bồ Tát dầu thấy
chúng sanh có những
lỗi lầm, mà trọn không nói đến, vì sợ sanh
phiền não, nếu sanh
phiền não thời phải đọa
ác thú.
Bồ Tát nầy nếu thấy
chúng sanh có chút ít điều lành liền
tán thán đó. Gì là lành ? Chính là
Phật tánh. Do
Bồ Tát tán thán Phật tánh nên
chúng sanh phát tâm Bồ Đề.
Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Như
đức Phật vừa nói :
Bồ Tát tán thán Phật tánh làm cho
chúng sanh phát tâm Bồ Đề. Lời đây không đúng nghĩa. Vì
đức Như Lai lúc mới
khai kinh Niết Bàn nói có ba hạng : Một là nếu có người bịnh gặp được thầy giỏi thuốc hay, người khán bịnh khéo thời được
lành mạnh,
nếu không đuợc như trên thời bịnh không lành ; hai là được gặp hay không được gặp đều không được lành ; ba là được gặp hay không được gặp bịnh đều lành.
Tất cả
chúng sanh cũng có ba hạng như vậy : Một là hạng gặp bạn lành, gặp Phật,
Bồ Tát, nghe nói
diệu pháp thời được
phát tâm Bồ Đề,
nếu không gặp thời không phát, đây là chỉ cho các bực
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na hàm,
A La Hán và
Bích Chi Phật.
Hai là hạng dầu được gặp bạn lành, gặp Phật,
Bồ Tát, được nghe
diệu pháp cũng chẳng
phát tâm Bồ Đề, đây là nói hạng Nhứt
Xiển Đề.
Ba là hạng hoặc gặp hay chẳng gặp, tất cả đều có thể
phát tâm Bồ Đề, đây là nói
Bồ Tát.
Nếu đã nói rằng gặp cùng chẳng gặp tất cả đều
phát tâm vô thượng Bồ Đề, giờ đây tại sao
đức Như Lai lại nói : Do
tán thán Phật tánh làm cho
chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ Đề ?
Thế Tôn ! Nếu nói rằng gặp cùng chẳng gặp đều không thể
phát tâm Bồ Đề cả, lời nầy cũng không đúng nghĩa, vì hạng nầy sẽ được
vô thượng Bồ Đề. Hạng Nhứt
Xiển Đề do vì có
Phật tánh, nên hoặc được gặp hay không được gặp, cũng đều sẽ được
vô thượng Bổ Đề.
Thế Tôn ! Như
đức Phật định nghĩa Nhứt
Xiển Đề là dứt
thiện căn, cũng không đúng. Vì hạng nầy không dứt
Phật tánh. Cứ lý thời
Phật tánh không thể dứt, sao
đức Phật nói là dứt
thiện căn ?
Như trong
mười hai bộ kinh của Phật nói ngày trước, có hai thứ
thiện căn : Thường và
vô thường.
Thiện căn thường thời không dứt, còn
vô thường thời dứt.
Thiện căn vô thường có thể dứt nên đọa
địa ngục. Còn thường chẳng thể dứt, cớ sao
đức Phật chẳng có lời ngăn ?
Chẳng dứt
Phật tánh chẳng phải nhứt
xiển đề, cớ sao
đức Phật lại nói là nhứt
xiển đề ?
Thế Tôn ! Nếu nhơn
Phật tánh mà
phát tâm vô thượng Bồ Đề, cớ sao
Như Lai lại vì
chúng sanh nói rộng
mười hai bộ kinh ?
Thế Tôn ! Như
bốn con sông lớn từ ao
A Na Bà Đạp Đa chảy ra, nếu có trời, người, cùng chư Phật cũng không thể bảo rằng nước sông lớn nầy không chảy vào biển cả sẽ
trở lại nguồn.
Cũng vậy, người có
Phật tánh, không luận
nghe pháp hay không nghe, có giới hay
không giới, có
bố thí hay không
bố thí, có tu hay không tu, có trí hay không trí, tất cả lẽ ra đều được
vô thượng Bồ Đề.
Thế Tôn ! Như từ núi
A Đà Diên,
mặt trời mọc lên đến hướng chánh nam, không bao giờ
mặt trời có thể nghĩ rằng ta không đến
hướng Tây, ta
trở lại phương Đông. Cũng vậy, đã có
Phật tánh không có lẽ chẳng được
vô thượng Bồ Đề mặc dầu không
nghe pháp, không
trì giới, không
bố thí, không tu, không
trí huệ.
Thế Tôn !
Như Lai nói tánh nhơn quả là chẳng phải có chẳng phải không. Nghĩa nầy cũng chẳng đúng.
Vì như trong sữa không có tánh của chất lạc, thời tất không có lạc. Như hột
ni câu đà không có tánh cây năm trượng cao, thời tất không mọc lên cây cao năm trượng. Nếu trong
Phật tánh không có cội
vô thượng Bồ Đế, sao lại có thể sanh cội
Bồ Đề vô thượng. Cứ như nghĩa nầy, thời làm sao hiệp với nghĩa nhơn quả chẳng phải có chẳng phải không của Phật đã nói ?
