24. PHẨM CA DIẾP BỒ TÁT
THỨ HAI MƯƠI BỐN
Ca Diếp Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn !
Đức Như Lai thương xót tất cả
chúng sanh. Có thể
điều phục kẻ chẳng
điều phục, có thể
thanh tịnh kẻ chẳng
thanh tịnh, có thể
quy y kẻ chẳng
quy y, có thể
giải thoát kẻ chưa
giải thoát, được tám môn
tự tại là bực
đại Y Sư, đại
Dược Vương.
Bạch
Thế Tôn !
Thiện Tinh Tỳ Kheo là con trai của
đức Phật lúc chưa
xuất gia, sau khi làm
Tỳ Kheo,
Thiện Tinh thọ trì đọc tụng giải thuyết mười hai bộ kinh, phá
kiết sử cõi dục chứng được
tứ thiền. Tại sao
đức Như Lai nói
Thiện Tinh là hạng Nhứt
Xiển Đề, là người hạ tiện người không thể trị được phải ở nơi
địa ngục cả kiếp. Cớ gì
đức Như Lai chẳng trước diễn nói
chánh pháp cho
Thiện Tinh, để được làm
Bồ Tát. Nếu
đức Thế Tôn chẳng cứu được
Thiện Tinh Tỳ Kheo, thời đâu được gọi là có
đại từ bi, có
đại phương tiện ?
Phật nói : “ Nầy
Thiện Nam Tử !
Ví như cha mẹ chỉ có ba người con trai : Người trai thứ nhứt
cung kính cha mẹ có
lòng tin thuận,
thông minh trí huệ có thể làm xong được
sự nghiệp trong đời ; người trai thứ hai không
cung kính tin thuận
cha mẹ,
thông minh trí huệ có thể làm xong
sự nghiệp trong đời ; người trai thứ ba không
cung kính tin thuận
cha mẹ,
ngu si vô trí.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu lúc
cha mẹ muốn
dạy bảo điều gì, thời nên dạy đứa con nào trước,
thân ái đứa con nào trước, nên bảo đứa nào làm
sự nghiệp trước ?
_ Bạch
Thế Tôn !
Cha mẹ đó nên trước
dạy bảo đứa con có lòng
cung kính tin thuận
thông minh trí huệ hiểu biết sự nghiệp trong đời, kế đến
dạy bảo đứa thứ hai, rồi sau mới đến đứa con thứ ba. Hai đứa sau dầu không lòng
cung kính tin tbhuận nhưng vì
xót thương nên cũng
lần lượt dạy bảo.
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Đức Như Lai cũng như vậy. Đứa con thứ nhứt dụ cho
Bồ Tát, đứa giữa dụ cho hàng
Thanh Văn, đứa thứ ba dụ cho hạng Nhứt
Xiển Đề.
Như trong
khế kinh, những
nghĩa lý vi tế ta đã trước giảng nói cho các vị
Bồ Tát. Những nghĩa cạn cợt thời giảng nói cho hàng
Thanh Văn. Những nghĩa
thế gian thời giảng nói cho hạng Nhứt
Xiển Đề phạm tội ngũ nghịch, dầu
trong đời hiện tại họ không được
lợi ích, nhưng cũng làm
chủng tử lành cho
đời sau.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Ví như ba hạng ruộng :
Hạng thứ nhứt nước chảy
lưu thông, không có ngói đá gai gốc, trồng một thâu được trăm.
Hạng thứ hai dầu không ngói đá gai gốc, nhưng đường nước không được
lưu thông nên
hoa mầu kém ruộng trên phân nửa.
Hạng thứ ba đường nước khó khăn lại nhiều ngói đá gai gốc cỏ mọc lan tràn trồng một chỉ thâu được một.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Đến mùa gieo trồng thời nông phu nên gieo trồng ruộng nào trước ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Nông phu kia nên gieo trồng ruộng thứ nhứt trước, kế đến ruộng thứ hai, sau rốt đến ruộng thứ ba.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Ruộng thứ nhứt dụ cho
Bồ Tát, ruộng thứ hai dụ cho
Thanh Văn, ruộng thứ ba dụ cho hạng Nhứt
Xiển Đề.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Ví như ba cái chậu : Cái thứ nhứt nguyên vẹn, cái thứ hai rịn chảy, cái thứ ba bể. Nếu muốn đựng sữa, lạc, nước, tô thời trước nên dùng chậu nào ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Nên trước dùng chậu lành, kế đến dùng chậu nứt, sau rốt mới đến chậu bể.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Chậu lành dụ cho
Bồ Tát, chậu nứt dụ hàng
Thanh Văn, chậu bể dụ hạng Nhứt
Xiển Đề.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như có ba người bịnh đồng đến y sĩ : Người thứ nhứt dễ trị, người thứ hai khó trị, người thứ ba không thể trị. Y Sĩ nên trước trị cho người nào ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Nên trị cho người dễ trước, kế đến người thứ hai, sau rốt đến người thứ ba, vì là hàng
thân thuộc.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Người bịnh dễ trị dụ cho
Bồ Tát, người bịnh khó trị dụ cho
Thanh Văn, người bịnh không thể trị dụ cho hạng Nhứt
Xiển Đề. Dầu hạng sau rốt nầy đối với
chánh pháp không được quả lành
trong đời hiện tại, nhưng vì
xót thương nên
đức Như Lai cũng gieo trồng
chủng tử lành cho họ
đời sau.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Ví như nhà vua có ba hạng ngựa :
Hạng thứ nhứt điều thuận mạnh mẽ,
hạng thứ hai không điều thuận nhưng mạnh mẽ,
hạng thứ ba không điều thuận là già yếu. Lúc muốn cỡi, nhà vua nên cỡi hạng ngựa nào trước ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Nhà vua nên trước cỡi hạng ngựa điều thuận mạnh mẽ, kế đến
hạng thứ hai, sau cùng đến
hạng thứ ba.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Hạng điều thuận mạnh mẽ dụ cho
Bồ Tát,
hạng thứ hai dụ cho
Thanh Văn,
hạng thứ ba dụ cho Nhứt
Xiển Đề. Dầu hạng sau rốt nầykhông được
lợi ích trong đời hiện tại, nhưng vì
xót thương nên
đức Như Lai vun trồng chủng tử lành
đời sau cho họ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như lúc
bố thí lớn có ba hạng người đến xin :
Hạng thứ nhứt dòng sang
thông minh giữ giới hiền lành,
hạng thứ hai dòng
trung lưu ngu tối nhưng cũng
giữ giới hiền lành,
hạng thứ ba, dòng hạ tiện ngu tối
phá giới hung ác.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Thí chủ kia nên
bố thí cho hạng nào trước ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Nên trước
bố thí cho
hạng thứ nhứt, kế đến
hạng thứ hai, sau rốt đến
hạng thứ ba.
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Hạng thứ nhứt dụ cho
Bồ Tát,
hạng thứ hai dụ cho
Thanh Văn,
hạng thứ ba dụ cho Nhứt
Xiển Đề.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như
đại sư tử lúc giết
hương tượng thời dùng
hết sức lực, lúc giết thỏ cũng dùnh
hết sức lực chẳng khinh thường. Chư Phật cũng như vậy, lúc
thuyết pháp cho chư vị
Bồ Tát dụng công cũng như lúc
thuyết pháp cho hạng Nhứt
Xiển Đề.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trước kia lúc ta ở thành
Vương Xá,
Thiện Tinh Tỳ Kheo làm thị giả. Đầu hôm nói pháp cho
Thiên Đế Thích. Theo phép của
thị giả, phải đi nằm sau Thầy.
Lúc đó vì ta ngồi lâu nên
Thiện Tinh sanh niệm ác bạch với ta rằng mau
đi vào thiền thất quỉ
Bạc Câu La đến kia kìa. Ta bảo
Thiện Tinh, ngươi là kẻ
ngu si, ngươi chẳng biết rằng
đức Như Lai là bực
vô sở úy ư !
Đế Thích hỏi ta rằng : Bạch
Thế Tôn ! Hạng người như vậymà cũng được vào trong
Phật pháp ư ?
Ta nói với
Thiên Đế : Hạng người ấy cũng đặng vào trong
Phật pháp, họ cũng có
Phật tánh sẽ chứng được
vô thượng Bồ Đề.
Dầu ta vì
Thiện Tinh mà
thuyết pháp, nhưng
Thiện Tinh vẫn không có
lòng tin.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Lại có một lúc ta ở nước
Ca Thi, thành Thi Bà
Phú La, ta muốn vào thành
khất thực.
Vô lượng chúng sanh khao khát muốn thấy dấu chưn của ta.
Thiện Tinh Tỳ Kheo theo hầu phía sau chà bỏ dấu chưn của ta, nhưng không chà mất được, lại làm cho
chúng sanh có
quan niệm chẳng lành.
Khi vào thành rồi, thấy trong nhà cất rượu có một
Ni Kiền Tử ngồi xổm khum lưng ăn bã rượu.
Thiện Tinh bạch với ta rằng : Nếu
trong đời có bực
A La Hán thời người đó là hơn tất cả, vì người đó
tuyên bố rằng không nhơn
không quả. Ta bảo
Thiện Tinh : Ngươi là người
ngu si. Ngươi chẳng nghe rằng bực
A La Hán chẳng uống rượu, chẳng hại người, chẳng khi dối, chẳng trộm cướp, chẳng
dâm dật ư !
Ni Kiền Tử đó giết hại
cha mẹ, ăn bã rượu sao ngươi nói là bực
A La Hán. Người đó
sau khi chết quyết định đọa
địa ngục A Tỳ. Bực
A La Hán dứt hẳn
ba đường ác, sao ngươi gọi người đó là
A La Hán.
Thiện Tinh liền nói : Tánh của
tứ đại còn có thể
chuyển đổi, quyết không có lẽ người đó đọa
địa ngục A Tỳ.
Ta nói : Ngươi là người
ngu si. Ngưoi chẳng thường nghe rằng chư Phật luôn luôn nói lời
thành thật ư ?
Dầu ta khuyên dạy
Thiện Tinh, nhưng
Thiện Tinh tuyệt không có
lòng tin.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có một lúc kia ta cùng
Thiện Tinh ở thành
Vương Xá, trong thành có một
Ni Kiền Tử tên là Khổ Đắc. Người nầy thường
tuyên bố rằng :
Chúng sanh phiền não không nhơn, không duyên,
chúng sanh giải thoát cũng không nhơn không duyên.
Thiện Tinh bạch với ta rằng : Nếu
trong đời có bực
A La Hán thời ông Khổ Đắc là trên hết.
Ta nói ngươi là kẻ
ngu si.
Ni Kiền Tử Khổ Đắc thiệt chẳng phải
A La Hán chẳng hiểu được đạo
A La Hán.
Thiện Tinh nói rằng : Tại sao bực
A La Hán lại tật đố với
A La Hán.
Ta nói ngươi là người
ngu si. Ta chẳng sanh tật đố với
A La Hán, chính là người tự sanh
quan niệm ác tà. Nếu người nói Khổ Đắc là
A La Hán, thời ông nên nghe đây, bảy ngày sau Khổ Đắc sẽ bị trúng thực đau bụng mà chết, chết rồi sẽ sanh trong loài quỉ ăn đồ ói mửa khạc nhổ của người. Bạn
đồng học sẽ mang thây của Khổ Đắc bỏ trong
rừng Tha Ma.
Thiện Tinh liền đem lời nầy thuật lại với Khổ Đắc rồi bảo Khổ Đắc rằng :
Trưởng lão nên khéo
tư duy,
tu tập phương tiện, làm cho lời ông
Cù Đàm thành
vọng ngữ.
Sau khi nghe
Thiện Tinh nói, Khổ Đắc liền
đoạn thực, từ một ngày đến ngày thứ sáu, nhịn đói đủ bảy ngày, Khổ Đắc bèn ăn đường đen, rồi uống nước lã, đau bụng mà chết. Bạn của Khổ Đắc liền mang thi hài bỏ trong
rừng Tha Ma, Khổ Đắc sanh làm quỉ đói ăn đồ ói mửa,
quanh quẩn ở bên
tử thi.
Thiện Tinh hay được việc nầy liền đến trong
rừng Tha Ma, thấy Khổ Đắc thọ thân quỉ đói, ở bên
tử thi ngồi xổm khum lưng.
Thiện Tinh hỏi quỉ đói :
Đại Đức đã chết rồi ư ?
Khổ Đắc đáp : Tôi đã chết.
_ Tại sao mà chết ?
_ Vì đau bụng mà chết.
_ Ai mang thây
Đại Đức ra đây ?
_ Bạn học của tôi.
_ Mang thây bỏ chỗ nào ?
_ Ông là người ngu ! Ông há chẳng biết rằng đây là
rừng Tha Ma ư ?
_
Đại Đức thọ thân gì ?
_ Tôi mang lấy thân quỉ ăn đồ ói mửa. Ông nên nghe kỹ !
Lời nói của
đức Như Lai, là lời lành, lời chơn thật, lời phải thời, lời đúng nghĩa, lời đúng pháp. Sao ông lại chẳng tin lời chơn thật của
Như Lai. Nếu có kẻ nào chẳng tin
lời nói chơn thật của
Như Lai thời kẻ đó cũng phải thọ lấy thân như tôi.
Thiện Tinh trở về bạch với ta rằng :
Thế Tôn !
Ni Kiền Tử Khổ Đắc
sau khi chết được sanh lên
cõi trời Đao Lợi.
Ta nói : Nầy người ngu ! Bực
A La Hán là bực
vô sanh, sao ngươi lại nói Khổ Đắc được sanh lên
cõi trời Đao Lợi ?
Thiện Tinh bạch rằng :
Thế Tôn !
Ni Kiền Tử Khổ Đắc thiệt chẳng sanh lên
cõi trời, hiện nay đương thọ thân quỉ đói.
Ta nói : Nầy người ngu ! Lời của chư Phật là lời
thành thật, không bao giờ nói sai.
Thiện Tinh liền bạch rằng : Dầu lúc đó
đức Như Lai nói như vậy, nhưng tôi trọn không có
lòng tin.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta cũng thường
thuyết pháp cho
Thiện Tinh Tỳ Kheo, mà
Thiện Tinh tuyệtkhông có
lòng tin thuận.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Dầu
Thiện Tinh đọc tụng mười hai bộ kinh, chứng được
tứ thiền, nhưng chẳng hiểu nghĩa một kệ một câu nhẫn đến một chữ. Vì gần gũi bạn ác nên mất
tứ thiền, sanh
kiến chấp tà ác mà nói rằng không Phật,
không Pháp, không có
Niết Bàn.
Sa Môn Cù Đàm giỏi tướng số nên có thể biết được
tâm niệm của người.
Ta bảo
Thiện Tinh : “ Những pháp của ta giảng nói :
Ban đầu, chặn giữa, rốt sau, điều lành, lời khéo, nghĩa chánh, không xen tạp,
thành tựu đầy đủ
phạm hạnh thanh tịnh.
Thiện Tinh lại nói rằng : Dầu
đức Như Lai vì tôi mà
thuyết pháp, nhưng tôi vẫn nói quyết rằng không nhơn
không quả.
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát : “ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu ông chẳng tin những việc như vậy, nay
Thiện Tinh ở gần
sông Ni Liên Thiền, ta cùng ông có thể đến đó để hỏi.
Liền đó
đức Như Lai cùng
ca Diếp Bồ Tát đến chỗ
Thiện Tinh tỳ Kheo.
Thiện Tinh thấy Phật từ xa đi đến liền sanh tâm tà ác. Do tâm ác nầy,
hiện thân đọa vào
địa ngục A Tỳ.
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát : “ Nầy
Thiện Nam Tử !
Thiện Tinh dầu vào trong
Phật pháp vô lượng công đức, nhưng trọn không đặng mảy mún
lợi ích, đó là vì
phóng dật, gần bạn ác.
Ví như có người dù vào biển lớn thấy nhiều
châu báu, nhưng vì
phóng dật nên không được
của báu.
Lại như người vào biển thấy
châu báu, hoặc tự giết mình chết, hoặc bị ác quỉ giết chết. Cũng vậy,
Thiện Tinh dầu vào trong
Phật pháp nhưng bị bạn ác giết hại.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Do đây nên
đức Như Lai xót thương thường bảo rằng :
Thiện Tinh phóng dật quá nhiều.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu là người trước kia nghèo cùng, với người nầy dầu có
xót thương nhưng lòng thương không nhiều lắm. Nếu là người trước kia giàu lớn, về sau
suy sụp nghèo cùng với người nầy, lòng
xót thương sâu đậm hơn.
Thiện Tinh Tỳ Kheo cũng như vậy, đã
thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, chứng đặng
tứ thiền, tồi để thối thất tất đáng
xót thương. Do đây nên ta nói
Thiện Tinh phóng dật quá nhiều nên dứt mất những căn lành. Hàng
đệ tử của ta người nào nghe thấy việc nầy đều sanh lòng
xót thương sâu đậm đối với
Thiện Tinh Tỳ Kheo.
Từ nhiều năm ta thường cùng
Thiện Tinh Tỳ Kheo gần gũi nhau, mà
Thiện Tinh tự sanh lòng tà ác, chẳng bỏ
ác kiến.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Từ xưa ta thấy
Thiện Tinh có chút ít căn lành như lông tóc, trọn chẳng huyền kỳ
Thiện Tinh là dứt tuyệt căn lành, là hạng hạ tiện Nhứt
Xiển Đề phải đọa
địa ngục. Bởi
Thiện Tinh tuyên bố rằng không nhơn
không quả, không có tạo nghiệp, do đây nên ta huyền ký
Thiện Tinh là hạng Nhứt
Xiển Đề hạ tiện dứt hẳn căn lành phải đọa
địa ngục cả kiếp.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như có người té chìm trong hầm phẩn, có bạn lành đưa tay mò đó, nếu nắm đặng đầu tóc, bèn muốn kéo lên, mò lâu chẳng được mới có
tâm niệm thôi vớt. Cũng vậy ta tìm chút ít căn lành nơi
Thiện Tinh để cứu vớt, nhưng trọn ngày tìm cầu mà chẳng được mảy lông tóc căn lành , do đây nên chẳng cứu được tội đọa
địa ngục của
Thiện Tinh.
Ca Diếp Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn !
Đức Như Lai cớ gì huyền ký
Thiện Tinh sẽ đọa
địa ngục A Tỳ”.
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Thiện tinh Tỳ Kheo có
quyến thuộc đông, đều cho rằng
Thiện Tinh đã chứng được quả
A La Hán. Vì ta muốn phá
tâm niệm tà ác của họ nên huyền ký
Thiện Tinh do
phóng dật phải đọa
địa ngục.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông nên biết rằng
lời nói của
Như Lai là lời chơn
thật không sai . Nếu Phật huyền ký sẽ đọa
địa ngục, thời chẳng bao giờ không đọa.
Hàng
Thanh Văn Duyên Giác huyền ký thời có hai thứ hoặc đúng, hoặc chẳng đúng. Như
Mục Kiền Liên bảo người nước
Ma Già Đà sau bảy ngày trời sẽ mưa, đến kỳ trời trọn chẳng mưa. Có lúc ông dự ký bò cái sẽ đẻ bò con trắng, đến lúc sanh sản lại đẻ bò con vá. Ông ấy dự ký sanh trai, về sau lại sanh con gái.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Thiện Tinh thường
tuyên bố với
vô lượng chúng sanh rằng tất cả không có quả lành quả dữ, do đó dứt hẳn tất cả căn lành không còn mảy mún như lông tóc.
Từ lâu ta biết rõ
Thiện Tinh sẽ dứt mất căn lành, ta vẫn
cố ý cùng Thuiện Tinh
ở chung cả hai mươi năm. Vì nếu ta không ở gần
Thiện Tinh, thời
Thiện Tinh sẽ khuyên bảo
vô lượng chúng sanh tạo những
nghiệp ác. Đây gọi là
trí lực thứ năm của
đức Như Lai.
Bạch
Thế Tôn ! Hạng Nhứt
Xiển Đề do
nhơn duyên gì mà không có pháp lành ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì hạng Nhứt
Xiển Đề dứt căn lành.
Chúng sanh đều có năm căn : tín, tấn, niệm, định và huệ, mà hạng Nhứt
Xiển Đề dứt hẳn căn lành nầy. Do nghĩa đây nên giết hại con kiến còn mắc phải tội
sát sanh, nhưng giết hại hạng Nhứt
Xiển Đề không mắc tội
sát sanh.
_ Bạch
Thế Tôn ! Vì Nhứt
Xiển Đề trọn
không pháp lành nên gọi là Nhứt
Xiển Đề ư ?
_ Đúng như vậy !
_ Bạch
Thế Tôn ! Tất cả
chúng sanh có ba thứ pháp lành :
Quá khứ ,
vị lai và
hiện tại. Hạng Nhứt
Xiển Đề không thể dứt được pháp lành đời
vị lai, sao lại nói rằng dứt hết pháp lành gọi là Nhứt
Xiển Đề.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Luận về sự dứt có hai thứ : Một là
hiện tại dứt, hai là
hiện tại chướng ngại vị lai. Hạng Nhứt
Xiển Đề đủ cả hai thứ nầy nên ta nói rằng Nhứt
Xiển Đề dứt hết căn lành.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Ví như có người té chìm trong hầm phẩn, dầu còn một sợi tóc chưa chìm, nhưng một sợi tóc không thể kéo nổi
toàn thân. Hạng Nhứt
Xiển Đề cũng như vậy dầu đời
vị lai sẽ có căn lành nhưng không thể cứu được khổ
địa ngục. Đời
vị lai dầu có thể
cứu khỏi, nhưng đời
hiện tại không thể làm sao được. Do đây nên gọi là kẻ không thể cứu vớt.
Do
Phật tánh làm
nhơn duyên thời cứu vớt được, vì
Phật tánh chẳng phải
quá khứ chẳng phải
vị lai chẳng phải
hiện tại, nên
Phật tánh không bị dứt mất. Như hột mục hư thời không thể mọc mọng, hạng Nhứt
Xiển Đề cũng như vậy.
_ Bạch
Thế Tôn ! Hạng Nhứt
Xiển Đề chẳng dứt
Phật tánh,
Phật tánh là pháp lành, tại sao nói rằng dứt tất cả pháp lành ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu
chúng sanh nào
trong đời hiện tại có
Phật tánh thời chẳng được gọi là Nhứt
Xiển Đề. Như ngã tánh trong
thế gian.
Phật tánh là thường chẳng thuộc về
ba đời. Nếu thuộc về
ba đời thời gọi là
vô thường. Vì đời
vị lai sẽ thấy
Phật tánh, nên nói rằng
chúng sanh đều có
Phật tánh. Do nghĩa nầy nên bực
Thập Trụ Bồ Tát trang nghiêm đầy đủ
công hạnh mới thấy được phần ít.
_ Bạch
Thế Tôn !
Phật tánh là thường dường như
hư không, tại sao
đức Như Lai nói rằng
vị lai ? Nếu
đức Như Lai nói rằng hạng Nhứt
Xiển Đề không có pháp lành, lẽ đâu hạng nầy không có lòng thương tưởng đối với bạn bè,
cha mẹ,
vợ con thân quyến. Nếu họ có lòng thương tưởng thời lòng thương nầy chẳng phải là lành ư ?
_
Lành thay !
Lành thay ! Lời ông hỏi rất hay
Phật tánh dường như
hư không, chẳng phải
quá khứ, chẳng phải
vị lai, chẳng phải
hiện tại. Tất cả
chúng sanh có ba thứ thân ; Thân
quá khứ, thân
vị lai, thân
hiện tại. Đời
vị lai chúng sanh trang nghiêm đầy đủ
thân thanh tịnh thấy được
Phật tánh, nên ta nói rằng
Phật tánh đời
vị lai.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta vì
chúng sanh có lúc hoặc nói nhơn là quả, có lúc hoặc nói quả là nhơn, do đây nên trong kinh nói rằng
mạng căn là
ăn uống, thấy sắc là chạm xúc. Vì thân đời
vị lai thanh tịnh nên nói
Phật tánh.
_ Bạch
Thế Tôn !
Như ý nghĩa của
đức Phật nói như vậy, sao lại nói rằng tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Dầu
Phật tánh hiện tại không, nhưng chẳng được nói rằng
chúng sanh không
Phật tánh. Như tánh
hư không kia, dầu không
hiện tại mà chẳng được nói là không. Dầu tất cả
chúng sanh là
vô thường, còn
Phật tánh là
thường trụ không
biến đổi, do đây nên trong kinh ta nói rằng
Phật tánh của
chúng sanh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, dường như
hư không. Nếu có trong có ngoài thời chẳng được gọi là
duy nhứt, là
thường trụ, cũng chẳng được gọi là tất cả chỗ đều có. Dầu
hư không chẳng phải trong chẳng phải ngoài nhưng tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy.
Ông nói rằng hạng Nhứt
Xiển Đề có pháp lành đó, lời nầy không đúng nghĩa. Vì hạng Nhứt
Xiển Đề tất cả hành động nói năng đều là
tà nghiệp, vì họ chẳng tin chẳng cầu nhơn quả. Như gốc, cây, nhánh, lá, bông, hột, trái A Lê Lặc đều đắng, tất cả
hành nghiệp của Nhứt
Xiển Đề cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đức Như Lai thành tựu đầy đủ tri
chư căn trí lực, do đây nên biết rõ
căn tánh thượng trung hạ của tất cả
chúng sanh : Biết rõ rằng người nầy từ bực hạ lên
bực trung, biết rõ rằng người nầy từ
bực trung lên bực thượng, biết rõ rằng người nầy từ bực thượng thành bục trung, biết rõ rằng người nầy từ
bực trung thành bực hạ. Do đây nên biết rằng
căn tánh của
chúng sanh không
quyết định, vì không
quyết định nên hoặc đã dứt căn lành rồi
trở lại sanh căn lành. Nếu
căn tánh của
chúng sanh là quyế định thời trọn không có đã dứt mà lại sanh, cũng chẳng nên nói rằng hạng Nhứt
Xiển Đề đọa
địa ngục một kiếp. Nầy
Thiện Nam tử ! Do đây nên
đức Như Lai nói rằng tất cả
pháp không có tướng
quyết định.
_ Bạch
Thế Tôn !
Đức Như Lai đầy đủ tri
chư căn trí lực, biết chắc rằng
Thiện Tinh sẽ dứt mất căn lành, tại sao lại cho
Thiện Tinh xuất gia ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Thuở ta mới
xuất gia, em ta là
Nan Đà, em họ là
A Nan và
Đề Bà Đạt Đa, con trai ta là
La Hầu La, những người đó đều theo ta
xuất gia tu hành. Nếu ta chẳng cho
Thiện Tinh xuất gia, thời
Thiện Tinh sẽ nối ngôi vua có
quyền thế sẽ
phá hoại Phật pháp, do đó nên ta cho
Thiện Tinh xuất gia.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu
Thiện Tinh chẳng
xuất gia cũng dứt mất căn lành trong
vô lượng đời đều không
lợi ích. Nay đã
xuất gia dầu mất căn lành, nhưng có thể
trì giới cung kính cúng dường bực
đức hạnh,
tu tập sơ thiền nhẫn đến
tứ thiền những điều này gọi là nhơn lành, nhơn lành nầy có thể
sanh pháp lành, pháp lành đã sanh thời có thể
tu tập đạo hạnh, đã có thể
tu tập đạo hạnh thời có thể được
vô thượng Bồ Đề, do đây nên ta cho
Thiện Tinh xuất gia.
Nếu ta chẳng cho
Thiện Tinh xuất gia thọ giới thời ta chẳng được gọi là
Như Lai Thế Tôn đầy đủ
mười trí lực.
Nầy
Thiện nam Tử !
Đức Phật quán sát chúng sanh đủ cả pháp lành và pháp chẳng lành. Người nầy dầu đủ hai
pháp như vậy, nhưng chẳng bao lâu sẽ dứt mất tất cả căn lành mà đủ cả pháp chẳng lành. Vì những
chúng sanh nầy chẳng gần gũi bạn lành, chẳng nghe
chánh pháp, chẳng khéo
tư duy, chẳng thật hành đúng pháp, do đây nên sẽ dứt mất căn lành.
Đức Như Lai lại biết người nầy hiện đời hoặc đời
vị lai, lúc trẻ hoặc lúc già, sẽ gần gũi bạn lành được nghe
chánh pháp, thời có thể sanh căn lành
trở lại.
Ví như có khe suối gần xóm làng, nước suối ngọt ngon đủ
tám công đức. Có người
nóng nảy khát nước muốn đến khe suối, người trí
quyết định biết rằng người khát nầy sẽ đến bên nước, vì không còn
con đường nào khác.
Đức Như Lai quán sát chúng sanh cũng như vậy. Do đây nên
Như Lai gọi là có đũ tri
chư căn trí lực.
Đức Thế Tôn lấy chút đất để trên móng tay rồi bảo
Ca Diếp Bồ Tát rằng : Đất nầy nhiều hay đất nơi
mười phương thế giới nhiều ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Đất dính trên móng tay đâu có thể sánh với đất trong
mười phương thế giới !
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Có người đã chết
trở lại được thân người, bỏ thân trong
ba đường ác mà được thân người, căn thân đầy đủ, sanh nơi
trung quốc, có đủ
chánh tín, có thể
tu tập đạo hạnh, có thể
tu tập chánh đạo, có thể
được giải thoát, có
thể nhập Đại Niết Bàn. Được những điều trên đây thật là
hy hữu như số lượng đất trên móng tay.
Bỏ thân người mang thân
ba đường ác, bỏ thân
ba đường ác trở lại thọ thân
ba đường ác,
thân căn chẳng đầy đủ, sanh nơi
biên địa,
tà kiến điên đảo, thật
hành đạo tà, chẳng
được giải thoát, chẳng được
Niết Bàn, những hạng nầy đông nhiều như số lượng đất trong muời phương
thế giới.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người
hộ trì cấm giới tinh tấn chẳng biến trể, chẳng phạm bốn tội trọng, chẳng gây
năm tội nghịch, chẳng
lạm dụng vật của Tăng, chẳng dứt căn lành, chẳng làm Nhứt
Xiển Đề, tin thọ
kinh điển Đại Niết bàn nầy, những người đây tất
hy hữu như lượng số đất trên móng tay.
Người lười biếng
phá giới, phạm bốn tội trọng, gây
năm tội nghịch, lạm dùng của Tăng, làm Nhứt
Xiển Đề dứt mất căn lành, chẳng tin
kinh Niết Bàn nầy, số lượng đông nhiều như đất trong
mười phương thế giới.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đức Như Lai biết rõ
căn tánh thượng trung hạ của
chúng sanh như vậy nên gọi là đầy đủ tri
chư căn trí lực.
Bạch
Thế Tôn !
Đức Như Lai có đủ tri
chư căn trí lực như vậy, nên biết rõ
căn tánh thượng trung hạ của tất cả
chúng sanh, biết rõ
căn tánh của
chúng sanh đời
hiện tại, cũng biết rõ
căn tánh của
chúng sanh đời
vị lai, biết rõ những
chúng sanh nầy sau khi Phật
nhập diệt sẽ nói rằng
đức Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn hoặc nói rằng
đức Như Lai không
rốt ráo nhập Niết Bàn, hoặc nói có ngã, hoặc nói không ngã, hoặc cho rằng có
trung ấm, hoặc không
trung ấm, hoặc nói có thối thất, hoặc không thối thất, hoặc nói thân
Như Lai là hữu vihoặc nói là
vô vi, hoặc có kẻ nói mười hai
nhơn duyên là
pháp hữu vi, hoặc nói là
pháp vô vi, hoặc nói tâm là
thường trụ, hoặc nói tâm là
vô thường, hoặc có người nói hưởng vui
ngũ dục thời hay chướng
thánh đạo, hoặc nói chẳng
chướng ngại, hoặc có kẻ nói thế
đệ nhứt chỉ thuộc về cõi dục hoặc nói thuộc về cả
ba cõi, hoặc nói
bố thí chỉ thuộc nơi
ý nghiệp, hoặc nói
bố thí thuộc nơi
ngũ ấm, hoặc nói có
ba pháp vô vi, hoặc nói không
ba pháp vô vi, hoặc nói có tạo sắc, hoặc nói không tạo sắc, hoặc nói có
vô tác sắc, hoặc nói
không vô tác sắc, hoặc nói có
tâm sở, hoặc nói
không tâm sở ; hoặc nói có năm
đại chủng, hoặc nói có
sáu đại chủng ; hoặc nói giới
Ưu Bà Tắc thọ đầy đủ
bát quan trai, hoặc nói chẳng thọ được đầy đủ ; hoặc nói
Tỳ Kheo đã
phạm tội tứ trọng mà
giới Tỳ Kheo vẫn còn, hoặc nói chẳng còn ; hoặc nói bực
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán, đều được
thành Phật, hoặc nói chẳng được thành : Hoặc nói chính nơi
chúng sanh có
Phật tánh, hoặc nói rời
chúng sanh có
Phật tánh ; hoặc nói hạng Nhứt
Xiển Đề phạm bốn tội trọng
năm tội nghịch đều có
Phật tánh, hoặc nói không có
Phật tánh ; hoặc nói có
chư Phật mười phương, hoặc nói không có
chư Phật mười phương.
Đức Như Lai thành tựu đầy đủ tri
chư căn trí lực như vậy, tại sao hôm nay chẳng nói
quyết định ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Những nghĩa như vậy chẳng phải là
nhãn thức biết được nhẫn đến chẳng phải là
ý thức biết được, đây là chỗ biết của
trí huệ. Nếu với người có
trí huệ, thời ta trọn chẳng nói phân hai, người trí nầy cũng cho rằng Phật chẳng nói phân hai. Với người
vô trí thời ta nói
bất định người
vô trí nầy cũng cho rằng Phật nói bất địng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả
công hạnh lành của
Như Lai đều vì
điều phục chúng sanh. Như tất cả phương thuốc của
lương y đều để chữa trị những
bịnh khổ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì
quốc độ, vì
thời tiết, vì
ngôn ngữ của người, vì
độ người, vì
căn tánh sai khác, nên
đức Như Lai ở trong một pháp mà nói phân hai, nơi một danh từ nói thành
vô lượng danh từ, nơi trong một nghĩa nói thành
vô lượng, nơi trong
vô lượng nghĩa nói thành
vô lượng.
Thế nào là một danh từ nói thành
vô lượng danh từ ? Như
Niết Bàn, cũng gọi là
Niết Bàn, là
vô sanh, là vô xuất, là
vô tác, là
vô vi, là
quy y, là nhà cửa, là
giải thoát, là
quang minh, là đèn sáng, là bờ kia, là
vô úy, là
bất thối, là chỗ
an ổn, là
tịch tịnh, là
vô tưởng, là
bất nhị, là nhứt hạnh, là
thanh lương, là không
tối tăm, là không
chướng ngại, là
vô tránh, là vô trược, là
quảng đại, là
cam lộ, là
cát tường.
Thế nào là một nghĩa nói thành
vô lượng ? Như
Đế Thích : Cũng gọi là
Đế Thích, cũng gọi là
Kiều Thi Ca, là Bà
Ta Bà, là
Phú Lan Đà La, là Ma Pháp Bà, là Nhơn
Đà La, là
Thiên Nhãn, là
Xá Chỉ Thiên, là
Kim Cang, là Bửu Đảnh, là Bửu Tràng.
