Quyển 8

13/05/20203:22 CH(Xem: 3717)
Quyển 8
Viện Phật Học Bồ Đề Phật Quốc
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Thích Huyền Châu biên dịch

QUYỂN 8
 

BA LOẠI TIỆM THỨ

Này A Nan! Như vậy chúng sanh trong mỗi loài đều gồm đủ 12 thứ điên đảo. Cũng như dụi mắt thấy hoa đốm lăng xăng, thảy đều từ diệu tâm sáng tỏ vọng sanh điên đảo, nên có đủ thứ loạn tưởng hư vọng như thế. Nay ngươi muốn tu chứng Tam ma địa của Phật thì đối với bản nhân của tư tưởng tán loạn ấy, phải lập ba loại tiệm thứ mới có thể diệt trừ. Cũng như muốn trừ khử mật độc trong bình cho sạch, thì phải dùng nước sôi và tro rửa bình thật sạch, rồi mới đựng cam lồ.

Những gì là ba loại tiệm thứ. Một là tu tập, trừ các trợ duyên bên ngoài. Hai là chân tu, trừ các chánh nhơn bên trong. Ba là gia hành tinh tấn, trừ các nghiệp hiện tiền.

Sao nói là trợ duyên? Này A Nan! Mười hai loại chúng sanh trong thế giới, chẳng thể tự sống, mà phải nhờ bốn loại thức ăn để tồn tại. Đó là đoàn thực, xúc thực, tư thực, và thức thực. Cho nên Như lai nói: Tất cả chúng sanh đều nhờ ăn uốngtồn tại.

Này A Nan! Tất cả chúng sanh, ăn lành thì sống, ăn độc thì chết. Vì thế chúng sanh cầu Tam ma địa, nên dứt bỏ ngũ tân của thế gian. Bởi vì ngũ tân này hễ ăn chín thì phát lòng dâm, ăn sống thì thêm sân hận. Do đó trong thế gian những người ăn ngũ tân, dù biết giảng giải mười hai bộ kinh, nhưng mười phương thiên tiên đều chê mùi hôi thối mà tránh xa. Các loài ma quỷ, thừa lúc đang ăn ngũ tân, liếm môi người ấy. Người ấy thường ở chung với loài quỷ, nên phước đức ngày càng tiêu mòn, chẳng được lợi ích dài lâu.

Người ăn ngũ tân mà tu Tam ma địa thì Bồ tát thiên tiên, mười phương thiện thần chẳng đến gia hộ. Đại lực ma vương nhân cơ hội đó hiện ra thân Phật, thuyết pháp cho họ, chê bai giới cấm, tán thán dâm nộ si, nên đến khi mang chung thành quyến thuộc của ma, lúc phước ma hết liền đọa vào địa ngục Vô gián.

Này A Nan! Người tu đạo Bồ đề nên dứt hẳn ngũ tân, ấy gọi là tu hành tinh tấn tiệm thứ thứ nhất.

Sao gọi là chánh tánh? Này A Nan! Chúng sanh muốn vào Tam ma địa, trước tiên phải giữ giới trong sạch, dứt hẳn lòng dâm, không dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ chín, chẳng dùng đồ sống.

Này A Nan! Người tu hành nếu chẳng dứt dâm dụcsát sanh, mà muốn ra khỏi ba cõi thì chẳng có việc đó. Thế nên phải thường quán chiếu dâm dục như là rắn độc, như thấy kẻ thù. Do đó trước tiên phải giữ gìn tứ khí, bát khí của Thanh văn, giữ thân chẳng động; sau hành theo luật nghi trong sạch của Bồ tát, giữ tâm chẳng khởi. Giới cấm đã thành tựu thì đối với thế gian, trọn chẳng còn những nghiệp tương sanh tương sát. Đã chẳng trộm cắp thì chẳng mắc nợ nhau, và khỏi phải trả nợ ở trong thế gian.

Người trong sạch ấy tu Tam ma địa, bằng nhục thân cha mẹ sanh, chẳng cần thiên nhãn, tự nhiên cũng thấy được mười phương thế giới. Gặp Phật nghe Pháp, vâng lãnh thánh chỉ, được đại thần thông, dạo khắp mười phương thế giới. Túc mạng trong sạch, chẳng còn gặp gian nguy hiểm nạn, ấy gọi là tu hành tinh tấn tiệm thứ thứ hai.