Đức Thế Tôn tán thán rằng : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện nam tử !
Trong đời có hai hạng người rất là
hi hữu như
hoa Ưu Đàm : Một là người không
phạm tội ác ; hai là người có tội biết hối cải.
Lại có hai hạng người rất
hi hữu : Một là làm ơn ; hai là nhớ ơn.
Lại có hai hạng người rất
hi hữu : Một là
học hỏi điều mới ; hai là ôn nhuần điều học cũ không quên.
Lại có hai hạng người rất
hi hữu : Một là tạo ra mới, hai là tu sửa chỗ cũ.
Lại có hai hạng người rất
hi hữu : Một là thích
nghe pháp ; hai là thích
thuyết pháp.
Lại có hai hạng người rất
hi hữu : Một là khéo gạn hỏi ; hai là khéo
giải đáp.
Người khéo gạn hỏi chính là ông vậy. Người khéo
giải đáp chính là
Như Lai vậy.
Nầy
Thiện nam tử !
Do nơi khéo gạn hỏi bèn chuyển được
pháp luân vô thượng, có thể làm khô cây do mười hai
nhơn duyên, có thể qua khỏi sông lớn
sanh tử vô biên, có thể chiến đấu với
ma vương Ba Tuần, có thể
xô ngã thắng tràng của
Ba Tuần dựng.
Nầy
Thiện nam tử ! Như trước kia Phật nói ba hạng bịnh nhơn, hạng gặp thầy giỏi, thuốc hay, khán bịnh khéo, cùng không gặp đều được
lành mạnh, đó là vì
thọ mạng quyết định, do vì người nầy trong
vô lượng đời đã tu ba thứ
thiện căn : Thượng, Trung và Hạ, nên được
thọ mạng quyết định. Như người Uất Đơn Việt tuổi thọ ngàn năm, nếu mắc phải bịnh , dầu gặp thầy gặp thuốc được
săn sóc kỹ, cùng không gặp đều sẽ được
lành mạnh cả, vì họ đã được tuổi
thọ quyết định.
Hạng bịnh nhơn nếu gặp thầy giỏi thuốc hay, khán bịnh khéo thời được lành, bằng không gặp thời chẳng lành, đây là những người
thọ mạng không
quyết định. Hạng người nầy dầu
thọ mạng chưa hết, song có chín
nhơn duyên có thể làm họ
chết yểu : Một là biết ăn sẽ không an mà cứ ăn, hai là
ăn quá nhiều ;l ba là ăn chưa tiêu mà lại ăn nữa ; bốn là đại tiều không điều hòa ; năm là lúc bịnh không nghe theo lời
chỉ dẫn của y sĩ ; sáu là chẳng
nghe lời dặn bảo của người khán bịnh ; bảy là cố nín nhẫn không chịu ói ; tám là đi đêm, vì đi đêm sẽ bị
ác quỷ, ác trùng làm hại ; chín là phòng thất
quá độ. Do đây nên Phật nói hạng bịnh nhơn nầy gặp thầy gặp thuốc thời lành,
nếu không gặp thời không lành.
Hạng bịnh nhơn gặp thầy gặp thuốc hay không gặp đều không được
lành mạnh, đây là những người tuổi thọ đã hết.
Chúng sanh cũng như vậy. Người
phát tâm Bồ Đề, nếu gặp bạn lành, chư Phật,
Bồ Tát, được
học hỏi pháp cao sâu, hoặc không được gặp được học, tất cả đều sẽ được thành, vì người nầy đã có thể
phát tâm vô thượng Bồ Đề. Như người Uất Đơn Việt có
thọ mạng quyết định.
Hàng
nhị thừa từ
Tu Đà Hoàn đến
Bích Chi Phật, nếu được nghe
thiện hữu, Chư Phật,
Bồ Tát giảng nói pháp
Đại Thừa thời có thể
phát tâm Bồ Đề,
nếu không gặp không nghe thời không thể
phát tâm Bồ Đề vô thượng. Như người
thọ mạng không
quyết định, do chín duyên làm cho họ phải yểu thọ, nếu gặp Thầy gặp thuốc thời lành, không gặp thời bịnh không lành.
Hạng nhứt
xiển đề, dầu có gặp
thiện hữu, chư Phật,
Bồ Tát, có
nghe pháp cao sâu, hay không nghe không gặp, đều không thể lìa tâm nhứt
xiển đề, vì họ đã dứt
thiện căn. Hạng nhứt
xiển đề cũng được thành
vô thượng Bồ Đề, vì
nếu có thể phát tâm Bồ Đề vô thượng thời chẳng còn gọi là nhứt
xiển đề.
Nầy
Thiện nam tử ! tại sao nói hạng nhứt
xiển đề được
vô thượng Bồ Đềà ?
Hạng nhứt
xiển đề, thật ra không thể được
vô thượng Bồ Đề, như người tuổi thọ đã hết, dầu gặp thầy gặp thuốc, cũng không lành bịnh được.
Nầy
Thiện nam tử ! “ Nhứt Xiển” gọi “Tín”, “Đề” là bất cụ, bất cụ tín gọi là nhứt
xiển đề.