Thế nào là nơi
vô lượng nghĩa nói thành
vô lượng ? Như
Phật Như Lai cũng gọi là
Như Lai, vì nghĩa khác nên tên cũng khác, gọi là
A La Ha, cũng gọi là
Tam Miệu Tam Phật Đà, cũng gọi là
Thuyền Sư, cũng gọi là
Đạo Sư, là
Chánh Giác, là
Minh Hạnh Túc, là
Sư Tử Vương, là
Sa Môn, là
Bà La Môn, là
Tịch Tịnh, là
Thí Chủ, là Đáo Bĩ Ngạn, là
Đại Y Vương, là Đại
Tượng Vương, là Đại
Long Vương, là Thí Nhãn, là
Đại Lực Sĩ, là Đại Vô Uùy, là Bửu Tựu, là
Thương Chủ, là
Đắc Thoát, là
Đại Trượng Phu, là
Thiên Nhơn Sư, là Đại Vân Đà Lợi, là
Vô Đẳng Lữ , là Đại
Phước Điền, là
Trí Huệ Hải, là
Vô Tướng, là
Bát Trí.
Lại có một nghĩa mà nói thành
vô lượng danh từ, như ấm : Cũng gọi là ấm, cũng gọi là
điên đảo, là đế, là
tứ niệm xứ, là
tứ thực, là chỗ ở của tứ thức, là hữu, là đạo, là thời, là
chúng sanh, là thế, là
đệ nhứt nghĩa, là ba pháp tu : Thân, giới và tâm, là nhơn quả, là
phiền não, là
giải thoát, là mười hai
nhơn duyên, là
Thanh Văn, là
Bích Chi Phật, là Phật, là
địa ngục,
ngạ quỉ,
súc sanh, nhơn, thiên, là
quá khứ,
hiện tại,
vị lai.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đức Như Lai vì
chúng sanh nên trong rộng mà nói lược, trong lược mà nói rộng, nơi
đệ nhứt nghĩa đế nói thành
thế đế, nơi
thế đế nói thành
đệ nhứt nghĩa đế.
Thế nào trong rộng mà nói lược ? Như ta bảo các
Tỳ Kheo : Hôm nay ta giảng nói mười hai
nhơn duyên. Thế nào gọi là mười hai
nhơn duyên ?
Chính là nhơn quả.
Thế nào gọi là trong lược mà nói rộng ? Như ta bảo các
Tỳ Kheo : Hôm nay ta giảng nói
khổ tập diệt đạo. Khổ là
vô lượng sự khổ, tập là
vô lượng phiền não, diệt là
vô lượng giải thoát, đạo là
vô lượng phương tiện.
Thế nào gọi là nơi
đệ nhứt nghĩa đế nói là
thế đế ? Như ta bảo các
Tỳ Kheo. Thân của ta đây có già bịnh chết.
Thế nào gọi là nơi
thế đế nói là
đệ nhứt nghĩa đế ? Như ta bảo
Kiều Trần Như : Vì ông
đắc pháp nên gọi là
A Nhã Kiều Trần Như.
Do vì
tùy theo người
tùy theo ý,
tùy theo thời như vậy, nên gọi
đức Như Lai có đủ tri
chư căn trí lực.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Đối với những nghĩa như vậy nếu ta nói
quyết định thời ta chẳng được gọi là
đức Như Lai có đủ tri
chư căn trí lực. Người có trí biết rằng chỗ mang chở của
hương tượng chẳng phải lừa ngựa mang nổi. Tất cả
chúng sanh có
vô lượng hành nghiệp, nên
đức Như Lai vì họ mà nói
vô lượng pháp, đó là do vì
chúng sanh có
vô lượng phiền não. Nếu
đức Như Lai nói một hạnh một
pháp thời chẳng gọi là
đức Như Lai có đủ tri
chư căn trí lực. Do đây nên trong các kinh khác ta nói rằng có năm hạng
chúng sanh chẳng nên vì họ nói năm thứ pháp : Vì người chẳng có
lòng tin thời chẳng
tán thán chánh tín, vì người
phá giới cấm thời chẳng
tán thán trì giới, vì người
xan tham thời chẳng
tán thán bố thí, vì người
giải đãi thời chẳng
tán thán đa văn vì người
ngu si thời chẳng
tán thán trí huệ. Nếu người trí vì năm hạng này mà nói năm việc trên đây, thời nên biết rằng người
thuyết pháp nầy chẳng có đủ tri
chư căn trí lực, cũng chẳng được gọi là
thương xót chúng sanh. Vì năm hạng nầy nếu nghe giảng nói năm điều trên đây thời họ sẽ sanh lòng nghi, lòng ác, lòng
sân hận, mà phải chịu
quả báo khổ trong
vô lượng đời. Do đây nên trước kia trong các kinh khác ta bảo
Xá Lợi Phất rằng : Ông phải
cẩn thận chớ vì người
lợi căn mà rộng
thuyết pháp, chớ vì người
độn căn mà lược
thuyết pháp.
Xá Lợi Phất bạch rằng tôi chỉ vì
thương xót mà
thuyết pháp, chẳng phải là có đủ tri
chư căn trí lực mà
thuyết pháp.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Thuyết pháp hoặc rộng hoặc lược là
cảnh giới của Phật, chẳng phải hàng
Thanh Văn và
Duyên Giác biết được.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như ông nói rằng sau khi Phật
nhập Niết Bàn hàng
đệ tử đều nói khác nhau, những người đó đều vì
điên đảo nên chẳng được
chánh kiến, chẳng thể lợi mình lợi người.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Chúng sanh chẳng phải chỉ có một tánh một hạnh , một căn, một
quốc độ, một
thiện tri thức. Do đây nên
đức Như Lai vì
chúng sanh mà tuyên
nói nhiều pháp yếu. Do
nhơn duyên nầy nên chư Phật trong
mười phương ba đời vì
chúng sanh mà khai thị
diễn thuyết mười hai bộ kinh.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đức Như Lai nói
mười hai bộ kinh đây chẳng phải để lợi cho mình mà chỉ
vì lợi ích cho người, nên
trí lực thứ năm của
Như Lai gọi là giải lực. Do hai
trí lực nầy nên
đức Như Lai biết rõ người nầy
hiện tại có thể dứt căn lành người nầy
đời sau có thể dứt căn lành, người nầy
hiện tại có thể
được giải thoát, người nầy
đời sau có thể
được giải thoát, do đây nên
đức Như Lai được là
vô thượng lực sĩ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu nói rằng
đức Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn, hoặc nói chẳng
rốt ráo nhập Niết Bàn, những người nầy chẳng
hiểu ý của
Như Lai nên nói những lời như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong núi
Hương Sơn có năm mươi ba ngàn vị tiên nhơn, những vị nầy đã
tu tập công đức nơi
đức Phật Ca Diếp thuở
quá khứ, họ chưa được
chánh đạo, chưa được gần gũi Phật để nghe
chánh pháp. Vì muốn độ những vị tiên nhơn nầy nên
đức Như Lai bảo
A Nan rằng ba tháng sau ta sẽ
nhập Niết Bàn.
Chư thiên truyền lời nầy đến núi
Hương Sơn. Các vị tiên nhơn
nghe tin Phật sắp
nhập Niết Bàn bèn sanh lòng
hối hận mà bảo nhau rằng tại sao
chúng ta được sanh trong nhơn đạo mà chẳng được gần gũi Phật. Chư Phật ra đời rất khó gặp như
hoa Ưu Đàm. Nay
chúng ta nên đến ra mắt
đức Thế Tôn để được nghe
chánh pháp.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Lúc đó năm mươi ba ngàn tiên nhơn liền đến ra mắt ta. Ta bèn theo cơ của họ mà
thuyết pháp : Nầy các
đại sĩ ! Sắc là
vô thường, vì
nhơn duyên của sắc là
vô thường. Đã từ nhơn
vô thường mà sanh thời sắc đâu phải là
thường trụ. Như sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Các tiên nhơn sau khi
nghe pháp yếu trên đây tất cả đều chứng được quả
A La Hán.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong thành
Câu Thi Na Kiệt có ba mươi muôn
lực sĩ tự thị sức mạnh của mình
ngạo nghễ không chịu
tùng phục ai.
Vì muốn
điều phục các
lực sĩ nầy nên ta bảo
Mục Liên đến
điều phục các
lực sĩ ấy. Lúc đó
Mục Kiền Liên tuân lịnh ta, trọn năm năm
giáo hóa nhiều cách, nhưng chẳng thể
điều phục được một
lực sĩ. Do đây nên ta bảo
A Nan rằng sau ba tháng
đức Phật sẽ
nhập Niết Bàn. Các
lực sĩ nghe được tin nầy bèn họp nhau sửa sang đường sá.
Đến ngày ta từ nước
Tỳ Xá Ly đến thành
Câu Thi Na. Giữa đường thấy các
lực sĩ, ta liền
hóa thân làm vị
Sa Môn hỏi các
lực sĩ rằng : Bọn
đồng tử kia làm việc
gì thế ?ù Các
lực sĩ đều
nổi giận nói rằng : Nầy
Sa Môn ! Tại sao ông gọi
chúng ta là
đồng tử ?
Ta bảo các
lực sĩ bọn ngươi đến ba mươi muôn người mà không
đủ sức dời nổi hòn đá nhỏ nhít nầy, nên ta gọi là
đồng tử đâu phải lời
quá đáng.
Các
lực sĩ nói nếu ông gọi
chúng ta là
đồng tử, thời ông phải là bực đại nhơn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Lúc đó ta dùng hai ngón chơn hất văng hòn đá ấy. Các
lực sĩ thấy như vậy liền hết khinh ngạo mà nói rằng : Nầy
Sa Môn ! Nay ông có thể dời hòn đá nầy ra khỏi đường chăng ? _ Ta nói nầy các
đồng tử ! Do
nhơn duyên gì mà các người sửa sang
con đường nầy ? _ Các
lực sĩ nói nầy
Sa Môn ! Đức
Thích Ca Như Lai sẽ do
con đường nầy đi đến rừng
Ta La mà
nhập Niết Bàn, nên
chúng ta họp nhau lại sửa sang. Ta khen rằng :
Lành thay ! Các
đồng tử đã
phát tâm tốt như vậy, ta sẽ dời hòn đá nầy cho các ông.
Nói xong ta liền lấy tay bưng hòn đá dồi lên giữa
hư không. Các
lực sĩ kinh hải muốn chạy tránh. Ta liền bảo họ rằng : Các ngươi chẳng nên kinh sợ ! Rồi ta lấy tay hứng bắt hòn đá để trên bàn tay mặt.
Các
lực sĩ đều
vui mừng khen ngợi hỏi rằng : Nầy
Sa Môn ! Hòn đá ấy là
thường hay vô thường ?
Ta liền dùng miệng thổi hòn đá tan nát ra như cát bụi.
Các
lực sĩ thấy như vậy đồng
cất tiếng xướng rằng hòn đá ấy là
vô thường ! Họ sanh lòng
hổ thẹn không còn có
tâm niệm kiêu mạn.
Ta liền hiện lại hình Phật mà vì họ
thuyết pháp. Ba mươi muôn
lực sĩ đều
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nơi thành
Câu Thi Na có người thợ tên
Thuần Đà. Người nầy nơi
thời kỳ đức Phật Ca Diếp đã
phát nguyện rằng : Lúc
Thích Ca Như Lai nhập Niết Bàn ta sẽ là người
cúng dường bữa ăn cuối cùng cho Phật. Do đây nên ta ở nước
Tỳ Xá Ly bảo
Tỳ Kheo Ưu Bà Ma Na rằng sau ba tháng ta sẽ
nhập Niết Bàn nơi rừng
Ta La trong thành
Câu Thi Na, ông nên qua cho
Thuần Đà hay !
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong thành
Vương Xá có vị
Ngũ Thông Tiên Nhơn tên là
Tu Bạt Đà La được một trăm hai mươi tuổi. Tiên nhơn nầy thường tự xưng là bực
nhứt thiết trí sanh lòng
kiêu mạn. Tiên nhơn nầy đã
vun trồng căn lành nơi
vô lượng chư Phật thuở
quá khứ.
Vì muốn
điều phục Tiên nhơn nầy nên ta bảo
A Nan rằng sau ba tháng ta sẽ
nhập Niết Bàn !
Tu Bạt Đà La nghe tin nầy sẽ sanh lòng kính tin mà đến ra mắt ta. Ta sẽ độ ông
chứng quả A La hán.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nơi thành
La Duyệt Kỳ,
Thái Tử Thiện Kiến muốn hại vua cha là
Tần Bà Ta La, mà chưa có dịp hại được. Lúc đó
Đề Bà Đạt Đa cũng muốn hại ta, bèn
tu tập chứng được
ngũ thông, làm
bạn thân với
Thái Tử Thiện Kiến. Vì
Thái Tử mà hiện
thần thông.
Thái Tử rất kính mến
cúng dường trọng hậu.
Một lúc kia
Thái Tử thưa với
Đề Bà Đạt Đa rằng : Bạch
Đại Sư Thánh nhơn, nay tôi muốn thấy
hoa Mạn Đà La.
Đề Bà Đạt Đa liền đến cung
trời Đao Lợi, xin bông
Mạn Đà La, vì phước đã hết nên không vị trời nào chịu cho. Xin không được bông,
Đề Bà Đạt Đa suy nghĩ rằng :
Cây Mạn Đà La vốn không ngã, không
ngã sở, nếu ta tự lấy bông nào có tội gì. Nghĩ xong
Đề Bà Đạt Đa đến bên cây muốn lấy bông, liền mất
thần thông,
trở lại thấy thân mình ở nơi thành
Vương Xá, sanh lòng
hổ thẹn chẳng dám đến gặp
Thái Tử Thiện Kiến.
Đề Bà Đạt Đa lại nghĩ rằng nay ta nên đến chỗ Phật đòi
đại chúng. Nếu Phật cho ta sẽ
tùy ý sai bảo Xá Lợi Phất v.v…
Đề Bà Đạt Đa liền đến chỗ Phật mà bạch rằng : Ngưỡng mong
đức Như Lai đem
đại chúng nầy
giao phó cho tôi, tôi sẽ
thuyết pháp giáo hóa họ.
Phật nói : Người
ngu si !
Xá Lợi Phất v.v… là bực
thông minh đại trí mọi người tin phục, mà ta còn chẳng đem
đại chúng giao phó, huống ngươi là người
ngu si ăn nước miếng của kẻ khác ư !
Lúc đó
Đề Bà Đạt Đa càng sanh
ác tâm nói rằng : Nầy
Cù Đàm. Nay dầu ông
điều phục đại chúng, nhưng thế cũng chẳng được lâu sẽ phải bị
tiêu diệt ! Vừa nói xong
đất liền rúng động,
Đề Bà Đạt Đa té xuống đất, bên thân ông ấy phát ra luồng gió mạnh thổi bụi đất lấm dơ cả mình.
Đề Bà Đạt Đa thấy tướng xấu nầy lại nói rằng : Nếu thân ta hiện đời phải đọa
A Tỳ địa ngục, ta phải báo sự oán thù lớn nầy.
Đề Bà Đạt Đa liền đến chỗ
Thái Tử Thiện Kiến.
Thái Tử : Hỏi
Đại sư Thánh nhơn cớ sao
dung nhan tiều tụy sắc diện lo buồn ?
Đề Bà Đạt Đa nói : Ta luôn luôn như
vậy mà Thái Tử chẳng biết ư ?
Thái Tử hỏi : Có
nhơn duyên gì như vậy ? Xin
Đại Sư dạy rõ .
Đề Bà Đạt Đa nói : Nay ta cùng
Thái Tử thân mến nhau. Người ngoài
mắng nhiếc Thái Tử, lẽ đâu ta chẳng lo buồn.
Thái Tử hỏi : Người ta
mắng nhiếc tôi như thế nào ?
Đề Bà Đạt Đa nói :
Mọi người mắng
Thái Tử là
vị sanh oán.
Thái Tử hỏi : Sao lại gọi tôi là
vị sanh oán ? Ai đặt ra danh từ nầy ?
Đề Bà Đạt Đa nói : Lúc chưa sanh
Thái Tử, tất cả
tướng sư đều bảo rằng lúc đứa trẻ nầy lớn lên sẽ giết cha do đó người ngoài đều gọi
Thái Tử là
vị sanh oán. Người trong cung vì muốn
Thái Tử vui lòng nên đặt là
Thiện Kiến.
Vi Đề Hy phu nhơn
nghe lời tướng sư, lúc sanh
Thái Tử từ trên lầu cao ném xuống đất, làm gãy mất một ngón tay của
Thái Tử. Do cớ nầy nên
mọi người lại gọi tên
Thái Tử là Chiết Chỉ. Ta nghe những việc nầy trong lòng lo buồn, nhưng lại chẳng dám nói với
Thái Tử.
Đề Bà Đạt Đa đem những việc ác như vậy xúi
Thái Tử giết vua cha mà bảo rằng : Nếu
Thái Tử giết vua cha, thời ta cũng có thể giết
Sa Môn Cù Đàm.
Thái Tử hỏi đại thần Võ Hành. Đại
thần thuật sự tích đặt tên đúng như lời của
Đề Bà Đạt Đa.
Thái Tử nghe xong liền cùng đại thần bắt vua cha giam ở ngoài thành sai bốn đội binh
giữ gìn nghiêm ngặt. Phu nhơn
Vi Đề Hy đến thăm vua. Người giữ cửa nhà giam chẳng cho vào. Phu nhơn cả giận bèn
quở mắng. Người giữ cửa đem việc nầy thưa với
Thái Tử.
Thái Tử Thiện Kiến giận dữ vào cung nắm tóc mẹ rút gươm muốn chém.
Kỳ Bà liền đến can rằng : Tâu
Đại Vương ! Từ khi lập quốc
đến nay, dầu tội rất nặng cũng chẳng xử đến người nữ, huống là mẹ đẻ.
Thái Tử vì nể
Kỳ Bà nên không giết phu nhơn. Dứt hẳn sự uống ăn thuốc men của vua cha. Quá bảy ngày vua cha chết.
Thiện Kiến Thái Tử mới sanh lòng
hối hận.
Đại Thần Võ Hành tâu rằng : Tất cả
hành nghiệp đều không có tội, sao
Đại Vương lại sanh lòng
hối hận buồn rầu.
Kỳ Bà tâu rằng :
Đại Vương nên biết rằng
việc làm của
Đại Vương gồm hai tội nặng : một là tội giết cha, hai là tội giết
Tu Đà Hoàn. Tội nặng như vậy trừ Phật không ai có thể làm cho tội đó được
trừ diệt.
Vua nói
Đức Như Lai thanh tịnh ta là người tội nhơ uế làm sao dám đến thấy Phật.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta biết việc nầy nên bảo
A Nan rằng sau ba tháng ta sẽ
nhập Niết Bàn.
Thái Tử Thiện Kiến nghe tin nầy liền đến ra mắt ta. Ta vì
Thiện Kiến mà
thuyết pháp, do đây tội nặng được bớt nhẹ,
Thiện Kiến được
vô căn tín.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Hàng
đệ tử của ta nghe những lời nầy chẳng
hiểu ý của ta, nên cho rằng
đức Như Lai quyết định nói
rốt ráo nhập Niết Bàn.
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát : Nầy
Thiện Nam Tử !
Bồ Tát có hai hạng : Một là thật nghĩa, hai là
giả danh.
Giả danh Bồ Tát nghe tin Phật sau ba tháng sẽ
nhập Niết Bàn, đều sanh lòng thối thất mà nói rằng :
Đức Như Lai còn là
vô thường, tại sao
chúng ta lại vì sự
vô thường mà lại
cần khổ trong
vô lượng đời.
Đức Như Lai thành tựu đầy đủ
vô lượng công đức mà còn không thể
phá hoại được
tử ma, huống là bọn ta.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta vì hạng
Bồ Tát nầy mà nói rằng
Như Lai thường trụ không có
biến đổi.
Các
đệ tử của ta
nghe lời trên đây chẳng
hiểu ý của ta bèn xướng rằng
đức Như Lai trọn chẳng
rốt ráo nhập Niết Bàn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có những
chúng sanh chấp
đoạn kiến bảo rằng tất cả
chúng sanh sau khi
thân thể chết mất, những nghiệp thiện,
nghiệp ác không có người
lãnh thọ. Ta vì những người nầy mà nói rằng
quả báo lành cũng như
quả báo ác thiệt có người
lãnh thọ. Do đâu biết rằng có ?
Như thuở
quá khứ nơi thành
Câu Thi Na có
Thiện Kiến Vương : Lúc làm
đồng tử trải qua tám muôn bốn ngàn tuổi,
thời kỳ làm
Thái tử trải qua tám muôn bốn ngàn tuổi, đến lúc
lên ngôi vua cũng
trải qua tám muôn bốn ngàn tuổi.
Thiện Kiến Vương ngồi riêng
một mình suy nghĩ rằng :
Chúng sanh phước mỏng tuổi thọ ngắn ngủi,
thường có bốn thứ
oan gia theo dỏi mà
chúng sanh chẳng hay biết, mãi
phóng dật. Ta nên
xuất gia tu hành dứt tuyệt bốn thứ
oan gia sanh, già, bịnh, chết. Nhà vua sai quan xây nhà
thất bảo ở ngoài thành rồi bảo quần thần, hậu phi, các vương tử cùng tất cả
quyến thuộc :Nay ta muốn
xuất gia các người có bằng lòng không ? Các đại thần cùng
quyến thuộc đều bằng lòng.
Thiện Kiến Vương đem theo một người hầu hạ qua ở nơi nhà
thất bảo tu tập từ tâm trải qua tám muôn bốn ngàn năm. Do sự
tu tập từ tâm nầy nên sau đó
trải qua tám muôn bốn ngàn đời thường làm
Chuyển Luân Thánh Vương, ba mươi đời làm
Thích Đề Hoàn Nhơn,
vô lượng đời làm tiểu
quốc vương.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Thiện Kiến Vương thuở xưa đó chính là
tiền thân của ta. Các
đệ tử của ta nghe những lời trên đây chẳng hiểu được ý của ta bèn nói rằng :
Đức Như Lai quyết định nói có ngã và có
ngã sở.
Lại một
thời kỳ kia ta vì
chúng sanh mà nói rằng ngã chính là tánh, nghĩa là những
nhơn duyên trong thân ngoài cảnh, mười hai
nhơn duyên,
ngũ ấm, tâm, giới,
công đức,
hành nghiệp,
tự tại thiên chính đây gọi là ngã. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai quyết định nói có ngã.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ngày kia có một
Tỳ Kheo đến bạch rằng :
Thế Tôn ! Thế nào gọi là ngã, ai là ngã ? Duyên gì mà có ngã ? Ta bảo
Tỳ Kheo đó rằng : Nầy
Tỳ Kheo không có
ngã không có
ngã sở. Ngã đó chính là trước không mà nay có, có rồi
trở lại không. Lúc nó
sanh không từ đâu lại, lúc nó diệt cũng không đến đâu. Dầu có
nghiệp quả mà không có
tác giả, không có ai rời bỏ
ngũ ấm cũng
như không có ai thọ lấy
ngũ ấm. Như lời ông hỏi thế nào là ngã ? Ngã đó chính là
thời kỳ vậy. Ai là ngã ? Chính là nghiệp vậy. Duyên gì mà có ngã ? Chính là ái vậy. Nầy
Tỳ Kheo ! Như hai tay vổ nhau trong đó phát ra tiếng. Ngã cũng như vậy,
chúng sanh, nghiệp, ái, do ba
nhơn duyên nầy mà gọi đó là ngã. Nầy
Tỳ Kheo ! Nơi tất cả
chúng sanh, sắc chẳng phải là ngã, trong
ngã không có sắc, trong
sắc không có ngã,
thọ tưởng hành thức cũng như vậy. Nầy
Tỳ Kheo ! Các
ngoại đạo dầu nói là có ngã nhưng trọn chẳng lìa
ngũ ấm. Không bao giờ có thể nói rằng riêng có ngã rời ngoài
ngũ ấm. Tất cả
chúng sanh,
hành nghiệp như huyễn hóa như dương diệm. Nầy
Tỳ Kheo !
Ngũ ấm đều là
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Lúc ta giảng dạy những lời trên đây, có
vô lượng Tỳ Kheo quán
ngũ ấm là
vô ngã, là không
ngã sở, mà chứng đặng quả
A La Hán.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Các
đệ tử của ta
nghe lời nói trên đây chẳng hiểu được ý của ta cho rằng
đức Như Lai quyết định nói
vô ngã.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
khế kinh ta lại nói rằng do ba sự hòa hiệp mà có thân :
Cha mẹ,
trung ấm. Hoặc có lúc ta nói bực
A Na Hàm nơi
hiện thân nhập Niết Bàn, hoặc nói nơi
thân trung ấm nhập Niết Bàn. Hoặc nói rằng
thân căn của
trung ấm minh mẫn sáng suốt đều
do nơi hạnh nghiệp đời trước, như
đề hồ trong sạch.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có lúc ta nói rằng
chúng sanh tệ ác thọ
thân trung ấm xấu xí như vải bố thô.
Chúng sanh thuần thiện thọ
thân trung ấm tốt đẹp như lụa trắng. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói có
thân trung ấm.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta lại vì những
chúng sanh phạm tội nghịch mà nói rằng kẻ tạo tội
ngũ nghịch sau khi chết chẳng vào
địa ngục A Tỳ.
Ta lại nói rằng
Tỳ Kheo Đàm Ma Lưu Chi,
sau khi chết chẳng vào
địa ngục A Tỳ, nơi khỏang giữa không chỗ dừng ở.
Ta lại bảo
Phạm Chí Độc Tử : Nầy
Phạm Chí ! Nếu có
thân trung ấm thời có sáu sự có. Ta lại nói có
chúng sanh cõi
vô sắc không có
thân trung ấm. Các
đệ tử của ta
nghe lời trên đây chẳng hiểu được ý của ta bèn nói rằng
đức Phật quyết định nói không
thân trung ấm.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
khế kinh ta lại nói có thối thất. Nhơn nơi
vô lượng sự
giải đãi biếng trể, các
Tỳ Kheo chẳng
tu hành đạo hạnh nên nói có năm điều thối thất : Một là thích nhiều việc, hai là thích nói
việc đời, ba là ưa ngủ nghỉ, bốn là ưa gần người
tại gia, năm là ưa thường dạo đi, do năm
nhơn duyên nầy làm cho
Tỳ Kheo thối thất.
Nhơn duyên thối thất lại có hai thứ : Một là nội nhơn, hai là ngoại nhơn, bực
A La Hán dầu rời khỏi nội nhơn chẳng lìa ngoại nhơn. Do
nhơn duyên ngoài nên sanh
phiền não. Vì sanh
phiền não thời thối thất.
Có
Tỳ Kheo tên là
Cù Đàm , sáu phen thối thất, sanh lòng
hổ thẹn lại
tiến tu lần thứ bảy bèn được, được rồi sợ thối thất lấy dao tự đâm mình mà chết.
Ta lại nói có lúc
giải thoát, hoặc nói sáu hạng
A La Hán. Các
đệ tử của ta nghe những lời nầy chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng
đức Như lai quyết định nói có thối thất.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong kinh lại nói như đã cháy thành than thời chẳng còn
trở lại làm cây gỗ. Như bình đã bể thời không còn
công dụng của bình.
Phiền não cũng như vậy,
A La Hán đã dứt thời trọn chẳng có lại nữa.
Ta cũng nói
chúng sanh nhơn duyên có
phiền não do ba điều : Một là chưa dứt
phiền não, hai là chẳng dứt
nhơn duyên, ba là chẳng khéo
suy nghĩ. Bực
A La Hán không có hai điều : Nghĩa là đã dứt
phiền não và đã khéo
suy nghĩ. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy , chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai quyết định nói không thối thất.
Trong
khế kinh ta nói thân của
Như Lai có hai thứ : Một là
sanh thân, hai là
pháp thân.
Sanh thân là thân
phương tiện ứng hóa. Thân nầy có thể nói là sanh già bịnh chết, cao thấp đen trắng, là đây là kia là học là
vô học. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai quyết định nói thân Phật là
pháp hữu vi.
Pháp thân là
thường lạc ngã tịnh, lìa hẳn tất cả sanh già bịnh chết, chẳng phải trắng đen, chẳng phải cao thấp, chẳng phải đây kia, chẳng phải
học vô học, Phật ra đời hoặc chẳng ra đời vẫn
thường trụ chẳng động không
biến đổi. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng hiểu được ý của ta, bèn cho rằng
đức Như lai quyết định nói thân Phật là
pháp vô vi.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
khế kinh ta nói mười hai
nhơn duyên : Từ
vô minh sanh ra hành, từ hành sanh ra thức, từ thức sanh ra
danh sắc, từ
danh sắc sanh ra
lục nhập, từ
lục nhập sanh ra xúc, từ xúc sanh ra thọ, từ thọ sanh ra ái,
từ ái sanh ra thủ, từ thủ sanh ra hữu, từ hữu sanh ra sanh, từ sanh thời có già chết buồn khổ. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng hiểu được ý của ta bèn nói rằng
đức Như Lai nói mười hai
nhơn duyên quyết định là
hữu vi.
Lại một ngày kia ta bảo các
Tỳ Kheo rằng mười hai
nhơn duyên tánh tướng là
thường trụ không luận có Phật hay không Phật. Có mười hai duyên chẳng từ
duyên sanh, có từ
duyên sanh chẳng phải mười hai duyên, có từ
duyên sanh cũng là mười hai duyên, có chẳng phải
duyên sanh mà cũng chẳng phải là mười hai duyên.
Có mười hai duyên chẳng phải là
duyên sanh, chính là mười hai chi đời
vị lai. Có từ
duyên sanh mà chẳng phải là mười hai chính là thân
ngũ ấm của
A La Hán. Có từ
duyên sanh cũng là mười hai
duyên chính là thân
ngũ ấm của
phàm phu. Mười hai
nhơn duyên chẳng phải là
duyên sanh, chẳng phải mười hai
duyên chính là
hư không Niết Bàn.
Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng hiểu được ý của ta, bèn cho rằng
đức Như Lai nói mười hai
nhơn duyên quyết định là
vô vi.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
khế kinh ta nói tất cả
chúng sanh tạo nghiệp
thiện ác, lúc chết,
tứ đại nầy liền hư hoại. Người tạo nghiệp thuần
thiện tâm thức liền
đi lên, người tạo nghiệp thuần
ác tâm thức liền
đi xuống. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu được ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói tâm
quyết định là
thường trụ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Một thuở kia ta nói với vua
Tần Bà Ta La rằng : Nầy
Đại vương ! Sắc là
vô thường vì từ nhơn
vô thường mà sanh ra sắc. Nếu sắc đã từ nhơn
vô thường mà sanh, người trí không bao giờ nói sắc là thường. Nếu sắc là thường lẽ ra chẳng
hoại diệt sanh các
khổ não. Nay thấy sắc
hoại diệt nên biết rằng sắc là
vô thường. Như sắc,
thọ tưởng hành thức cũng như vậy.
Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói tâm
quyết định đoạn diệt.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
khế kinh ta nói hàng
đệ tử lãnh thọ những hoa hương
vàng bạc vật báu vợ con tôi tớ,
tám vật bất tịnh chứng được
chánh đạo cũng chẳng rời bỏ những vật ấy. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói hưởng thọ
ngũ dục chẳng
chướng ngại thánh đạo.
Lại có lúc ta nói người
tại gia không thể chứng được
chánh đạo. Hàng
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói hưởng thọ
ngũ dục quyết định chướng ngại chánh đạo.
Trong
khế kinh ta nói
xa lìa phiền não chưa
được giải thoát như cõi dục
tu tập pháp thế
đệ nhứt. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói pháp thế
đệ nhứt chỉ là cõi dục.
Trong
khế kinh ta lại nói
noãn pháp, đảnh pháp,
nhẫn pháp, thế
đệ nhứt pháp thuộc nơi
sơ thiền đến
tứ thiền. Với các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói bốn pháp ấy thuộc nơi cõi sắc. Trong
khế kinh ta lại nói hàng
ngoại đạo đã dứt được
phiền não cõi
tứ thiền tu tập noãn pháp đảnh pháp,
nhẫn pháp, thế
đệ nhứt pháp, quán
tứ đế chứng quả A Na Hàm. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói thế
đệ nhứt pháp thuộc nơi cõi
vô sắc.
Trong
khế kinh ta từng nói trong bốn thứ
bố thí có ba điều
trong sạch : Một là
thí chủ tin nhơn tin quả tin
bố thí, người thọ chẳng tin nhơn, chẳng tin quả cùng
bố thí, hai là
thí chủ chẳng
tin nhơn quả và
bố thí, người thọ
tin nhơn quả và
bố thí ; ba là thí chỉ và người thọ cả hai đều có
lòng tin ; bốn là
thí chủ và người thọ cả hai đều chẳng tin. Bốn thứ
bố thí trên đây ba hạng
ban đầu là
trong sạch. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói
bố thí chỉ thuộc nơi ý.
Có một lúc kia ta lại nói rằng người
bố thí lúc
bố thí đem năm việc ra
bố thí : Một là
bố thí sắc, hai là
bố thí sức lực, ba là
bố thí an ổn, bốn là
bố thí mạng sống, năm là
bố thí biện tài, do
nhơn duyên nầy nên
thí chủ trở lại được năm
quả báo. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng
đức Phật nói
bố thí tức là
năm ấm.
Có một lúc ta nói rằng :
Niết Bàn tức là
viễn ly,
phiền não dứt hẳn không còn thừa sót, như đèn đã tắt, không còn pháp gì sanh
trở lại,
Niết Bàn cũng như vậy.
Nói
hư không đó tức là không chỗ có, như
trong đời gọi chỗ không có là
hư không, chẳng phải do trí dứt mới không chỗ có. Nếu
hư không là có lẽ ra phải có
nhơn duyên nếu đã có
nhơn duyên lẽ ra phải có dứt diệt, bởi
hư không vốn là không nên không có dứt diệt. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng
đức Phật nói không có
ba pháp vô vi.
Một lúc kia ta bảo
Mục Kiền Liên rằng luận về
Niết Bàn tức là chương cú, tức là dấu vết, tức là chỗ
rốt ráo, là chỗ
vô sở úy, là bực
đại sư, là đại quả, là trí
rốt ráo, là đại nhẫn, là
vô ngại tam muội, là
đại pháp giới, là
cam lộ vị, là khó thấy biết. Nầy
Mục Kiền Liên ! Nếu nói rằng không
Niết Bàn, tại sao có người sanh lòng hủy báng
Niết Bàn lại phải đọa
địa ngục. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói có
Niết Bàn.
Lại một lúc kia ta bảo
Mục Kiền Liên rằng
nhãn căn chẳng bền chắc nhẫn đến thân cũng chẳng bền chắc. Vì chẳng bền chắc nên gọi là
hư không. Ăn nuốt xuống rồi xoay chuyển
tiêu hóa. Tất cả
âm thanh đều gọi là
hư không. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai quyết định nói có
hư không vô vi.
Ta lại bảo
Mục Kiền Liên có người chưa được quả
Tu Đà Hoàn, lúc trụ nơi
nhẫn pháp, dứt
vô lượng quả báo trong
ba đường dữ, nên biết rằng chẳng phải trừ nơi trí mà dứt diệt. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta, bèn cho rằng
đức Như Lai quyết định nói có chẳng phải do trí mà dứt diệt. Lại một lúc kia ta nói với
Tỳ Kheo Bạt Ba nếu
Tỳ Kheo quán nơi sắc : Hoặc
quá khứ,
vị lai,
hiện tại, hoặc gần hoặc xa, hoặc thô hoặc tế, những sắc như vậy chẳng phải là ngã chẳng phải
ngã sở : Quán như vậy có thể dứt được lòng
tham ái nơi sắc, _ Bạt Ba bạch rằng : Thế nào gọi là sắc ?