Sao gọi là nghiệp hiện tiền? Này A Nan! Người giữ giới thanh tịnh như thế, tâm chẳng tham dâm, nên chẳng dong ruổi theo lục trần. Do chẳng dong ruổi bên ngoài nên tâm tự quy về bản tánh, và vì không duyên theo cảnh trần nên sáu căn chẳng có chỗ nương tựa. Ngược dòng về nhất, nên tác dụng sáu căn bất thành, bấy giờ mười phương quốc độ trở nên sáng suốt thanh tịnh. Ví như lưu ly, bên trong có ánh trăng sáng. Thân tâm an lạc, diệu viên bình đẳng, được đại yên ổn. Tất cả mật viên tịnh diệu của Như lai đều hiện trong đó, nên người ấy liền được vô sanh pháp nhẫn. Từ đó dần dần tùy theo cấp bậc tu chứngan lập thánh vị, ấy gọi là tu hành tinh tấn tiệm thứ thứ ba.

55 QUẢ VỊ TU CHỨNG

CÀN TUỆ ĐỊA

Này A Nan! Người thiện nam ấy khi ái dục khô khan, sáu căn không còn chạy theo sáu trần, thức tâm hiện tại không còn tiếp tục tái sanh. Trong tâm chấp lấy sự rỗng sáng, tất cả chỉ thuần là trí tuệ. Tuệ tánh viên minh, bấy giờ chiếu khắp mười phương thế giới. Hiền tiền chỉ còn trí huệ khô khan, nên gọi là Càn tuệ địa.

THẬP TÍN

  1. Tín tâm trụ:

Tập khí tham dục mới cạn nhưng chưa nối được dòng pháp của Như lai, dùng tâm này chảy vào trung đạo, tánh viên diệu liền được khai mở. Từ chỗ diệu viên lại phát ra chơn diệu, diệu tín thường trụ, tất cả vọng tưởng đều dứt sạch, trung đạo thuần chơn, nên gọi là Tín tâm trụ.

  1. Niệm tâm trụ:

Chơn tín sáng tỏ, tất cả viên thông. Ba thứ uẩn, xứ, giới, chẳng thể ngăn ngại. Như thế cho đến quá khứ vị lai trong vô số kiếp, xả thân thọ thân, tất cả tập khí thảy đều hiện ra trước mắt. Người thiện nam tử ấy đều ghi nhớ chẳng quên, nên gọi là Niệm tâm trụ.

  1. Tinh tấn tâm trụ:

Thuần chơn diệu viên, tinh vi phát dụng, những tập khí từ vô thỉ đều hóa thành một tâm tinh minh, từ tinh minh tiến lên chơn tịnh, nên gọi là Tinh tấn tâm.

  1. Huệ tâm trụ:

Tâm tinh tấn hiện tiền, thuần dùng trí huệ, nên gọi là Huệ tâm trụ.

  1. Định tâm trụ:

Trí huệ sáng tỏ, tịch lặng cùng khắp, tịch diệu thường định, nên gọi là Định tâm trụ.

  1. Bất thối tâm trụ:

Từ định tâm phát ra ánh sáng, tánh sáng thâm nhập, chỉ tiến chẳng lui, nên gọi là Bất thối tâm.

  1. Hộ pháp tâm trụ:

Tâm an nhiên tiến tới, duy trì chẳng mất, giao tiếp với tinh thần của mười phương Như lai, nên gọi là Hộ pháp tâm.

  1. Hồi hướng tâm trụ:

Tánh sáng bổn giác được duy trì, thường dùng diệu lực xoay từ quang của Phật về tự tánh. Cũng như ánh sáng hai gương đối nhau, trong đó thể nhập diệu ảnh nhiệm mầu trùng trùng vô tận, nên gọi là Hồi hướng tâm.

  1. Giới tâm trụ:

Tâm quang thầm xoay lại, được chỗ thường lắng đọng trong sạch vô thượng thường trụ của Phật, an trụ vô vi chẳng thể lạc mất, nên gọi là Giới tâm.