Phật tánh chẳng phải là tín ;
chúng sanh chẳng phải là cụ ; bởi bất cụ nên thế nào dứt được.
“Nhứt Xiển” gọi là thiện
phương tiện ; “Đề” là bất cụ, vì
tu thiện phương tiện chẳng đầy đủ nên gọi là nhứt
xiển đề.
Phật tánh chẳng phải là
tu thiện phương tiện ;
chúng sanh chẳng phải là cụ ;l bởi bất cụ nên thế nào dứt được.
“Nhứt xiển” gọi là tiến : “Đề” là bất cụ ; vì
tinh tiến chẳng đầy đủ nên gọi là nhứt
xiển đề.
Phật tánh chẳng phải là tiến ;
chúng sanh chẳng phải là cụ ; vì bất cụ nên thế nào dứt được.
“Nhứt Xiển”gọi là niệm ; :”Đề” là bất cụ ; vì niệm chẳng đầy đủ nên gọi là nhứt
xiển đề.
Phật tánh chẳng phải là niệm,
chúng sanh chẳng phải là cụ ; vì bất cụ nên thế nào dứt được.
“Nhứt Xiển” gọi là định, “Đề” là bất cụ ; vì định chẳng đầy đủ nên gọi là nhứt
xiển đề.
Phật tánh chẳng phải là định ;
chúng sanh chẳng phải là cụ ; vì bất cụ nên thế nào dứt được.
“Nhứt Xiển” gọi là huệ ; “Đề” là bất cụ ; vì huệ chẳng đầy đủ nên gọi là nhứt
xiển đề.
Phật tánh chẳng phải là huệ ;
chúng sanh chẳng phải là cụ ; vì bất cụ nên thế nào dứt được.
“Nhứt Xiển” gọi là
vô thường thiện ; “‘Đề” là bất cụ ; vì
vô thường thiện chẳng đủ nên gọi là nhứt
xiển đề.
Phật tánh là thường, chẳng phải thiện, chẳng phải
bất thiện. Vì
thiện pháp là từ
phương tiện mà được, mà
Phật tánh chẳng phải từ
phương tiện được, nên gọi là chẳng phải thiện.
Do
Phật tánh có thể được
thiện quả vô thượng Bồ Đề, nên nói là chẳng phải
bất thiện.
Lại vì
thiện pháp sanh rồi mà được, còn
Phật tánh không phải sanh rồi mà được nên nói là chẳng phải thiện.
Bởi dứt cả
thiện pháp sanh và được, nên gọi là nhứt
xiển đề.
Nầy
Thiện nam tử ! Như ông gạn hỏi nếu nhứt
xiển đề có
Phật tánh, tại sao không ngăn tội
địa ngục ?
Nầy
Thiện nam tử ! Trong nhứt
xiển đề không có
Phật tánh.
Ví như nhà vua nghe tiến đờn véo von thánh thót, quá
thích thú say sưa, bèn bảo đại thần : Tiếng quá hay như thế từ đâu mà có ?
Đại thần tâu là từ cây đờn phát ra tiếng ấy.
Nhà vua truyền đem đờn đến
trước mặt, rồi bảo cây đờn kêu đi ! Kêu đi ! Cây đờn vẫn không kêu. Nhà vua bèn bứt dây, rọc da, chẻ cây, tìm mãi vẫn không có tiếng. Nhà vua
nổi giận trách đại thần là tâu dối.
Đại thần phân trần : Nếu muốn cho đờn kêu ra tiếng thời phải khéo khảy đánh, chớ không phải làm cách như vậy.
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy, vốn không chỗ trụ. Dùng
phương tiện khéo thời thấy được. Vì được thấy nên được
vô thượng Bồ Đề.
Hạng nhứt
xiển đề không thấy
Phật tánh, làm thế nào ngăn được tội ba
ác đạo !
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu nhứt
xiển đề tin có
Phật tánh, nên biết rằng người nầy không bị sa vào ba
ác đạo, cũng chẳng còn gọi là nhứt
xiển đề.
Nầy
Thiện nam tử ! Như lời ông gạn, nếu trong sữa không có tánh của chất lạc thời lẽ ra chẳng có lạc ; nếu trong hột
Ni Câu Đà không có tánh cao năm trượng thời lẽ ra không mọc lên cây cao năm trượng ?
Kẻ
ngu si mới nói như thế, người trí không bao giờ nói như thế, vì là không có tánh vậy.
Nầy
thiện nam tử ! Nếu trong sữa có tánh của chất lạc lẽ ra chẳng cần nhờ
công lực các duyên. Như nước và sữa trộn lộn, rồi nằm chờ đến mãn tháng trọn không thành lạc. Nếu dùng một giọt sữa rồi tìm nước cây nhễu vào bèn thành lạc. Nếu vốn đã có lạc sao lại phải nhờ duyên.
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy, nhờ các duyên thời được thấy, nhờ các
nhơn duyên thành
vô thượng Bồ Đề. Nếu phải chờ các
nhơn duyên rồi sau mới
thành thời chính là
vô tánh vậy. Do
vô tánh nên có thể thành
vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện nam tử ! Do cớ trên đây nên
Đại Bồ Tát thường
tán thán điều lành của người, chẳng rao nói lỗi xấu của kẻ khác, đây gọi là
chất trực tâm.