_ Ta đáp :
Tứ đại gọi rằng sắc,
thọ tưởng hành thức bốn ấm nầy gọi là danh. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai quyết định nói sắc là
tứ đại.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta lại nói rằng như nhơn nơi mặt gương mà có bóng hình
hiện ra, sắc cũng như vậy nhơn nơi
tứ đại tạo thành. Chính là những thứ to, nhỏ, rít, trơn, xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, vắn, vuông, tròn, cong , ngay, nhẹ, nặng, lạnh, nóng,
đói khát, khói, mây , bụi mù, đây gọi là những sắc do
tứ đại tạo thành dường như vang bóng. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói có
tứ đại thời có sắc do
tứ đại tạo thành, hoặc nói có
tứ đại mà không có sắc.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trước kia Phương Tử
Bồ Đề nói rằng nếu có
Tỳ Kheo trì giới lúc
phát tâm ác, nên biết rằng lúc đó mất
giới Tỳ Kheo. Ta
nghe lời nầy bèn bảo rằng : Nầy Phương Tử ! Giới có bảy thứ từ nơi thân và miệng mà có
vô tác biểu sắc. Do
nhơn duyên vô tác biểu sắc nầy nên dầu tâm của
Tỳ Kheo ở trong ác
vô ký nhưng chẳng gọi là mất giới, vẫn còn gọi là
trì giới. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Phật nói có
vô tác biểu sắc.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong các kinh khác ta có nói rằng giới chính là ngăn chế pháp ác, nếu chẳng làm ác đây gọi là
trì giới. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn xướng rằng
đức Như Lai quyết định nói không có
vô tác biểu sắc.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
khế kinh ta từng nói
sắc ấm của thánh nhơn nhẫn đến
thức ấm đều là do
vô minh sanh ra. Tất cả
phàm phu cũng như vậy, từ
vô minh sanh ra ái, nên biết rằng ái nầy chính là
vô minh,
từ ái sanh ra thủ, nên biết rằng thủ nầy chính là
vô minh ái. Tù thủ sanh ra hữu, hữu nầy chính là
vô minh ái thủ. Từ hữu sanh ra thọ, nên biết rằng thọ nầy chính là
hành hữu. Từ nơi thọ sanh ra
danh sắc,
vô minh ái, thủ, hữu, hành, thọ, xúc, thức, lục, nhập v.v… do đây nên thọ chính là mười hai chi. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói không có
tâm sở.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
khế kinh ta từng nói từ nơi nhãn, sắc, minh và
ác dục, do bốn thứ nầy làm
nhơn duyên sanh ra
nhãn thức.
Ác dục trong đây chính là
vô minh, lúc
dục cầu thời gọi là ái, do ái mà có thủ, thủ đây gọi là nghiệp, nghiệp làm duyên cho thức, thức làm duyên cho
danh sắc,
danh sắc làm duyên cho
lục nhập,
lục nhập làm duyên cho xúc, xúc làm duyên cho tưởng thọ ái, tín,
tinh tấn định và huệ, những pháp nầy nhơn nơi xúc mà sanh nhưng chẳng phải là xúc. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói có
tâm sở.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Hoặc có lúc ta nói chỉ có một cỏi, hoặc nói hai ba bốn năm sáu mười tám chín nhẫn đến hai mươi lăm cõi. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói có năm cõi, hoặc nói có sáu cõi.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ngày trước lúc ở nơi rừng
Ni Câu Đà tại
thành Ca Tỳ La Vệ,
Thích Ma Nam bạch với ta rằng :
Thế Tôn sao gọi là
Ưu Bà Tắc ? Ta nói : Nếu có
Thiện nam tử hoặc
Thiện nữ nhơn nào căn thân đầy đủ thọ ba pháp
quy y thời gọi là
Ưu Bà Tắc.
Thích Ma Nam lại hỏi :
Thế Tôn sao gọi là nhứt phần
Ưu Bà Tắc ? Ta nói : Nếu thọ ba pháp
quy y và thọ một giới thời gọi là nhứt phần
Ưu Bà Tắc. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói
Ưu Bà Tắc được thọ từ phần.
Lại một lúc kia ta ở bên
sông Hằng,
Ca Chiên Diên đến bạch với ta rằng :
Thế Tôn ! Tôi
giáo hoá chúng sanh khiến họ
thọ pháp bát quan trai : Hoặc một ngày, hoặc một đêm, hoặc một giờ, hoặc một niệm, những người nầy được thành
trai pháp chăng ? Ta nói : Này
Ca Chiên Diên, những người nầy chỉ được điều lành mà chẳng được gọi là được
trai pháp. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn nói rằng
đức Như Lai nói pháp
bát quan trai thọ đủ mới được.
Trong
khế kinh ta từng nói rằng nếu có
Tỳ Kheo đã phạm bốn tội trọng thời chẳng gọi là
Tỳ Kheo, gọi là phá
Tỳ Kheo, hư mất
Tỳ Kheo chẳng còn có thể sanh
chủng tử pháp lành, như hột giống đã cháy chẳng còn mọc mầm sanh bông trái , như
cây đa la nếu ngọn đã bị đứt thời chẳng còn sanh trái. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói các
Tỳ Kheo phạm giới trọng rồi bèn mất
giới Tỳ Kheo.
Trong
khế kinh , ta vì
Thuần Đà mà nói bốn hạng
Tỳ Kheo : Một là hạng
rốt ráo đến
chánh đạo, hai là hạng chỉ bày
chánh đạo, ba là hạng
lãnh thọ chánh đạo, bốn là hạng
nhiễm ô chánh đạo. Người phạm bốn tội trọng là hạng
nhiễm ô chánh đạo. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói các
Tỳ Kheo đã phạm bốn tội trọng chẳng mất giới.
Trong
khế kinh ta bảo các
Tỳ Kheo có
nhứt thừa, nhứt đạo, nhứt hạnh, nhứt duyên, bốn pháp nầy có thể làm cho
chúng sanh được đại
tịch tịnh, dứt hẳn tất cả sự
ràng buộc sầu khổ,
khổ quả cùng khổ nhơn, làm cho tất cả
chúng sanh đến nơi
nhứt thừa. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói
Tu Đà Hoàn nhẫn đến
A La Hán đều được
Phật đạo.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
khế kinh ta nói
Tu Đà Hoàn bảy lần sanh qua lại trong nhơn gian cùng
cõi trời, bèn chứng
A La Hán nhập Niết Bàn.
Tư Đà Hàm một lần sanh trong nhơn gian và
cõi trời bèn
nhập Niết Bàn.
A Na Hàm phàm có năm hạng : Hoặc có
trung gian nhập Niết Bàn nhẫn đến
thượng lưu nhập Niết bàn.
A La Hán phàm có hai hạng : Một là
hiện tại, hai là
vị lai,
hiện tại cũng dứt
phiền não ngũ ấm,
vị lai cũng dứt
phiền não ngũ ấm. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói
Tu Đà Hoàn đến
A La Hán chẳng được
Phật đạo.
Trong
khế kinh ta từng nói
Phật tánh đủ có sáu điều : Một là thường, hai là thật, ba là chơn, bốn là thiện, năm là tịnh, sáu là có thể thấy. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói
Phật tánh của
chúng sanh rời ngoài
chúng sanh mà có.
Ta lại nói
Phật tánh của
chúng sanh như
hư không.
Hư không chẳng phải
quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải
nội ngoại, chẳng phải sắc thinh hương vị xúc,
Phật tánh cũng như vậy. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói
Phật tánh của
chúng sanh rời ngoài
chúng sanh mà có.
Ta lại nói
Phật tánh của
chúng sanh dường như kho
châu báu ẩn kín trong nhà của bần nữ, như
Kim Cang bảo châu ẩn trên trán của
lực sĩ, như suối
Cam Lộ của
Chuyển Luân Thánh Vương. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói
Phật tánh của
chúng sanh rời ngoài
chúng sanh mà có.
Ta lại nói hàng Nhứt
Xiển Đề phạm bốn tội trọng, hủy báng
kinh điển đại thừa, tạo tội
ngũ nghịch đều có
Phật tánh. Những
chúng sanh nầy đều không có pháp lành.
Phật tánh là lành. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói
Phật tánh của
chúng sanh rời ngoài
chúng sanh mà có.
Ta lại nói
chúng sanh chính là
Phật tánh, vì nếu rời
chúng sanh thời chẳng được
vô thượng Bồ Đề. Do đây nên ta vì
vua Ba Tư Nặc mà nói ví dụ
rờ voi : Như bọn người mù nói hình dạng của voi, dầu chẳng trúng nhưng đều chẳng rời ngoài voi.
Chúng sanh nói sắc, nói
thọ tưởng hành thức là
Phật tánh cũng như vậy, dầu chẳng phải là
Phật tánh nhưng chẳng phải rời
Phật tánh. Như ta vì
vua Ba Tư Nặc mà nói ví dụ ống
không hầu Phật tánh cũng như vậy. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn lập ra nhiều thuyết khác nhau, như người mù hỏi màu của sữa,
Phật tánh cũng như vậy. Do cớ nầy, hoặc có người nói hàng Nhứt
Xiển Đề phạm bốn tội trọng hủy báng
kinh Đại Thừa tạo tội
ngũ nghịch đều có
Phật tánh. Hoặc có người nói là không có
Phật tánh.
Trong
khế kinh nhiều lần ta nói rằng một người
xuất thế thời nhiều người được
lợi ích. Trong một cõi nước không có hai vua
Chuyển Luân. Trong
một thế giới không có hai
đức Phật xuất thế. Một
tứ thiên hạ không có tám
Tứ Thiên Vương, nhẫn đến không có hai
Tha Hoá Tự Tại Thiên. Ta nói từ
Diêm Phù Đề, dưới đến
địa ngục A Tỳ, trên đến
trời Sắc Cứu cánh. Các
đệ tử của ta
nghe lời nầy chẳng
hiểu ý của ta bèn cho rằng
đức Như Lai nói không có Phật
mười phương. Thật ra trong các
kinh Đại Thừa ta nói có
thập phương chư Phật.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Những điều tránh tụng như vậy là
cảnh giới của chư Phật chẳng phải hàng
Thanh Văn Duyên Giác biết được. Nếu người nào đối với những việc nầy sanh lòng nghi còn có thể
phá hoại được
vô lượng phiền não. Nếu người nào ở trong những việc nầy sanh lòng
quyết định thời gọi là
chấp trước.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật rằng : Thế nào là
chấp trước ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Những người như vậy hoặc do người khác
dạy bảo, hoặc nghe người khác nói, hoặc tự tìm
kinh điển, với những điều
ham thích chẳng thể
buông bỏ đây gọi là
chấp trước.
_ Bạch
Thế Tôn ! Sự
chấp trước nầy là thiện hay là
bất thiện ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Sự
chấp trước như vậy chẳng gọi là thiện, vì không thể
phá hoại những lưới nghi.
_ Bạch
Thế Tôn ! Những người nầy vốn tự chẳng nghi, sao lại nói rằng chẳng
phá hoại lưới nghi ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Luận về người chẳng nghi chính là nghi.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu có người nói rằng bực
Tu Đà Hoàn chẳng đọa ba
ác đạo. Người nầy cũng nên gọi là
chấp trước, là nghi.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nên gọi là
quyết định, mà chẳng được gọi là nghi. Tại sao vậy ? Nầy
Thiện Nam Tử ! Như có người trước kia thấy cây thấy người, về sau đi ban đêm từ xa thấy gốc cây trụi, bèn nghi rằng đó là người hay là cây ? Như người trước thấy
Tỳ Kheo và
Phạm Chí, lúc sau đi đường từ xa thấy
Tỳ Kheo bèn nghi rằng đó là
Sa Môn hay là
Phạm Chí ? Như người trước thấy bò và trâu, lúc sau từ xa thấy bò, bèn nghi rằng đó là bò hay trâu ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Tấ cả
chúng sanh trước thấy hai vật về sau bèn
sanh nghi, vì trong tâm họ chẳng nhận được
rõ ràng.
Ta cũng chẳng nói rằng bực
tu Đà Hoàn có đọa
ba đường ác hay chẳng đọa
ba đường ác, cớ gì người nầy lại sanh lòng nghi !
_ Bạch
Thế Tôn ! Như Phật nói phải trước có thấy rồi sau mới nghi. Nhưng có người lúc chưa thấy hai vật cũng lại
sanh nghi. Như đối với
Niết Bàn. Như có người đi đường gặp dòng nước đục, trước kia chưa từng thấy mà cũng
sanh nghi rằng dòng nước nầy sâu hay cạn.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Luận về
Niết Bàn chính là dứt khổ, chẳng phải là
Niết Bàn thời chính là khổ. Tất cả
chúng sanh thấy có khổ cùng chẳng phải khổ. Như thấy
đói khát, lạnh nóng, giận mừng, bịnh gầy,
an ổn, trẻ, già,
sống chết,
trói buộc, cởi mở,
ân ái biệt ly, oán thù gặp gỡ, sau khi thấy những việc nầy,
chúng sanh bèn nghi rằng sẽ có những gì
xa lìa vĩnh viễn những sự
khổ não nầy chăng ? Do đây nên
chúng sanh đối với
Niết Bàn mà
sanh nghi.
Nếu ông cho rằng người đó từ trước
đến nay chưa từng thấy dòng nước đục nầy sao lại
sanh nghi.
Lời nói nầy không đúng nghĩa, vì người đó ở nơi chỗ khác đã từng thấy rồi, nên ở nơi chỗ mới đến nầy mà
sanh nghi.
_ Bạch
Thế Tôn ! Người đó lúc trước thấy nước sâu cạn đã chẳng
sanh nghi, nay cớ gì mà
sanh nghi ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì trước kia chưa đi nên
sanh nghi. Do đây nên ta nói rằng vì trong tâm họ chẳng nhận được
rõ ràng nên
sanh nghi.
_ Bạch
Thế Tôn ! Như lời Phật nói nghi chính là
chấp trước,
chấp trước chính là nghi, đây là ngườ nào ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Là người dứt căn lành.
_ Bạch
Thế Tôn ! Những hạng người nào có thể dứt căn lành.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Người
thông minh lanh lợi có thể khéo
phân biệt, nếu
xa lìa bạn lành chẳng nghe
chánh pháp, chẳng khéo
tư duy, chẳng thật hành đúng pháp, người nầy có thể dứt căn lành.
Người
thông minh nầy vì thiếu bốn điều trên mà tự
suy nghĩ rằng : Không có vật
bố thí, vì người thí là rời bỏ
của cải, nếu
bố thí mà có
quả báo, thời
thí chủ phải thường nghèo cùng, vì nhơn cùng quả giống nhau. Do
suy nghĩ những việc như vậy nên người nầy nói rằng không nhơn
không quả. Nếu nói không nhơn
không quả như vậy thời gọi là dứt căn lành.
Người
thông minh nầy lại
suy nghĩ rằng :
Thí chủ, người thọ và tài vật đều là
vô thường biến đổi,
nếu không biến đổi sao lại nói rằng đây là
thí chủ, đây là người thọ, đây là
của cải,
nếu không người thọ sao lại được
quả báo, do nghĩa nầy nên biết rằng không nhơn
không quả. Nếu nói không nhơn
không quả như vậy thời gọi là dứt căn lành.
Người
thông minh nầy lại
suy nghĩ rằng : Lúc
thí chủ bố thí có
năm sự bố thí : Người thọ thí khi lãnh được
của cải rồi hoặc làm lành, hoặc làm điều chẳng lành, mà
thí chủ nầy cũng chẳng mắc phải
quả báo lành hay chẳng lành, như
trong đời từ hột sanh ra trái, rồi từ trái
trở lại có hột. Nhơn chính là
thí chủ, quả chính là người thọ, mà người thọ nầy không thể đem điều thiện, điều
bất thiện của mình đã làm khiến cho
thí chủ được
quả báo thiện cùng
bất thiện, do nghĩa nầy nên không nhơn
không quả. Nếu nói không nhơn
không quả như vậy, nên biết người nầy có thể dứt căn lành.
Người
thông minh nầy lại
suy nghĩ rằng : Không có vật
bố thí, vì vật
bố thí là
vô ký, đã là
vô ký thời đâu có
quả báo lành,
không quả báo lành tức là
vô ký, của vật nếu là
vô ký nên biết rằng không có
quả báo thiện ác, nên không có sự
bố thí không nhơn
không quả. Nếu nói rằng không nhơn
không quả như vậy phải biết người nầy có thể dứt căn lành.
Người
thông minh nầy lại
suy nghĩ rằng : Người
bố thí do nơi ý, ý nầy chẳng phải là
sắc pháp, không thể thấy không đối tượng, đã chẳng phải là
sắc pháp thời đâu có thể
bố thí, do đây nên không có sự
bố thí không nhơn
không quả. Nếu nói không nhơn
không quả như vậy, phải biết rằng người nầy có thể dứt căn lành.
Người
thông minh lại
suy nghĩ rằng : Nếu
thí chủ cúng thí cho
tượng Phật, tượng
chư Thiên cho
cha mẹ đã qua đời, như vậy là có người thí mà không người thọ,
nếu không người thọ thời lẽ ra
không quả báo,
nếu không quả báo thời là không nhơn, nếu đã không nhơn thời là
không quả. Nếu nói không nhơn quả như vậy, phải biết rằng người nầy có thể dứt căn lành.
Người
thông minh nầy lại
suy nghĩ rằng : Không cha không mẹ. Nếu nói
cha mẹ là nhơn sanh ra
chúng sanh, đúng lý phải thường
sanh không có
đoạn tuyệt, vì nhơn là
thường có, nhưng chẳng thường sanh, do đây nên biết rằng không có
cha mẹ. Người nầy lại nghĩ rằng : Không cha không mẹ. Vì nếu thân
chúng sanh do
cha mẹ mà có, lẽ ra một người phải đủ cả hai căn
nam nữ, nhưng
sự thật không có đủ, do đây biết rằng
chúng sanh chẳng phải do
cha mẹ mà có. Người nầy lại nghĩ rằng chẳng phải do
cha mẹ mà có ra
chúng sanh, vì chính mắt họ thấy
chúng sanh chẳng giống với
cha mẹ, nghĩa là
thân hình diện mạo
tâm tánh đi đứng
cử động chẳng giống với
cha mẹ, nên
cha mẹ chẳng phải là nhơn sanh ra
chúng sanh. Người nầy lại nghĩ rằng
trong đời có bốn thứ không có : Một là chưa sanh gọi là không có, như lúc còn là viên đất sét thời chưa có
công dụng của cái bình ; hai là đã diệt mất gọi là không có, như cái bình đã bể hư thời gọi là không có ; ba là riêng khác nhau nên lẫn không có, như trong bò không có ngựa trong ngựa không có bò ; bốn là
rốt ráo gọi là không có, như
sừng thỏ lông rùa.
Cha mẹ cũng đồng như bốn thứ không có nầy. Nếu nói
cha mẹ là nhơn có ra
chúng sanh, lúc
cha mẹ chết đứa con bất tất cũng chết, do đây nên
cha mẹ chẳng phải là nhơn sanh ra
chúng sanh. Người nầy lại nghĩ rằng : Nếu nói
cha mẹ là nhơn sanh ra
chúng sanh, lẽ ra nhơn nơi
cha mẹ thường sanh ra
chúng sanh, nhưng lại có
hóa sanh và
thấp sanh, do đây nên biết chẳng phải nhơn nơi
cha mẹ sanh ra
chúng sanh. Người nầy lại nghĩ rằng : Tự có
chúng sanh chẳng phải nhơn nơi
cha mẹ mà được sanh trưởng như chim công nghe
tiếng sấm nổ mà có trứng, như chim thanh tước uống nước mắt của chim tước trống mà có trứng, như chim
cộng mạng thấy chim trống múa bèn có trứng. Người nầy lúc
suy nghĩ những điều trên đây nếu chẳng gặp được bực
thiện tri thức khai thị, phải biết rằng người nầy có thể dứt căn lành.
Người
thông minh nầy lại nghĩ rằng :
Trong đời không có quả
thiện ác, vì có những
chúng sanh tu tập đủ
mười điều lành, ưa thật hành
bố thí siêng
làm công đức, mà những người nầy cũng lại bị các bịnh tật nhóm trên thân, hoặc
chết yểu, hoặc mất của, hoặc nhiều sự lo khổ. Cũng có những người tạo đủ mười điều dữ,
tham lam bỏn xẻn tật đố
giải đãi, mà lại
mạnh khỏe sống lâu, hoặc
giàu có không
sầu khổ, do đây nên biết rằng không có quả
thiện ác. Người nầy lại nghĩ rằng : Tôi cũng từng nghe các thánh nhơn nói có người
tu tập pháp lành khi chết bị đọa trong
ba đường dữ. Có người làm điều ác khi chết sanh trong
loài người trên trời, do đây nên biết rằng
không quả thiện ác. Người nầy lại nghĩ rằng : Các thánh nhơn nói hai thuyết : Hoặc nói
sát sanh được
quả báo lành, hoặc nói
sát sanh mắc
quả báo dữ. Thánh nhơn còn nói
bất định, tại sao tôi lại nói
quyết định, do đây nên biết không có quả
thiện ác.
Người
thông minh nầy lại nghĩ rằng :
Trong đời không có thánh nhơn, vì nếu nói là thánh nhơn thời phải chứng được
thánh đạo. Tất cả
chúng sanh lúc có đủ
phiền não tu hành chánh đạo, nên biết rằng người nầy
đồng thời đủ có
phiền não và
chánh đạo. Nếu
đồng thời có thời
chánh đạo chẳn g phá được
kiết sử.
Nếu không phiền não mà
tu hành chánh đạo, thời
chánh đạo ấy dùng làm gì ? Do đây nên người đủ
phiền não thời
chánh đạo chẳng thể
phá hoại được, người không
phiền não thời
chánh đạo lại
vô dụng. Do đây nên biết
trong đời không có bực thánh nhơn.
Người
thông minh nầy lại nghĩ rằng :
Vô minh làm duyên cho hành, nhẫn đến sanh làm duyên cho
lão tử, mười hai
nhơn duyên nầy tất cả
chúng sanh đồng có.
Tám thánh đạo tánh nó
bình đẳng cũng như vậy, lúc một người được, thời tất cả người lẽ ra cũng được, lúc một người
tu hành lẽ ra tất cả khổ đều diệt, vì
phiền não bình đẳng. Mà nay chẳng đồng chứng đặng, do đây nên biết rằng không có
chánh đạo.
Người
thông minh nầy lại nghĩ rằng : Các thánh nhơn đều có những pháp đồng với
phàm phu, như là uống ăn, đi đứng ngồi nằm, ngủ nghỉ, vui cười,
đói khát, lạnh nóng, lo buồn sợ sệt. Nếu đã đồng với
phàm phu có những việc như vậy, nên biết rằng bực thánh nhơn chẳng chứng được
thánh đạo, nếu đã được
thánh đạo lẽ ra phải dứt hẳn những việc như vậy. Những việc như vậy nếu đã chẳng dứt, do đây nên biết rằng không
thánh đạo.
Người
thông minh nầy lại nghĩ rằng : Thánh nhơn có thân thọ vui
ngũ dục, cũng
mắng nhiếc đánh đập người, cũng tật đố
kiêu mạn thọ những sự khổ vui, tạo nghiệp
thiện ác, do đây nên biết rằng không có thánh nhơn. Nếu có
chánh đạo lẽ ra đã dứt những việc nầy, nếu những việc nầy chẳng dứt nên biết rằng không
chánh đạo.
Người
thông minh nầy lại nghĩ rằng : Người nhiều
lòng từ mẫn gọi là thánh nhơn. Do
nhơn duyên gì gọi là thánh nhơn ? Nhơn nơi
thánh đạo mà gọi là thánh nhơn. Nếu tánh của
thánh đạo là từ mẫn, thời nên
thương xót tất cả
chúng sanh, chẳng cần chờ
tu hành rồi mới đặng. Nếu
như không từ mẫn cớ sao thánh nhơn chứng được
thánh đạo lại hay từ mẫn, do đây nên biết
trong đời không có
thánh đạo.
Người
thông minh nầy lại nghĩ rằng : Tất cả
tứ đại chẳng từ
nhơn duyên sanh.
Chúng sanh đồng có tánh
tứ đại nầy. Chẳng
quán sát chúng sanh đáng đến bờ nầy, chẳng đáng đến bờ kia, nếu là có
thánh đạo, thời tánh của
thánh đạo lẽ ra cũng như vậy, nhưng nay chẳng phải như vậy, do đây nên biết rằng
trong đời không có thánh nhơn.
Người
thông minh nầy lại nghĩ rằng : Nếu các bực thánh nhơn có một
Niết Bàn thời nên biết rằng không có thánh nhơn. Vì
Niết Bàn là
bất khả đắc.
Pháp thường trụ là
bất khả đắc chẳng thể lấy chẳng thể bỏ. Nếu các bực thánh nhơn có nhiều
Niết Bàn thời là
vô thường, vì là pháp có thể đếm được.
Niết Bàn nếu là một, lúc một người được thời lẽ ra tất cả đều được. Nếu
Niết Bàn là nhiều thời là có chừng ngằn, nếu là có chừng ngằn thời đâu được gọi là
thường trụ. Nếu nói rằng thể của
Niết Bàn là một, mà người
giải thoát là nhiều, như một cây lọng là một mà cọng cánh lá nhiều,
lời nói nầy chẳng đúng nghĩa, vì mỗi người chứng đặng chẳng phải tất cả người chứng đặng, bởi có chừng ngằn lẽ ra là
vô thường nếu đã là
vô thường thời đâu được gọi là
Niết Bàn.
Nếu không có
Niết Bàn thời ai là bực thánh nhơn ? Do đây nên biết rằng không có thánh nhơn.
Người
thông minh nầy lại nghĩ rằng :
Chánh đạo của thánh nhơn chẳng phải do
nhơn duyên mà được. Nếu
chánh đạo của thánh nhơn đã chẳng phải do
nhơn duyên mà được, cớ sao tất cả
chúng sanh chẳng làm thánh nhơn. Nếu tất cả người chẳng phải là thánh nhơn, thời biết rằng không có thánh nhơn và không có
thánh đạo.
Người
thông minh lại nghĩ rằng : Thánh nhơn nói có hai
nhơn duyên được
chánh kiến : Một là nghe người khác
thuyết pháp, hai là tự mình
tư duy. Hai
nhơn duyên nầy đã từ
duyên sanh, thời duyên nầy lại từ duyên khác mà sanh, xoay vần mãi như vậy thành ra có lỗi
vô cùng. Nếu hai
nhơn duyên nầy chẳng từ
duyên sanh, thời tất cả
chúng sanh do cớ gì mà chẳng đều được.
Lúc người
thông minh nầy
suy nghĩ những điều như trên thời có thể dứt mất căn lành.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
chúng sanh nào
chấp chặt những điều không nhơn
không quả như vậy người nầy có thể dứt mất năm căn : Tín, tấn, niệm, định và huệ. Người dứt mất căn lành chẳng phải là người
hạ liệt,
ngu độn, cũng chẳng phải
chư thiên, chẳng phải ba
ác đạo. Người
phá Tăng cũng như vậy.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật rằng :
Thế Tôn ! Người như vậy, lúc nào sẽ có thể sanh căn lành
trở lại.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Người nầy có hai lúc sanh căn lành
trở lại : Lúc mới vào
địa ngục và lúc ra khỏi
địa ngục.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Căn lành có ba thứ :
Quá khứ,
hiện tại và
vị lai. Nếu là
quá khứ thời tánh nó tự diệt, dầu nhơn diệt nhưng
quả báo chưa thục nên chẳng gọi là dứt quả
quá khứ. Vì dứt nhơn lành
ba đời nên gọi là dứt mất.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu dứt nhơn lành
ba đời mà gọi là mất căn lành, người dứt căn lành
vẫn có Phật tánh,
Phật tánh nầy là
quá khứ, là
hiện tại, là
vị lai, hay là khắp cả
ba đời ? Nếu là
quá khứ thế nào gọi là thường.
Phật tánh là
thường trụ nên biết rằng không phải là
quá khứ. Nếu là
vị lai thế nào gọi là thường ? Cớ sao Phật nói rằng tất cả
chúng sanh quyết định sẽ được ? Nếu
quyết định được thời sao lại nói rằng dứt mất ? Nếu là
hiện tại sao lại là thường ? Cớ sao lại nói rằng
quyết định có thể thấy ?
Đức Như Lai cũng nói rằng
Phật tánh cũng có sáu : Một là thường, hai là chơn, ba là thật, bốn là thiện, năm là tịnh, sáu là có thể thấy. Nếu người dứt mất
thiện căn mà có
Phật tánh thời chẳng được gọi là dứt mất căn lành.
Nếu không có
Phật tánh sao lại nói rằng tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh. Nếu nói rằng
Phật tánh cũng có, cũng dứt, thế nào
đức Như Lai lại nói
Phật tánh là
thường trụ ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Đức Như Lai vì
chúng sanh nên có ba thứ
giải đáp : Một là đáp
quyết định, hai là
phân biệt mà đáp, ba là theo lời hỏi mà đáp, bốn là yên lặng mà đáp.
Thế nào là
quyết định đáp ? Nếu có ai hỏi rằng
nghiệp ác cảm quả lành hay quả chẳng lành ? Thời nêu
quyết định đáp rằng
cảm quả chẳng lành. Hỏi
thiện nghiệp cũng đáp như vậy . Nếu hỏi
đức Như Lai có phải là bực
nhứt thiết trí chăng ? Thời nên
quyết định đáp rằng là bực
nhứt thiết trí. Nếu hỏi
Phật pháp là
thanh tịnh chăng ? Thời nên
quyết định đáp rằng là
thanh tịnh. Nếu hỏi
đệ tử của Phật có ăn ở đúng
như pháp chăng ? Thời nên
quyết định đáp rằng có đúng
như pháp mà ở. Đây gọi là
quyết định đáp.
Thế nào là
phân biệt mà đáp ? _ Như
đức Phật giảng nói bốn
chơn đế. _ Thế nào là bốn ? _ Là
khổ tập diệt đạo. _ Sao gọi rằng
khổ đế ? _ Vì có tám điều khổ nên gọi là
khổ đế. _ Thế nào là
tập đế ? _ Vì là nhơn của
ngũ ấm nên gọi là
tập đế. _ Thế nào là diệt đến ? _ Vì đã dứt hẳn
tham sân si nên gọi là
diệt đế. _ Thế nào là
đạo đế ? _
Ba mươi bảy pháp trợ đạo gọi đó là
đạo đế. Đây gọi là
phân biệt mà
giải đáp.
Thế nào là theo lời hỏi mà đáp ? Hỏi rằng
đức Thế Tôn nói những pháp gì là
vô thường ? _ Đáp rằng
đức Như Lai nói
pháp hữu vi là
vô thường.
Vô ngã cũng như vậy. _ Hỏi rằng
đức Thế Tôn vì những pháp gì mà nói tất cả đốt cháy ? _ Đáp rằng
đức Như Lai vì tham, sân, si mà nói tất cả đốt cháy.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đức Như Lai có
mười trí lực, bốn
vô sở úy, ba
niệm xứ,
Đại Từ Đại Bi,
Thủ Lăng Nghiêm v.v…tám muôn ức môn
Tam Muội, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp,
năm trí ấn v.v… ba muôn năm ngàn môn
Tam Muội,
Kim Cang định v.v…bốn ngàn hai trăm môn
Tam Muội,
vô lượng vô biên phương tiện Tam Muội, những
công đức trên đây là
Phật tánh của Phật.
Phật tánh nầy có bảy điều : Thường, lạc, ngã, tịnh, chơn, thật và thiện. Đây gọi là
phân biệt mà
giải đáp.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Phật tánh của
Bồ Tát thân rốt sau có sáu điều : Thường, tịnh, chơn, thật, thiện và thiểu kiến. Đây gọi là
phân biệt mà
giải đáp.
Như trước kia ông hỏi : Người dứt mất căn lành có
Phật tánh. Người nầy cũng có
Phật tánh của
Như Lai, cũng có
Phật tánh của
Bồ Tát thân rốt sau. Hai
Phật tánh nầy vì
chướng ngại vị lai nên được gọi là không, vì
rốt ráo sẽ được nên gọi là có. Đây gọi là
phân biệt mà đáp.
Phật tánh của
Như Lai chẳng phải
quá khứ, chẳng phải
hiện tại, chẳng phải
vị lai.
Phật tánh của
Bồ Tát thân rốt sau là
hiện tại và
vị lai : Vì có thể thấy phần ít nên gọi là
hiện tại, vì chưa thấy đầy đủ nên gọi là
vị lai.
Đức Như Lai lúc chưa chứng được
vô thượng Bồ Đề, về nhơn
Phật tánh cũng là
quá khứ,
hiện tại và
vị lai. Về
quả Phật tánh thời chẳng như vậy : Có là
ba đời, có chẳng phải
ba đời.
Phật tánh của
Bồ Tát thân rốt sau về nhơn cũng là
ba đời, về quả cũng như vậy. Đây gọi là
phân biệt mà đáp.
Phật tánh của
Cửu Trụ Bồ Tát có sáu điều : Thường, thiện, chơn, thật, tịnh, khả kiến. Nhơn
Phật tánh cũng là
ba đời, quả cũng như vậy. Đây gọi là
phân biệt mà nói.
Bát Trụ
Bồ Tát xuống đến bực
Lục Trụ,
Phật tánh có năm điều : Chơn, thật, tịnh, thiện và khả kiến. Nhơn
Phật tánh cũng là
ba đời, quả cũng như vậy. Đây gọi là
phân biệt mà đáp.
Ngũ Trụ Bồ Tát xuống đến bực
Sơ Trụ,
Phật tánh có năm điều : Chơn, thật, tịnh, khả kiến và thiện
bất thiện.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Năm thứ
Phật tánh, sáu thứ
Phật tánh, bảy thứ
Phật tánh, người dứt mất căn lành quyết sẽ được nên gọi là có, đây gọi là
phân biệt mà đáp.
Nếu nói rằng người dứt mất căn lành
quyết định có
Phật tánh quyết định không
Phật tánh. Đây gọi là yên lặng mà đáp.
_ Bạch
Thế Tôn ! Tôi nghe rằng chẳng đáp mới gọi là yên lặng mà đáp. Nay cớ gì
đức Như Lai đáp mà lại gọi là yên lặng đáp ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta cũng chẳng nói ra, để đó chẳng
giải đáp nên gọi là yên lặng mà đáp.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Yên lặng đáp như vậy lại có hai thứ : Một là ngăn dứt, hai là chẳng
chấp trước. Do nghĩa nầy nên được gọi là yên lặng đáp.
_ Bạch
Thế Tôn ! Như lời Phật nói, thế nào gọi rằng nhơn
Phật tánh cũng là
ba đời, quả cũng là
ba đời, lại chẳng phải là
ba đời ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Ngũ ấm có hai thứ : Một là nhơn hai là quả. Nhơn
ngũ ấm nầy cũng là
ba đời, quả
ngũ ấm nầy cũng là
ba đời mà cũng chẳng phải là
ba đời.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả những
kiết sử vô minh phiền não đều là
Phật tánh, vì là nhơn của
Phật tánh. Từ
vô minh, hành và các
phiền não mà được
ngũ ấm lành, đây gọi là
Phật tánh. Từ
ngũ ấm lành nhẫn đến chứng đặng
vô thượng Bồ Đề. Do đây nên trong kinh ta
nói trước rằng
Phật tánh của
chúng sanh như sữa
lẫn lộn trong máu. Máu là nói
vô minh, hành v.v… tất cả những
phiền não. Sữa là nói
ngũ ấm lành. Nên ta nói rằng do từ những
phiền não và
ngũ ấm lành mà chứng được
vô thượng Bồ Đề như thân
chúng sanh đều do từ tinh huyết mà được thành,
Phật tánh cũng như vậy.