  1. Nguyện tâm trụ:

Trụ giới tự tại, có thể dạo khắp mười phương, ở đi tùy nguyện, nên gọi là Nguyện tâm.

THẬP TRỤ

  1. Phát tâm trụ:

Này A Nan! Thiện nam tử dùng phương tiện chân thật phát mười tâm ấy. Tâm tinh vi được phát huy khiến mười loại thiện dụng xen lẫn vào nhau viên thành một tâm, nên gọi là Phát tâm trụ.

  1. Trị địa trụ:

Trong tâm phát sáng như lưu ly trong sạch. Ở trong hiện chói sắc như vàng ròng. Dùng diệu tâm trước kia sửa sang thành đất đai để bước đi, nên gọi là Trị địa trụ.

  1. Tu hành trụ:

Tâm địa biết khắp, tất cả rõ ràng, đi khắp mười phương, được không ngăn ngại, nên gọi là Tu hành trụ.

  1. Sanh quý trụ:

Hạnh đồng với Phật, lãnh thọ tinh thần của Phật, như thân trung ấm tự tìm cha mẹ. Trung ấm dung thông với lòng tin, thầm nhập vào dòng giống Như lai, nên gọi là Sanh quý trụ.

  1. Cụ túc trụ:

Đã vào đạo thai, nối dòng của Phật, như thai đã thành hình, tướng người đầy đủ, nên gọi là Phương tiện cụ túc trụ.

  1. Chánh tâm trụ:

Dung mạotâm tướng đều đồng như Phật, nên gọi là Chánh tâm trụ.

  1. Bất thối trụ:

Thân tâm dung hợp, ngày càng tăng trưởng, nên gọi là Bất thối trụ.

  1. Đồng chơn trụ:

Linh tướng của mười thân cùng lúc đầy đủ, nên gọi là Đồng chơn trụ.

  1. Pháp vương tử trụ:

Hình đã thành, ra khỏi thai, làm con của Phật, nên gọi là Pháp vương tử trụ.

  1. Quán đảnh trụ:

Khi Pháp vương tử đã trưởng thành, ví như thái tử vua Sát lợi đến tuổi trưởng thành, được phụ vương làm lễ quán đảnh ủy nhiệm việc nước, nên gọi là Quán đảnh trụ.

THẬP HẠNH

  1. Hoan hỷ hạnh:

Này A Nan! Thiện Nam tử ấy, đã thành con Phật, đầy đủ vô lượng diệu đức của đức Như Lai, tùy thuận mười phương chúng sanh, phương tiện tiếp dẫn, nên gọi là Hoan hỷ hạnh.

  1. Nhiêu ích hạnh:

Thường hay làm việc lợi ích cho tất cả chúng sanh, nên gọi là Nhiêu ích hạnh.

  1. Vô sân hạnh:

Tự giác giác tha, chẳng chống trái nhau, nên gọi là Vô sân hạnh.

  1. Vô tận hạnh:

Tam thế bình đẳng, mười phương thông đạt, được ý sanh thân, tùy mỗi loài chúng sanhhiện thân hóa độ cho đến cùng tột vị lai, nên gọi là Vô tận hạnh.

  1. Ly si loạn hạnh

Tất cả hợp thành đồng nhất, mỗi mỗi pháp môn đều không sai lầm, nên gọi là Ly si loạn hạnh.

  1. Thiện hiện hạnh

Ở trong cái đồng hiện ra cái khác, nơi những tướng khác mỗi mỗi thấy đồng, nên gọi là Thiện hiện hạnh

  1. Vô trước hạnh:

Như thế cho đến vi trần đầy khắp mười phương hư không, trong mỗi mỗi vi trần hiện mười phương thế giới. Hiện vi trần, hiện thế giới, chẳng ngăn ngại nhau, nên gọi là Vô trước hạnh.

  1. Tôn trọng hạnh:

Mọi thứ trước mắt đều là Đệ nhất Ba la mật đa, nên gọi là Tôn trọng hạnh.

  1. Thiện pháp hạnh

Viên dung như thế, thường hay thành tựu quy tắc lợi sanh của mười phương chư Phật, nên gọi là Thiện pháp hạnh.