Lại thế nào là
Bồ Tát có tâm
chất trực ?
Bồ Tát thường không phạm lỗi ác. Thiết sử có lầm
lỗi thời liền
sám hối với thầy, với bạn
đồng học, trọn chẳng che giấu. Tự
hổ thẹn, tự trách, chẳng dám
tái phạm. Nơi tội khinh xem dường rất nặng. Nếu người gạn hỏi liền đáp rằng thiệt có phạm, là chẳng tốt, là chẳng lành, tội nầy là quả ác, là chính tôi gây tạo đây là do
phiền não cấu tập. Do
trực tâm nên tin có
Phật tánh, vì tin
Phật tánh nên không gọi là nhứt
xiển đề. Do
trực tâm nên gọi là
đệ tử Phật. Nếu
lãnh thọ đồ
cúng dường của người, dầu mỗi thứ cả ngàn muôn cũng chẳng đủ làm nhiều.
Đây gọi là
Bồ Tát tâm
chất trực.
Thế nào là
Bồ Tát tu trì giới luật ?
Bồ Tát tu trì cấm giới, chẳng cầu
sanh thiên, chẳng vì
khủng bố, nhẫn đến chẳng thọ
cẩu giới, kê giới,
ngưu giới, trĩ giới. Chẳng thật hành
phá giới, giới khuyết điểm, giới tỳ vết, giới tạp,
giới Thanh Văn, mà
thọ trì giới
Đại Bồ Tát,
thọ trì giới
Thi La Ba La Mật được giới đầy đủ chẳng sanh
kiêu mạn.
Đây gọi là
Bồ Tát tu
Đại Niết Bàn trọn nên
công hạnh thứ ba là giới.
Thế nào là
Bồ Tát gần gũi
thiện hữu ?
Đại Bồ Tát thường vì
chúng sanh nói
thiện đạo chẳng nói
ác đạo. Nói
ác đạo chẳng phải
quả báo lành tốt.
Nầy
Thiện nam tử ! Thân của Phật đây là chơn
thiện tri thức của tất cả
chúng sanh, vì thế nên có thể dứt
tà kiến của
Bà La Môn Phú Dà La. Nếu có
chúng sanh nào gần gũi Phật, dầu có tội
địa ngục cũng liền được
sanh thiên, như gã
Tu Na Sát
Đa La v.v…
đáng lẽ đọa
địa ngục, do gặp được Phật tội liền tiêu trù mà sanh lên trời cõi sắc.
Dầu có các ông
Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên v.v…, nhưng chẳng gọi là chơn
thiện tri thức của
chúng sanh, vì các ông ấy là
nhơn duyên sanh tâm nhứt
xiển đề vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Ngày trước lúc Phật ở nước
Ba La Nại, ông
Xá Lợi Phát có dạy hai
đệ tử : Một người tu
bạch cốt quán, một người tu
sổ tức quán.
Trải qua nhiều năm
tu tập, cả hai người đều không được
chánh định bèn sanh
tà kiến cho rằng không
Niết Bàn vô lậu,
giả sử có
thời chúng tôi đã được, vì
chúng tôi khéo
trì giới,
tinh tấn tu.
Phật rõ việc nầy bèn gọi
Xá Lợi Phất mà quở rằng : Ông không khéo dạy dổ. Sao ông
thuyết pháp điên đảo cho hai
đệ tử như vậy. Hai
đệ tử của ông đó,
căn tánh đều khác nhau : Một người vốn là thợ giặt, một người vốn là thợ kim hoàn. Thợ kim hoàn nên
truyền pháp sổ tức quán, người thợ giặt phải dạy
bạch cốt quán. Vì ông dạy lầm nên làm cho cả hai sanh
tà kiến.
Quở xong, Phật chỉ dạy cho hai người
đệ tử tu quán như đã bảo với ông
Xá Lợi Phất. Sau đó hai người đều
chứng quả A La Hán. Vì thế nên Phật là chơn
thiện tri thức của tất cả
chúng sanh.
Giả sử có
chúng sanh nào
kiết sử cực trọng mà được gặp Phật, Phật liền dùng
phương tiện dứt trừ được cả.
Như em Phật, ông
Nan Đà, có
dục vọng rất nặng, Phật dùng
phương tiện khéo làm cho
Nan Đà hết
dục vọng.
Như gã Ươn Quật
Ma La có lòng sân rất nặng, do gặp Phật mà hết sân.
Vua A Xà Thế có
ngu si dày, đến ra mắt Phật liền hết
ngu si.
Như
trưởng giả Bà Hi Dà
từ vô lượng kiếp quen tập
phiền não rất nặng,
quy y với Phật liền sạch
phiền não.
Giả sử có kẻ tệ ác hèn hạ, được gần gũi Phật làm
đệ tử, thời tất cả trời người đều
cung kính mến tưởng.
Ông Thi Hội
Cúc Đa tà kiến rất nặng, nhơn gặp Phật mà hết
tà kiến.