Bực
Tu Đà Hoàn và
Tư Đà Hàm dứt phần ít
phiền não,
Phật tánh của những bực nầy như sữa. Bực
A Na Hàm Phật tánh như lạc. Bực
A La Hán Phật tánh như sanh tô. Từ bực
Bích Chi Phật đến
Thập Trụ Bồ tát,
Phật tánh như thục tô.
Phật tánh của
đức Như Lai như
đề hồ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì
phiền não hiện tại chướng ngăn làm cho
chúng sanh chẳng thấy được
Phật tánh. Như trong núi
Hương Sơn có cỏ
nhẫn nhục chẳng phải tất cả bò đều có thể được ăn.
Phật tánh cũng như vậy. Đây gọi là
phân biệt và
giải đáp.
_ Bạch
Thế Tôn ! Năm thứ, sáu thứ, bảy thứ
Phật tánh, nếu là đến
vị lai sẽ có, tại sao nói rằng người dứt căn lành có
Phật tánh ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Như các
chúng sanh có nghiệp
quá khứ, do nghiệp nầy mà
chúng sanh thọ lấy
quả báo hiện tại. Có nghiệp
vị lai vì chưa sanh nên trọn chẳng
thành quả.
Chúng sanh hiện tại có
phiền não,
nếu không phiền não thời tất cả
chúng sanh lẽ ra phải thấy rõ
Phật tánh hiện tại. Do đây nên người dứt căn lành do
phiền não đời
hiện tại nên có thể dứt căn lành, do
năng lực Phật tánh đời
vị lai nên căn lành sanh
trở lại.
_ Bạch
Thế Tôn ! Đời
vị lai thế nào có thể sanh căn lành ?
_Nầy
Thiện Nam Tử ! Như
ngọn đèn và
mặt trời dầu lại là
vị lai mới sáng nhưng cũng phá
tối tăm. Tánh
vị lai có thể sanh ra
chúng sanh,
Phật tánh đời
vị lai cũng như vậy. Đây gọi là
phân biệt mà
giải đáp.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu nói
ngũ ấm là
Phật tánh tại sao nói rằng
Phật tánh của
chúng sanh chẳng phải trong chẳng phải ngoài.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Cớ sao quên mất như vậy. Trước kia ta chẳng nói rằng
Phật tánh của
chúng sanh là
trung đạo ư ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Thiệt ra tôi chẳng quên
lời Phật dạy. Chỉ vì
chúng sanh chẳng hiểu được
trung đạo nầy nên bạch hỏi
đức Phật như vậy.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Chỗ mà
chúng sanh chẳng hiểu được chính đó là
trung đạo. Có lúc hoặc có hiểu hoặc có người chẳng hiểu. Ta vì muốn làm cho
chúng sanh được
hiểu rõ nên nói
Phật tánh của
chúng sanh chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Vì kẻ
phàm phu cho rằng
Phật tánh ở trong
ngũ ấm, như trái cây đựng trong chậu. Cũng có kẻ cho rằng rời ngoài
ngũ ấm mà có
Phật tánh, như
hư không. Do đây nên
đức Như Lai nói
nghĩa trung đạo :
Phật tánh của
chúng sanh chẳng phải là sáu căn ở trong, chẳng phải là
sáu trần ở ngoài. Vì hiệp trong và ngoài nên gọi là
trung đạo. Do đây
đức Như Lai nói rằng :
Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, nên gọi là
trung đạo, đây là
phân biệt mà
giải đáp.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Thế nào gọi là chẳng phải trong chẳng phải ngoài ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có người nói rằng
Phật tánh chính là
ngoại đạo, vì các bực
đại Bồ Tát trải qua vô lượng kiếp ở trong
ngoại đạo, mà dứt
phiền não điều phục tâm của mình,
giáo hoá vô lượng chúng sanh, rồi sau mới được
vô thượng Bồ Đề.
Hoặc có người cho rằng
Phật tánh chính là
nội đạo. Vì
đại Bồ Tát dầu trong
vô lượng kiếp tập học
ngoại đạo, nhưng nếu rời
nội đạo thời chẳng thể được
vô thượng Bồ Đề.
Đức Như Lai vì ngăn hai thứ
chấp trước nầy nên nói rằng
Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng gọi là trong ngoài, đây là
trung đạo.
Có người nói
Phật tánh chính là
Kim Cang của
Như Lai :
Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Có người nói
Phật tánh chính là
mười trí lực, bốn món
vô sở úy,
đại từ đại bi,
tam niệm xứ,
Thủ Lăng Nghiêm v.v… tất cả môn
Tam Muội, vì do những
Tam Muội nầy mà sanh ra
thân Kim Cang ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.
Đức Như Lai vì ngăn hai sự
chấp trước nầy nên nói rằng
Phật tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài cũng là trong ngoài, đây gọi là
trung đạo.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có người cho rằng
Phật tánh chính là trong tâm khéo
tư duy, vì rời khéo
tư duy thời chẳng thể được
vô thượng Bồ Đề. Có người nói rằng
Phật tánh chính là do
nghe pháp với người khác, vì
nghe pháp với người khác thời có thể trong tâm khéo
tư duy, nếu chẳng
nghe pháp thời không
tư duy.
Do đây nên
Như Lai vì ngăn hai sự
chấp trước nầy nên nói
Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng là trong ngoài, đây gọi là
trung đạo.
Lại có người nói
Phật tánh là ngoài nghĩa là
Đàn Ba La Mật. Từ
Đàn Ba La Mật mà chứng được
vô thượng Bồ Đề. Có người nói
Phật tánh là trong nghĩa là năm môn
Ba La Mật, vì rời năm môn nầy thời không có nhơn
quả Phật tánh.
Do đây nên
Như Lai vì ngăn hai thứ
chấp trước nầy mà nói
Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, đây gọi là
trung đạo.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có người nói
Phật tánh ở nơi trong, như viên
bảo châu trtên trán của
lực sĩ, vì thường, lạc, ngã, tịnh
như bảo châu. Có người nói
Phật tánh ở nơi ngoài như kho báu của bần nữ, vì do
phương tiện mà được thấy.
Vì ngăn hai thứ
chấp trước nầy nên
đức Như Lai nói rằng
Phật tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài cũng là trong ngoài, đây gọi là
trung đạo.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Phật tánh của
chúng sanh chẳng phải có chẳng phải không. Vì
Phật tánh dầu là có nhưng chẳng phải như
hư không. Vì
hư không của
thế gian dầu dùng
vô lượng thiện xảo phương tiện cũng chẳng thể thấy được, còn
Phật tánh thời có thể thấy, do đây nên
Phật tánh dầu là có nhưng chẳng phải như
hư không.
Phật tánh dầu là không nhưng chẳng đồng như
sừng thỏ. Vì lông rùa,
sừng thỏ dầu dùng
vô lượng thiện xảo phương tiện cũng chẳng thể sanh lên được, còn
Phật tánh thời có thể sanh. Do đây nên
Phật tánh chẳng phải có, chẳng phải không, cũng là có, cũng là không.
Thế nào gọi là có ? Tất cả
chúng sanh đều có chẳng dứt chẳng diệt, dường như
ngọn đèn, mãi đến chứng đặng
vô thượng Bồ Đề, nên gọi là có
Phật tánh.
Thế nào gọi là không ? Tất cả
chúng sanh hiện tại chưa có đủ tất cả
Phật pháp thường, lạc, ngã, tịnh nên gọi là không
Phật tánh.
Vì có và không hiệp lại chính là
trung đạo, nên
đức Như Lai nói
Phật tánh chúng sanh chẳng phải có, chẳng phải không.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như có người hỏi trong hột giống nầy có trái hay không ? Tất phải đáp rằng cũng có cũng không. Vì ngoài hột giống thời không thể sanh ra trái nên gọi là có, còn hột giống chưa mọc mọng nên gọi rằng không. Do nghĩa nầy nên nói cũng có cũng không. Vì
thời tiết có khác, nhưng
thể chất của hột giống là một.
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy. Nếu nói rằng trong
chúng sanh riêng có
Phật tánh thời không đúng nghĩa. Vì
chúng sanh là
Phật tánh,
Phật tánh là
chúng sanh, chỉ do
thời gian có tịnh và
bất tịnh sai khác.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có người hỏi hột nầy có thể sanh trái chăng, trái nầy có thể sanh hột chăng ? Tất phải đáp rằng cũng sanh cũng chẳng sanh.
_ Bạch
Thế Tôn ! Như người đời nói rằng trong sữa có chất lạc, nghĩa nầy như thế
nào ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu nói trong sữa có chất lạc thời là
chấp trước. Nếu nói trong sữa không chất lạc thời là
hư vọng. Tất phải nói rằng cũng có cũng không. Từ sữa sanh ra chất lạc : Nhơn là sữa, quả là lạc, đây gọi là có. Màu sắc cùng
mùi vị đều khác nhau, ăn dùng cũng chẳng đồng : Bịnh nóng thời dùng sữa, bịnh lạnh thời dùng lạc, sữa sanh bịnh lạnh, lạc sanh bịnh nóng.
Nếu nói trong sữa có tánh của lạc, sữa là lạc, lạc là sữa, hai thứ đồng một tánh,
nhơn duyên gì mà sữa lại có trước, còn lạc chẳng sanh ra trước ? Nếu có
nhơn duyên tại sao tất cả người đời chẳng nói ?
Nếu không nhơn duyên cớ sao lạc chẳng sanh ra trước ? Nếu lạc chẳng sanh ra trước thời ai làmra có thứ tự : Sữa, lạc, sanh, tô, thục tô,
đề hồ ? Do đây nên biết rằng chất
lạc trước không có nay mới có, nếu là trước không nay có thời là pháp
vô thường.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu nói rằng trong sữa có chất lạc có thể sanh ra lạc, trong nước không có chất lạc nên chẳng sanh ra lạc, lời nầy không đúng nghĩa. Vì nước cỏ cũng có tánh chất của sữa và lạc, vì do nước cỏ mà sanh ra sữa và lạc. Nếu nói trong sữa
quyết định có chất lạc, còn nước cỏ không chất lạc, lời nầy gọi là
hư vọng, vì tâm chẳng
bình đẳng nên gọi là
hư vọng.
Nầy
Thiện nam Tử ! Nếu nói trong sữa
quyết định có chất lạc, thời lẽ ra trong chất lạc cũng
quyết định có chất sữa. Cớ gì trong sữa sanh ra lạc mà trong lạc chẳng sanh ra sữa ? Nếu là không
duyên cớ thời nên biết rằng chất lạc nầy trước không mà nay có. Do đây nên người trí phải nói rằng trong sữa chẳng phải có chất lạc chẳng phải không chất lạc.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Do đây nên
đức Như Lai từng nói trong
khế kinh rằng :Nếu cho tất cả
chúng sanh quyết định có
Phật tánh thời gọi là
chấp trước, nếu
cho không Phật tánh thời gọi là
hư vọng. Người trí nên nói rằng :
Phật tánh của
chúng sanh cũng có cũng không.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Do bốn pháp hòa hiệp mà có
nhãn thức :
Nhãn căn,
sắc trần, ánh sáng,
tác ý. Tánh
nhãn thức nầy chẳng phải là
nhãn căn, chẳng phải
sắc trần, chẳng phải ánh sáng, chẳng phải
tác ý. Do bốn pháp nầy hòa hiệp mà
nhãn thức được sanh.
Nhãn thức như vậy là trước không mà nay có, đã có
trở lại không. Do đây nên biết rằng
nhãn thức vốn không có tánh. Chất lạc ở trong sữa cũng như vậy.
Nếu nói rằng trong nước không chất lạc nên chẳng xuất sanh ra lạc, còn trong sữa sanh ra lạc, nên trong sữa
quyết định có chất lạc.
Lời nói trên đây không đúng nghĩa. Vì tất cả pháp : Nhơn khác, quả khác, cũng chẳng phải một nhơn sanh tất cả quả, chẳng phải tất cả quả từ một nhơn sanh. Như do bốn pháp sanh ra
nhãn thức, chẳng nên nói rằng từ bốn pháp nầy phải sanh ra
nhĩ thức hay
tỷ thức.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Rời các
phương tiện thời không thể được chất lạc trong sữa, cũng không thể từ chất lạc sanh ra chất tô. Do đây nên
cần phải có
phương tiện. Người trí chẳng nên có
quan niệm rằng rời các
phương tiện mà được chất lạc từ nơi sữa. Được sanh tô cũng như vậy.
Do đó nên trong
khế kinh ta từng nói : Vì “nhơn” sanh nên có pháp, vì “ nhơn” diệt nên
không pháp.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như muối tánh chất là mặn có thể làm cho vật chẳng phải mặn thành mặn. Nếu vật chẳng phải
mặn mà trước có tánh chất mặn, cớ sao người đời cho rằng chẳng phải là muối ư ! Nếu trước không mặn thời nên biết rằng trước không mà nay có, do các duyên khác mà thành mặn.
Nếu nói rằng tất cả vật chẳng mặn đều có tánh chất mặn vì quá ít nên chẳng biết, do tánh chất quá ít nầy nên muối có thể làm cho vật ấy thành mặn, nếu vốn
không tánh chất mặn thời dầu có muối cũng chẳng thể làm thành mặn được. Như hột giống tự nó có
tứ đại, duyên nhờ
tứ đại ngoài mà nó được
tăng trưởng : Nẩy mầm, lên cây, đâm chồi ra lá, tánh chất của muối cũng vậy.
Lời nói trên đây không đúng nghĩa, vì vật chẳng mặn nếu trước đã có tánh chất mặn, muối lẽ ra cũng có tánh chất chút ít chẳng mặn. Muối nầy nếu có hai tánh chất như vậy,
duyên cớ gì rời vật chẳng mặn nó không thể riêng dùng ? Do đây nên biết muối vốn không có hai tánh. Như muối không có hai tánh, tất cả vật chẳng mặn cũng không có hai tánh như vậy.
Nếu nói rằng
tứ đại ngoài có
năng lực làm
tăng trưởng tứ đại trong.
Lời nói nầy không đúng nghĩa, vì là theo thứ tự mà nói chẳng phải từ
phương tiện : Trong sữa được chất lạc, chất sanh tô, nhẫn đến tất cả pháp đều cũng chẳng phải do
phương tiện mà được,
tứ đại cũng như vậy. Nếu nói từ
tứ đại trong
tăng trưởng tứ đại ngoài. Như trái
Thi lợi sa, từ trước không hình chất, lúc gặp sao Mão mọc thời sanh trái lớn đủ năm tấc. Trái nầy thiệt chẳng
do nơi tứ đại ngoài mà
tăng trưởng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như
mười hai bộ kinh của ta nói : Hoặc
tùy tự ý mà nói, hoặc tùy tha ý mà nói, hoặc
tùy tự tha ý mà nói.
Thế nào gọi là
tùy tự ý mà nói ? Như năm trăm
Tỳ Kheo hỏi
Xá Lợi Phất : Bạch
Đại Đức ! Phật nói nhơn của thân là những gì ?
Xá Lợi Phất nói : Chư
Đại Đức cũng đều được chánh
giải thoát tự mình nên biết đó,
duyên cớ gì mà hỏi như vậy ? Có
Tỳ Kheo nói : Bạch
Đại Đức ! Lúc tôi chưa được chánh
giải thoát, cho rằng
vô minh là nhơn của thân, lúc
quán sát như vậy chứng được quả
A La Hán.
Lại có
Tỳ Kheo nói : Bạch
Đại Đức ! Lúc tôi chưa được chánh
giải thoát, cho rằng thọ và
vô minh là nhơn của thân, lúc
quán sát như vậy đặng quả
A La Hán.
Hoặc có
Tỳ Kheo nói : Hành, thức, danh, sắc,
lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
ẩm thực,
ngũ dục là nhơn của thân.
Lúc đó năm trăm
Tỳ Kheo mỗi người tự nói chỗ
hiểu biết của mình rồi, bèn cùng nhau đến
đảnh lễ chơn Phật, đi nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một bên. Mỗi người tự đem chổ hiểu của mình như đã nói ở trên mà bạch với Phật.
Xá Lợi Phất bạch rằng :
Thế Tôn ! Những
Tỳ Kheo nầy ai là chánh thuyết, ai là không chánh thuyết.
Phật nói :
Lành thay !
Lành thay ! Tất cả
Tỳ Kheo đây đều là chánh thuyết cả.
Xá Lợi Phất bạch rằng :
Thế Tôn ! Ý của
Đức Phật thế nào ?
_ Nầy
Xá Lợi Phất ! Ta vì
chúng sanh trong cõi dục mà nói
cha mẹ là nhơn của thân.
Những kinh như vậy gọi là
tùy tự ý mà nói.
Thế nào gọi là tùy tha ý mà nói ? Như Bà Tra La
Trưởng giả đến hỏi ta rằng : Thưa
Cù Đàm ! Ngài có biết
ảo thuật chăng ? Nếu biết
ảo thuật thời ngài là nhà
đại ảo thuật, còn
nếu không biết thời ngài chẳng phải là
nhứt thiết trí.
Phật nói : Nầy
Trưởng giả ! Người biết
ảo thuật có gọi là người
ảo thuật chăng ?
Trưởng giả nói : Đúng vậy ! Đúng vậy ! Người biết
ảo thuật chính là người
ảo thuật.
Phật nói : Nầy
Trưởng giả ! Trong nước
Xá Vệ vua Ba Tư Nặc có gã
Chiên Đà La tên là Khí Hứ, ông có biết không ?
Trưởng giả thưa rằng : Từ lâu tôi đã biết người ấy.
Phật nói : Từ lâu ông đã biết người ấy mà ông có thể chính là
Chiên Đà La không ?
Trưởng giả thưa : Tôi dầu biết gã
Chiên Đà La ấy, nhưng thân của tôi chẳng phải
Chiên Đà La.
Phật nói : Ông biết được nghĩa ấy : Người biết
Chiên Đà La chẳng phải là
Chiên Đà La. Nay cớ sao ta chẳng được biết
ảo thuật mà chẳng phải là
ảo thuật ? Nầy
Trưởng giả, thiệt ra ta biết
ảo thuật, biết người
ảo thuật, biết
quả báo ảo thuật, biết nghề
ảo thuật. Ta biết
sát nghiệp, biết người
sát nghiệp, biết
quả báo sát nghiệp, biết
giải thoát sát nghiệp, nhẫn đến biết
tà kiến, biết người
tà kiến, biết
quả báo tà kiến, biết
giải thoát tà kiến.
Nếu
Trưởng giả nói người chẳng phải
ảo thuật gọi là người
ảo thuật, người chẳng phải
tà kiến gọi là người
tà kiến, thời mắc
vô lượng tội.
Trưởng giả nói : Thưa
Cù Đàm ! Cứ như lời của ngài nói thời tôi mắc tội rất lớn. Nay tất cả
của cải của tôi, tôi đem dâng cho ngài tất cả. Mong ngài chớ cho
vua Ba Tư Nặc biết việc của tôi.
Phật nói : Nầy
Trưởng giả ! Tội của ông bất tất mất của. Ông sẽ do tội nầy mà phải bị đọa trong ba
ác đạo.
Trưởng giả nghe nói đến ba
ác đạo, kinh sợ
bạch Phật rằng : Thưa Thánh Nhơn ! Nay tôi vì quên sót mà mắc lấy tội lớn. Thánh nhơn là bực
nhứt thiết trí tất là biết rõ
con đường giải thoát. Nay tôi phải thế nào để
thoát khỏi địa ngục,
ngạ quỉ và
súc sanh ?
Lúc đó
đức Phật giảng giải về bốn lý
chơn đế. Nghe xong
trưởng giả chứng được quả
Tu Đà Hoàn. Trong lòng
hổ thẹn hướng về
đức Phật mà
sám hối : Tôi vốn
ngu si,
đức Phật không phải người ảo mà nói là ảo. Ngày nay tôi xin
quy y Tam Bảo.
Đức Phật nói :
Lành thay !
Lành thay !
Đây gọi là tùy tha ý mà nói.
Thế nào gọi là
tùy tự tha ý mà nói ? Như ta từng nói : Trong tất cả
thế gian, người trí nói có thời ta cũng nói có, người trí nói không thời ta cũng nói không.
Người trí
trong đời nói sự vui
ngũ dục có
vô thường, khổ,
vô ngã, đáng dứt diệt, thời ta cũng nói là có như vậy.
Người trí
trong đời nói không bao giờ có vui
ngũ dục, mà có thường, lạc, ngã, tịnh, thời ta cũng nói là không bao giờ có.
Đây gọi là
tùy tự tha ý mà nói.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như ta nói bực
Thập Trụ Bồ Tát thấy
Phật tánh một phần ít. Đây gọi là tùy tha ý mà nói.
Thế nào gọi là thấy phần ít ?
Thập Trụ Bồ Tát được ba ngàn
môn Thủ Lăng Nghiêm
Tam Muội v.v…nên biết rõ mình sẽ được
vô thượng Bồ Đề, mà chẳng thấy tất cả
chúng sanh quyết định được
vô thượng Bồ Đề, do đây nên ta nói bực
Thập Trụ Bồ Tát thấy
Phật tánh phần ít.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta thường tuyên nói : Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh. Đây gọi là
tùy tự ý mà nói.
Tất cả
chúng sanh chẳng đoạn chẳng diệt mãi đến chứng được
vô thượng Bồ Đề. Đây gọi là
tùy tự ý mà nói.
Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh, vì
phiền não che ngăn nên chẳng thể thấy được. Ta nói như vậy, ông cũng nói như vậy. Đây gọi là
tùy tự tha ý mà nói.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đức Như Lai có lúc vì một pháp mà nói
vô lượng pháp. Như trong
khế kinh nói : Tất cả
phạm hạnh nhơn nơi
thiện tri thức. Tất cả
phạm hạnh dầu có
vô lượng nhơn, nhưng nói
thiện tri thức thời đã nhiếp hết cả.
Như ta từng nói : Tất cả
ác hạnh nhơn nơi
tà kiến. Tất cả
ác hạnh dầu có
vô lượng nhơn nhưng nói
tà kiến thời đã nhiếp hết cả.
Hoặc như ta nói :
Tín tâm là nhơn của
vô thượng Bồ Đề, dầu
Bồ Đề có
vô lượng nhơn, nhưng nói
tín tâm thời đã nhiếp hết cả.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Dầu
đức Như Lai nói
vô lượng pháp là
Phật tánh, nhưng chẳng rời ấm, nhập, giới.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì
chúng sanh nên
đức Như Lai thuyết pháp có bảy thứ
từ ngữ : Một là
từ ngữ về nhơn, hai là
từ ngữ về quả, ba là
từ ngữ về nhơn quả, bốn là
từ ngữ về ví dụ, năm là
từ ngữ bất ưng thuyết, sáu là
từ ngữ về
thế đế lưu bố, bảy là
từ ngữ như ý.
Thế nào gọi là
từ ngữ về Nhơn ?
Trng Nhơn
hiện tại nói
quả báo vị lai. Như ta từng bảo
Tỳ Kheo : Ông xem
chúng sanh ưa
sát hại nhẫn đến ưa
tà kiến, phải biết đó là người
địa ngục vậy. Nếu có người chẳng ưa
sát hại nhẫn đến chẳng ưa
tà kiến, phải biết đó là người
cõi trời. Đây gọi là
từ ngữ về Nhơn.
Thế nào là
từ ngữ về Quả ?
Trong
quả báo hiện tại nói nhơn
quá khứ. Như trong
khế kinh, ta bảo
Tỳ Kheo : Như ông thấy mấy người
nghèo khó,
hình dung xấu xa, không được
thong thả, phải biết rằng những người ấy
quyết định đời trước có
phá giới, tật đố,
sân hận, không lòng
hổ thẹn. Nếu thấy người
giàu có,
lành mạnh, có
thế lực, phải biết rằng người nầy đời trước
quyết định có
trì giới,
bố thí,
tinh tấn,
hổ thẹn, không lòng tật đố,
sân hận. Đây gọi là
từ ngữ về Quả.
Thế nào là
từ ngữ về Nhơn Quả ?
Như trong
khế kinh ta bảo các
Tỳ Kheo chúng sanh hiện tại lục nhập, xúc làm nhơn đây gọi là
nghiệp quả quá khứ.
Đức Như Lai cũng gọi đó là nghiệp, nghiệp nầy làm
nhơn duyên sẽ có
quả vị lai. Đây gọi là
từ ngữ về nhơn quả.
Thế nào là
từ ngữ về Ví Dụ ?
Như nói rằng
Sư Tử Vương dụ cho thân của Phật. Cũng nói những ví dụ : Đại
Tượng Vương, Đại
Long Vương, cây
Ba Lợi Chất Đa La, đấng
Thất Bảo,
Đại Hải,
núi Tu Di, quả đất, mưa to,
Thuyền Sư,
Đạo Sư,
Điều Ngự Trượng Phu,
Đại Lực Sĩ,
Ngưu Vương,
Bà La Môn,
Sa Môn,
Đại Thành,
cây Đa La, đây gọi là
từ ngữ về ví dụ.
Thế nào là
từ ngữ Bất Ưng Thuyết ? Như trong kinh ta từng nói : Trời đất có thể hiệp, con sông chẳng chảy vào biển. Như ta nói với
vua Ba Tư Nặc bốn phía núi đồng đến. Như ta vì
Lộc Mẫu Ưu Bà Di nói nếu
cây Ta La có thể
thọ giới Bát Quan Trai thời nó được hưởng
thọ sự vui sướng cõi trời cõi người. Thà nói
Thập Trụ Bồ Tát có tâm
thối chuyển chẳng nên nói
đức Như Lai nói hai lời. Thà nói bực
Tu Đà Hoàn đọa ba
ác đạo chẳng nên nói
Thập Trụ Bồ Tát có tâm
thối chuyển. Đây gọi là
từ ngữ Bất Ưng Thuyết.
Thế nào là
từ ngữ Thế Đế Lưu Bố ? Như Phật nói : Nam, nữ, lớn, nhỏ, đến, đi, nằm , ngồi, xe cộ, nhà cửa, bình, áo,
chúng sanh, thường, lạc, ngã, tịnh, quân, rừng, thành , ấp, tăng, phường, hiệp, tan. Đây gọi là
từ ngữ về
Thế Đế Lưu Bố.
Thế nào là
từ ngữ Như Ý ? Như ta
quở trách người hủy phạm
cấm giới khiến họ tự trách
hộ trì cấm giới. Như ta khen ngợi bực
Tu Đà Hoàn, khiến hàng
phàm phu sanh tâm lành.
Ngợi khen Bồ Tát làm cho
chúng sanh phát tâm Bồ Đề, nói những sự
khổ não của ba
ác đạo khiến
chúng sanh tu tập các pháp lành. Chỉ vì tất cả
pháp hữu vi mà nói tất cả đều đốt cháy,
vô ngã cũng như vậy, nói tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh khiến
mọi người chẳng
phóng dật. Đây gọi là
từ ngữ Như Ý.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đức Như Lai lại có
từ ngữ tùy tự ý : Như nói
Phật tánh của
Như Lai có hai thứ : Một là có, hai là không.
Có, là
Như Lai có
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp,
mười trí lực, bốn
vô sở úy, ba
niệm xứ,
đại từ,
đại bi,
Thủ Lăng Nghiêm v.v…
Vô lượng Tam Muội,
Kim Cang v.v…Vô lượng
Tam Muội,
phương tiện v.v…
Vô lượng Tam Muội,
năm trí ấn v.v…
vô lượng Tam Muội.
Không, là
Như lai không có các điều thiện,
bất thiện,
vô ký, nghiệp nhơn
quả báo,
phiền não,
ngũ ấm, mười hai
nhơn duyên.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như có và không, thiện ,
bất thiện,
hữu lậu,
vô lậu,
thế gian,
phi thế gian, thánh, phi thánh,
hữu vi,
vô vi, thật, bất thật,
tịch tịnh, phi
tịch tịnh, tránh, phi tránh, giới, phi giới,
phiền não, phi
phiền não, thủ, phi thủ,
thọ ký, phi
thọ ký, hưũ,
phi hữu,
tam thế, phi
tam thế, thời,
phi thời, thường,
vô thường, ngã,
vô ngã, lạc, vô lạc, tịnh, vô tịnh, sắc, thọ, tưởng, hành, thức,
phi sắc thọ tưởng hành thức, nội nhập, phi nội nhập, ngoại nhập, phi ngoại nhập,
thập nhị nhơn duyên, phi
thập nhị nhơn duyên. Đây là
Phật tánh của
Như Lai hai thứ có và không, nhẫn đến Nhứt
Xiển Đề Phật tánh hai thứ có và không cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Dầu ta nói rằng : Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh, nhưng
chúng sanh chẳng hiểu những
từ ngữ tùy tự ý của Phật như vậy. Những lời như vậy bực
tối hậu thân Bồ Tát còn chẳng hiểu được huống là những
Bồ Tát khác và hàng
nhị thừa.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trước kia có một lúc tại
núi Kỳ Xà Quật, ta cùng
Di Lặc Bồ Tát luận về
thế đế, mà
Xá Lợi Phất v.v… năm trăm vị
Thanh Văn đều chẳng
hiểu biết những việc ấy, huống là việc
xuất thế đệ nhứt nghĩa đế.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Hoặc có
Phật tánh Nhứt
Xiển Đề có mà người
thiện căn thời không. Hoặc có
Phật tánh người
thiện căn thời có còn Nhứt
Xiển Đề thời không. Hoặc có
Phật tánh cả hai đều có, hoặc cả hai đều không. Nếu hàng
đệ tử của ta hiểu bốn nghĩa như vậy, chẳng nên gạn rằng : Nhứt
Xiển Đề quyết định có
Phật tánh hay
quyết định không
Phật tánh.
Như nói
chúng sanh đều có
Phật tánh, đây là
từ ngữ tùy tự ý của
Như Lai. Tù ngữ
tùy tự ý của
Như Lai như vậy, sao
chúng sanh lại nhận hiểu
quyết định một bề.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như trong
sông Hằng có bảy hạng
chúng sanh : Một là chìm luôn, hai là tạm nổi lên lại chìm, ba là nổi lên rồi thời dừng lại, bốn là nổi lên rồi xem khắp bốn phương, năm là xem khắp rồi thời đi, sáu là đi rồi lại đứng lại, bảy là
dưới nước trên bờ đều đi.
Nói chìm luôn , là cá lớn mang
nghiệp ác lớn thân nặng ở sâu nên chìm luôn.
Nói tạm thời nổi lên rồi lại chìm, là cá lớn vì
nghiệp ác thân nặng ở chỗ cạn tạm thời thấy ánh sáng, do ánh sáng tạm thời nổi lên, rồi vì thân nặng mà lại chìm xuống.
Nói nổi lên rồi ở lại, là cá Kỳ Di ở chỗ nước cạn thích thấy ánh sáng nên nổi lên rồi ở lại.
Nói xem khắp bốn phương, là cá Tích vì kiếm ăn mà xem khắp bốn phương.
Xem khắp rồi đi, là nói cá Tích ấy thấy vật đằng xa cho là ăn được nên mau lội đến.
Đi rồi lại đứng lại, là cá nầy đi rồi đã đặng đồ ăn bèn dừng lại.
Nói
dưới nước trên bờ đều đi tức là linh qui vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Con sông
Đại Niết Bàn vi diệu nầy, trong đó cũng có bảy hạng
chúng sanh : Từ hạng
ban đầu thường chìm, nhẫn đến
hạng thứ bảy hoặc xuống nước hoặc lên bờ.
Nói thường chìm, là như có người nghe
kinh Đại Niết Bàn, nói rằng
đức Như Lai thường trụ không có
biến đổi, là thường, lạc, ngã, tịnh, trọn chẳng
nhập Niết Bàn, tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh, đến hạng Nhứt
Xiển Đề cũng ắt sẽ
thành đạo Bồ Đề,
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật v.v.. ắt sẽ được thành
vô thượng Bồ Đề. Người nầy
nghe lời trên đây không tin mà nghĩ và nói rằng
kinh điển Đại Niết Bàn nầy là sách
ngoại đạo chẳng phải kinh Phật. Lúc bây giờ người nầy
xa lìa bạn lành, chẳng nghe
chánh pháp, dầu có lúc được nghe nhưng chẳng thể
tư duy, dầu có
tư duy nhưng chẳng
tư duy pháp lành, vì chẳng
tư duy pháp lành nên trụ nơi pháp ác. Người trụ nơi pháp ác có sáu hạng : Một là ác, hai là vô thiện, ba là ô pháp, bốn là
tăng hữu, năm là não nhiệt, sáu là thọ quả ác, do đây nên gọi là chìm.
Cớ sao gọi là chìm ? Vì
không tâm lành mà thường làm việc ác, vì chẳng
tu tập pháp
đối trị nên gọi là chìm.
Nói rằng ác là vì thánh nhơn
quở trách, vì tâm sợ sệt, vì
xa lìa người lành, vì không
lợi ích chúngb sanh, nên gọi là ác.
Nói rằng vô thiện là vì có thể sanh
vô lượng quả báo ác, vì thường bị
vô minh ràng buộc, vì thích cùng người ác làm bạn, vì không
tu tập những
phương tiện lành, vì tâm họ
điên đảo luôn
sai lầm.
Nói rằng ô pháp là vì thân khẩu thường
nhiễm ô,vì
nhiễm ô chúng sanh thanh tịnh, vì thêm lớn nghiệp chẳng lành, vì
xa lìa pháp lành, đây gọi là ô pháp.
Nói
tăng hữu là ba người như trên thật hành những pháp ác, có thể thêm
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ, chẳng thể
tu tập pháp
giải thoát, thân, khẩu, ý chẳng nhàm các cõi, đây gọi là
tăng hữu.
Nói rằng não nhiệt là những người nầy, làm đủ bốn việc như trên có thể khiến
thân tâm não nhiệt,
xa lìa tịch tịnh thời gọi là nhiệt, bị
quả báo địa ngục nên gọi là nhiệt, đốt cháy các
chúng sanh nên gọi là nhiệt, đốt cháy các pháp lành nên gọi là nhiệt, người nầy chẳng có
tín tâm mát mẻ nên gọi là nhiệt.