  1. Chân thật hạnh

Mỗi mỗi đều là nhất chơn vô vi, thanh tịnh vô lậu, bản tánh vốn như thế, nên gọi là Chơn thật hạnh.

THẬP HỒI HƯỚNG

  1. Cứu hộ nhất thiết chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng:

Này A Nan! Thiện nam tử ấy, thần thông đầy đủ, Phật sự đã thành. Thuần khiết tinh chân, lìa các lỗi lầm. Ngay khi độ sanhdiệt trừ tướng hóa độ. Xoay tâm vô vi hướng về đạo niết bàn, nên gọi là Cứu hộ nhất thiết chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng.

  1. Bất hoại hồi hướng

Hoại diệt cái có thể hoại diệt, xa lìa các việc xa lìa, nên gọi là Bất hoại hồi hướng.

  1. Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng

Bản giác lặng trong như nhiên, tâm giác đồng như Phật giác, nên gọi là Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng.

  1. Chí nhất thiết xứ hồi hướng

Phần tinh chân được phát minh, tâm địa đồng như Phật địa, nên gọi là Chí nhất thiết xứ hồi hướng.

  1. Vô tận công đức tạng hồi hướng

Thế giới, Như lai hỗ tương dung nhập, được không chướng ngại, nên gọi là Vô tận công đức tạng hồi hướng.

  1. Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng:

Nơi đồng Phật địa, trong đó mỗi mỗi sanh ra nhân thanh tịnh. Nương nhân ấy mà phát huy, giữ lấy đạo Niết bàn, nên gọi là Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng.

  1. Tùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sanh hồi hướng:

Chơn thiện căn đã thành, mười phương chúng sanh đều là bản tánh của mình, thành tựu tánh tròn đầy, chẳng bỏ chúng sanh, nên gọi là Tùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sanh hồi hướng.

  1. Chơn như tướng hồi hướng

Tức nơi nhất thiết pháp, lìa nhất thiết tướng. Cả “tức” và “lìa”, đều không dính mắc, nên gọi là Chơn như tướng hồi hướng.

  1. Vô phược giải thoát hồi hướng

Thật đắc chơn như, mười phương vô ngại, nên gọi là Vô phược giải thoát hồi hướng.

  1. Pháp giới vô lượng hồi hướng

Đức tánh viên mãn thành tựu, hạn lượng về pháp giới diệt mất, nên gọi là Pháp giới vô lượng hồi hướng.

TỨ GIA HẠNH

Này A Nan! Thiện nam tử ấy, tu xong 41 tâm thanh tịnh ấy rồi, tiếp đến thành tựu bốn gia hạnh diệu viên:

  1. Noãn địa:

Tức lấy Phật giác, dùng làm tâm mình, cũng như dùi cây lấy lửa, cây chưa đốt cháy, chỉ có hơi nóng mà lửa chưa ra, nên gọi là Noãn địa.

  1. Đảnh địa:

Lại dùng tâm mình thành chỗ hành của Phật, cũng như người đứng trên chót núi, toàn thân đã vào hư không, nhưng dưới chân còn có chút chướng ngại, nên gọi là Đảnh địa.

  1. Nhẫn địa:

Tâm, Phật cả hai đồng nhau, khéo được trung đạo, như người nhẫn nại, chẳng ôm ấp, chẳng phát ra, nên gọi là Nhẫn địa.

  1. Thế đệ nhất địa:

Số lượng tiêu diệt, mê, giác và trung đạo đều chẳng thể gán tên, gọi là Thế đệ nhất địa.

THẬP ĐỊA

  1. Hoan hỷ địa:

Này A Nan! Thiện Nam tử ấy, khéo thông đạt nơi đại Bồ đề, chỗ giác ngộ thông với Như lai, cùng tột cảnh giới Phật, nên gọi là Hoan hỷ địa.

  1. Ly cấu địa:

Tánh dị nhập đồng, tánh đồng cũng diệt, nên gọi là Ly cấu địa.

  1. Phát quang địa:

Thanh tịnh cùng tột, sáng suốt phát sanh, nên gọi là Phát quang địa.

  1. Diệm huệ địa:

Sáng cùng tột, giác đầy khắp, nên gọi là Diệm huệ địa.