Do gặp Phật nên tiêu tội
địa ngục thành
duyên sanh thiện, như gã
chiên đà la Khí Hứ.
Do gặp Phật, nên lúc sắp chết
trở lại được sống lâu, như
Thiên Đế Kiều Thi Ca.
Do gặp Phật, nên hết
điên cuồng, như Sấu
Cù Đàm Di.
Do gặp Phật, nên bỏ nghề giết thịt, như
Tỳ Kheo Xiển Đề.
Do gặp Phật, nên thà chết chớ không phạm
cấm giới, như các
Tỳ Kheo bị trói bằng dây cỏ tươi.
Do nghĩa trên đây, nên
A Nan nói nửa phần
phạm hạnh là
thiện tri thức,
Phật bảo là không phải. Đầy đủ
phạm hạnh mới gọi là
thiện tri thức.
Đây là
Bồ Tát tu
Đại Niết Bàn trọn nên điều thứ tư là gần gũi
thiện tri thức.
Thế nào là
Bồ Tát đầy đủ
đa văn ?
Đại Bồ Tát vì
Đại Niết Bàn,
mười hai bộ kinh mà biên chép,
đọc tụng,
giải thuyết, thời gọi là
Bồ Tát đầy đủ
đa văn.
Trừ mười một
bộ kinh, chỉ
thọ trì ,
đọc tụng, biên chép,
giải thuyết bộ
Tỳ Phật Lược, cũng gọi là
Bồ Tát đầy đủ
đa văn.
Trừ cả
mười hai bộ kinh,
nếu có thể thọ trì,
đọc tụng, biên chép,
giải thuyết kinh điển vi diệu Đại Niết Bàn nầy thời gọi là
Bồ Tát đầy đủ
đa văn.
Không đợi
thọ trì toàn bộ kinh nầy, chỉ
thọ trì một
bài kệ bốn câu, hoặc chỉ có thể
thọ trì câu
Như Lai thường trụ tánh không biến đổi ; đây gọi là
Bồ Tát đầy đủ
đa văn.
Không đợi như trên, hoặc chỉ biết rằng
Như Lai thường không
thuyết pháp, cũng gọi là
Bồ Tát đầy đủ
đa văn, vì pháp vốn
vô tánh.
Như Lai dầu giảng nói tất cả pháp nhưng thường không chỗ n ói.
Đây gọi là
Bồ Tát tu tập Đại Niết Bàn trọn nên điều thứ năm là đầy đủ
đa văn.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu có nam tử cùng nữ nhơn nào vì
Đại Niết Bàn mà trọn nên năm điều như trên thời làm được việc khó làm, nhẫn được việc khó nhẫn, thí được việc khó thí.
Thế nào
Bồ Tát làm được việc khó làm ?
Nếu nghe có người mỗi ngày ăn một hột mè mà được thành
vô thượng Bồ Đề, vì
tin theo đây,
Bồ Tát có thể trong
vô lượng vô số kiếp, mỗi ngày thường ăn một hột nè.
Nếu nghe rằng vào lửa mà được thành
vô thượng Bồ Đề,
Bồ Tát có thể trong
vô lượng kiếp vào trong lửa dữ ở ngục
A Tỳ.
Thế nào là
Bồ Tát nhẫn được việc khó nhẫn ?
Nếu nghe rằng chịu những
đau khổ : Tay đánh gậy đập, đá ném, dao chém mà được
Đại Niết Bàn,
Bồ Tát có thể chịu đủ tất cả sự khổ ấy trong
vô lượng kiếp mà không thấy là
đau khổ.
Thế nào là
Bồ Tát thí được việc khó thí ?
Nếu nghe rằng đem
vợ con, nhà nước, đầu mắt tủy não
bố thí cho người thời được thành
vô thượng Bồ Đề,
Bồ Tát liền ở trong
vô lượng vô số kiếp đem những thứ ấy
bố thí cho người, không một niệm
hối tiếc.
Bồ Tát dầu làm, dầu nhẫn, dầu
bố thí như vậy, song trọn không có
quan niệm rằng tôi làm, tôi nhẫn, tôi
bố thí.
Ví như cha mẹ chỉ có một con trai, rất mến yêu con, cho con
ăn ngon mặc đẹp. Nếu bị con khinh khi mắng hỗn,
cha mẹ cũng không
hờn giận, cũng chẳng nghĩ công
nuôi dưỡng.
Cũng vậy,
Bồ Tát xem
chúng sanh như con một.
Nếu con phải bịnh, thời
cha mẹ cũng bịnh, lo tìm thầy chạy thuốc ; khi con đã được
lành mạnh,
cha mẹ cũng chẳng nghĩ rằng ta lo chạy chữa cho con.
Cũng vậy,
Bồ Tát thấy
chúng sanh bị mắc bịnh
phiền não,
thương xót đem
chánh pháp dạy cho. Nhờ nghe
chánh pháp mà
chúng sanh dứt được
phiền não.