Nói rằng thọ lấy quả ác là người nầy làm đủ năm việc trên khi chết đọa
địa ngục,
ngạ quỉ,
súc sanh. Có ba việc ác nên gọi là quả ác : Một là
phiền não ác, hai là
nghiệp ác, ba là báo ác, đây gọi làthọ lấy
quả báo ác. Người nầy có đủ sáu việc như trên thời có thể làm dứt mất căn lành tạo tội
ngũ nghịch, phạm bốn tội trọng, hủy báng
Tam bảo, dùng của vật của
chúng Tăng, có thể làm những việc
phi pháp, do đây nên
chìm đắm ở trong
địa ngục A Tỳ,
thân hình rộng lớn tám muôn bốn ngàn do diên, vì người nầy
nghiệp ác nơi thân, khẩu, ý quá nặng nên không thể ra khỏi được, vì tâm họ chẳng thể
sanh pháp lành, dầu có
vô lượng chư Phật ra đời cũng chẳng được
nghe được thấy, đây gọi là thường chìm. Như cá lớn trong
sông Hằng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Dầu ta nói Nhứt
Xiển Đề gọi là thường chìm, nhưng lại có hạng thường chìm, mà chẳng phải Nhứt
Xiển Đề : Như người vì cõi
hữu lậu mà
bố thí trì giới làm các
việc lành, đây cũng gọi là thường chìm.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có bốn
việc lành mang lấy quả ác : Một là vì hơn người mà
đọc tụng kinh điển, hai là vì
lợi dưỡng mà
thọ trì cấm giới, ba là vì hệ thuộc người khác mà làm việc
bố thí, bốn là vì cõi
phi tưởng, phi
phi tưởng mà nhiếp niệm
tư duy, đây là bốn điều lành được
quả báo ác. Nếu người thật hành bốn việc như vậy thời gọi là chìm rồi lại nổi lên, nổi lên rồi lại chìm xuống. Vì
ưa thích ba cõi hữu lậu nên gọi là chìm. Vì thấy ánh sáng tức là được
nghe pháp trì giới,
bố thí,
thiền định, đây gọi là nổi lên. Thêm lớn
tà kiến, sanh
kiêu mạn nên gọi là lại chìm xuống. Do đây nên trong
khế kinh ta nói kệ rằng :
Nếu có
chúng sanh thích các cõi, Vì các cõi mà tạo
nghiệp ác, Người nầy mê mất đạo
Niết Bàn, Đây là tạm nổi lại chìm xuống. Đi nơi biển
sanh tử tối tăm, Dầu
được giải thoát xem
phiền não, Người nầy lại thọ
quả báo ác, Đây là tạm ra lại chìm xuống.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như cá lớn kia do thấy ánh sáng tạm thời nổi lên khỏi nước, vì thân nặng nên lại chìm xuống, hai hạng người trên đây cũng lại như vậy.
Nầy
Thiện nam Tử ! Hoặc có người tham đắm
ba cõi hữu lậu đây gọi là chìm. Được nghe
kinh Đại Niết Bàn nầy mà sanh
lòng tin, đây gọi là nổi lên.
Duyên cớ gì gọi đó là nổi lên ? Ví nghe kinh nầy rồi
xa lìa pháp ác
tu tập pháp lành, nên gọi là nổi lên. Người nầy dầu tin nhưng cũng chẳng đầy đủ.
Duyên cớ gì
tín tâm chẳng đầy đủ ? Người nầy dầu tin
Đại Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh, mà nói rằng thân
Như Lai là
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh.
Đức Như Lai có hai thứ
Niết Bàn : Một là
hữu vi, hai là
vô vi.
Hữu vi Niết Bàn không có
thường lạc ngã tịnh.
Vô vi Niết Bàn có
thường lạc ngã tịnh. Dầu tin
Phật tánh là
chúng sanh có, nhưng bất tất là tất cả đều có. Do đây nên gọi là
tín tâm chẳng đầy đủ.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Tín tâm có hai thứ : Một là tin, hai là cầu. Người như trên đây dầu có
tín tâm, nhưng chẳng thể suy cầu, nên gọi là
tín tâm chẳng đầy đủ.
Tín tâm lại có hai thứ : Một là từ
nghe pháp mà sanh
lòng tin, hai là từ
tư duy mà sanh
lòng tin.
Tín tâm của người nầy do
nghe pháp mà sanh chẳng phải do
tư duy, nên gọi là
tín tâm chẳng đầy đủ.
Tín tâm lại có hai thứ : Một là tin có
thánh đạo, hai là tin người
đắc đạo. Người nầy dầu tin có
thánh đạo, nhưng trọn chẳng tin có người
đắc đạo, nên gọi là
tín tâm chẳng đầy đủ.
Tín tâm lại có hai thứ : Một là tin chánh, hai là tin tà. Nói rằng có nhơn quả, có Phật, Pháp, Tăng, đây gọi là tin chánh. Nói rằng không nhơn quả, tánh
Tam Bảo khác nhau,
tin theo những lời tà của
ngoại đạo, đây gọi là tin tà. Người nầy dầu tin
Phật pháp Tăng Tam Bảo, nhưng chẳng tin
Tam Bảo đồng một
tánh tướng, dầu
tin nhơn quả nhưng chẳng tin người
đắc quả, nên gọi là
tín tâm chẳng đầy đủ.
Người nầy trọn nên
tín tâm chẳng đầy đủ,
thọ trì cấm giới cũng chẳng đầy đủ. Vì nhơn chẳng đầy đủ nên chỗ được
cấm giới cũng chẳng đầy đủ. Lại giới có hai thứ : Một là
oai nghi, hai là tùng giới. Người nầy dầu đầy đủ những giới về
oai nghi nhưng chẳng đầy đủ những giới về tùng giới, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Giới lại có hai thứ : Một là
tác giới, hai là
vô tác giới. Người nầy dầu có
tác giới nhưng chẳng đủ
vô tác giới, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Giới lại có hai thứ : Một là từ thân khẩu mà được
chánh mạng, hai là từ thân khẩu chẳng được
chánh mạng. Người nầy dầu từ thân khẩu nhưng chẳng được
chánh mạng, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Giới lại có hai thứ : Một là cầu giới, hai là xả giới. Người nầy dầu đủ giới do cầu mà có nhưng chẳng được giới do xả mà có, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Giới lại có hai thứ : Một là tùy hữu, hai là tùy đạo. Người nầy dầu đủ giới tùy hữu nhưng chẳng đủ giới tùy đạo, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Giới lại có hai thứ : Một là
thiện giới, hai là
ác giới.
Thân khẩu ý lành gọi là
thiện giới.
Ngưu giới,
Cẩu giới v.v… gọi là
ác giới. Người nầy rất tin cả hai thứ giới đây đều có quả lành, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Người nầy chẳng đầy đủ hai điều :
Tín tâm và giới, nên chỗ
tu tập đa văn cũng chẳng đầy đủ,. Thế nào gọi là
đa văn chẳng đầy đủ ?
Mười hai bộ kinh của
đức Như Lai nói ra người nầy chỉ tin sáu bộ, mà chẳng tin sáu bộ, nên gọi là
đa văn chẳng đầy đủ. Người nầy dầu
thọ trì sáu
bộ kinh đây nhưng không thể
đọc tụng cùng
giảng giải cho người, không chỗ
lợi ích, nên gọi là
đa văn chẳng đầy đủ. Hoặc người nầy
thọ trì sáu
bộ kinh đây rồi mà vì
luận nghị, vì hơn người, vì
lợi dưỡng, vì các cõi
hữu lậu mà
đọc tụng giảng thuyết nên gọi là
đa văn chẳng đầy đủ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ở trong
khế kinh ta từng nói
đa văn đầy đủ. Thế nào là đầy đủ ?â Nếu có
Tỳ Kheo thân khẩu ý đều lành, trước có thể
cúng dường Hòa Thượng, chư Sư, những người có đức. Chư Sư nầy đối với người ấy sanh lòng
thương mến, nên đem
kinh pháp truyền dạy cho. Người nầy
chí tâm thọ trì tụng tập, được
trí huệ. Được
trí huệ rồi có thể khéo
tư duy thật hành đúng
như pháp. Khéo
tư duy rồi thời được chánh nghĩa. Được chánh nghĩa rồi
thân tâm tịch tịnh.
Thân tâm đã
tịch tịnh thời
sanh hỷ tâm. Do hỷ tâm mà được định. Do được định nên được chánh
tri kiến. Được chánh
tri kiến rồi sanh lòng
ăn năn nhàm chán các cõi
hữu lậu. Vì
nhàm chán các cõi nên
được giải thoát.
Người trên đây không có những việc như vậy nên gọi là
đa văn chẳng đầy đủ.
Người nầy chẳng đầy đủ ba việc như vậy nên
bố thí cũng chẳng đầy đủ.
Bố thí có hai thứ : Một là
tài thí, hai là
pháp thí, người nầy dầu thật hành về
tài thí nhưng vì cầu cõi
hữu lậu, dầu thật
hành pháp thí nhưng cũng chẳng đầy đủ, vì bí lẫn chẳng nói hết sợ người hơn mình, nên gọi là
bố thí chẳng đầy đủ.
Hai thứ
tài thí,
pháp thí đều riêng có hai : Một là thánh, hai là chẳng phải thánh. Thánh nhơn
bố thí rồi chẳng cầu
quả báo. Người chẳng phải thánh
bố thí rồi cầu
quả báo. Thánh nhơn
bố thí pháp để làm cho pháp được
tăng trưởng. Người chẳng phải thánh
bố thí pháp để
tăng trưởng các cõi
hữu lậu.
Người nầy vì
tăng trưởng của cải mà thật hành
tài thí, vì
tăng trưởng cõi
hữu lậu mà thật
hành pháp thí, nên gọi là
bố thí chẳng đầy đủ.
Lại người nầy
lãnh thọ sáu
bộ kinh, thấy người
thọ pháp thời
cung cấp cho, gặp người chẳng
thọ pháp thời chẳng
cung cấp, nên gọi là
bố thí chẳng đầy đủ.
Người nầy chẳng đủ bốn điều như trên nên chỗ tu
trí huệ cũng chẳng đầy đủ. Tánh của
trí huệ là hay
phân biệt. Người nầy chẳng thể
phân biệt Như Lai là
thường hay vô thường. Trong
kinh Đại Niết Bàn nầy
đức Phật nói
Như Lai chính là
giải thoát,
giải thoát chính là
Như lai.
Như Lai là
Niết bàn,
Niết Bàn là
giải thoát. Trong những nghĩa đây người nầy chẳng thể
phân biệt được.
Đức Phật lại nói
phạm hạnh là
Như Lai,
Như Lai là từ, bi, hỷ, xả. Từ, bi, hỷ, xả là
giải thoát,
giải thoát là
Niết Bàn,
Niết Bàn là từ, bi, hỷ, xả. Trong những nghĩa đây, người nầy không
phân biệt được nên gọi là trí chẳng đầy đủ.
Người nầy lại chẳng
phân biệt được
Phật tánh,
Phật tánh là
Như Lai,
Như Lai là tất cả pháp
bất cộng, pháp
bất cộng là
giải thoát,
giải thoát là
Niết Bàn,
Niết Bàn là pháp
bất cộng. Người nầy lại chẳng
phân biệt được bốn đế lý
khổ tập diệt đạo, vì không
phân biệt được bốn đế lý nên chẳng biết
thánh hạnh, vì chẳng biết
thánh hạnh nên chẳng biết
Như Lai, vì chẳng biết
Như Lai nên chẳng biết
giải thoát, vì chẳng biết
giải thoát nên chẳng biết
Niết Bàn, do đây nên gọi là trí chẳng đầy đủ.
Người nầy chẳng có đủ năm điều như vậy, thời thêm lớn hai pháp : Một là thêm pháp lành, hai là thêm pháp ác.
Thế nào gọi là thêm lớn pháp ác ? Người nầy chẳng biết rằng mình không đầy đủ, tự cho rằng đầy đu ûmà sanh tâm
tham trước, đối với người đồng hàng cho mình là hơn, do đây bèn gần gũi những bạn ác đồng với mình đã gần gũi bạn ác rồi lại được nghe những pháp chẳng đầy đủ, sanh tâm
vui mừng nhiễm trước,
kiêu mạn phóng dật, do
phóng dật mà gần gũi người
tại gia, thích nghe nói những việc
tại gia,
xa lìa pháp
xuất gia thanh tịnh, do đây nên thêm lớn pháp ác, vì đã thêm pháp ác nên
thân khẩu ý gây nghiệp chẳng
thanh tịnh, vì
ba nghiệp chẳng
thanh tịnh nên thêm lớn
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ. Đây gọi là tạm nổi lên lại chìm xuống.
Trong
Phật pháp của ta ai là kẻ tạm nổi lên lại chìm xuống ? Chính là
Đề Bà Đạt Đa, Cù Hoà Ly
Tỳ Kheo, Uyển Thủ
Tỳ Kheo,
Thiện Tinh Tỳ Kheo,
Tỳ Xá Tỳ Kheo, Mãn Tú
Tỳ Kheo, Từ Địa
Tỳ Kheo Ni, Khoáng Dã
Tỳ Kheo Ni, Phương
Tỳ Kheo Ni, Mạn
Tỳ Kheo Ni, Tịnh Khiết
Trưởng Giả,
Câu Hữu Ưu Bà Tắc, Kim Lặc
Thích Chủng, Tượng
Trưởng Giả, Danh Xưng
Ưu Bà Di,
Quang Minh Ưu Bà Di,
Nan Đà Ưu Bà Di,
Quân
Ưu Bà Di, Linh
Ưu Bà Di.Như cá lớn thấy ánh sáng nên nổi lên, vì thân nặng lại chìm xuống.
Thế nào gọi là thân lớn pháp lành ? Người nầy biết rõ mình
công hạnh chẳng đầy đủ, vì tự biết chẳng đầy đủ nên cầu gần bạn lành, vì gần bạn lành nên thích nghe hỏi chỗ chưa được nghe, nghe rồi thích
thọ trì, thọ rồi thích
tư duy, khéo
tư duy rồi có thể ở đúng
như pháp, vì ở đúng
như pháp nên thêm lớn pháp lành, vì thêm lớn pháp lành nên trọn chẳng còn chìm, đây gọi là nổi lên rồi ở lại.
Trong
Phật pháp của ta ai là người nổi lên rồi ở lại ? Chính là
Xá Lợi Phất,
Đại Mục Kiền Liên,
A Nhã Kiều Trần Như v.v… năm vị
Tỳ Kheo Da Xá v.v… năm mươi vị
Tỳ Kheo,
A Nâu Lâu Đà,
Ma Ha Ca Diếp,
Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp v.v… ba vị
Tỳ Kheo Thập Lực Ca Diếp, Sấu
Cù Đàm Di Tỳ Kheo Ni,
Ba Tra La Hoa
Tỳ Kheo Ni, Thắng
Tỳ Kheo Ni, Thiệt Nghĩa
Tỳ Kheo Ni, Hải Ý
Tỳ Kheo Ni,
Bạt Đà Tỳ Kheo Ni, Tịnh
Tỳ Kheo Ni,
Bất Thối Chuyển Tỳ Kheo Ni,
Tần Bà Ta La Vương, Úc Dà
Trưởng Giả,
Tu Đạt Đa Trưởng Giả, Thích
Ma Ha Nam Trưởng Giả, Bần
Tu Đạt ĐaThử Lang
Trưởng Giả, Danh Xưng
Trưởng Giả,
Cụ Túc Trưởng Giả,
Sư Tử Tướng Quân,
Ưu Bà Ly Trưởng Giả, Đao
Trưởng Giả,
Vô Úy Ưu Bà Di,
Thiện Trụ Ưu Bà Di,
Ái Pháp Ưu Bà Di,
Dũng Kiện Ưu Bà Di, Thiên Đắc
Ưu Bà Di,
Thiện Sanh Ưu Bà Di, Cụ Thân
Ưu Bà Di, Ngưu Đắc
Ưu Bà Di, Khoáng Dã
Ưu Bà Di,
Ma Ha Tư Na
Ưu Bà Di v.v…
Thế nào gọi là ở lại ? Vì thường thích xem thấy ánh sáng pháp lành. Do
nhơn duyên nầy, hoặc Phật
xuất thế, hoặc chẳng
xuất thế, những người trên đây trọn chẳng tạo
nghiệp ác nên gọi là ở lại. Như cá Kỳ Di thích thấy ánh sáng nên chẳng lặn chẳng chìm. Hạng
tứ chúng trên đây cũng như vậy. Trong kinh ta từng nói kệ rằng :
Nếu người khéo
phân biệt pháp nghĩa,
Chí tâm cầu được quả
Sa Môn,
Quở trách tất cả cõi
hữu lậu, Người nầy gọi là ở đúng pháp. Nếu hay
cúng dường vô lượng Phật, Trong
vô lượng đời tu
thánh đạo, Hưởng thọ
vui sướng chẳng
phóng dật, Người nầy gọi là ở đúng pháp. Gần gũi bạn lành nghe
chánh pháp, Tâm khéo
tư duy ở đúng pháp, Thích thấy ánh sáng tu
thánh đạo, Chứng
được giải thoát thường
an ổn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trí chẳng đầy đủ phàm có năm điều , người nầy biết rồi cầu gần bạn lành. Bạn lành nầy nên
xem xét người trên đây nhiều
tham dục hay nhiều
sân khuể,
ngu si, tư giác,
chấp ngã ?
Nếu biết là nhiều
tham dục thời nên dạy cho pháp
quán bất tịnh : Nhiều
sân khuể dạy pháp
quán từ bi ; nhiều
ngu si dạy pháp quán
nhơn duyên ; nhiều tư giác dạy pháp
quán sổ tức ; nhiều
chấp ngã nên dạy phân tích
thập bát giới v.v…
Người nầy nghe rồi
chí tâm thọ trì,
thọ trì rồi
tu hành đúng
như pháp, thật hành đúng
như pháp rồi
lần lượt chứng được
tứ niệm xứ quán thân thọ
tâm pháp, đặng pháp quán nầy rồi lại quán mười hai
nhơn duyên, quán rồi chứng được
noãn pháp.
Ca Diếp Bồ Tát bạch rằng :
Thế Tôn ! Tất cả
chúng sanh đều có
noãn pháp. Vì
đức Phật nói ba pháp hòa hiệp gọi là
chúng sanh : Một là thọ, hai là noãn, ba là thức. Nếu theo nghĩa nầy thời tất cả
chúng sanh lẽ ra trước đã có noãn. Tại sao
đức Như Lai nói rằng
noãn pháp do bạn lành mà có ?
Phật nói : “ Nầy
Thiện Nam Tử ! Như
noãn pháp của ông hỏi thời tất cả
chúng sanh đến Nhứt
Xiển Đề đều có.
Noãn pháp của ta nói hôm nay phải do
phương tiện rồi sau mới được, chẳng phải tất cả
chúng sanh đều có trước.
Nay ông chẳng nên gạn rằng tất cả
chúng sanh đều có
noãn pháp.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Noãn pháp nầy thuộc về cõi sắc, chẳng phải cõi dục có được. Vì cõi dục không có, nên biết rằng tất cả
chúng sanh bất tất đều có.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Cõi sắc dầu có
noãn pháp nhưng chẳng phải tất cả đều có, vì
đệ tử của ta thời có, còn
ngoại đạo thời không.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả
ngoại đạo chỉ quán được sáu hạnh.
Đệ tử của ta thời quán đủ cả
mười sáu hạnh.
Mười sáu hạnh nầy tất cả
chúng sanh bất tất đều có.
_ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào gọi là noãn ? Là tánh nó tự noãn hay vì pháp khác mà noãn ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !Noãn pháp nầy tánh nó là noãn chẳng phải do pháp khác mà noãn.
_ Bạch
Thế Tôn !
Đức Như Lai trước kia nói rằng
Mã Sư và Mãn Tú không có
noãn pháp, vì hai người nầy không có
tín tâm đối với
Tam Bảo. Do đây nên biết rằng
tín tâm chính là
noãn pháp.
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Tín tâm chẳng phải là
noãn pháp, vì do
tín tâm mà chứng
noãn pháp.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Luận về
noãn pháp chính là
trí huệ, vì quán
tứ đế nên gọi là
mười sáu hạnh. Hạnh đây chính là trí.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như lời ông hỏi
duyên cớ gì mà gọi là noãn ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Luận về
noãn pháp chính là tướng lửa của
tám thánh đạo.
Như cọ lửa : Trước có hơi nóng, kế có lửa, rồi sau có khói, đạo
vô lậu nầy cũng như vậy : Hơi nóng là
mười sáu hạnh, lửa là quả T u Đà Hoàn, khói là trong vị
tu đạo dứt
kiết sử.
_ Bạch
Thế Tôn !
Noãn pháp nầy cũng là pháp có, cũng là
hữu vi.
Noãn pháp nầy được qủa
báo thân ngũ ấm cõi sắc nên gọi là có. Vì là
nhơn duyên nên lại gọi là
hữu vi. Nếu là
hữu vi tại sao có thể làm tướng đạo
vô lậu ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Đúng như vậy !
Noãn pháp nầy dầu là
pháp hữu vi hữu lậu, nhưng
trở lại có thể
phá hoại pháp hữu vi hữu lậu, nên có thể làm tướng đạo
vô lậu. Như người cỡi ngựa cũng thương ngựa nhưng cũng đánh ngựa.
Noãn pháp cũng vậy : Vì ái mà thọ sanh, vì nhàm mà
tu quán hạnh, do đây nên dầu là
hữu lậu hữu vi mà có thể làm tướng cho
chánh đạo kia.
Có bảy mươi ba hạng người được
noãn pháp : Cõi dục mười hạng người. Mười hạng người nầy đầy đủ tất cả
phiền não : Từ dứt một phần đến chín phần. Như cõi dục,
Sơ thiền nhẫn đến
Vô Sở Hữu Xứ cũng như vậy. Đây gọi là bảy mươi ba. Những người nầy được
noãn pháp rồi thời chẳng còn lại có thể dứt căn lành tạo tội
ngũ nghịch phạm bốn tội trọng. Những người nầy có hai hạng : Một là gặp bạn lành, hai là gặp bạn ác.
Người gặp bạn ác tạm thời nổi lên rồi chìm
trở lại.
Người gặp bạn lành thời
quan sát khắp bốn phương.
Quan sát bốn phương chính là đảnh pháp, đảnh pháp nầy dầu cũng là tánh
ngũ ấm, nhưng vẫn duyên nơi bốn đế lý, nên được gọi là
quan sát khắp bốn phương. Được đảnh pháp rồi kế được
nhẫn pháp.
Nhẫn pháp nầy tánh nó cũng là
ngũ ấm, cũng duyên bốn đế lý. Người nầy kế được thế
đệ nhứt pháp, pháp nầy dầu tánh là
ngũ ấm nhưng cũng duyên bốn đế lý. Người nầy kế được khổ
pháp nhẫn, tánh của nhẫn là huệ duyên nơi một đế lý.
Pháp nhẫn nầy duyên một đế lý rồi nhẫn đến
kiến đạo dứt
phiền não đặng quả
Tu Đà Hoàn. Đây gọi là
quan sát khắp bốn phương, bốn phương chính là bốn đế lý.
Bạch
Thế Tôn ! Trước kia
đức Phật nói rằng những
phiền não của bực
Tu Đà Hoàn dứt, dường như dòng nước rộng bốn mươi dặm, những
phiền não còn lại như giọt nước đầu sợi lông.
Nơi đây sao lại nói dứt ba món
kiết sử gọi là bực
Tu Đà Hoàn : Một là
ngã kiến, hai là chẳng phải nhơn thấy là nhơn, ba là lưới nghi.ï
Bạch
Thế Tôn !
Nhơn duyên gì gọi là
Tu Đà Hoàn xem khắp bốn phương ? Lại do duyên gì mà gọi là
Tu Đà Hoàn ?
Duyên cớ gì đem cá Tích để dụ bực
Tu Đà Hoàn ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Bực
Tu Đà Hoàn dầu có thể dứt
vô lượng phiền não, nhưng ba món kiết nầy nặng nhứt và cũng nhiếp tất cả những
kiết sử của bực
Tu Đà Hoàn dứt, nên nói là dứt ba món
kiết sử.
Như
Quốc Vương lúc đi tuần du, dầu có các quan và
bốn đạo binh, nhưng người đời chỉ nói rằng nhà vua đến, nhà vua đi. Trong đây nói dứt ba món
phiền não nầy cũng như vậy.
Duyên cớ gì ba món kiết nầy là nặng ? Vì tất cả
chúng sanh thường khởi
phiền não nầy và vì
vi tế khó biết, nên gọi là nặng. Vì ba món kiết nầy khó dứt được, vì nó có thể làm nhơn cho tất cả
phiền não, là
oán địch bị
đối trị của giới, định và huệ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có những
chúng sanh nghe bực
Tu Đà Hoàn có thể dứt
vô lượng phiền não như vậy,
thời chúng nó sanh lòng
thối chuyển mà nói rằng :
Chúng ta thế nào có thể dứt
vô lượng phiền não như vậy. Do đây nên
đức Như Lai phương tiện nói dứt ba
kiết sử.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Bực
Tu Đà Hòan quán
tứ đế được bốn điều : Một là
kiên cố trụ
chánh đạo, hai là có thể khắp
quan sát, ba là có thể thấy đúng
như thật, bốn là có thể
phá hoại oán địch lớn. Bực
Tu Đà Hoàn,
thành tựu tín v.v…
Ngũ căn không ai có thể lay động, nên gọi là
kiên cố trụ nơi
chánh đạo. Bực nầy đều có thể
quở trách những
phiền não trong và ngoài, nên gọi là khắp
quan sát. Thấy đúng
như thật chính là
nhẫn trí.
Oán địch lớn là nói bốn thứ
điên đảo.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Chữ Tu là
vô lậu, chữ Đà Hoàn là
tu tập, vì
tu tập vô lậu nên gọi là
Tu Đà Hoàn. Lại có nghĩa chữ Tu là dòng, vì ngược dòng nên gọi là
Tu Đà Hoàn.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu theo nghĩa nầy,
duyên cớ gì những bực
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm và
A La Hán chẳng được gọi là
Tu Đà Hoàn ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Từ bực
Tu Đà Hoàn nhẫn đến chư Phật cũng đều được gọi là
Tu Đà Hoàn cả. Nếu bực
Tư Đà Hàm đến chư Phật mà không có
danh nghĩa Tu Đà Hoàn, thời đâu được gọi là
Tư Đà Hàm nhẫn đến Phật.
Tất cả
chúng sanh về
danh tự có hai thứ : Một là tên cũ, hai là tên mới. Lúc còn
phàm phu có
danh tự thế tục, lúc đã
đắc đạo lại đặt tên gọi là
Tu Đà Hoàn. Trước gọi là
Tu Đà Hoàn, vì lúc sau
đắc quả nên gọi là
Tư Đà Hàm. Người nầy cũng gọi là
Tu Đà Hoàn, cũng gọi là
Tư Đà Hàm, nhẫn đến chư Phật cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có hai thứ dòng : Một là
giải thoát, hai là
Niết Bàn. Tất cả Thánh nhơn đều có hai dòng nầy, nên cũng được gọi là
Tu Đà Hoàn cũng gọi là
Tư Đà Hàm, nhẫn đến Phật cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Bực
Tu Đà Hoàn cũng gọi là
Bồ Tát. Vì
Bồ Tát chính là
tận trí và
vô sanh trí. Bực
Tu Đà Hoàn cũng mong cầu hai trí nầy, nên được gọi là
Bồ Tát.
Bực
Tu Đà Hoàn cũng được gọi là giác. Vì
chánh giác kiến đạo dứt
phiền não, vì
chánh giác nhơn quả, vì
chánh giác cộng đạo và
bất cộng đạo. Bực
Tư Đà Hàm nhẫn đến bực
A La Hán cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có hai hạng
Tu Đà Hoàn :
Lợi căn và độn căn. Bực
độn căn bảy lần sanh
cõi người cõi trời, hoặc sáu lần, năm lần, bốn lần, ba lần, hai lần sanh
cõi người trời mới
chứng quả A La Hán. Bực
lợi căn hiện đời
chứng quả Tu Đà Hoàn đến quả
A La Hán.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Cá Tích có bốn điều : Một là xương nhỏ nên nhẹ, hai là có cánh nên nhẹ, ba là thích thấy ánh sáng, bốn là ngậm được vật thời giữ chặt.
Bực
Tu Đà Hoàn cũng có bốn điều : Một là
phiền não nhỏ nhẹ như cá Tích nhỏ xương, hai là có chỉ có quán như cá Tích có cánh, ba là
kiến đạo, như cá Tích thích thấy ánh sáng, bốn là nghe thấy
đức Phật nói nghĩa
vô thường khổ
vô ngã bất tịnh thời
kiên trì chẳng bỏ như cá Tích ngậm được vật thời giữ chặt.
Như trước kia
Ma Vương hóa làm thân Phật. Thủ La
Trưởng Giả xem thấy trong lòng kinh sợ, Ma thấy tâm
Trưởng giả động bèn bảo
Trưởng giả rằng : Trước kia ta nói bốn
chơn đế, thuyết đó không chơn thật. Nay ta vì ông mà nói năm đế, sáu ấm , mười ba nhập, mười chín giới. Thủ La
Trưởng Giả nghe lời nầy liền
quan sát pháp tướng đều
không có lý do, nên
kiên trì nghĩa cũ, tâm ông chẳng lay động.
_ Bạch
Thế Tôn ! Bực
Tu Đà Hoàn nầy vì
đắc đạo trước mà gọi là
Tu Đà Hoàn hay là vì chứng
sơ quả mà gọi là
Tu Đà Hoàn ? Nếu vì
đắc đạo trước, thời lúc được khổ
pháp nhẫn cớ sao chẳng gọi là
Tu Đà Hoàn mà gọi là Hướng ? Nếu vì được
sơ quả, thời người
ngoại đạo trước dứt
phiền não đến
vô sở hữu xứ tu đạo vô lậu được quả
A Na Hàm, cớ sao chẳng gọi là
Tu Đà Hoàn ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì được
sơ quả mà gọi là
Tu Đà Hoàn, lúc đó người nầy đầy đủ
tám trí và
mười sáu hạnh.
Bạch
Thế Tôn ! Người được
A Na Hàm cũng đầy đủ
tám trí và
mười sáu hạnh. Cớ sao chẳng được gọi là
Tu Đà Hoàn ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Mười sáu hạnh hữu lậu có hai thứ : Cộng và
bất cộng.
Mười sáu hạnh vô lậu cũng có hai : Hướng quả và
đắc quả.
Tám trí cũng có hai, hướng quả và
đắc quả. Bực
Tu Đà Hoàn rời bỏ
mười sáu hạnh công, chứng được
mười sáu hạnh bất công, rời bỏ
tám trí hướng
quả chứng được
tám trí đắc quả. Bực
A Na Hàm thời chẳng như vậy. Do đây nên
sơ quả gọi là
Tu Đà Hoàn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Bực
Tu Đà Hoàn duyên nơi
tứ đế, bực
A Na Hàm chỉ duyên nhứt đế, nên
sơ quả gọi là
Tu Đà Hoàn.
Do
nhơn duyên trên đây nên dùng cá Tích để ví dụ, ngó khắp bốn phương rồi bèn đi. Nói đi là chỉ cho bực
Tư Đà Hàm nhiếp tâm tu hành để dứt trừ tham, sân, si, mạn.
Như cá Tích kia nhìn xem khắp bốn phương rồi vì kiếm ăn nên đi, đi rồi lại đứng lại, đây là dụ bực
A Na Hàm được món ăn rồi thời dừng lại. Có hai hạng
A Na Hàm : Một là
hiện tại được quả
A Na Hàm rồi
tiến tu được quả
A La Hán, hai là hạng
tham trước Tam Muội tịch tịnh trong cõi sắc và cõi
vô sắc, bực nầy chẳng thọ thân cõi dục nên gọi là
A Na Hàm. Bực
A Na Hàm nầy lại có năm hạng : Một là
trung bát Niết Bàn, hai là thọ thân
bát Niết Bàn, ba là
hành bát Niết Bàn, bốn là
vô hành bát Niết Bàn, năm là
thượng lưu bát Niết Bàn. Lại có sáu hạng là thân
hiện tại bát Niết Bàn. Lại có bảy hạng là thân
vô sắc giới bát Niết Bàn.
Hạng
hành bát Niết Bàn có hai : Hoặc thọ hai thân, hoặc thọ bốn thân. Nếu thọ hai thân thời gọi là
lợi căn, nếu thọ bốn thân thời gọi là
độn căn. Lại có hai hạng, một là
tinh tấn mà không
chánh định tự tại, hai là
giải đãi mà có
chánh định tự tại. Lại có hai hạng : Một là có đủ
tinh tấn và
chánh định tự tại, hai là chẳng có cả hai.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Chúng sanh trong cõi dục, cõi sắc có hai thứ nghiệp :
Tác nghiệp và thọ
sanh nghiệp. Bực
A Na Hàm trung bát Niết Bàn chỉ có
tác nghiệp mà không thọ
sanh nghiệp, nên bỏ thân cõi dục lúc chưa đến cõi sắc, vì
lợi căn mà
bát Niết Bàn. Bực
A Na Hàm trung bát Niết Bàn nầy có bốn tâm : Một là phi học, phi
vô học, hai là học, ba là
vô học, bốn là phi học, phi
vô học nhập Niết Bàn. Thế nào lại gọi là
trung bát Niết Bàn ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong bốn thứ tâm của bực
A Na Hàm nầy hai tâm là
Niết Bàn, hai tâm là chẳng phải
Niết Bàn, do đây nên gọi là
trung bát Niết Bàn.
Bực
A Na Hàm thọ thân
bát Niết Bàn có hai thứ : Một là
tác nghiệp, hai là
sanh nghiệp. Bực nầy bỏ thân
dục giới thọ
thân sắc giới,
tinh tấn tu hành mãn
thọ mạng thời
nhập Niết Bàn.
Bạch
Thế Tôn ! Nếu là
thọ mạng hết
nhập Niết Bàn, tại sao gọi rằng thọ thân
Niết Bàn ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Bực nầy thọ thân rồi sau mới dứt hết
phiền não trong
tam giới, nên gọi là thọ thân
Niết Bàn.
Bực
A Na Hàm thường
tu hành do sức
Tam Muội hữu vi có thể dứt
phiền não nhập Niết Bàn, do đây nên gọi là
hành bát Niết Bàn.
Bực
A Na Hàm rõ biết
quyết định sẽ chứng được
Niết Bàn nên
giải đãi, cũng do sức
Tam Muội hữu vi mãn
thọ mạng thời được
nhập Niết Bàn, do đây gọi là
vô hành bát Niết Bàn.
Nếu bực
A Na Hàm được
đệ tứ thiền rồi lại sanh lòng mến
sơ thiền do đây sanh xuống trời
sơ thiền. Nơi đây có hai dòng : Dòng
phiền não và dòng đạo mà mến
nhị thiền, nên sanh lên trời
nhị thiền, lần đến trời
tứ thiền cũng như vậy.
Bực nầy trong trời
tứ thiền lại có hai hạng : Một là vào cõi
vô sắc, hai là vào trời
Ngũ Tịnh Cư. Hai bực nầy, bực thích
Tam Muội thời vào cõi
vô sắc. Bực thích
trí huệ thời vào trời
Ngũ Tịnh Cư.
Hai bực trên đây, một hạng tu
đệ tứ thiền có năm từng cấp, một hạng chẳng tu.
Thế nào là năm từng cấp ? Là hạ, trung, thượng, thượng trung, thượng thượng. Bực tu thượng thượng thời ở
trời Sắc Cứu cánh, bực tu trung thượng thời ở trời
Thiện Hiện, bực tu
thượng phẩm thời ở
trời Thiện Kiến, bực tu
trung phẩm thời ở
trời Vô Nhiệt, bực tu
hạ phẩm thời ở trời
Vô Phiền.
Hai bực nầy, một thời ưa
luận nghị ở trời
Ngũ Tịnh Cư, một thời ưa
tịch tịnh vào cõi
Vô Sắc.
Lại có hai hạng : Một thời tu
huân thiền vào trời
Ngũ Tịnh Cư, một thời chẳng tu
huân thiền sanh cõi
Vô Sắc mãn
thọ mạng mà
nhập Niết Bàn, do đây gọi là
thượng lưu bát Niết Bàn. Nếu muốn vào cõi
Vô Sắc thời không thể tu năm từng cấp
tứ thiền. Nếu tu năm từng cấp nầy thời có thể
quở trách định Vô sắc.
_ Bạch
Thế Tôn !
