- Phẩm 1 Vô Thường
- Phẩm 2 Khuyến Học
- Phẩm 3 Nghe Nhiều
- Phẩm 4 Dốc Lòng Tin
- Phẩm 5 Giữ Giới Cẩn Thận
- Phẩm 6 Quán Niệm
- Phẩm 7 Nhân Từ
- Phẩm 8 Nói Năng
- Phẩm 9 Song Yếu
- Phẩm 10 Phóng Dật
- Phẩm 11 Tâm Ý
- Phẩm 12 Hương Hoa
- Phẩm 13 Ngu Tối
- Phẩm 14 Minh Triết
- Phẩm 15 A La Hán
- Phẩm 16 Một và Nhiều
- Phẩm 17 Làm Ác
- Phẩm 18 Dao Gậy
- Phẩm 19 Già Suy
- Phẩm 20 Yêu Bản Thân
- Phẩm 21 Thế Tục
- Phẩm 22 Đức Phật
- Phẩm 23 An Ninh
- Phẩm 24 An Vui
- Phẩm 25 Tức Giận
- Phẩm 26 Trần Cấu
- Phẩm 27 Phụng Trì
- Phẩm 28 Con Đường Giải Thoát
- Phẩm 29 Quảng Diễn
- Phẩm 30 Địa Ngục
- Phẩm 31 Ví Dụ Con Voi
- Phẩm 32 Ái Dục
- Phẩm 33 Lợi Dưỡng
- Phẩm 34 Sa Môn
- Phẩm 35 Phạm Chí
- Phẩm 36 Niết Bàn
- Phẩm 37 Sinh Tử
- Phẩm 38 Nếp Sống Đạo
- Phẩm 39 Điều Lành
- Nguyên văn kinh chữ Hán
KINH PHÁP CÚ BẮC TRUYỀN
(gồm 18 phẩm, từ phẩm 22 đến phẩm 39 | 402 bài kệ)
Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
Phẩm 37:
SINH TỬ[1]
[574a] Phẩm SINH TỬ có 18 bài kệ: nói linh thức con người, mạng mất nó tồn tại, tùy nghiệp thức chuyển sanh.
703.
Mạng như trái chín muồi
Thường sợ bị rụng rơi
Có sinh ắt có khổ
Ai thoát chết trong đời.
704.
Từ khi vui ân ái
Hành dâm mà nhập thai
Ngày đêm luôn trôi mãi
Thân mạng há lâu dài?
705.
Thân này như vật chết
Tánh linh lại vô hình
Giả sử chết rồi sinh
Tội phước không hề mất.
706.
Đâu chỉ sống một đời
Bởi ái, si kéo mãi
Chuốc vui khổ dằng dai
Thân chết, thức còn hoài.
707.
Thân bốn đại là sắc
Bốn ấm thức [2] là danh
Vọng tình mười tám giới [3]
Nối mười hai duyên sanh.
708.
Thức đi qua chín cõi [4]
Dòng sinh tử mãi trôi
Kẻ ngu tối trong đời
Không thiên nhãn để thấy.
709.
Đui mù do ba độc
Không mắt tuệ nên lầm
Rằng chết sống cũng đồng
Hoặc bảo chết là hết.
710.
Thần thức tạo tam giới
Thiện bất thiện, năm đường
Ấm hành lặng lẽ tới
Đi chẳng khác tiếng vang.
711.
Thác sinh trong ba cõi
Do nhân đời trước gây
Hạt nào lên cây nấy
Quả báo tự nhiên thôi.
712.
Thức dựa căn đặt tên [5]
Như lửa, tùy vật đốt
Ở đuốc, gọi lửa đuốc
Cỏ, phân, củi,… lửa than.
713.
Tâm khởi, pháp liền khởi
Tâm lặng, pháp lặng yên
Sinh diệt bủa khắp miền
Đổi thay không tự biết.
714.
Thần thức ruổi năm đường
Bất kể vực, hang sâu
Xả rồi thọ thân sau
Như xe lăn mặt đất.
715.
Như người trú trong nhà
Bỏ nhà cũ đi ra
Thức mượn thân làm nhà
Thân hoại, vẫn còn thức.
716.
Thần thức trú hình hài
Như chim nằm trong tổ
Nó bay khi vỡ ổ
Thân hoại, thức đầu thai.
717.
Kẻ ngu si lầm tưởng
Đắm ngã, lạc, tịnh, thường
Ghét, ưa không chính đáng
Phật bảo thật đáng thương!
718.
Vô minh sinh danh sắc
Ba độc, năm đường dài
Các biển có mười hai [6]
Ai vượt tất an lạc.
719.
Hơi thở, hơi ấm, thức
Một khi đã rã mòn
Biết thân sắp chẳng còn
Phải qua kiếp sống khác.
720.
Thân xác vùi xuống đất
Như cỏ rác vô tri
Phải biết chẳng còn gì
Kẻ ngu mới tham chấp.[1] Không có Pāli tương đương.
[2] Bốn ấm thức: tức thọ, tưởng, hành, thức.
[3] Mười tám giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức.
[4] Chín cõi, tức 9 nơi chúng sinh cư trú, còn gọi là cửu hữu, cửu hữu tình cư, cửu chúng sinh cư, cữu cư. Trong tam giới, có tất cả 9 nơi mà chúng sinh vui thích sống, đó là: 1. Trời và người ở Dục giới; 2. Trời sơ thiền; 3. Trời nhị thiền; 4. Trời tam thiền; 5. Trời vô tưởng trong cõi tứ thiền; 6. Trời không; 7. Trời thức; 8. Trời vô sở hữu; 9. Trời phi tưởng phi phi tưởng.
[5] Như thức nương nơi căn là con mắt thì gọi tên là nhãn thức.
[6] Mười hai nhập được ví như 12 biển lớn. Nhãn nhập là biển, đối tượng của mắt là sắc cũng là biển (Xem A-tì-đàm bát kiền độ luận).