Bồ Tát trọn không nghĩ rằng ta làm cho
chúng sanh hết
phiền não. Nếu có
quan niệm chúng sanh được độ thời không thể thành
vô thượng Bồ Đề. Chỉ có
quan niệm rằng không có một
chúng sanh nào được nghe ta
thuyết pháp mà dứt
phiền não.
Bồ Tát đối với
chúng sanh không có lòng
sân hận, không có lòng
hỷ lạc, vì
Bồ Tát khéo
tu tập không tam muội. Nếu là
tu tập không tam muội, thời
Bồ Tát còn sanh sân, sanh hỷ đối với ai ?
Ví như cụm rừng kia bị người chặt đốn, bị lửa cháy, bị nước ngập, cụm rừng sẽ sanh sân hỷ với ai ? Cũng vậy, đối với
chúng sanh Bồ tát không có lòng sân hỷ , vì đã khéo
tu tập không tam muội vậy .
Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát bạch Phật : “Thế Tôn ! tất cả các pháp là tánh nó tự không, hay là vì không, không nên không ?
Nếu tánh nó tự không thời chẳng nên tu không rồi sau mới thấy được không. Tại sao
đức Như Lai nói do tu không mà được thấy không ?
Nếu tánh nó tự chẳng không , thời dầu có tu không, cũng chẳng thể làm cho nó thành không ?
Phật bảo : “ Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả các
pháp tánh của nó tự không, vì tánh của tất cả pháp vốn là
bất khả đắc vậy .
Như sắc tánh
bất khả đắc. Thế nào là sắc tánh ? Xét nơi sắc, chẳng phải là địa, thủy , hỏa , phong, cũng chẳng rời ngoài địa, thủy, hỏa, phong ; chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, cũng chẳng rời ngoài xanh, vàng, đỏ, trắng ; chẳng phải có, chẳng phải không, đâu có thể nói là sắc có
tự tánh. Vì tánh
bất khả đắc nên gọi là không.
Tất cả pháp khác cũng như vậy.
Bởi tương tợ
tương tục nên
phàm phu theo
kiến thức của mình mà cho là các
pháp tánh chẳng
không tịch. Còn
Đại Bồ Tát nhờ đầy đủ năm
công hạnh nên thấy tất cả pháp, tánh vốn
không tịch.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu có
Sa Môn hay
Bà La Môn nào thấy tất cả pháp, tánh chẳng không, phải biết rằng người đó không phải là
Sa Môn,
Bà La Môn, người đó không
tu tập Bát Nhã Ba La Mật, chẳng được vào
Đại Niết Bàn, chẳng được
hiện tiền thấy Phật,
Bồ Tát ; người đó là
quyến thuộc của ma.
Nầy
Thiện nam tử ! tất cả các
pháp tánh nó vốn tự không, cũng do
Bồ Tát tu tập không mà thấy các pháp là không.
Nầy
Thiện nam tử ! Như tất cả pháp vì tánh nó
vô thường nên diệt có
thể diệt được. Nếu chẳng phải là
vô thường thời diệt chẳng
thể diệt được.
Pháp hữu vi, vì có sanh tướng nên sanh có thể sanh nó, vì có
diệt tướng nên diệt có
thể diệt nó. Các pháp vì có tướng khổ nên khổ có thể làm cho khổ ?
Như tánh muối là mặn nên có thể ướp mặn vật khác. Vì tánh mật là ngọt nên có thể ướp ngọt vật khác. Vì tánh giấm là chua nên có thể ướp chua vật khác. Vì tánh gừng là cay nên có thể ướp cay vật khác. Vì A Lê Lặc đắng nên có thể ướp đắng vật khác. Vì trái
Am La lạt nên có thể ướp lạt vật khác. Tánh chất độc có thể làm hại, nên ướp vật khác thành độc có thể làm hại. Tánh
cam lộ làm cho người không chết, nếu đem hiệp với vật khác cũng có thể thành vị
bất tử ?
Bồ Tát tu không cũng như vậy. Vì tu không nên thấy tất cả pháp, tánh của nó đều
không tịch.
Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát lại bạch : “
Thế Tôn ! Nếu như muối có thể làm cho vật không phải mặn thành ra mặn. Tu
không tam muội cũng như vậy, thời
chánh định nầy không lành, không diệu, tánh cách
điên đảo.
Nếu không tam muội chỉ thấy không, không là không có
pháp thời là thấy những gì ?”
Phật bảo : “ Nầy
Thiện nam tử !
Không tam muội nầy thấy nơi pháp chẳng phải không, mà có thể làm thành
không tịch, nhưng vẫn chẳng phải là
điên đảo. Như muối làm vật không mặn thành mặn. Cũng vậy,
không tam muội làm pháp chẳng không thành không.
Nầy
Thiện nam tử ! Tham là tánh có chẳng phải
tánh không. Nếu tham là
tánh không thời lẽ ra
chúng sanh chẳng vì tham mà phải đọa
địa ngục. Nếu bị đọa
địa ngục, thời tham tánh đâu phải là không !