Bực trung bát Niết Bàn là
lợi căn. Nếu là
lợi căn cớ sao chẳng
hiện tại nhập Niết Bàn ? Cớ sao
dục giới có hạng
trung bát Niết Bàn mà
sắc giới thời không .
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Người nầy
thân tứ đại hiện tại yếu kém không thể
hành đạo. Dầu có
Tỳ Kheo thân thể tráng kiện nhưng những duyên nhà cửa
y phục uống ăn thuốc men v.v… chẳng đủ, nên chẳng được
hiện tại bát Niết Bàn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ngày trước có một lúc ta ở nước
Xá Vệ tại
tịnh xá A Na Phân Chỉ, có một
Tỳ Kheo đến bạch với ta rằng ông luôn
tu hành mà chẳng thể được quả
Tu Đà Hoàn đến quả
A La Hán. Lúc đó ta liền bảo
A Nan rằng : Nay ông nên lo đủ đồ
cần dùng cho
Tỳ Kheo nầy.
A Nan liền dắt
Tỳ Kheo đó đến rừng Kỳ Đà cho ở phòng nhà tốt.
Tỳ Kheo đó nói với
A Nan rằng : Trông mong
Đại Đức vì tôi mà trần thiết phòng nhà, dọn dẹp thật sạch sẽ, dùng
thất bảo trang nghiêm, treo phan lọng bằng lụa.
A Nan nói : Người nghèo trong
thế gian mới gọi là
Sa Môn, tôi làm sao sắm được những đồ như vậy?
Tỳ Kheo nói : Nếu
Đại Đức có thể sắm sửa được cho tôi thời tốt lắm, bằng không thời tôi sẽ
trở về ra mắt Phật.
A Nam liền
trở về đem việc ấy bạch với Phật.
Đức Phật liền bảo
A Nan sắm sửa tất cả đồ dùng theo ý của
Tỳ Kheo đó.
Tỳ Kheo đó được những đồ
cần dùng theo ý mình muốn, liền nhiếp niệm
tu hành, không bao lâu chứng được quả
Tu Đà Hoàn lần đến quả
A La Hán.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Vô lượng chúng sanh đáng được
nhập Niết Bàn, nhưng vì
thiếu thốn chướng ngại loạn động tâm niệm của họ, nên chẳng chứng được.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Lại có
chúng sanh thích giáo quá nhiều, tâm họ
bực bội nhiều việc chẳng thể được
chánh định nên
hiện tại không được
bát Niết Bàn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như lời ông nói,
duyên cớ gì bỏ thân
dục giới có hạng
trung bát Niết Bàn, còn
sắc giới thời không ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người nầy quán
phiền não cõi dục có hai
nhơn duyên : Nội và ngoại, mà trong cõi sắc thời không ngại
nhơn duyên. Cõi dục lại có hai thứ
ái tâm :
Dục ái và
sắc ái, quán hai
ái tâm nầy rồi
hết lòng quở trách, do
quở trách nầy mà được
nhập Niết Bàn. Trong cõi dục có thể
quở trách được những
phiền não thô :
Xan tham,
sân hận, tật đố,
vô tàm, vô quí, do đây nên được
nhập Niết Bàn. Lại người trong cõi dục tánh chất
dũng kiện, vì được hưởng quả, nên trong cõi dục có
trung bát Niết bàn, trong cõi sắc thời không.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Trung bát Niết Bàn có ba hạng : Thượng, trung và hạ. Hạng thượng lúc bỏ thân chưa rời cõi dục bèn được
Niết Bàn. Hạng trung mới rời cõi dục chưa đến cõi sắc bèn được
Niết Bàn. Hạng hạ rời khỏi cõi dục đến ranh cõi sắc bèn được
Niết Bàn.
Như cá Tích khi đi kiếm được đồ ăn thời dừng lại, hạng nầy cũng vậy, ở nơi cỏi sắc và cõi
vô sắc mà được thọ thân nên gọi là dừng lại. Và cũng do chẳng còn thọ thân nhơn, thiên ,
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỉ trong cõi dục nên gọi là dừng lại. Vì đã dứt
vô lượng phiền não kiết sử còn thừa lại chút ít nên gọi là dừng lại. Lại vì
vĩnh viễn chẳng gây tạo nghiệp
phàm phu nên gọi là dừng lại. Lại vì tự mình chẳng còn sợ sệt , cũng chẳng làm cho người khác sợ sệt nên gọi là dừng lại. Vì
xa lìa hai
ác tâm :
Xan tham,
sân hận nên gọi là dừng lại.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Bực đến bờ kia là
A La Hán,
Bích Chi Phật,
Bồ Tát, Chư
Phật Thế Tôn, dụ như thần qui trên bờ
dưới nước đều đi
tự tại.
Duyên cớ gì dùng thần qui để ví dụ ? Vì thần qui khéo giấu năm chi.
Bực
A La Hán nhẫn đến chư Phật cũng khéo giấu che năm căn.
Dưới nước là dụ
thế gian, trên bờ là dụ
xuất thế. Các bực thánh nầy có thể
quán sát tất cả ái
phiền não lên đến bờ kia, nên dụ như thần qui
dưới nước trên bờ đều đi
tự tại.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như bảy hạng
chúng sanh trong
sông Hằng, dầu có tên cá rùa nhưng chẳng rời khỏi nước,
kinh Đại Niết Bàn nầy từ Nhứt
Xiển Đề lên đến chư Phật, dầu có tên khác nhau nhưng cũng chẳng rời khỏi
Phật tánh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Bảy hạng
chúng sanh đây, hoặc pháp lành hoặc pháp ác, hoặc đạo
phương tiện, hoặc đạo
giải thoát, hoặc
đạo thứ đệ, hoặc nhơn, hoặc quả, tất cả đều là
Phật tánh. Đây gọi là
từ ngữ tùy tự ý của
Như Lai.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu có nhơn thời có quả, không nhơn thời
không quả.
Niết Bàn gọi là quả, là
thường trụ nên không nhơn. Nếu đã không nhơn tại sao gọi là quả ?
Niết Bàn đây cũng gọi là
Sa Môn, cũng gọi là
Sa Môn quả. Thế nào là
Sa Môn ? Thế nào là
Sa Môn quả ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
thế gian có bảy thứ quả : Một là
phương tiện quả, hai là
báo ân quả, ba là thân
cận quả, bốn là dư tàn quả, năm là
bình đẳng quả, sáu là
quả báo quả, bảy là
viễn ly quả.
Như người đời,
mùa thu thâu gặt được nhiều lúa, bảo nhau rằng được
phương tiện quả.
Phương tiện quả gọi là
nghiệp hành quả. Quả nầy có hai nhơn : Cận nhơn và viễn nhơn. Cận nhơn là hột giống, viễn nhơn là nước phân nhơn công. Đây gọi là
phương tiện quả.
Như người đời phụng dưỡng
cha mẹ.
Cha mẹ nói rằng nay
chúng tôi đã được
quả báo ơn phụng dưỡng. Người con có thể
báo ơn gọi đó là quả. Quả nầy có hai nhơn : Cận nhơn và viễn nhơn, cận nhơn là nghiệp thuần thiện đời
quá khứ của
cha mẹ, viễn nhơn là sanh ra người con có hiếu. Đây gọi là
báo ân quả.
Như có người gần gũi bạn lành, hoặc được quả
Tu Đà Hoàn đến quả
A La Hán. Người nầy nói rằng nay tôi được
quả báo thân cận. Quả nầy có hai nhơn : Cận nhơn và viễn nhơn. Cận là
tín tâm, viễn là bạn lành. Đây gọi là thân
cận quả.
Như do chẳng
sát sanh mà được thân thứ ba sống lâu, đây gọi là dư tàn quả. Quả nầy cũng có hai nhơn : Cận nhơn và viễn nhơn. Cận là
thân khẩu ý thanh tịnh, viễn là sống lâu. Đây gọi là dư tàn quả.
Bình đẳng quả là nói khí
thế giới, quả nầy cũng có hai nhơn : Một là cận nhơn, hai là viễn nhơn. Cận nhơn là
chúng sanh tu
mười nghiệp lành. Viễn nhơn là đại
tam tai.
Quả báo quả là như người chứng đặng
thân thanh tịnh rồi tu
ba nghiệp thân, khẩu,
ý thanh tịnh, người nầy bèn nói tôi được
quả báo. Quả nầy có hai nhơn : Cận nhơn và viễn nhơn Cận nhơn là
hiện tại thân, khẩu,
ý thanh tịnh. Viễn nhơn là
quá khứ thân , khẩu,
ý thanh tịnh.
Viễn ly quả tức là
Niết Bàn lìa các
phiền não, tất cả các
nghiệp lành là nhơn
Niết Bàn. Nhơn
Niết Bàn nầy có hai : Cận nhơn và viễn nhơn. Cận nhơn là
ba môn giải thoát, viễn nhơn tức là pháp lành đã tu
từ vô lượng đời.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Như pháp thế gian hoặc nói sanh nhơn, hoặc nói liễu nhơn. Pháp
xuất thế cũng như vậy, cũng nói sanh nhơn cũng nói liễu nhơn.
Ba môn giải thoát,
ba mươi bảy phẩm trợ đạo có thể làm cho sanh nhơn củatất cả
phiền não chẳng sanh được, mà cũng làm liễu nhơn cho
Niết Bàn.
Xa lìa phiền não thời đặng thấy rõ
Niết Bàn, nên
Niết Bàn chỉ có liễu nhơn mà không có sanh nhơn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như lời ông hỏi : Thế nào là
Sa Môn ? Thế nào là
Sa Môn quả ?
Nầy
Thiện Nam Tử !
Sa Môn Na tức là
bát chánh đạo,
Sa Môn Quả là từ nơi đạo
rốt ráo xa lìa tất cả tham , sân v.v… đây gọi là
Sa Môn Na và
Sa Môn Quả.
_ Bạch
Thế Tôn !
Duyên cớ gì
bát chánh đạo gọi là
Sa Môn Na ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Trong đời nói
Sa Môn gọi đó là
thiếu thốn, Na gọi là đạo. Đạo nầy dứt tất cả
thiếu thốn, và dứt tất cả đạo, do nghĩa nầy gọi
bát chánh đạo là
Sa Môn Na . Từ trong đạo nầy chứng được
thánh quả nên gọi là
Sa Môn Quả.
Lại
Sa Môn Na, như người đời có ai thích
tịch tịnh cũng gọi là
Sa Môn, đạo nầy cũng như vậy, có thể làm cho người
tu hành xa lìa những sự ác
tà mạng v.v… của thân, khẩu, ý đặng vui
tịch tịnh nên gọi đó là
Sa Môn Na.
Như
trong đời người dưới có thể làm người trên, đây gọi là
Sa Môn. Đạo nầy cũng như vậy, có thể làm cho người dưới thành người trên nên được gọi là
Sa Môn Na.
Bực
A La Hán tu đạo nầy được quả
Sa Môn. Được gọi là đến nơi bờ kia. Quả
A La Hán chính là năm phần
pháp thân vô học : Giới, định, huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến. Do năm phần nầy được đến bờ kia, nên gọi là đến bờ kia. Do đến bờ kia nên tự nói rằng tôi đã hết
sanh tử,
phạm hạnh đã trọn, chỗ làm đã xong, chẳng thọ thân
đời sau.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Bực
A La Hán dứt hẳn
nhơn duyên sanh tử ba đời, nên tự nói tôi đã hết
sanh tử. Bực nầy cũng dứt thân
ngũ ấm trong
ba cõi nên lại nói rằng tôi đã hết
sanh tử. Chỗ tu
phạm hạnh đã
rốt ráo, nên xướng rằng
phạm hạnh đã trọn, lại vì xả
học đạo nên cũng gọi là đã trọn. Như chỗ mong cầu, lúc trước ngày nay đã được, nên lại xướng rằng chỗ làm đã xong.
Hành đạo được quả cũng nói rằng đã xong. Vì được
tận trí và
vô sanh trí nên nói rằng tôi đã hết
sanh tử, dứt hết
kiết sử hữu lậu. Do nghĩa nầy nên gọi bực
A La Hán đặng đến bờ kia.
Như
A La Hán, bực
Bích Chi Phật cũng lại như vậy.
Bồ Tát và Phật
thành tựu đầy đủ sáu môn
Ba La Mật gọi là đến bờ kia. Phật và
Bồ Tát được
vô thượng chánhn giác rồi gọi là đầy đủ sáu môn
Ba La Mật, vì được quả của sáu môn
Ba La Mật như vậy. Do được quả nên gọi là đầy đủ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Bảy
chúng sanh đây vì chẳng thể
tu tập bốn điều : Thân, giới tâm và huệ, nên hay gây tạo tội
ngũ nghịch, dứt căn lành, phạm bốn tội trọng, hủy
báng Phật, Pháp, Tăng, do đây nên gọi là thường
chìm đắm.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong bảy hạng
chúng sanh nầy ai có thể gần gũi
thiện tri thức chí tâm nghe và nhận lấy
chánh pháp của
Như Lai, trong tâm khéo
tư duy ở đúng pháp, siêng năng
tu tập thân, giới, tâm và huệ, do đây nên được gọi là qua khỏi sông
sanh tử đến nơi bờ kia.
Nếu có người nói rằng : Nhứt
Xiển Đề được
vô thượng chánh giác, lời nầy gọi là
nhiễm trước. Nếu nói rằng chẳng được, thời gọi là lời
hư vọng.
Nầy
Thiện Nam Tử !Bảy hạng nầy, hoặc có một người đủ cả bảy, hoặc mỗi người mỗi hạng.
Nếu có người nào
tâm tưởng khác, miệng nói khác, cho rằng Nhứt
Xiển Đề đặng
vô thượng chánh giác, phải biết người nầy hủy
báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu nói không được thời cũng gọi là hủy
báng Phật, Pháp, Tăng.
Nếu nói rằng
bát thánh đạo là của
phàm phu được, hoặc nói chẳng phải
phàm phu được, đều gọi là hủy
báng Phật, Pháp, Tăng.
Nếu nói rằng tất cả
chúng sanh quyết định có
Phật tánh, hoặc nói
quyết định không
Phật tánh, đều gọi là hủy
báng Phật, Pháp, Tăng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Do đây nên trong
khế kinh ta nói rằntg có hai hạng người hủy
báng Phật, Pháp, Tăng : Một là người chẳng tin, vì họ giận hờn ; hai là người dầu tin nhưng vì chẳng hiểu nghĩa.
Nếu người tin mà không có
trí huệ thời hay thêm lớn
vô minh. Nếu người có
trí huệ mà không có
tín tâm thời hay
tăng trưởng tà kiến.
Người chẳng tin vì tâm họ giận hờn nên nói rằng không có Phật, Pháp, Tăng. Người tin mà không
trí huệ giải nghĩa điên đảo làm cho người
nghe pháp hủy
báng Phật, Pháp, Tăng. Do đây nên ta nói người chẳng tin vì lòng
hờn giận, người tin lại không
trí huệ, những người nầy hay hủy
báng Phật, Pháp, Tăng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu nói rằng Nhứt
Xiển Đề chưa
sanh pháp lành bèn được
vô thượng chánh giác, người nầy cũng gọi là hủy
báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu nói Nhứt
Xiển Đề rời bỏ Nhứt
Xiển Đề ở trong thân khác được
vô thượng chánh giác, người nầy cũng gọi là hủy
báng Phật, Pháp, Tăng.
Nếu nói rằng Nhứt
Xiển Đề có thể sanh căn lành, sanh căn lành rồi nối luôn chẳng dứt chứng được
vô thượng chánh gíac, nên gọi rằng Nhứt
Xiển Đề được
vô thượng Bồ Đề, phải biết rằng người nầy chẳng hủy báng
Tam Bảo.
Nếu có người nói rằng tất cả
chúng sanh quyết định có
Phật tánh thường, lạc, ngã, tịnh, bất tác,
bất sanh, do vì
phiền não nên chẳng thấy được, người nầy là hủy
báng Phật, Pháp, Tăng.
Nếu nói rằng tất cả
chúng sanh đều không có
Phật tánh cũng như
sừng thỏ, do từ
phương tiện mà sanh, trước kia không nay mới có, có rồi
trở lại không, người nầy là hủy
báng Phật, Pháp, Tăng.
Nếu nói rằng
Phật tánh của
chúng sanh chẳng phải có như
hư không, chẳng phải không như
sừng thỏ. Vì
hư không là thường,
sừng thỏ là không, nên được nói là cũng có cũng không. Vì có nên phá
sừng thỏ, vì không nên
phá hư không. Thuyết trên đây chẳng hủy báng
Tam Bảo.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Luận về
Phật tánh chẳng gọi là một pháp, chẳng gọi là mười pháp, chẳng gọi là trăm pháp, chẳng gọi là ngàn pháp, chẳng gọi là muôn pháp.
Lúc chưa được
vô thượng chánh giác, tất cả thiện ,
bất thiện,
vô ký đều gọi là
Phật tánh. Có lúc
đức Như Lai trong nhơn nói quả, trong quả nói nhơn, đây gọi là
từ ngữ tùy tự ý của
Như Lai. Vì
tùy tự ý mà nói nên gọi là
Như Lai,
ứng cúng,
chánh đẳng chánh giác.
_ Bạch
Thế Tôn ! Như lời của Phật nói :
Phật tánh của
chúng sanh dường như
hư không. Thế nào gọi là như
hư không ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! tánh
hư không chẳng phải
quá khứ,
vị lai,
hiện tại.
Phật tánh cũng như vậy.
Hư không chẳng phải
quá khứ, vì không phải
hiện tại. Nếu pháp là
hiện tại mới có thể nói là
quá khứ, vì không
hiện tại nên không
quá khứ.
Hiện tại cũng không, vì không
vị lai. Nếu pháp là
vị lai mới có thể nói là
hiện tại. Vì không
vị lai nên không
hiện tại.
Vị lai cũng không vì không
hiện tại và
quá khứ. Nếu pháp có
hiện tại và
quá khứ thời có
vị lai, vì không
quá khứ hiện tại nên không
vị lai.
Do nghĩa trên đây nên tánh của
hư không chẳng phải nhiếp trong
ba đời.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì
hư không là không nên không có
ba đời, chẳng phải vì có mà không có
ba đời. Như
hoa đốm hư không vì chẳng phải là có nên không có
ba đời.
Hư không cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Không có vật chính đó là
hư không,
Phật tánh cũng như vậy. Vì
hư không là không nên chẳng nhiếp trong
ba đời. Vì
Phật tánh là thường nên chẳng nhiếp trong
ba đời.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đức Như Lai đã được
vô thượng Bồ Đề,
đức Như Lai chỗ được
Phật tánh và tất cả
Phật pháp là
thường trụ không
biến đổi. Do nghĩa nầy nên không có
ba đời dường như
hư không.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì
hư không là không nên chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Vì
Phật tánh là
thường trụ nên chẳng phải trong chẳng phải ngoài, do đây nên nói rằng
Phật tánh dường như
hư không .
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nhưng
trong đời chỗ không
chướng ngại thời gọi là
hư không.
Đức Như Lai được
vô thượng Bồ Đề rồi, nói tất cả
Phật pháp đều không có
chướng ngại, nên nói rằng
Phật tánh dường như
hư không.
_ Bạch
Thế Tôn !
Phật tánh và
Niết bàn của
Như Lai chẳng nhiếp trong
ba đời mà gọi là có,
hư không cũng chẳng nhiếp trong
ba đời, cớ sao chẳng được gọi là có ư ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì chẳng phải
Niết Bàn gọi là
Niết Bàn, vì chẳng phải
Như Lai gọi là
Như Lai, vì chẳng phải
Phật tánh gọi là
Phật tánh.
Thế nào gọi là chẳng phải
Niết Bàn ? Nghĩa là tất cả
phiền não những
pháp hữu vi. Vì phá những
phiền não hữu vi nầy mà gọi là
Niết Bàn.
Thế nào là chẳng phải
Như Lai ? Chính là Nhứt
Xiển Đề nhẫn đến bực
Bích Chi Phật. Vì phá Nhứt
Xiển Đề nhẫn đến
Bích Chi Phật nầy mà gọi là
Như Lai.
Thế nào là chẳng phải
Phật tánh ? Chính là tất cả vật vô tình như tường, vách, ngói, đá v.v…lìa những vật vô tình nầy gọi là
Phật tánh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả
thế gian không gì chẳng phải
hư không đối với
hư không.
_ Bạch
Thế Tôn !
Thế gian cũng không gì chẳng phải là đối với
tứ đại, mà còn được gọi
tứ đại là có,
hư không chẳng có đối cớ sao chẳng được gọi đó là có.
_ Nầy
Thiện nam Tử ! Nếu cho rằng
Niết Bàn chẳng nhiếp trong
ba đời,
hư không cũng như vậy.
Lời nói nầy chẳng đúng nghĩa. Vì
Niết Bàn là có thấy được chứng được, là dấu vết của sắc của
sắc pháp, là có chương cú, là tướng, là duyên, là chỗ
quy y, là bờ kia,
tịch tịnh sáng suốt an ổn, do đây nên được gọi là nhiếp trong
ba đời. Tánh
hư không chẳng có những
pháp như vậy, nên gọi là không. Nếu có cái gì lìa những
pháp như vậy mà lại là có thời nhiếp trong
ba đời.
Hư không nếu đồng là pháp có thời chẳng được chẳng nhiếp trong
ba đời.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như người đời cho rằntg
hư không là
không sắc, không đối không thể thấy thời chính là
tâm sở pháp.
Hư không nếu đồng
tâm sở pháp, thời chẳng được chẳng nhiếp
trong đời. Nếu nhiếp trong
ba đời tức là
bốn ấm. Do đây nên rời
bốn ấm thời không có
hư không.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Những nhà
ngoại đạo nói rằng :
Hư không chính là
quang minh. Nếu là
quang minh thời là
sắc pháp hư không, nếu là
sắc pháp như vậy bèn là
vô thường. Vì là
vô thường nên nhiếp trong
ba đời. Sao
ngoại đạo lại nói là chẳng phải
ba đời. Nếu đã nhiếp trong
ba đời thời chẳng phải là
hư không. Sao lại nói rằng
hư không là thường.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Lại có người cho rằng :
Hư không là chỗ an trụ. Nếu có chỗ an trụ thời là
sắc pháp. Tất cả chỗ đều là
vô thường nhiếp trong
ba đời,
hư không cũng là thường chẳng phải nhiếp trong
ba đời. Nếu nói là chỗ thời biết rằng không phải
hư không.
Lại có người nói rằng
hư không là
thứ đệ. Nếu là
thứ đệ thời là
pháp số. Nếu đã là có
thể tính đếm được thời nhiếp trong
ba đời, nếu nhiếp trong
ba đời sao lại gọi rằng thường?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Lại có người nói rằng luận về
hư không thời lìa ba pháp, một là không, hai là thật, ba là
không thật. Nếu nói là không thời nên biết rằng
hư không là pháp
vô thường, vì không có trong
phạm vi thật. Nếu nói là thật thời nên biết
hư không cũng là
vô thường, vì không có trong
phạm vi không. Nếu nói là
không thật thời nên biết rằng
hư không cũng là
vô thường, vì không có trong
phạm vi không. Do những nghĩa nầy nên trong
phạm vi không là không có.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có người nói
hư không là
pháp bị làm ra, như nói bỏ cây,
bỏ nhà mà làm
hư không,
san bằng cho trống không, che
hư không, lên
hư không,
cùng tận hư không như nước biển cả, đo đây nên
hư không là
pháp bị làm ra. Tất cả pháp làm ra đều là
vô thường, dường như ngói bình v.v…
Hư không nếu như vậy thời phải là
vô thường.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người đời nói trong tất cả pháp chỗkhông
chướng ngại gọi đó là
hư không. Chỗ không
chướng ngại nầy nơi tất cả pháp là có tất cả hay có từng phần ? Nếu là có tất cả thời những chỗ khác không có
hư không. Nếu có từng phần thời là pháp kia và pháp đây có
thể tính đếm. Nếu đã là tính đếm được thời là
vô thường.
Có người cho rằng
hư không gồm hiệp không
chướng ngại cùng có
chướng ngại. Và lại nói rằng
hư không ở nơi sự vật như trái đựng trong bình chậu. Hai thuyết trên đều chẳng đúng. Nếu nói gồm cả hai thời có ba thứ : Một là nghiệp khác nhau mà cùng hiệp, như chim bay đậu trên cây. Hai là cộng nghiệp cùng hiệp, như hai con dê đụng nhau. Ba là đã hiệp rồi lại cùng hiệp như hai đôi ngón tay hiệp ở một chỗ.
Nếu nói nghiệp khác nhau cùng hiệp, khác nhau đây có hai : Một là nghiệp sự vật, hai là nghiệp
hư không. Nếu nghiệp
hư không hiệp với vật thời
hư không là
vô thường. Nếu nghiệp sự vật hiệp với
hư không, sự vật thời chẳng cùng khắp, đã chẳng cùng khắp thời chẳng là
vô thường. Nếu nói
hư không là thường, tánh của nó chẳng lay động mà cùng với
động vật hiệp, thời không đúng nghĩa. Vì nếu hư khônglà thường thời vật lẽ ra cũng là thường. Nếu vật là
vô thường thời
hư không cũng là
vô thường. Không thể nói rằng
hư không cũng là thường cũng là
vô thường.
Thuyết cộng nghiệp hiệp nhau cũng không đúng nghĩa. Vì
hư không gọi là cùng khắp, nếu hiệp với nghiệp thời lẽ ra nghiệp cũng cùng khắp, nếu là cùng khắp thời phải khắp tất cả, nếu khắp tất cả thời lẽ ra hiệp với tất cả, chẳng nên nói rằng có hiệp cùng chẳng hiệp.
Thuyết đã hiệp rồi lại cùng hiệp như hai đôi ngón tay hiệp nhau cũng không đúng nghĩa. Vì trước không có hiệp về sau mới hiệp, trước không sau có là pháp
vô thường. Nên chẳng được nói rằng
hư không đã hiệp rồi lại cùng hiệp. Như các pháp
trong đời trước không sau có là
vô thường, nếu
hư không như vậy thời cũng phải là
vô thường.
Thuyết
hư không ở nơi sự vật như trái đựng trong bình chậu cũng không đúng nghĩa. Vì lúc chưa có bình chậu
hư không kia ở chỗ nào ?â Nếu có chỗ ở thời có nhiều
hư không. Đã là nhiều sao lại nói là thường, là
duy nhứt, là cùng khắp.
Giả sử hư không rời
hư không có chỗ ở, thời sự vật lẽ ra cũng rời
hư không có chỗ ở, do đây nên biết rằng không có
hư không.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu cho rằng chỗ ngón tay ở gọi là
hư không , theo thuyết nầy thời
hư không là pháp
vô thường, vì ngón tay có bốn
phương hướng,
hư không cũng phải có bốn phương, tất cả
pháp thường trụ đều không có
phương sở. Nếu có
phương sở thời
hư không là
vô thường. Nếu là
vô thường thời chẳng rời
năm ấm. Nếu muốn rời
năm ấm thời thành ra không chỗ có.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có pháp nào do
nhơn duyên mà
tồn tại thời pháp đó là
vô thường. Như tất cả
chúng sanh cùng cây cối
do nơi đất mà
tồn tại. Vì đất là
vô thường, nên những vật trên đây cũng là
vô thường. Như đất nhơn nơi nước, vì nước
vô thường nên đất cũng
vô thường. Như nước nhơn nơi gió vì gió
vô thường nên nước cũng
vô thường. Gió nương nơi
hư không, vì
hư không vô thường nên gió cũng
vô thường. Sao lại nói rằng
hư không là thường khắp tất cả chỗ ?
Vì
hư không là không chẳng phải
quá khứ vị lai hiện tại, cũng như
sừng thỏ là vật không có nên chẳng phải
quá khứ vị lai hiện tại. Do đây nên ta nói
Phật tánh thường trụ chẳng nhiếp trong
ba đời. Vì
hư không là không nên chẳng nhiếp trong
ba đời.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta trọn chẳng trái cãi với
thế gian. Vì người trí nói có thời ta cũng nói có, vì người trí nóikhông thời ta cũng nói không.
_ Bạch
Thế Tôn !
Bồ Tát có đủ mấy
pháp thời chẳng trái cãi với
thế gian, chẳng bị pháp
thế gian làm
ô nhiễm ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Bồ Tát có đủ mười
pháp thời được hai điều trên : Một là
tín tâm, hai là có giới, ba là gần gũi bạn lành, bốn là trong tâm khéo
tư duy, năm là có
tinh tấn, sáu là có
chánh niệm, bảy là có
trí huệ, tám là có
chánh ngữ, chín là thích
chánh pháp, mười là
thương xót chúng sanh.
Bồ Tát có đủ mười pháp nầy thời chẳng trái cãi với
thế gian, chẳng bị pháp
thế gian làm
ô nhiễm, như
hoa Ưu Bát La.
_ Bạch
Thế Tôn ! Như lời Phật nói : Người trí
trong đời nói có Phật cũng nói có, người trí
trong đời nói không Phật cũng nói không. Những gì là có với không ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Người trí
trong đời nói sắc là
vô thường khổ không vô ngã, nhẫn đến thức cũng như vậy. Đây là người trí
trong đời nói có, ta cũng nói có. Người trí nói sắc chẳng có thường, lạc, ngã, tịnh, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy Đây là người trí
trong đời nói không ta cũntg nói không.
Bạch
Thế Tôn ! Người trí
trong đời chính là Phật và
Bồ Tát tất cả thánh nhơn. Nếu
sắc ấm của các thánh nhơn là
vô thường khổ không vô ngã, tại sao
đức Như lai nói
sắc thân của Phật là
thường hằng không
biến đổi. Người trí
trong đời nói chẳng có thường, lạc, ngã, tịnh, tại sao Đưc
Như Lai nói là có.
Đức Thế Tôn nói những lời như vậy sao lại nói rằntg chẳng tranh cải với
thế gian, chẳng bị pháp
thế gian làm
nhiễm ô.
Đức Như Lai đã lìa ba thứ
điên đảo :
Tưởng đảo,
tâm đảo, và
kiến đảo. Lẽ ra nên nói rằng
sắc thân của Phật thiệt là
vô thường. Nay lại nói là thường, thế nào đặng gọi là
xa lìa điên đảo chẳng tranh cãi với
thế gian ?
_Nầy
Thiện Nam Tử !
Sắc thân của
phàm phu từ
phiền não mà sanh, nên người trí nói săc thân là
vô thường khổ không vô ngã.
Sắc thân của
Như Lai xa lìa phiền não, nên nói là
thường hằng không
biến đổi.
_ Bạch
Thế Tôn !
Sắc ấm do
phiền não sanh ra như thế nào ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Phiền não có ba thứ :
Dục lậu,
hữu lậu và
vô minh lậu. Người trí phải
quán sát tội lỗi của ba thứ lậu nầy. Vì có biết tội thời có thể
xa lìa. Như y sư coi mạch biết bịnh rồi mới cho thuốc.
Như dắt người mù đến trong rừng gai rồi bỏ đó mà về, người mù nầy rất khó ra khỏi rừng dầu được ra khỏi nhưng
thân thể phải bị trầy trụa.
Phàm phu trong đời cũng như vậy, vì không biết được
tội lỗi của ba món lậu nên
đi theo nó. Nếu người nào thấy được
tội lỗi của ba món lậu thời có thể
xa lìa. Người đã biết
tội lỗi dầu có thọ
quả báo nhưng
quả báo cũng nhẹ nhàng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có bốn hạng người : Một là lúc tạo nghiệp thời nặng, lúc
thọ báo thời nhẹ, hai là lúc tạo nghiệp thời nhẹ, lúc
thọ báo thời nặng, ba là lúc tạo nghiệp thời nặng, lúc
thọ báo cũng nặng, bốn là lúc tạo nghiệp thời nhẹ, lúc
thọ báo cũng nhẹ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu người có thể
quán sát tội lỗi của
phiền não thời tạo nghiệp cùng
thọ báo đều nhẹ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người có
trí nghĩ rằng : Ta nên
xa lìa ba thứ lậu như vậy, chẳng nên gây tạo những nghiệp
xấu xa như vậy, vì ngày nay ta chưa
được giải thoát lục đạo. Nếu ta
tu hành phải nương sức nầy để
phá hoại các sự khổ.
Suy nghĩ như vậy rồi thời
tham sân si của người nầy kém yếu. Người nầy thấy
phiền não của mình nhẹ nên lòng họ
vui mừng, lại nghĩ rằng ta được
như vầy đều do
công đức tu hành, làm cho ta lìa đặng pháp ác, gần gũi pháp lành, nên
hiện tại ta được thấy
thánh đạo, vậy ta phải nên siêng năng
tu tập thêm. Do
công đức siêng năng
tu hành, người nầy
xa lìa vô lượng phiền não và
thoát khỏi lục đạo luân hồi.
Do đây nên trong
khế kinh Phật nói phải
quán sát tất cả
phiền não hữu lậu và nhơn của
hữu lậu. Vì người trí nếu
chỉ quán hữu lậu mà chẳng quán nhơn của
hữu lậu thời không thể dứt các
phiền não. Vì người
trí quán sát
hữu lậu do nhơn nầy mà sanh, nay ta dứt nhơn nầy thời lậu chẳng còn sanh. Như y sư trước từ nhơn của bịnh thời bịnh chẳng còn. Do đây nên người trí phải trước
quán sát nhơn, kế đó
quán sát quả báo, biết rằng từ nhơn lành sanh ra quả lành, từ nhơn ác sanh quả ác. Khi rõ biết
quả báo rồi thời
xa lìa nhơn ác. Lại phải quán
phiền não nhẹ hay nặng, trước lìa
phiền não nặng thời
phiền não nhẹ tự mất.
Nầy
Thiện Nam tử ! Người trí nếu biết
phiền não, biết nhơn của
phiền não, biết
quả báo của
phiền não, biết
phiền não nhẹ hay nặng, bấy giờ người nầy siêng năng
tu hành chẳng ngừng nghỉ, chẳng
hối tiếc, thường gần gũi bạn lành
chí tâm nghe pháp để dứt trừ những
phiền não như vậy.
Như người bịnh tự biết
bịnh nhẹ có thể trị lành, nên dầu uống thuốc đắng vẫn không
ăn năn. Người trí siêng tu
thánh đạo thường
vui mừng chẳng sầu, chẳng nghĩ, chẳng
ăn năn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu người biết được
phiền não, nhơn của
phiền não,
quả báo của
phiền não, biết
phiền não nhẹ nặng, vì
trừ phiền não mà tu
thánh đạo, người nầy chẳng do
phiền não sanh sắc thân, cũng chẳng do
phiền não sanh thọ, tưởng, hành, thức. Nếu chẳng biết được
phiền não v.v… chẳng siêng
tu tập, người nầy từ
phiền não sanh thân ngũ ấm.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người rõ biết
phiền não v.v…vì dứt
trừ phiền não mà
tu hành thánh đạo, đây chính là
đức Như Lai do
nhơn duyên nầy nên
sắc thân của
Như Lai cùng thọ, tưởng, hành, thức, đều là
thường trụ.
Kế chẳng biết
phiền não v.v…, chẳng
tu hành thánh đạo, đây là
phàm phu. Do
nhơn duyên nầy nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức của
phàm phu đều là
vô thường.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người trí
trong đời : Tất cả Thánh nhơn,
Bồ Tát, chư Phật đều nói
hai nghĩa trên đây, ta cũng nói
hai nghĩa như vậy, do đây nên ta nói rằng chẳng tranh cãi với người trí
trong đời, chẳng bị
thế pháp làm
nhiễm ô.
_ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào gọi là
dục lậu,
hữu lậu và
vô minh lậu ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Do trong tâm có
giác quán chẳng lành, nhơn nơi duyên ngoài mà sanh ra
dục lậu.
Ngày trước lúc ở thành
Vương Xá, ta bảo
A Nan rằng : Nay ông thọ lấy
bài kệ tụng của cô gái nầy nói.
Bài kệ đây là lời của chư Phật
quá khứ. Do đây nên tất cả
giác quán chẳng lành trong tâm cùng những
nhơn duyên ngoài gọi đó là dục, đây là
dục lậu.
Trừ
dục lậu ở cõi dục, những
á pháp nơi trong cùng các
nhơn duyên nơi ngoài của cõi sắc và
vô sắc gọi là
hữu lậu.
Chẳng thể rõ biết ngã cùng
ngã sở, chẳng
biện biệt được trong cùng ngoài, đây gọi là
vô minh lậu.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Vô minh là cội gốc của tất cả các lậu, vì tất cả
chúng sanh do
vô minh nên ức tưởng
chấp trước nơi
ngũ ấm,
thập nhị nhập,
thập bát giới, đây gọi là
chúng sanh, cũng gọi là
tưởng đảo,
tâm đảo,
kiến đảo. Do
nhơn duyên nầy sanh ra tất cả các lậu. Vì thế nên trong
mười hai bộ kinh, ta nói
vô minh là nhơn của
tham sân si.
_ Bạch
Thế Tôn ! Trước kia
đức Như Lai nói rằng do chẳng khéo
tư duy mà có tham, sân, si. Nay
duyên cớ gì mà nói do
vô minh ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Hai pháp đây làm nhơn quả lẫn nhau,
tăng trưởng lẫn nhau : Chẳng khéo
tư duy sanh
vô minh, do
vô minh nên chẳng khéo
tư duy.
Nầy
Thiện nam Tử ! Những gì có thể sanh trưởng các
phiền não thời đều gọi là
nhơn duyên của
phiền não. Gần gũi những
nhơn duyên của
phiền não như vậy thời gọi là
vô minh. Chẳng khéo
tư duy dụ như hột giống lên mọng : Hột giống là cận nhơn, nước đất là viễn nhơn.
Phiền não cũng như vậy.
_ Bạch
Thế Tôn ! Như lời Phật nói
vô minh tức là lậu, sao lại nói rằng nhơn nơi
vô minh mà sanh các lậu ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Vô minh lậu là nội
vô minh. Nhơn nơi
vô minh sanh ra các lậu là
nội ngoại nhơn. Nếu nói
vô minh lậu thời gọi là nội đảo : Chẳng biết
vô thường, khổ, không và
vô ngã. Nếu nói
nhơn duyên của tất cả
phiền não, đây gọi là chẳng rõ biết ngoài
ngã và ngã sở. Nếu nói
vô minh lậu, đây gọi là vô thỉ vô chung : Từ nơi
vô minh sanh ra ấm nhập giới v.v…
_ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào gọi là biết nhơn của các lậu ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Người trí nên
quán sát rằng :
Nhơn duyên gì sanh ra
phiền não nầy ? Làm hạnh nghiệp gì sanh ra
phiền não nầy ? _ Lúc
ở chung với ai sanh ra
phiền não nầy ? _ Ở chỗ nào sanh ra
phiền não nầy ?
Quán sát việc gì sanh ra
phiền não nầy ? _
Thọ lãnh đồ ăn đồ dùng của ai sanh ra
phiền não nầy ?
Duyên cớ gì chuyển hạ làm trung, chuyển trung làm thượng ? _ Hạ nghiệp làm trung, trung nghiệp làm thượng ?
Bồ Tát lúc
quán sát như vậy thời
xa lìa được
nhơn duyên sanh ra các lậu. Lúc
quán sát như vậy những
phiền não chưa sanh
ngăn ngừa làm cho chẳng sanh, nhữngphiền não đã sanh thời
trừ diệt được. Do đây nên trong
khế kinh ta nói rằng người trí phải
quán sát nhơn duyên sanh ra
phiền não.
_ Bạch
Thế Tôn !
Chúng sanh có một thân làm sao có thể khởi ra các thứ
phiền não ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Như trong một cái chậu đựng nhiều thứ hột giống, lúc có nước mưa thời mỗi hột giống đều tự mọc lên.
Chúng sanh cũng như vậy, thân dầu chỉ có một, do
nhơn duyên tham ái mà có thể sanh trưởng các thứ
phiền não.
_ Bạch
Thế Tôn ! Người
trí quán sát
quả báo như thế nào ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Người trí nên
quán sát nhơn duyên của các lậu có thể
sanh thân tam đồ,
nhơn duyên của các lậu được thân nhơn thiên, đều là
vô thường, khổ, không,
vô ngã. Trong thân nầy có ba thứ khổ, ba thứ
vô thường.
Nhơn duyên của các lậu nầy có thể làm cho
chúng sanh tạo tội
ngũ nghịch thọ lấy
ác báo, có thể dứt mất căn lành, phạm bốn tội trọng, hủy báng
Tam Bảo.
Người trí lại nên
quán sát ngày nay ta đã có thân
như vầy, chẳng nên
sanh khởi những
phiền não như vậy để khỏi mang lấy những
ác quả.
_ Bạch
Thế Tôn ! Có quả
vô lậu. Lúc người trí dứt những
quả báo,
quả báo vô lậu nầy có ở trong số bị dứt đây chăng ?
Những người
đắc đạo có quả
vô lậu. Người trí kia cầu quả
vô lậu. Tại sao
đức Phật nói rằng tất cả người trí nên dứt
quả báo. Nếu dứt
quả báo thời ngày nay làm sao có các bực thánh nhơn ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Có lúc
đức Như Lai trong nhơn mà nói quả, có lúc trong quả mà nói nhơn.
Như người đời nói đất sét, chính là cái bình, những sợi chỉ chính là cái áo, đây gọi là trong nhơn mà nói quả.
Như người đời nói con bò chính là nước và cỏ, người chính là đồ ăn, đây là trong quả mà nói nhơn. Ta cũng ở trong nhơn mà nói quả như vậy. Như trong
khế kinh trước kia ta từng nói rằng : Ta từ nơi tâm mà thân đến cõi
Phạm Thiên, đây gọi là trong nhơn mà nói quả.
Lục nhập nầy là nghiệp
quá khứ, đây gọi là trong quả mà nói nhơn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Thật ra tất cả thánh nhơn không có
quả báo vô lậu. Tất cả thánh nhơn
tu hành thánh đạo được
quả báo chẳng còn sanh các lậu do đây nên gọi là
quả báo vô lậu.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người trí lúc
quán sát như vậy liền dứt hẳn được
quả báo của
phiền não. Vì dứt
quả báo phiền não nầy mà
tu tập thánh đạo :
Không vô tướng và
vô nguyện.
Tu tập thánh đạo nầy có thể dứt tất cả
quả báo của
phiền não.
_ Bạch
Thế Tôn ! Tất cả
chúng sanh đều do
phiền não mà có
quả báo.
Phiền não chính là ác. Từ
phiền não ác sanh ra
phiền não cũng gọi là ác.
Phiền não như vậy có hai thứ : Nhơn và quả. Vì nhơn ác nên quả ác, vì quả ác nên nhơn ác.
Như trái
nhâm bà vì hột nó đắng, nên bông trái cây lá tất cả đều đắng. Như cây độc vì hột nó độc nên trái cũng độc.
Nhơn là
chúng sanh quả cũng
chúng sanh. Nhơn là
phiền não quả cũng
phiền não. Nhơn quả
phiền não chính là
chúng sanh.
Chúng sanh chính là nhơn quả
phiền não.
Nếu
cứ theo nghĩa nầy, cớ sao
đức Như Lai trước kia nói dụ núi Tuyết cũng có cỏ độc, cũng có cây thuốc hay ?
Nếu nói
phiền não là
chúng sanh,
chúng sanh là
phiền não, sao Phật lại nói trong thân
chúng sanh có thuốc hay ?
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện Nam Tử !
Vô lượng chúng sanh đều đồng nghi như vậy. Nay ông vì
chúng sanh mà thưa hỏi. Ta cũng có thể
giải thích để
trừ nghi.
Ông nên lóng nghe khéo
suy nghĩ và ghi nhớ đó.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Núi Tuyết kia dụ cho
chúng sanh, cỏ độc là nói
phiền não, cây thuốc hay là chỉ cho
phạm hạnh thanh tịnh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
chúng sanh tu tập phạm hạnh thanh tịnh như vậy, thời gọi là trong thân có thuốc hay.
_ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào
chúng sanh có
phạm hạnh thanh tịnh.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Như
trong đời, từ hột sanh ra trái. Trái nầy có thứ sanh ra hột, có thứ chẳng sanh. Thứ có thể sanh hột thời gọi là
quả tử. Thứ không thể sanh chỉ được gọi là quả chẳng đượcgọi là tử.
Tất cả
chúng sanh cũng như vậy, có hai hạng : Một là có quả
phiền não là nhơn
phiền não, hai là có quả
phiền não chẳng phải nhơn
phiền não. Hạng sau đây gọi là
phạm hạnh thanh tịnh.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Chúng sanh quán sát thọ ấm, biết nó là cận nhơn của tất cả lậu. Vì
thọ ấm làm
nhơn duyên nên không thể dứt tuyệt tất cả các lậu, cũng không thể ra khỏi ngục
tam giới. Nhơn nơi thọ mà
chúng sanh chấp ngã và
ngã sở, sanh ra
tâm đảo,
tưởng đảo và
kiến đảo. Do đây nên
chúng sanh trước phải
quán sát thọ ấm, thọ nầy là cận nhơn của tất cả ái. Do đây nên người trí muốn dứt
tham ái, trước phải
quán sát thọ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả
chúng sanh, mười hai
nhơn duyên chỗ gây tạo nghiệp
thiện ác đều nhơn nơi thọ. Do đây nên ta từng bảo
A Nan rằng : Tất cả
chúng sanh tạo nghiệp
thiện ác đều
do nơi thọ. Nên người trí trước phải
quán sát thọ.
Đã
quán sát thọ rồi lại phải
quán sát thọ nầy do
nhơn duyên gì mà sanh ? Nếu do
nhơn duyên sanh, thời
nhơn duyên đó lại từ đâu mà sanh ?
Nếu không nhơn duyên mà sanh, thời không nhơn kia cớ sao chẳng
sanh không thọ ?
Lại
quán sát thọ nầy chẳng phải do Tư Tại Thiên sanh, chẳng do
sĩ phu sanh, chẳng do
vi trần sanh, chẳng phải
thời tiết sanh, chẳng do tưởng sanh, chẳng do tánh sanh, chẳng phải tự sanh, chẳng phải tha sanh, chẳng phải vô nhơn sanh. Thọ nầy từ các duyên hòa hiệp mà sanh, duyên đây chính là ái. Trong sự hòa hiệp nầy chẳng phải có thọ chẳng phải không thọ. Do đây nên ta phải dứt sự hòa hiệp nầy. Vì dứt hòa hiệp nên chẳng sanh ra thọ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người
trí quán sát nhơn rồi kế
quán sát quả báo :
Chúng sanh do nơi thọ mà
thọ báo địa ngục,
ngạ quỉ,
súc sanh, nhẫn đến thọ
vô lượng sự
khổ não trong
tam giới.
Do nơi thọ mà thọ lấy sự vui hư huyễn
vô thường.
Do nơi thọ mà dứt căn lành.
Do nơi thọ mà
được giải thoát. Lúc
quán sát như vậy thời chẳng làm nhơn cho thọ.
Thế nào gọi là chẳng làm nhơn cho thọ ? Chính là
phân biệt thọ : Những thọ gì có thể làm nhơn cho ái ? Những ái gì có thể làm nhơn cho thọ ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu
chúng sanh có thể
quán sát rành rẽ ái nhơn và thọ nhơn như vậy, thời có thể dứt
ngã và ngã sở.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu người nào có thể
quán sát những điều như vậy, thời nên
biện biệt ái cùng thọ dứt tại chỗ nào ?ø Bèn thấy ái và thọ có chỗ diệt phần ít, do đây nên biết rằng cũng phải có diệt
hoàn toàn. Bấy giờ ở nơi
giải thoát người nầy sanh
tín tâm,
quán sát chỗ
giải thoát nầy do đâu mà được.
Quán sát rồi biết rõ từ
bát chánh đạo nên liền
tu tập.
Thế nào gọi là
bát chánh đạo ? Đạo nầy
quán sát thọ có
ba tướng : Một là khổ, hai là lạc, ba là bất khổ
bất lạc.
Ba tướng nầy đều có thể làm cho
thân tâm tăng trưởng.
Nhơn duyên gì mà có thể
tăng trưởng ? Vì xúc làm
nhơn duyên. Xúc nầy có ba : Một là
vô minh xúc, hai là minh xúc, ba là phi
minh phi vô minh xúc. Minh xúc đây chính là
bát chánh đạo. Hai xúc kia thời
tăng trưởng thân tâm và ba món thọ. Do đây nên phải dứt hai món xúc nầy. Xúc đã dứt nên chẳng sanh ba món thọ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Thọ nầy cũng gọi là nhơn cũng gọi là quả. Người trí phải
quán sát cũng nhơn cũng quả nầy : Nhơn thọ sanh ra ái gọi đó là nhơn. Thọ nhơn nơi xúc mà sanh đây gọi là quả.
Người
trí quán sát thọ như vậy rồi, kế lại
quán sát ái.
Quả báo của thọ gọi là ái.
Quán sát ái có hai thứ Một là tạp thực, hai là vô thực.
Tạp thực ái làm nhơn sanh ra già bịnh chết tất cả những cõi
hữu lậu. Vô thực ái thời dứt sanh gìa bịnh chết tất cả các cõi mà tham ưa đạo
vô lậu.
Lại nên nghĩ rằng : Nếu ta sanh tạp thực ái nầy thời không thể dứt được
sanh lão bịnh tử . nay dầu ta tham đạo
vô lậu, nếu chẳng dứt thọ nhơn, thời không thể được
đạo quả vô lậu. Do đây nên phải dứt xúc nầy trước. Xúc đã dứt thời thọ tự diệt. Thọ đã diệt thời ái cũng mất theo. Đây gọi là
bát chánh đạo.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
chúng sanh nào
quán sát như vậy, dầu
hiện tại có thân
ác độc, nhưng trong đó cũng có cây thuốc hay. Như trong núi Tuyết dầu có cỏ độc nhưng cũng có cây thuốc tốt.
Những
chúng sanh nầy dầu do
phiền não mà có
quả báo, những
quả báo nầy chẳng còn lại sanh
phiền não, đây gọi là
phạm hạnh thanh tịnh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người trí phải
quán sát hai thứ thọ và ái do
nhơn duyên gì sanh ra ? Biết
do nơi tưởng mà sanh. Vì
chúng sanh lúc thấy sắc cũng chẳng sanh tham. Đến lúc quán thọ cũng chẳng sanh tham. Nếu ở trong sắc mà sanh
tưởng điên đảo, cho rằng sắc là thường, lạc, ngã , tịnh. Thọ là
thường hằng không
biến đổi. Do
tưởng điên đảo nầy mà sanh tham, sân, si. Do đây nên người trí phải
quán sát.
Và phải
suy nghĩ rằng : Tất cả
chúng sanh lúc chưa được
chánh đạo đều có
tưởng điên đảo : Ở trong chẳng phải thường, lạc, ngã, tịnh mà nhận là thường, lạc, ngã, tịnh. Nơi pháp chẳng phải nam, nữ, lớn, nhỏ, ngày, đêm, năm, tháng,
y phục, nhà cửa v.v… mà tưởng là nam, là nữ v.v…
Tưởng nầy có ba thứ : Tiểu, đại và
vô lượng. Vì
nhơn duyên nhỏ nên sanh tưởng nhỏ. Vì
nhơn duyên lớn nên sanh tưởng lớn. Vì
vô lượng duyên nên sanh tưởng
vô lượng.
Lại có tưởng nhỏ chính là chưa
nhập định, tưởng lớn là nói đã
nhập định,
vô lượng tưởng là nói mười nhứt thiết nhập.
Lại có tưởng nhỏ là tất cả tưởng ở cõi dục, tưởng lớn là tất cả tưởng ở cõi sắc,
vô lượng tưởng là tất cả tưởng ở cõi
vô sắc.
Vì ba thứ tưởng nầy diệt nên thọ cũng tự diệt. Vì tưởng thọ diệt nên gọi là
giải thoát.
_ Bạch
Thế Tôn ! Diệt tất cả pháp gọi là
giải thoát, sao
đức Như Lai nói tưởng thọ diệt gọi là
giải thoát ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Như Lai có lúc nhơn
chúng sanh mà
thuyết pháp, người nghe hiểu được pháp.
Như trước kia ta bảo
Đại Ca Diếp : Lúc
chúng sanh diệt thời pháp lành diệt. Hoặc có lúc ta nhơn nơi pháp mà nói
chúng sanh, người nghe cũng hiểu là nói
chúng sanh. Như trước kia ta bảo
A Nan rằng :
Đức Phật cũng chẳng nói gần gũi tất cả pháp, lại cũng chẳng nói chẳng gần gũi tất cả pháp. Nếu đã gần nơi pháp mà pháp lành kém suy, pháp ác lừng thạnh, thời chẳng nên gần pháp đó. Nếu đã gần nơi pháp nào mà điều ác suy diệt, điều lành thêm lớn, thời nên gần gũi pháp đó.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Dầu
đức Như Lai nói tưởng thọ diệt, nhưng đã tổng nói dứt tất cả pháp nên dứt.
Người trí đã
quán tưởng như vậy rồi, kế lại quán nhơn của tưởng :
Vô lượng tưởng nầy nhơn đâu mà sanh ? Biết rằng nhơn xúc mà sanh. Xúc nầy có hai : Một là do
phiền não mà có xúc, hai là do
giải thoát mà có xúc. Do
vô minh sanh gọi là
phiền não xúc, do minh sanh gọi là
giải thoát xúc. Nhơn nơi
phiền não xúc sanh ra
đảo tưởng. Nhơn nơi
giải thoát xúc sanh ra bất
đảo tưởng.
Quán sát nhơn của tưởng rồi kế lại
quán sát quả báo.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu vì nhơn nơi tưởng
phiền não nầy mà sanh
đảo tưởng, thời tất cả thánh nhơn thiệt có
đảo tưởng mà không
phiền não.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Thế nào là Thánh nhơn mà có
đảo tưởng ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Tất cả Thánh nhơn đối với con bò con ngựa tưởng là bò là ngựa rồi cũng nói là bò là ngựa. Đối với
nam nữ lớn nhỏ nhà cửa v.v… cũng như vậy, do đây nên gọi là
đảo tưởng.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả
phàm phu có hai thứ tưởng : Một là
thế lưu bố tưởng, hai là
chấp trước tưởng. Tất cả Thánh nhơn chỉ có
thế lưu bố tưởng, không có
chấp trước tưởng. Tất cả
phàm phu vì
ác giác quán nên đối với thế
lưu bố sanh ra
chấp trước tưởng. Tất cả Thánh nhơn vì thiện gíac quán nên đối với thế
lưu bố chẳng sanh tưởng
chấp trước. Do đây nên
phàm phu gọi là
đảo tưởng. Thánh nhơn dầu biết các pháp mà chẳng gọi là
đảo tưởng.
Người
trí quán sát nhơn của tưởng rồi kế lại quán
quả báo : Ác trưởng nầy thọ quả nơi
địa ngục,
ngạ quỉ,
súc sanh, nhơn và thiên. Như ta do vì dứt
ác giác quán nên
vô minh xúc dứt, do đây mà tưởng dứt, vì tưởng dứt nên
quả báo cũng dứt. Người trí vì dứt nhơn của tưởng nên tu
bát chánh đạo.
Nếu có người
quán sát được như vậy, thời gọi là
phạm hạnh thanh tịnh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như trên đây gọi là trong thân
ác độc của
chúng sanh mà có thuốc hay. Như trong núi Tuyết dầu có cỏ độc nhưng cũng có cây thuốc hay.
Nầy
Thiện nam Tử ! Người trí kế lại
quán sát dục, tức là sắc, thinh, hương, vị, xúc. Đây là
đức Như Lai ở trong nhơn mà nói quả, vì từ năm trần nầy mà sanh ra dục, thiệt ra năm trần chẳng phải dục.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người
ngu si vì tham
cầu thọ lấy nên đối với sắc sanh ra
tưởng điên đảo, đối với thanh, hương, vị, xúc cũng sanh ra
tưởng điên đảo. Do
đảo tưởng làm
nhơn duyên mà sanh ra thọ. Do đây nên
trong đời nói rằng nhơn
đảo tưởng sanh ra mười món tưởng.
Do dục làm
nhơn duyên mà thọ lấy
quả báo ác nơi
thế gian. Đem sự ác làm hại
cha mẹ,
Sa Môn,
Bà La Môn v.v…, chỗ chẳng nên làm ác mà cố làm chẳng tiếc
thân mạng. Người
trí quán sát
ác tưởng nầy làm
nhơn duyên mà sanh ra
dục tâm.
Quán sát nhơn duyên của dục rồi kế lại quán
quả báo : Dục nầy có nhiều
quả báo ác :
Địa ngục,
ngạ quỉ,
súc sanh, nhơn và thiên.
Nếu những
ác tưởng nầy đã
trừ diệt được, thời
vĩnh viễn chẳng sanh
dục tâm nầy, vì không
dục tâm nên chẳng sanh ác thọ, đã không ác thọ thời không
ác quả, do đây nên phải dứt
ác tưởng trước.
Ác tưởng đã dứt thời những pháp ác khác
tự nhiên đều dứt. Do cớ trên đây nên người trí vì dứt
ác tưởng mà tu
bát chánh đạo, đây gọi là
phạm hạnh thanh tịnh, cũng gọi là trong
thân độc của
chúng sanh có vị thuốc hay. Như trong núi Tuyết dầu có cỏ độc nhưng cũng có cây thuốc hay.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người
trí quán dục như vậy rồi kế nên quán nghiệp. Phải
suy nghĩ rằng : Bốn thứ thọ, tưởng, xúc và dục chính là
phiền não.
Phiền não nầy có thể làm
sanh nghiệp mà chẳng làm
thọ nghiệp.
Phiền não nầy cùng đi với nghiệp có hai thứ : Một là làm
sanh nghiệp, hai là làm
tác nghiệp.
Do đây nên người trí phải
quán sát nơi nghiệp. Nghiệp nầy có ba : Thân, khẩu và ý. Hai nghiệp thân, khẩu tên là nghiệp mà cũng gọi là
nghiệp quả, ý chỉ gọi là nghiệp, vì là nhơn của nghiệp nên gọi là nghiệp. Hai nghiệp thân, khẩu là nghiệp ngoài, ý gọi là nghiệp trong. Ba thứ nghiệp nầy đi cùng với
phiền não làm thành hai thứ nghiệp : Một là
sanh nghiệp, hai là
thọ nghiệp.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Chánh nghiệp tức là ý, kỳ nghiệp tức là thân khẩu. Phát sanh trước gọi là
ý nghiệp,
từ ý nghiệp sanh ra gọi là thân
khẩu nghiệp. Do đây nên
ý nghiệp được gọi là chánh.
Người trí đã quán nghiệp rồi kế lại quán nghiệp nhơn. Nghiệp nhơn đây là
vô minh xúc.
Do nơi vô minh xúc mà
chúng sanh cầu
lấy có.
Nhơn duyên cầu
lấy có tức là ái. Nhơn nơi ái mà gây tạo ba thứ nghiệp, thân, khẩu, ý.
Người
trí quán nghiệp nhơn rồi kế lại quán
quả báo.
Quả báo đây có bốn : Một là hắc hắc
quả báo, hai là bạch bạch
quả báo, ba là tạp tạp
quả báo, bốn là bất hắc bất bạch
quả báo.
Hắc hắc
quả báo là lúc tạo nghiệp nhơ đục
quả báo cũng nhơ đục. Bạch bạch
quả báo là lúc tạo nghiệp
thanh tịnh quả báo cũng
thanh tịnh.
Tạp tạp
quả báo là lúc tạo nghiệp tạp
quả báo cũng tạp. Bất bạch bất hắc
quả báo là nói
vô lậu nghiệp.
_ Bạch
Thế Tôn Trước kia
đức Như Lai nói
vô lậu không có
quả báo, cớ sao nay lại nói
vô lậu là bất bạch bất hắc
quả báo.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nghĩa nầy có hai : Một là cũng quả cũng báo, hai là chỉ quả chẳng phải báo. Hắc hắc
quả báo là quả cũng là báo : Do nghiệp nhơn hắc mà sanh ra nên gọi là quả, nó lại có thể làm nhơn nên lại gọi là báo. Bạch bạch và tạp tạp cũng như vậy. Quả
vô lậu nhơn nơi
hữu lậu mà sanh nên gọi là quả, nó chẳng làm nhơn cho pháp khác nên chẳng gọi là báo. Do đây nên
vô lậu gọi là quả mà chẳng gọi là báo.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nghiệp
vô lậu nầy chẳng phải là
hắc pháp,
duyên cớ gì chẳng gọi nó là bạch ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì
vô lậu không có báo nên chẳng gọi là bạch. Vì
đối trị hắc nên gọi là bạch. Nay ta nói thọ
quả báo gọi là
hắc bạch. Vì nghiệp
vô lậu nầy chẳng
thọ báo nên chẳng gọi là bạch mà gọi là
tịch tịnh.
Nghiệp như vậy có chỗ
định thọ báo, như mười pháp ác
quyết định ở
địa ngục,
ngạ quỉ,
súc sanh,
mười nghiệp lành quyết định ở nhơn, thiên.
Mười pháp ác có thượng, trung và hạ : Nghiệp thượng thọ thân
địa ngục, nghiệp
trung thọ thân
súc sanh, nghiệp hạ thọ thân
ngạ quỉ.
Mười nghiệp lành về nhơn đạo có bốn hạng : Nghiệp hạ sanh
Bắc Câu Lô Châu, nghiệp trung sanh
Tây Ngưu Hóa Châu, nghiệp thượng sanh
Đông Thắng Thần Châu, nghiệp thượng thượng sanh
Diêm Phù Đề.
Người
trí quán sát như vậy rồi liền nghĩ rằng : Ta phải làm thế nào dứt những
quả báo ấy ? Lại nghĩ rằng
nhơn duyên của những nghiệp nầy do
vô minh xúc sanh ra, nếu ta dứt trừ
vô minh cùng xúc, thời
nghiệp quả nầy dứt mất chẳng còn sanh. Vì dứt trừ
vô minh và xúc nên người trí tu
bát chánh đạo, đây gọi là
phạm hạnh thanh tịnh. Cũng gọi là trong
thân độc của
chúng sanh có vị thuốc hay, như trong núi Tuyết dầu có cỏ độc nhưng cũng có cây thuốc.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người
trí quán sát nghiệp và
quán sát phiền não rồi, kế lại
quán sát quả báo của hai thứ nầy : Tức là khổ. Đã biết là khổ thời có thể
xa lìa tất cả sự thọ sanh.
Người trí lại
quán sát phiền não làm
nhơn duyên sanh ra
phiền não, nghiệp cũng làm
nhơn duyên sanh ra
phiền não.
Phiền não lại làm
nhơn duyên sanh ra nghiệp, nghiệp làm
nhơn duyên sanh ra khổ, khổ làm
nhơn duyên sanh ra
phiền não,
phiền não làm
nhơn duyên sanh ra hữu, hữu làm
nhơn duyên sanh ra khổ, khổ làm
nhơn duyên sanh ra hữu, hữu làm
nhơn duyên sanh ra nghiệp, nghiệp làm
nhơn duyên sanh ra
phiền não,
phiền não làm
nhơn duyên sanh ra khổ, khổ làm
nhơn duyên sanh ra nghiệp.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu ai có thể
quán sát như vậy, nên biết rằng người nầy có thể
quán sát nghiệp khổ, vì những điều
quán sát như vậy chính là mười hai
nhơn duyên sanh tử, người nầy chẳng gây tạo nghiệp mới, có thể
phá hoại nghiệp cũ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người
trí quán sát sự khổ nơi
địa ngục.
Quán sát nơi
địa ngục nhẫn đến ba trăm ba mươi sáu sở. Mỗi
địa ngục đều có các sự khổ, đều do
phiền não và nghiệp sanh ra.
Quán sát địa ngục rồi kế lại
quán sát những sự khổ của
ngạ quỉ và
súc sanh. Kế lại
quán sát những sự khổ của nhơn gian và của
chư thiên. Những sự khổ như vậy đều
do nơi phiền não và nghiệp sanh ra.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trên các
cõi Trời dầu không những sự
khổ não lớn, nhưng
thân thể của
chư thiên mềm dịu mịn trơn, lúc
năm tướng suy hiện ra họ cũng thọ lấy sự khổ lớn, như sự khổ của
địa ngục.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người
trí quán sát những sự khổ của
tam giới đều
do nơi phiền não và nghiệp mà sanh. Như đồ bằng đất chưa hầm thời dể bể hư.
Thân thể của
chúng sanh cũng như vậy, là những đồ đầy sự khổ. Như cây to bông trái sum sê bầy chim có thể làm hư hại. Như nhiều cỏ khô chút lửa cũng có thể cháy hết.
Thân thể của
chúng sanh bị những sự khổ làm hư hoại cũng như vậy. Người trí
nếu có thể quán sát tám thứ khổ, người nầy có thể dứt được những sự khổ.
Nầy Thiện NamTử ! Đã
quán sát tám sự khổ rồi kế lại
quán sát khổ nhơn.
Khổ nhơn đây là ái cùng
vô minh. Có hai thứ : Một là cầu
thân thể, hai là cầu
của cải, hai thứ nầy đều là khổ, do đây nên biết ái cùng
vô minh là khổ nhơn. Lại có hai thứ : Một là nội, hai là ngoại. Nội có thể gây nghiệp, ngoại có thể làm
tăng trưởng. Nội lại có thể gây nghiệp, ngoại làm thành
nghiệp quả.
Đã dứt nội ái thời nghiệp cũng dứt, dứt được ngoại ái thời qủa cũng dứt. Nội ái có thể
sanh khổ đời
vị lai, ngoại ái có thể
sanh khổ đời
hiện tại. Do đây nên ái là khổ nhơn.
Đã quán khổ nhơn rồi kế lại
quán sát quả báo.
Quả báo của khổ chính là thủ,
ái quả gọi là thủ.
Nhơn duyên của thủ nầy tức là nội ái và ngoại ái do đây có ái khổ.
Nguời trí phải
quán sát ái làm
nhơn duyên cho thủ, thủ
nhơn duyên nơi ái,
nếu có thể dứt ái và thủ thời chẳng tạo
nghiệp thọ khổ. Do đây nên người trí vì dứt trừ ái khổ mà tu
bát chánh đạo. Đây gọi là
phạm hạnh thanh tịnh, cũng gọi là trong
thân độc của
chúng sanh có vị thuốc hay. Như trong núi Tuyết dầu có cỏ độc nhưng cũng có cây thuốc.
_ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào gọi là
phạm hạnh thanh tịnh ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Chính là tất cả pháp.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nghĩa của tất cả pháp chẳng nhứt định. Vì
đức Như Lai có lúc nói là thiện,
bất thiện. Có lúc nói là
tứ niệm xứ quán. Hoặc nói là
thập nhị nhập. Hoặc nói là
thiện tri thức. Hoặc nói là
thập nhị nhơn duyên. Hoặc nói là
chúng sanh. Hoặc nói là
chánh kiến,
tà kiến. Hoặc nói là
mười hai bộ kinh. Hoặc nói là
nhị đế.
Hôm nay
đức Như Lai lại nói tất cả pháp là
phạm hạnh thanh tịnh, đó là những tất cả pháp gì ?
Nầy
Thiện Nam Tử !
Kinh Đại Niết Bàn vi diệu nầy là
bảo tạng trong tất cả pháp.
Như biển cả là kho chứa những
châu báu,
kinh Đại Niết bàn nầy cũng như vậy, là
bí tạng của tất cả
chữ nghĩa.
Như
núi Tu Di là cội gốc của các vị thuốc, kinh nầy cũng là cội gốc của giới
Bồ Tát.
Như
hư không là chỗ ở củatất cả vật, kinh nầycũng là chỗ ở của tất cả pháp lành.
Như luồng gió mạnh không gì
trói buộc được. Tất cả
Bồ Tát thật hành kinh nầy cũng chẳng bị tất cả
phiền não trói buộc.
Như chất
kim cương không gì
phá hoại được, kinh nầy dầu có
ngoại đạo ác tà cũng chẳng
phá hoại được.
Như cát
sông Hằng không ai đếm được,
ý nghĩa của kinh nầy cũng không ai đếm được.
Kinh nầy là
pháp tràng của
Bồ Tát,
như bảo tràng của
Thiên Đế Thích.
Kinh nầy là vị
thương chủ thẳng đến thành
Niết Bàn, như bực
đạo sư dẫn các thương nhơn thẳng đến biển cả.
Kinh nầy có thể làm ánh sáng pháp cho
Bồ tát, như
mặt trời mặt trăng có thể phá
tối tăm ở
thế gian.
Kinh nầy có thể làm vị thuốc hay cho
chúng sanh mang
bịnh khổ, như trong núi Tuyết có cây thuốc hay trị được các thứ bịnh. Kinh nầy có thể làm gậy cho Nhứt
Xiển Đề, như người quá yếu nhờ gậy mà
đứng dậy được.
Kinh nầy có thể làm cầu đò cho tất cả người ác, như cây cầu là chỗ tất cả người đi qua.
Kinh nầy làm bóng mát cho những ai bị nóng
phiền não trong hai mươi lăm cõi, như cây lọng
che nắng nóng.
Kinh nầy là vua đại
vô úy có thể
phá hoại tất cả
ác ma phiền não, như
Sư Tử Vương hàng phục bầy thú.
Kinh nầy là
đại thần chú có thể
phá hoại tất cả ác quỉ
phiền não, như
chú sư trong đời có thể đuổi trừ quỉ vọng lượng.
Kinh nầy là mưa đá
vô thượng có thể
phá hoại tất cả
quả báo sanh tử.
Kinh nầy có thể làm vị thuốc hay cho người hư con mắt giới, như thuốc An
Xà Na trị lành con mắt đau.
Kinh nầy có thể làm chổ ở cho tất cả pháp lành, như mặt đất làm chỗ ỡ cho muôn vật.
Kinh nầy là
gương sáng của
chúng sanh phá giới,như
gương sáng soi các
hình tượng.
Kinh nầy có thể làm
y phục cho người không tàm quí, như áo xiêm
che đậy thân thể của người đời.
Kinh nầy làm
của báu lớn cho người nghèo pháp lành, như
Công Đức Thiên lợi ích ban sự
lợi ích cho người nghèo.
Kinh nầy làm nước
cam lộ cho
chúng sanh khát ngưỡng chánh pháp, như nước bát
công đức làm no đủ cho người khát nước.
Kinh nầy làm giường pháp cho người
phiền não, như người đời gặp được giừơng nằm
an ổn.
Kinh nầy là cổ xe
trân bảo, chuổi
ngọc hoa hương
trang nghiêm thanh tịnh của bực
sơ địa Bồ Tát nhẫn đến bực
Thập Địa Bồ Tát, hơn tất cả chỗ vui
vi diệu của sáu môn
Ba La Mật, như cây
Ba Lợi Chất Đa La trên cung
Trời Đao Lợi.