  1. Nan thắng địa:

Tất cả đồng dị, đều chẳng thể đến, nên gọi là Nan thắng địa.

  1. Hiện tiền địa:

Tánh chân như vô vi, thanh tịnh hiển lộ rõ ràng, nên gọi là Hiện tiền địa.

  1. Viễn hành địa:

Cùng tột bờ cõi chân như, nên gọi là Viễn hành địa.

  1. Bất động địa:

Một tâm chân như nên gọi là Bất động địa.

  1. Thiện huệ địa:

Chân như phát dụng nên gọi là Thiện huệ địa.

  1. Pháp vân địa:

Này A Nan! Công hạnh tu tập của Bồ tát đó, từ trước đến đây công đức viên mãn, nên địa này cũng gọi là Tu tập vị. Như bóng mây từ diệu, trùm biển niết bàn, nên gọi là Pháp vân địa.

ĐẲNG GIÁC

Như Lai ngược dòng từ quả vị trở lại nhân địa, cứu độ chúng sanh; còn Bồ tát thì thuận hành, từ chúng sanh tu đến Phật quả; thuận ngược đều thể nhập nơi bổn giác, nên gọi là Đẳng giác.

DIỆU GIÁC

Này A Nan! Từ tâm Càn tuệ đến bậc Đẳng giác, giác này mới chỉ được sơ Càn tuệ địa trong Tâm kim cang. Lớp lớp như vậy trải qua 12 ngôi vị đơn lẻ và phức hợp mới đến Diệu giác, thành Vô thượng đạo.

Các thứ địa này đều dùng trí kim cang quán sát tường tận mười thứ ví dụ như huyễn. Trong Xa ma tha (chỉ) dùng Tỳ bà xá na (quán) của chư Như lailần lượt thâm nhập tu chứng thanh tịnh.

Này A Nan! Dùng ba tiệm thứ tiến tu như thế nên khéo thành tựu 55 quả vị trong đạo Bồ đề chơn thật. Quán như thế gọi là chánh quán, chẳng quán như thế gọi là tà quán.

TÊN KINH

Bấy giờ, Pháp vương tử Văn Thù Sư Lợi ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ bạch Phật: Thế Tôn! Kinh này nên gọi tên gì, và chúng con nên phụng trì thế nào?

Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: Kinh này gọi là “Đại Phật Đảnh, Thuần Trắng Chẳng Ô Nhiễm, Vô Thượng Bảo Ấn, Mười Phương Như Lai, Thanh Tịnh Hải Nhãn”, cũng gọi là “Cứu Hộ Thân Nhân, Độ Thoát A Nan, Và Tỳ Kheo Ni Tánh Trong Hội Này, Đắc Tâm Bồ Đề, Vào Biển Biến Tri”, cũng gọi là “Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa”, cũng gọi là “Đại Phương Quảng Diệu Liên Hoa Vương Mười Phương Phật Mẫu Đà La Ni Chú”, cũng gọi là “Quán Đảnh Chương Cú, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm”. Các ngươi nên như thế mà phụng trì.

Phật nói xong, tức thời A Nanđại chúng nhờ Như lai khai thị ý nghĩa “Mật Ấn Chẳng Ô Nhiễm” và được nghe những danh hiệu liễu nghĩa của kinh này, đốn ngộ diệu lý thiền na, tiến tu các thánh vị, tâm niệm rỗng lặng, dứt trừ sáu loại phiền não vi tế trong tam giới.

SANH KHỞI & NHÂN QUẢ

Bấy giờ tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính, bạch Phật rằng: Thế Tônoai đức lớn, từ âm vô ngại, khéo khai phá những mê hoặc vi tế của chúng sanh, khiến con hôm nay thân tâm an lạc, được lợi ích lớn.

Bạch Thế Tôn! Nếu diệu tâm sáng tỏ này vốn viên mãn cùng khắp, như thế cho đến đất đai, cỏ cây sâu bọ hàm linh, bản tánh vốn là chơn như, tức đồng chơn thể thành Phật của Như Lai. Nếu Phật thể vốn chơn thật như thế thì tại sao lại có các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, tu la, loài người và trời?