Nầy
Thiện nam tử ! Sắc tánh là có. Gì là sắc tánh ? Chính là
điên đảo. Do
điên đảo nên
chúng sanh tham đắm. Nếu sắc tánh chẳng phải
điên đảo thời đâu có thể làm cho
chúng sanh tham đắm ! Vì sanh tham nên biết rằng sắc tánh chẳng phải là không có. Do cớ trên đây nên tu
không tam muội chẳng phải là
điên đảo vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
phàm phu nếu thấy người nữ liền sanh tướng nữ.
Bồ Tát thời không như vậy, dầu thấy người nữ nhưng không sanh tướng nữ, vì không sanh tướng nữ nên không sanh tham ; tham không sanh chẳng phải là
điên đảo vậy.
Vì người đời thấy có người nữ, nên
Bồ Tát tùy thuận nói có người nữ. Nếu lúc thấy người nam mà nói là nữ, thời là
điên đảo.
Do đây nên
Phật bảo Xa Đề rằng : Nầy
Bà La Môn ! Nếu cho ngày là đêm, thời là
điên đảo. Cho đêm là ngày cũng là
điên đảo.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
Bồ Tát trụ bực
cửu địa thấy pháp có tánh, do đây nên không thấy
Phật tánh, nếu đã thấy
Phật tánh thời chẳng còn thấy tánh tất cả pháp. Do
tu tập không tam muội nên chẳng thấy
pháp tánh. Vì không thấy
Pháp tánh nên thấy
Phật tánh.
Chư Phật và
Bồ Tát có hai thuyết : Một là có tánh, hai là
không tánh.
Vì
chúng sanh nên nói có
Pháp tánh, vì các bực
hiền thánh nên nói
không Pháp tánh.
Vì muốn người không thấy được
pháp không, nên tu
không tam muội khiến thấy được không. Người không thấy
pháp tánh cũng do tu không nên không. Do nghĩa nầy nên tu không thời thấy được không.
Nầy
Thiện nam tử ! Ông gạn rằng : Người thấy không đó, không là không có
pháp thời thấy những gì ?
Nầy
Thiện nam tử ! Đúng như vậy,
Đại Bồ Tát thiệt không chỗ thấy, không chỗ thấy chính là không chỗ có, không chỗ có chính là tất cả pháp.
Đại Bồ tát tu
Đại Niết Bàn nơi tất cả pháp đều không chỗ thấy. Nếu có chỗ thấy thời không thấy
Phật tánh, không thể
tu tập Bát Nhã Ba La Mật. Chẳng được vào nơi
Đại Niết Bàn. Vì thế nên
Bồ Tát thấy tất cả pháp, tánh
vô sở đắc.
Nầy
Thiện nam tử !
Bồ Tát chẳng những nhơn tu
tam muội mà thấy không,
Bát Nhã Ba La Mật cũng không,
thiền Ba La Mật cũng không, Tỳ Lê Gia
Ba La Mật cũng không,
Sằn Đề Ba La Mật cũng không,
Thi La Ba La Mật cũng không,
Đàn Ba La Mật cũng không, sắc cũng không, nhãn cũng không, thức cũng không,
Như Lai cũng không,
Đại Niết Bàn cũng không. Vì thế nên
Bồ Tát thấy tất cả pháp đều là không.
Do đây nên lúc ở thành
Ca Tỳ La,
Phật bảo A Nan : Ông chớ
sầu não khóc
lóc ! _
A Nan bạch :
Thế Tôn ! Nay
quyến thuộc của tôi đều
bị giết chết cả, làm sao tôi không
sầu não khóc lóc được !
Như Lai cùng tôi đồng sanh trưởng tại thành nầy, đồng là
thân thích của dòng
Thích Ca, tại sao chỉ riêng có
Như Lai là không
sầu não,
dung nhan lại tươi sáng như vậy ?
_ Nầy
A Nan ! Ông thấy thành
Ca Tỳ La là có thật, còn
Phật thời thấy là
không tịch trọn không chỗ có. Ông thấy dòng
Thích Ca là
thân thích, còn Phật vì tu không nên đều không chỗ thấy. Vì thế nên ông sanh lòng
sầu khổ, còn
dung nhan của Phật càng thêm tươi sáng.
Nầy
Thiện nam tử ! Vì chư Phật và
Bồ Tát tu tập không tam muội như vậy nên chẳng sanh
sầu não.
Đây gọi là
Bồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn,
thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ chín.
Nầy
Thiện nam tử ! Thế nào là
Bồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn,
thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ mười rốt sau cả ?
Bồ Tát tu tập ba mươi bảy phần
trợ đạo vào
Đại Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh. Vì các
chúng sanh phân biệt gỉai
thuyết kinh Đại Niết Bàn hiển thị Phật tánh.
Nếu
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật,
Bồ Tát tin lời trên đây thời được vào
Đại Niết Bàn. Nếu người không tin
thời luân hồi
sanh tử .
Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Những
chúng sanh nào ở trong kinh nầy chẳng sanh lòng
cung kính ?