Kinh nầy là cây buá
trí huệ cứng bén có thể chặt tất cả cây to
phiền não, là dao bén có thể cắt đứt
tập khí, là lực sị
dũng kiện có thể trừ dẹp ma tà
oán địch, là ngọn lửa
trí huệ đốt củi
phiền não, là tạng
nhơn duyên xuất sanh
Bích Chi Phật, là tạng
Thanh Văn sanh ra bực
Thanh Văn, là con mắt của tất cả
chư Thiên, là
con đường chánh của mỗi người là chỗ nương của tất cả loài
súc sanh, là chỗ
giải thoát của
ngạ quỉ, là đấng
vô thượng tôn của
địa ngục, là chỗ
vô thượng của tất cả
chúng sanh trong
mười phương, là
phụ mẫu của chư Phật.
Do đây nên kinh nầy nhiếp tất cả pháp.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trước kia ta nói kinh nầy dầu nhiếp tất cả pháp, nhưng ta nói
phạm hạnh là
ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Nếu rời ba mươi bảy phẩm nầy thời trọn chẳng được quả
Thanh Văn nhẫn đến quả
vô thượng Bồ Đề, cũng chẳng thấy
Phật tánh cùng
quả Phật tánh. Do đây nên
phạm hạnh là
ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Vì ba mươi bảy phẩm nầy tánh của nó chẳng phải
điên đảo, nó có thể
phá hoại điên đảo ; tánh của nó chẳng phải
ác kiến, nó có thể
phá hoại ác kiến ; tánh của nó chẳng phải bố úy, nó có thể
phá hoại bố úy ; tánh của nó là
phạm hạnh, nó có thể làm cho
chúng sanh rốt ráo thật hành
phạm hạnh thanh tịnh.
_ Bạch
Thế Tôn !
Pháp hữu lậu cũng có thể làm nhơn cho pháp
vô lậu, cớ sao
đức Như Lai chẳng nói
pháp hữu lậu là
phạm hạnh thanh tịnh ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !Tất cả
pháp hữu lậu là
điên đảo, nên tất cả
pháp hữu lậu chẳng được gọi là
phạm hạnh thanh tịnh.
_ Bạch
Thế Tôn ! Pháp thế
đệ nhứt là
hữu lậu hay là
vô lậu.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Là
hữu lậu.
_ Bạch
Thế Tôn ! Pháp thế
đệ nhứt dầu là
hữu lậu nhưng tánh nó chẳng phải
điên đảo, cớ sao chẳng gọi nó là
phạm hạnh thanh tịnh ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Pháp thế
đệ nhứt là nhơn của pháp
vô lậu, vì giống với
vô lậu và hướng về
vô lậu nên chẳng gọi là
điên đảo.
Phạm hạnh thanh tịnh phát tâm tương tục mãi đến
rốt ráo. Còn pháp thế
đệ nhứt chỉ là một niệm, nên chẳng được gọi là
phạm hạnh thanh tịnh.
_ Bạch
Thế Tôn !Năm thức của
chúng sanh cũng là
hữu lậu nhưng chẳng phải là
điên đảo, lại chẳng phải là một niệm, cớ sao chẳng gọi là
phạm hạnh thanh tịnh ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Năm thức của
chúng sanh dầu chẳng phải một niệm nhưng là
hữu lậu lại là
điên đảo. Vì thêm các lậu nên gọi là
hữu lậu, thể của nó chẳng phải chơn thật vì là tưởng
chấp trước nên là
điên đảo.
Thế nào gọi là thể của nó chẳng phải chơn thật vì tưởng
chấp trước nên
điên đảo ? Vì trong vật chẳng phải
nam nữ nó sanh tưởng
nam nữ, nhẫn đến nhà cửa xe cộ v.v… cũng như vậy, nên gọi là
điên đảo.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo tánh của nó không
điên đảo nên được gọi là
phạm hạnh thanh tịnh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
Bồ Tát đối với ba mươi bảy phẩm nầy mà biết căn, biết nhơn, biết nhiếp, biết tăng, biết chủ, biết đạo, biết thắng, biết thật và biết
rốt ráo,
Bồ Tát nầy được gọi là
phạm hạnh thanh tịnh.
_ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào gọi là biết căn, nhẫn đến biết
rốt ráo ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Bồ Tát thưa hỏi thường vì hai điều : Một là vì mình, hai là vì người. Nay ông đã biết mà vì
vô lượng chúng sanh nên thưa hỏi những việc như vậy.
Lành thay !
Lành thay !
Nầy
Thiện Nam tử ! Căn bổn của
ba mươi bảy phẩm trợ đạo là dục, nhơn là minh xúc,
nhiếp thủ là thọ,
tăng trưởng là thiện
tư duy, chủ là niệm,
đạo dẫn là định, thắng là
trí huệ, thật là
giải thoát,
rốt ráo là
Đại Bát Niết Bàn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Thiện dục là căn bổn của
sơ phát tâm nhẫn đến
vô thượng Bồ Đề, do đây nên ta nói dục là căn bổn.
Như người đời nói tất cả
khổ não do ái làm căn bổn,. Tất cả bịnh tật do ăn cách đêm làm căn bổn. Tất cả sự
phán đoán do đấu tranh làm căn bổn. Tất cả việc ác do
hư vọng làm căn bổn.
_ Bạch
Thế Tôn ! Trong kinh nầy trước kia
đức Như Lai nói rằng tất cả pháp lành do
bất phóng dật làm căn bổn. Sao nay
đức Phật lại nói rằng dục là căn bổn ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu luận về sanh nhơn thời là thiện dục, còn liễu nhơn thời là
bất phóng dật. Như người đời nói rằng tất cả trái cây do hột làm nhơn, hoặc có người nói hột là sanh nhơn, đất là liễu nhơn.
_ Bạch
Thế Tôn ! Trong những kinh khác
đức Phật từng nói rằng Phật là cội gốc của
ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Nghĩa nầy như thế nào ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Đức Như Lai ngày trước nói rằng
chúng sanh mới biết
ba mươi bảy phẩm trợ đạo thời Phật là căn bổn. Nếu
tự chứng đặng thời dục là căn bổn.
_ Bạch
Thế Tôn ! Sao minh xúc gọi là nhơn ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Có lúc
đức Như Lai nói minh là huệ, hoặc nói minh là tín. Do
tín tâm mà gần gũi bạn lành đây gọi là xúc. Do gần gũi bạn lành được nghe
chánh pháp, đây gọi là xúc. Do nghe
chánh pháp mà thân, khẩu,
ý thanh tịnh, đây gọi là xúc. Do
ba nghiệp thanh tịnh mà được
chánh mạng, đây gọi là xúc. Do
chánh mạng được
giới căn thanh tịnh, do
giới căn thanh tịnh mà thích nơi
tịch tịnh, do thích
tịch tịnh nên có thể
tư duy hiểu biết do thiện
tư duy mà được an trụ đúng pháp, do an trụ đúng pháp mà được
ba mươi bảy phẩm trợ đạo, do đây có thể
phá hoại vô lượng phiền não ác, đây gọi là xúc.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Thọ gọi là
nhiếp thủ, vì lúc
chúng sanh cảm thọ có thể làm
việc lành việc ác.
Do nơi thọ mà sanh các
phiền não.
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo có thể
phá hoại những
phiền não nầy, nên dùng thọ làm
nhiếp thủ.
Do thiện
tư duy có thể phá
phiền não, nên gọi là
tăng trưởng. Vì siêng năng
tu tập nên được ba mươi phẩm
trợ đạo như vậy.
Nếu quán lực có thể phá những
phiền não ác
cần phải nhờ
chuyên niệm, do đây nên dùng niệm làm chủ. Như
trong đời tất cả binh chủng đều theo ý của chủ tướng. Ba mươi phẩm
trợ đạo cũng đều theo nơi niệm chủ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Đã nhập
chánh định rồi thời
ba mươi bảy phẩm trợ đạo có thể khéo
phân biệt tất cả
pháp tướng, nên dùng làm
dẫn đạo.
Phân biệt pháp tướng nầy do
trí huệ là
tối thắng, nên dùng huệ làm thắng.
Trí huệ nầy rõ biết
phiền não, vì
năng lực của
trí huệ và
phiền não tiêu diệt. Như
trong đời bốn binh cbhủng
phá hoại óan địch, hoặc một hoặc hai người
dũng kiện có
công năng phá địch.
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo cũng như vậy, do
năng lực của
trí huệ có thể
phá hoại phiền não, nên lấy
trí huệ làm thắng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Dầu do
tu tập ba mươi phẩm
trợ đạo mà chứng được
tứ thiền thần thông an lạc nhưng cũng chẳng gọi là thật. Nếu
phá hoại phiền não lúc chứng
được giải thoát mới gọi là thật.
Ba mươi phẩm
trợ đạo nầy từ khi
phát tâm tu hành, dầu được thế lạc và
xuất thế lạc, chứng bốn quả
Sa Môn được giải thoát, cũng chẳng gọi là
rốt ráo.
Nếu có thể dứt trừ được những
công hạnh do
ba mươi bảy phẩm trợ đạo nầy thật hành, đây gọi là
Niết Bàn, nên ta nói
rốt ráo là
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Lại tâm thiện ái niệm chính là dục. Do thiện ái niệm mà gần gũi bạn lành nên gọi là xúc, đây là nhơn. Do gần gũi bạn lành nên gọi là thọ, đây là
nhiếp thủ. Do gần bạn lành mà có thể thiện
tư duy nên gọi là
tăng trưởng. Do bốn pháp nầy có thể sanh trưởng
chánh đạo, dục, niệm, định và trí, đây gọi là chủ, là
dẫn đạo, là
tối thắng vậy.
Do ba pháp nầy mà được hai thứ
giải thoát, do dứt trừ ái nên tâm
được giải thoát, do dứt trừ
vô minh nên huệ
được giải thoát, đây gọi là thật.
Tâm pháp như vậy
rốt ráo được quả gọi là
Niết Bàn, nên
Đại Niết Bàn gọi là
rốt ráo.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Lại dục chính là
phát tâm xuất gia, xúc là
bạch tứ yết ma, đây gọi là nhơn.
Nhiếp thủ chính là thọ hai thứ giới : Một là
Ba La Đề Mộc Xoa giới, hai là
tịnh căn giới, đây gọi là thọ, đây gọi là
nhiếp thủ.
Tăng trưởng là
tu tập tứ thiền. Chủ là quả
Tu Đà Hoàn và quả
Tư Đà Hàm. Dẵn đạo là quả
A Na Hàm.
Tối thắng là quả
A La Hán, thật là quả
Bích Chi Phật.
Rốt ráo là quả
vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Lại dục gọi là thức, xúc gọi là
lục nhập, nhiếp gọi là thọ,
tăng trưởng gọi là
vô minh, chủ gọi là
danh sắc,
dẫn đạo gọi là ái, thắng gọi là thủ, thật gọi là hữu,
rốt ráo gọi là sanh, lão, bịnh, tử.
_ Bạch
Thế Tôn ! Căn bổn cùng nhơn với Tăng, ba pháp nầy khác nhau thế nào ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Căn bổn tức là
sơ phát tâm. Nhơn là tương tợ chẳng dứt.
Tăng trưởng là tương tợ dứt rồi có thể sanh tương tợ.
Lại căn là tạo tác. Nhơn chính là quả.
Tăng trưởng là có thể dùng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Đời
vị lai dầu có
quả báo, nhưng vì chưa thọ nên gọi là nhơn. Đến khi thọ thời gọi là
tăng trưởng.
Lại căn là mong cầu. Được tức là nhơn. Dùng được tức là
tăng trưởng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong kinh nầy, căn là
kiến đạo, nhơn là
tu đạo, tăng là
vô học đạo. Lại căn là chánh nhơn,
phương tiện gọi là nhơn, từ chánh nhơn nầy chứng được
quả báo gọi là
tăng trưởng.
_ Bạch
Thế Tôn ! Như
đức Phật nói
rốt ráo là
Đại Niết Bàn,
Đại Niết Bàn nầy làm thế nào chứng được ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Hoặc
Bồ Tát hoặc
Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni, hoặc
Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di có thể
tu tập mười
quán tưởng, thời người nầy có thể được
Niết bàn : Một là
vô thường tưởng, hai là
khổ tưởng, ba là
vô ngã tưởng, bốn là yểm ly thuật tưởng, năm là nhứt thiết
thế gian bất khả
lạc tưởng, sáu là
tư tưởng, bảy là đa tội quá tưởng, tám là
lý tưởng, chín là diệt tưởng, mười là
vô ái tưởng. Người nào
tu tập mười thứ
quán tưởng như vậy thời
rốt ráo quyết định được
Niết Bàn. Chẳng
do nơi người, tự mình có thể
phân biệt thiện
bất thiện v.v…, đây gọi là thật xứng nghĩa
Tỳ Kheo, nhẫn đến xứng nghĩa
Ưu Bà Di.
_ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào gọi là
Bồ Tát nhẫn đến
Ưu Bà Di tu tập vô thường tưởng ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Có hai hạng
Bồ Tát : Một là
sơ phát tâm, hai là đã
hành đạo.
Vô thường tưởng cũng có hai thứ : Thô và tế.
Bồ Tát sơ phát tâm lúc quán
vô thường tưởng,
suy nghĩ rằng :
Vạn vật trong đời phàm có hai loại : Nội và ngoại. Những loại thuộc về nội vật đều
vô thường biến đổi. Tôi thấy lúc sanh, lúc nhỏ, lúc lớn, lúc mạnh, lúc già, lúc chết đều khác nhau, do đây nên biết những loại thuộc về nội vật đều
vô thường. Lại
suy nghĩ rằng tôi thấy
chúng sanh hoặc có kẻ mập mạnh tươi tốt, hoặc có kẻ bịnh hoạn héo gầy, hoặc có người
giàu có dư giả, hoặc thấy người nghèo cùng
thiếu thốn, hoặc thấy người có
vô lượng công đức, hoặc thấy người tạo
vô lượng tội lỗi, do đây nên
quyết định biết rằng những loại thuộc về nội vật là
vô thường.
Lại
suy nghĩ rằng, những vật ngoài
thời kỳ hột,
thời kỳ mọc mộng, lên cây ra lá
trổ bông, kết trái đều chẳng đồng, lại có thứ đầy đủ, có thứ chẳng đầy đủ, do đây nên biết rằng tất cả vật ngoài
quyết định là
vô thường.
Đã
quán sát những vật bị thấy là
vô thường, kế lại là
quán sát những
pháp bị nghe : Tôi từng nghe
chư thiên có
thần thông tự tại hưởng sự vui rất
vi diệu nhưng cũng có
năm tướng suy, do đây nên biết rằng là
vô thường. Tôi lại từng nghe thuở
kiếp sơ có các
chúng sanh đầy đủ
công đức,
thân thể sáng chói chẳng cầu
mặt trời mặt trăng, vì
vô thường biến đổi mà
công đức hao tổn, ánh sáng tắt mất. Tôi lại nghe thuở xưa có
Chuyển Luân Thánh Vương thống lãnh bốn châu
thiên hạ, có đủ
thất bảo thế lực tự tại dầu vậy nhưng cũng không thể
tránh khỏi vô thường. Lại quán
quả địa cầu,
ngày xưa người ở đông đảo, có đủ cây thuốc hay, rừng cây bông trái sum sê. Ngày nay vì
chúng sanh phước bạc, nên những sanh vật trên mặt đất thành hư hao. Do đây nên biết rằng tất cả vật trong thân ngoài cảnh đều
vô thường. Đây gọi là tướng
vô thường thô.
Đã
quán tưởng tướng thô rồi, kế lại
quán sát tướng
vô thường tế.
Bồ Tát quán sát tất cả vật trong ngoài, nhẫn đến
vi trần, tại
thời kỳ vị lai đã là
vô thường, vì tất cả đều có đủ tướng
phá hoại vậy. Nếu
sắc uẩn vị lai chẳng phải là
vô thường, thời chẳng nên nói
sắc uẩn có mười
thời kỳ sai biệt :
Thời kỳ đông lại,
thời kỳ nổi bóng,
thời kỳ ung nhọt,
thời kỳ khối thịt,
thời kỳ mọc đầu và
tứ chi,
thời kỳ bé thơ,
thời kỳ trẻ,
thời kỳ thiếu niên thời kỳ tráng niên,
thời kỳ già suy.
Nếu không phải là
vô thường thời đông váng không thành bóng, nhọt nhẫn đến không có già suy. Nếu những
thời kỳ chẳng phải
niệm niệm hoại diệt, thời trọn chẳng có lần lần lớn lên,
đáng lẽ phải
đồng thời trưởng thành tất cả. Do đây biết rằng
quyết định có
niệm niệm vi tế vô thường.
Lại thấy có người
thân thể toàn vẹn,
nhan sắc tươi đẹp, lúc sau lại thấy người ấy
gầy gò tiều tụy. Do đây biết rằng người nầy quyết địnyh có
niệm niệm vô thường.
Lại
quán sát tứ đại và bốn
oai nghi, trong ngoài đều có hai khổ nhơn :
Đói khát và lạnh nóng.
Nếu không có
niệm niệm vi tế vô thường, thời cũng lẽ ra không có bốn điều khổ ấy.
Suy xét như trên đây gọi là
quán tưởng vô thường tế.
Như trong thân và
ngoại cảnh tâm pháp cũng như vậy, vì
tâm duyên theo
sáu trần hoặc sanh lòng mừng, lòng giận, lòng yêu, v.v…
lần lượt thay đổi khác, không trụ một niệm. Do đây nên biết rằng tất cả
sắc pháp và
tâm pháp đều
vô thường cả.
Nếu
Bồ Tát có thể ở
trong một niệm thấy rõ tất cả pháp đều
sanh diệt vô thường, đây gọi là
Bồ Tát có đủ
vô thường tưởng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người trí
tu tập vô thường tưởng rồi thời
xa lìa quan niệm điên đảo chấp thường.
Kế lại
tu tập khổ tưởng.
Duyên cớ gì có sự khổ như vậy ? Biết rõ rằng sự khổ nầy
do nơi vô thường. Do
vô thường mà có sanh, già , bịnh, chết. Vì có sanh già bịnh chết nên gọi là
vô thường. Vì
vô thường mà chịu lấy những sự khổ : Đói, khát, lạnh, nóng v.v…
Lại
quán sát thân thể nầy chính là khí cụ
vô thường, là khổ. Vì là khí cụ khổ nên bao nhiêu sự nhận lấy của thân đều là khổ cả.
Lại
quán sát sanh là khổ, diệt là khổ.
Sanh diệt chính là
vô thường, chẳng phải ngã, chẳng phải
ngã sở, nên tu
vô ngã tưởng.
Lại
quán sát khổ là
vô thường,
vô thường tức là khổ. Nếu đã là khổ
vô thường, người trí đâu nên cho rằng có ngã !
Khổ không phải là ngã,
vô thường cũng vậy.Cả
năm ấm đều là khổ là
vô thường, sao
chúng sanh lại cho là có ngã !
Lại
quán sát tất cả pháp có nhiều thứ hòa hiệp sai khác.Chẳng phải từ một hòa hiệp sanh tất cả pháp. Lại một pháp chẳng phải là quả của tất cả hòa hiệp. Tất cả hòa hiệp đều không
tự tánh, cũng không một tánh, cũng
không tánh sai khác, cũng không vật tánh, cũng không
tự tại. Các pháp đã có những tướng như vậy, người trí đâu nên nói là có ngã.
Lại
suy nghĩ rằng : Trong tất cả
pháp không có một pháp nào là
tác giả. Một pháp đã không phải
tác giả. Tánh của các pháp hòa hiệp cũng không thể là
tác giả. Tánh của các
pháp không thể tự sanh tự diệt, do hòa hiệp mà diệt, do hòa hiệp mà sanh. Khi pháp đã sanh,
chúng sanh điên đảo tưởng rằng là hòa hiệp, từ hòa hiệp sanh.
Chúng sanh điên đảo tưởng niệm không có chơn thật. Như thế thời đâu có
thật ngã ! Do đây nên người
trí quán sát
vô ngã.
Lại
quán sát duyên cớ gì mà
chúng sanh nói là ngã ? Ngã nầy nếu là có, thời là một hay nhiều. Nếu ngã chỉ có một, thời sao lại có
Sát Đế Lợi,
Bà La Môn v.v…nhẫn đến nhơn, thiên, quỉ, súc?â Nếu ngã là nhiều, sao lại nói rằng ngã của
chúng sanh là
duy nhứt, là khắp, là không biến tế. Cho là một hay là nhiều, cả hai đều không có ngã cả.
Người trí đã
quán vô ngã rồi, kế lại
quán tưởng yểm ly thực.
Nên
suy nghĩ rằng : Nếu tất cả pháp là
vô thường, khổ,
vô ngã, sao lại vì sự ăn mà thân, khẩu, ý gây tạo
ác nghiệp ! Nếu có
chúng sanh nào vì tham ăn mà thân, khẩu, ý gây tạo
nghiệp ác, bao nhiêu
của cải có ra,
mọi người đều cùng hưởng dụng, về sau lúc mất quả khổ, không một ai cùng chia.
Lại
quán sát tất cả
chúng sanh vì
ăn uống mà
thân tâm chịu khổ. Nếu từ các sự khổ mà được
ăn uống, sao ta lại đối với sự
ăn uống mà sanh lòng tham đắm.
Kế lại nên
quán sát thân nhơn.
Do nơi uống ăn mà
thân thể tăng trưởng. Nay ta
xuất gia vì muốn
xả thân nên
thọ giới tu hành, nếu tham đắm
ăn uống thời sao gọi là
xả thân !
Quán sát như vậy rồi, dầu có
ăn uống, nhưng coi như quỉ Khóang Dã
ăn thịt con của nó, trong lòng nhàm ghét không biết ngon ngọt.
Quán sát rõ món
ăn uống có lỗi như vậy rồi, kế lại quán
xúc thực : Như con bò bị lột da, có
vô số kiến ruồi bu cắn. Kế quán
tư thực như đống lửa lớn. Quán
thức thực như ba trăm mâu nhọn.
Người
trí quán sát bốn thứ thực nầy rồi thời không còn có
quan niệm tham ưa. Nếu còn tham ưa thời nên
quán bất tịnh để lìa hẳn sự
ái nhiễm đối với
tứ thực. Phải khéo
phân biệt sự
bất tịnh của tất cả thứ uống ăn. Lúc thọ ăn món ngon món dở,
xem như thuốc thoa ghẻ, trọn không sanh lòng
tham ái.
Nếu có thể quán sát như trên đây thời gọi là người trí trọn nên
quán tưởng yểm ly thực.
_ Bạch
Thế Tôn ! Người
trí quán sát món ăn là
bất tịnh , đó là thật quán hay hư quán ? Nếu là thật quán thời
thức ăn đương quán thật chẳng phải
bất tịnh. Nếu là hư quán, thời sao lại gọi là thiện tưởng ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Quán tưởng như vậy, cũng là thật cũng là hư : Vì có thể trừ
quan niệm tham ăn nên gọi là thật ; vì không phải trùng dòi mà thấy là trùng dòi nên gọi là hư.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả
pháp hữu lậu đều gọi là hư, mà cũng có thể được thật.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
Tỳ Kheo lúc muốn đi
khất thực, tự nghĩ rằng :Tôi sẽ đi
khất thực, mong được món
ăn ngon, nhiều và mau được, đừng được món ăn dở, ít và chậm lâu.
Tỳ Kheo nầy chẳng được gọi là có yểm ly tưởng đối với sự
ăn uống, pháp lành sẽ suy hao lần, pháp chẳng lành sẽ càng ngày càng
tăng trưởng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
Tỳ Kheo lúc muốn đi
khất thực, phải nguyện trước rằng : Cầu mong cho những người
khất thực đều được no đủ, người
bố thí vô lượng phước. Nếu tôi được món ăn, cũng chỉ là dùng để chữa bịnh cho
thân thể ác độc nầy, để
tu tập pháp lành, cho
thí chủ được
lợi ích.
Tỳ Kheo lúc
phát nguyện thời pháp lành lần
tăng trưởng, pháp chẳng lành
tiêu diệt lần.
Tỳ Kheo nầy chẳng luống ăn của
tín thí.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người trí có đủ bốn pháp
quán tưởng như vậy thời có thể
tu pháp quán tưởng “
Thế gian không đáng ưa thích”.
Suy nghĩ rằng : Tất cả
thế gian không chỗ nào chẳng có sự sanh, già, bịnh, chết, mà thân của tôi không chỗ nào chẳng sanh.
Thế gian đã không có một chỗ nào lìa được sự sanh, già, bịnh, chết, như vậy tại sao tôi lại
ưa thích thế gian ! Tất cả
thế gian không có gì tiến đắc mà chẳng phải thối thất, nên
thế gian quyết định là
vô thường. Đã là
vô thường, người trí đâu nên
ưa thích thế gian.
Mỗi
chúng sanh trải qua khắp tất cả
thế gian, hưởng thọ đủ cả sự khổ vui, đều được thân
Phạm Thiên cho đến Trời Phi
Phi Tưởng, lúc
mạng chung cũng lại phải sa vào ba
ác đạo. Dầu được thân Trời
Tứ Thiên Vương cho đến Trời Tha Hóa Tự Tại, lúc
mạng chung hoặc phải sanh trong loài
súc sanh làm thân
sư tử, cọp, sói, voi, ngựa, bò, lừa v.v…
Kế lại
suy nghĩ :
Chuyển Luân Thánh Vương thống lãnh bốn châu
thiên hạ,
sang giàu tự tại, lúc hết phước phải nghèo khốn
ăn mặc không đủ.
Người
trí quán tưởng như trên đây rồi, thời có
quan niệm thế gian không đáng
ưa thích.
Người trí lại
quán sát tất cả tài vật,
châu báu, nhà cửa ,
hương hoa v.v… ở
thế gian dầu dùng để đỡ khổ, nhưng những vật ấy chính nó là khổ, sao lại dùng khổ để lìa khổ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người
trí quán sát như vậy rồi thời chẳng còn
ưa thích tài vật ở
thế gian. Như có người thân mang
bịnh nặng, dầu có những thứ
âm nhạc ca hát hoa hương
chuỗi ngọc, nhưng trọn chẳng sanh lòng
ưa thích. Người
trí quán sát những điều trên đây không tham ưa tài vật
châu báu ở
thế gian cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người
trí quán sát tất cả
thế gian đều chẳng phải chỗ
quy y, chẳng phải chỗ
giải thoát, chẳng phải chỗ
tịch tịnh, chẳng phải chỗ đáng ưa, chẳng phải bờ kia, chẳng phải thường , lạc, ngã, tịnh. Nếu tôi tham ưa nơi
thế gian thời tôi làm thế nào lìa được
thế gian, như người chẳng thích ở trong tối muốn tìm ánh sáng mà lại
trở về trong tối. Trong tối là
thế gian, ánh sáng là
xuất thế. Nếu tôi
ưa thích thế gian thời là thêm lớn sự
đen tối mà muốn
xa lìa đen tối.
Đen tối là
vô minh, ánh sáng là trí minh.
Chính quan niệm chẳng
ưa thích thế gian là nhơn của trí minh. Tất cả
kiết sử tham ưa dầu hay
trói buộc, nhưng nay tôi tham ưa trí minh mà chẳng tham ưa
thế gian.
Người
trí quán sát rõ những sự trên đây rồi thời có đủ
quan niệm rằng
thế gian là chẳng đáng
ưa thích.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người trí kế lại
tu tập tư tưởng :
Quán sát thọ mạng nầy thường bị
vô lượng oán thù vây quanh,
niệm niệm tổn diệt không có
tăng trưởng, như nước dốc trên núi không thể đứng dừng, cũng như sương móc ban mai thế chẳng còn lâu, như người tù bị dắt ra chợ mỗi bước gần đến chỗ chết, như dắt bò dê đến chỗ hàng thịt.
_ Bạch
Thế Tôn ! Người
trí quán sát niệm niệm diệt như thế nào ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như bốn người đều có tài bắn giỏi họp nhau ở một chỗ, mỗi người riêng bắn qua một hướng đồng nghĩ rằng bốn mũi tên của
chúng tôi đồng thời bắn ra
đồng thời rơi xuống. Lại có một người nghĩ rằng lúc bốn mũi tên nầy chưa rơi xuống, trong một lúc tôi có thể dùng tay bắt lấy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Đáng gọi người nầy là mau lẹ chăng ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Người nầy thật mau lẹ.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Địa Hành quỉ còn lẹ hơn người nầy.
Phi Hành quỉ lại mau hơn Địa Hành quỉ.
Tứ Thiên Vương mau hơn
Phi Hành quỉ. Nhựt Nguyệt Thần Thiên mau hơn
Tứ Thiên Vương. Hành Kiên Tật Thiên mau hơn Nhựt
Nguyệt Thiên.
Thọ mạng của
chúng sanh lại mau hơn Kiên Tật Thiên.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Một
hơi thở một nháy mắt,
thọ mạng của
chúng sanh có bốn trăm lần
sanh diệt.
Nếu có thể quán sát thọ mạng như vậy thời gọi là có thể
quán niệm niệm diệt.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người
trí quán sát
thọ mạng thuộc nơi vua chết, nếu tôi lìa được vua chết nầy thời dứt hẳn được thọ mạntg
vô thường. Lại nên
quán sát thọ mạng nầy như cây to bên bờ sông lở, như người
phạm tội lúc bị xử tử không ai
xót thương, như lúc
Sư Tử Vương quá đói, như lúc
rắn độc hớp gió to, như lúc ngựa khát nươc nó
giữ gìn nước, như lúc
đại ác quỉ phát sân, vua chết của
chúng sanh cũng dữ độc như vậy.
Người trí
nếu có thể quán sát như vậy thời gọi là
tu tập tư tưởng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người trí lại nên
quán sát rằng nay tôi
xuất gia dầu
thọ mạng chỉ có bảy ngày bảy đêm,
trong thời gian ấy tôi sẽ
tinh tấn tu hành giữ gìn cấm giới,
thuyết pháp giáo hóa lợi ích chúng sanh, đây là người trí
tu tập tư tưởng.
Lại vì bảy ngày bảy đêm còn là nhiều, nếu được sáu ngày, hoặc năm ngày, bốn ngày, ba ngày, hai ngày, một ngày, một giờ, nhẫn đến
trong khoảng một
hơi thở ra vào, trong
thời gian nầy tôi sẽ
tinh tấn tu hành,
giữ gìn cấm giới,
thuyết pháp giáo hóa lợi ích chúng sanh. Đây gọi là người trí khéo
tu tập tư tưởng.
Người trí có đủ sáu pháp
quán tưởng trên đây có thể làm nhơn cho bảy pháp
quán tưởng. Đây là bảy pháp
quán tưởng : Một là
quán tưởng thường
tu tập, hai là
quán tưởng thích
tu tập, ba là
quán tưởng không
sân hận, bốn là
quán tưởng không tật đố, năm là
quán tưởng phát nguyện lành, sáu là
quán tưởng không
kiêu mạn, bảy là
quán tưởng tam muội tự tại.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
Tỳ Kheo nào có đủ bảy pháp
quán tưởng nầy, thời gọi là
Sa Môn, là
Bà La Môn, là
tịch tịnh, là tịnh khiết, là
giải thoát, là người trí, là
chánh kiến, là đáo bĩ ngạn, là
đại Y Vương, là
đại thương chủ, là
hiểu rõ pháp
bí mật của
Như Lai, là biết bảy thứ
lời nói của chư Phật , là
tri kiến chơn chánh, dứt được những lưới nghi trong bảy thứ
lời nói của chư Phật.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu người nào có đủ sáu pháp
quán tưởng như trên, nên biết rằng người đó có thể
quở trách ba cõi,
xa lìa ba cõi, dứt trừ
ba cõi, chẳng ưa đắm
ba cõi. Đây gọi là người trí có đủ mười pháp
quán tưởng.
Nếu
Tỳ Kheo nào có đủ mười pháp
quán tưởng nầy thời đáng được gọi là tướng
Sa Môn.
Lúc đó
Ca Diếp Bồ Tát liền ở trước Phật nói
kệ tán thán :
Đấng
Đại Y Vương thương
thế gian, Thân và
trí huệ đều
tịch tịnh, Trong
pháp vô ngã có chơn ngã, Nên tôi kỉnh lễ
Vô Thượng Tôn.
Phát tâm và
rốt ráo không sai khác, Hai tâm nầy tâm trước khó hơn, Mình chưa được độ,
độ người trước, Nên tôi kỉnh lễ
sơ phát tâm.
Sơ tâm đã là Thầy Trời, người, Hơn bực
Thanh Văn và
Duyên Giác,
Phát tâm như vậy hơn
ba cõi, Nên được gọi là Tối
Vô Thượng.
Trong đời phải cầu rồi mới được, Phật không chờ thỉnh mà làm Thầy, Phật theo
thế gian như nghé con, Nên được gọi là đấng
đại bi.
Công đức của Phật khắp
mười phương,
Phàm phu vô trí chẳng thể khen, Nay tôi
tán thán tâm từ bi, Để
báo đáp hai nghiệp thân khẩu.
Thế gian thường ưa
tự lợi ích,
Đức Phật trọn chẳng có như vậy, Dứt báo
thế gian cho
chúng sanh, Nên tôi kỉnh lễ Tự Tha Lợi, Người đời làm lợi cho thân nhơn,
Đức Phật lợi ích không thân thù, Phật không riêng biệt như người đời, Do đây
tâm Phật thường
bình đẳng . Người đời nói khác
việc làm khác, Nói làm của Phật đều không sai, Phàm chỗ
tu hành xả các hạnh, Do đây được gọi là
Như Lai. Trước đã rõ biết lỗi
phiền não,
Thị hiện ở đó vì
chúng sanh, Từ lâu đã
giải thoát thế gian, Vì
từ bi mà ở
sanh tử.
Dầu
hiện thân trời cùng thân người,
Từ bi theo dõi như nghé con,
Đức Phật là mẹ của
chúng sanh,
Từ tâm chính là nghé con nhỏ. Tự chịu
khổ não vì chúng sanyh. Do
xót thương nên lòng chẳng hối. Quá
xót thương mà chẳng biết khổ, nên tôi cúi lạy đấng
cứu khổ.
Đức Phật dầu làm
vô lượng phước, Nhưng
thân khẩu ý thường
thanh tịnh, Thường vì
chúng sanh chẳng vì mình, Nên tôi kỉnh lễ nghiệp
thanh tịnh.
Đức Phật chịu khổ chẳng biết khổ, Thấy người chịu khổ như mình khổ, Dầu vì
chúng sanh ở
địa ngục, Chẳng có niệm khổ và
ăn năn.
Chúng sanh chịu khổ đều khác nhau, Mà
Như Lai một mình chịu khổ, Biết rồi
tâm Phật càng
kiên cố, Do đây siêng
tu đạo vô thượng. Phật đủ tâm
đại từ duy nhứt,
Thương xót chúng sanh xem như con,
Chúng sanh chẳng biết Phật cứu mình, Nên hủy
báng Phật cùng Pháp, Tăng.
Thế gian có đủ những
phiền não, Cũng có
vô lượng những lỗi ác,
Phiền não và
tội lỗi như vậy, Lúc
sơ phát tâm đã dứt trừ. Chư Phật mới
tán thán được Phật, Ngoài Phật không ai
tán thán được, Nay tôi chỉ
tán thán một điều, Là tâm
đại từ thương
thế gian.
Từ tâm của Phật là pháp lớn,
Từ tâm nầy độ được
chúng sanh, Chính đây là
vô thượng giải thoát,
Giải thoát nầy là
Đại Niết Bàn.