Bạch Thế Tôn, lục đạo này vốn tự có, hay là do tập khí hư vọng của chúng sanh khởi ra?

Bạch Thế Tôn! Như Tỳ kheo ni Bảo Liên Hương trì giới Bồ tát, lén hành dâm dục, rồi nói càn rằng: hành dâm, chẳng phải sát sanh, chẳng phải trộm cắp, nên không có nghiệp báo. Phát lời ấy xong, trước tiên nơi nữ căn liền sanh lửa dữ, tiếp sau nơi từng đốt xương lửa cháy phừng phừng, đọa vào địa ngục Vô gián.

Như vua Lưu LyTỳ kheo Thiện Tinh cũng vậy. Vua Lưu Ly giết hại hết dòng họ Cồ Đàm; còn Tỳ kheo Thiện Tinh thì vọng nói tất cả pháp đều rỗng không, nên thân đang sống mà bị đọa vào địa ngục Vô gián.

Các địa ngục ấy là có nơi chốn nhất định, mỗi người gây nghiệp, mỗi mỗi tự chịu, hay là tự nhiên? Xin Phật rủ lòng đại từ, khai mở cho kẻ ngu muội, khiến tất cả chúng sanh trì giới, nghe nghĩa quyết định này mà hoan hỷ phụng hành, cẩn thận giữ gìn chẳng phạm.

Phật bảo A Nan: Lành thay nhờ câu hỏi này, khiến các chúng sanh lìa xa tà kiến. Nay ngươi lắng nghe, ta sẽ vì ngươi mà nói.

NỘI PHẦN NGOẠI PHẦN

Này A Nan! Bản tánh của tất cả chúng sanh vốn chơn thật thanh tịnh, nhưng vì vọng kiến mà có tập khí hư vọng sanh ra, do đó chia thành nội phần và ngoại phần.

Này A Nan! Nội phần tức là phần bên trong của chúng sanh. Do lòng ái nhiễm phát khởi vọng tình, vọng tình tích chứa không thôi nên sanh ra nước ái. Bởi thế chúng sanh hễ nhớ đến thức ăn ngon thì chảy nước miếng. Tâm nhớ người xưa, hoặc thương hoặc giận, trong mắt ứa lệ. Tham cầu tài bảo, trong tâm ham muốn, nên toàn thân trơn nóng. Tâm tham trước hành dâm, hai căn nam nữ tự nhiên chảy dịch.

Này A Nan, tuy ái dục có nhiều loại khác nhau nhưng kết quả chảy nước thì không khác. Tánh nước thấm ước và không thể bay lên được nên tự nhiên sa đọa, gọi là Nội phần.

Này A Nan! Ngoại phần tức là phần bên ngoài của chúng sanh. Do lòng khao khát phát ra vọng tưởng, vọng tưởng chứa mãi không thôi, sanh ra thắng khí. Bởi thế chúng sanh tâm giữ giới cấm thì cả thân nhẹ nhàng, tâm trì chú ấn thì cử chỉ hùng dũng, tâm muốn sanh cõi trời thì chiêm bao thấy bay lên, tâm nhớ cõi Phật thì thắng cảnh thầm hiện, phụng sự thiện tri thức thì tự nhiên coi nhẹ thân mạng mình.

Này A Nan! Tuy vọng tưởng có nhiều loại khác nhau, nhưng tính chất nhẹ nhàng bay lên thì không khác. Bay động chẳng chìm, tự nhiên vượt lên, nên gọi là Ngoại phần.

Này A Nan! Tất cả thế gian sanh tử nối nhau. Sống thì tùy thuận theo tập khí, chết thì biến đổi theo dòng nghiệp. Đến lúc lâm chung, còn chút hơi ấm, các việc thiện ác của một đời, đồng thời hiện ra. Sống thuận, chết nghịch, hai tập khí giao nhau.

Thuần tưởng thì bay lên, ắt sanh cõi trời. Nếu trong tâm bay lên ấy mang theo cả phước đức, trí huệ và tịnh nguyện, thì tự nhiên tâm được mở mang, thấy tất cả tịnh độ của mười phương chư Phật, rồi tùy nguyện vãng sanh.