Phật bảo : “ Nầy
Thiện nam tử ! Sau khi ta
nhập Niết Bàn có hàng
Thanh Văn đệ tử ngu si phá giới ưa sanh sự đấu tranh, bỏ
mười hai bộ kinh, mà đi
đọc tụng văn kệ sách vở của
ngoại đạo, nhận chứa tất cả vật
bất tịnh, nói rằng Phật
cho phép. Những người
ngu si nầy đem
chiên đàn tốt đổi lấy gỗ tạp, đem vàng đổi lấy thau, đem bạc đổi lấy nhôm, hàng lụa đổi lấy bố gai, đem vị
cam lộ đổi lấy chất độc.
Thế nào là
chiên đàn đổi lấy gỗ tạp ?
Như các
đệ tử vì
cúng dường mà
thuyết kinh pháp cho hàng
bạch y. Hàng
bạch y phóng dật không thích
nghe pháp.
Bạch y ngồi cao,
Tỳ Kheo ngồi thấp. Nhẫn đến đem những đồ
ăn uống ngon để
cung cấp mà họ vẫn chẳng bằng lòng nghe. Đây gọi là đem
chiên đàn đổi lấy gỗ tạp.
Thế nào là đem vàng đổi lấy thau ?
Thau là dụ cho sắc thinh, hương, vị, xúc
năm dục trần, vàng là dụ cho giới.
Đệ tử của ta vì sắc mà
phá giới đã thọ. Đây là đem vàng đổi lấy thau.
Thế nào là đem bạc đổi lấy nhôm ?
Bạc dụ cho
thập thiện, nhôm dụ cho
thập ác.
Đệ tử của ta vất bỏ mười
hạnh lành mà làm
mười điều ác. Đây gọi là đem bạc đổi lấy nhôm vậy ?
Thế nào là đem lụa đổi gai bố ?
Gai bố dụ cho
vô tàm vô quý. Lụa dụ cho
tàm quý.
Đệ tử của ta bỏ
tàm quý quen tập
vô tàm vô quý. Đây là đem lụa đổi gai vậy ?
Thế nào là vị
cam lồ đổi chất độc ?
Chất độc dụ cho các thứ
lợi dưỡng.
Cam lồ dụ cho pháp
vô lậu.
Đệ tử của ta vì
lợi dưỡng mà tự khen tự khoe với hàng
bạch y rằng mình được
vô lậu. Đây là
cam lồ đổi chất độc.
Sau nầy
kinh Đại Niết Bàn lưu hành ở
Diêm Phù Đề, có các
đệ tử Phật thọ trì,
đọc tụng, biên chép,
diễn thuyết sẽ bị các ác
Tỳ Kheo đây giết hại.
Lúc đó các ác
Tỳ Kheo nhóm họp nhau lập chế ước nghiệm rằng : Vị nào
đọc tụng thọ trì biên chép
diễn thuyết kinh Đại Niết Bàn, đều chẳng được cùng ở, cùng ngồi, cùng
đàm luận chuyện trò. Vì
kinh Đại Niết Bàn chẳng phải của Phật nói, do người
tà kiến tạo ra. Người
tà kiến là
lục sư,
kinh điển của
lục sư chẳng phải
kinh điển của Phật. Vì tất cả chư Phật đều nói các pháp là
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh. Nếu nói các pháp là thường, lạc, ngã, tịnh thời đâu phải là kinh do Phật nói.
Chư Phật cho các
đệ tử chứa các thứ vật, còn
lục sư chẳng cho các
đệ tử cất chứa tất cả vật. Nếu cấm chứa thời thế nào lại là lời của Phật ?
Chư Phật chẳng cấm
đệ tử dứt hẳn năm vị sữa bò và
ăn thịt. Còn
lục sư chẳng cho ăn năm thứ muối, năm thứ vị sữa bò và huyết mỡ. Nếu cấm những thứ nầy thời đâu phải là
kinh điển chánh của Phật !
Chư Phật nói
ba thừa, mà kinh nầy thuần nói
nhứt thừa và
Đại Niết Bàn, thời đâu gọi là
kinh điển chánh của Phật được !
Chư Phật
rốt ráo nhập Niết Bàn, còn kinh nầy nói Phật là thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng
nhập Niết Bàn.
Kinh nầy không ở trong số mười hai bộ, chính là ma thuyết, chẳng phải
Phật thuyết.
Nầy
Thiện nam tử ! Người như trên đây dầu là
đệ tử Phật mà chẳng thể tin thuận
kinh Đại Niết Bàn nầy.
Nầy
Thiện nam tử ! Trong
thời kỳ như vậy, nếu có
chúng sanh tin
kinh điển nầy nhẫn đến nửa câu, phải biết rằng người nầy thiệt là
đệ tử của Phật, do sự tin nầy mà thấy
Phật tánh nhập
Đại Niết Bàn.
Cao Quý Đức Vương
Bồ Tát nói : “
Lành thay !
Lành thay ! Ngày nay
đức Như Lai khéo khai thị
kinh Đại Niết Bàn.
Thế Tôn ! Tôi nhơn việc nầy bèn được
giải ngộ kinh Đại Niết Bàn một câu nửa câu. Do hiểu một câu đến nửa câu nên thấy chút phần
Phật tánh. Cứ như lời Phật nói, tôi cũng sẽ được vào Đại Niêt Nàn.
Đây gọi là
Bồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ mười.