Tình ít tưởng nhiều, nhẹ nhàng bay xa nên làm phi tiên, đại lực quỷ vương, phi hành Dạ xoa, địa hành La sát, dạo khắp cõi trời, chẳng gì ngăn ngại. Trong đó nếu có thiện tâm thiện nguyện, hộ trì Phật Pháp, hoặc hộ trì giới cấm và người trì giới; hoặc hộ trì thần chú và người trì chú; hoặc hộ trì thiền định, thành tựu pháp nhẫn, thì những hạng ấy được ở gần pháp tòa của Như lai.

Tình tưởng bằng nhau, không bay không chìm, sanh ở nhân gian. Tưởng sáng suốt thì thông minh, tình ám muội thì ngu độn.

Tình nhiều tưởng ít, đọa vào súc sinh, nghiệp nặng thì làm loài có lông, nghiệp nhẹ thì làm loài có cánh.

Bảy phần tình, ba phần tưởng, thì chìm dưới thủy luân. Sanh gần hỏa luân, thân làm ngạ quỷ, thường chịu khổ não bởi lửa dữ thiêu đốt. Dầu uống nước, nhưng nước cũng hóa thành lửa, nên nói bị nước làm hại; trải qua trăm ngàn kiếp, chẳng thể ăn uống được.

Chín phần tình, một phần tưởng, thì đọa dưới hỏa luân. Thân vào giữa phong luânhỏa luân, nghiệp nhẹ thì vào ngục Hữu gián, nghiệp nặng thì vào ngục Vô gián.

Thuần tình thì chìm sâu vào ngục Vô gián. Nếu trong tâm chìm đắm ấy có thêm tội phỉ báng Đại thừa, phá hủy giới cấm của Phật, cuồng vọng thuyết pháp, tham của tín thí, lạm nhận cung kính, phạm nghiệp ngũ nghịch thập trọng, thì phải tái sanh mãi trong mười phương địa ngục Vô gián. Chúng sanh cùng tạo ác nghiệp thì phải chịu quả báo đồng phận, nhưng trong cộng nghiệp mỗi người đều có biệt nghiệp của mình, tùy theo chỗ tạo ác nghiệp, mà mỗi mỗi tự chuốc lấy quả báo khác nhau.

MƯỜI THÓI QUEN XẤU

Này A Nan! Những điều nói trên, đều do nghiệp của chúng sanh tự chiêu cảm, tạo mười thói quen nên chịu sáu ác báo.

Mười thói quen ấy là gồm những gì?

Này A Nanmột là thói quen dâm dục, phát sanh nơi sự giao tiếp cọ xát lẫn nhau. Cọ xác mãi không thôi, nên trong đó phát ra ngọn lửa hồng, như người dùng hai tay cọ xát, thì cảm giác nóng hiện ra. Hai tập khí đốt nhau nên mới sanh ra những thứ giường sắt, trụ đồng. Cho nên mười phương Như lai thấy việc hành dâm như là lửa dục, Bồ tát xem dục như hầm lửa phải tránh.

Hai là thói quen tham lam, phát sanh nơi sự thu hút so đo lẫn nhau. Hấp thu ôm ấp chẳng ngừng, nên trong ấy chứa hơi lạnh thành ra băng giá, như người hút hơi gió vào miệng thì cảm giác lạnh phát ra. Hai tập khí lấn nhau, nên mới có những sự tra tra, ba ba, la la, sen xanh đỏ trắng, giá lạnh, v.v… Vì thế mười phương Như lai thấy việc đa cầu như là nước tham, Bồ tát xem lòng tham như biển độc phải tránh.

Ba là thói quen ngã mạn, phát sanh nơi sự ỷ thế lấn lướt lần nhau. Lấn áp mãi không thôi, nên mới có cãi vã tranh chấp, quậy nước thành sóng, như người tự liếm mép miệng chảy ra nước bọt. Hai tập khí chọi nhau, nên mới sanh ra những cảnh như sông máu, sông tro, cát nóng, biển độc, uống nước đồng sôi, v.v… Vì thế mười phương Như lai thấy ngã mạn như là uống nước si, Bồ tát xem ngã mạn như vực thẳm phải tránh.

Bốn là thói quen nóng giận, phát sanh nơi sự xung đột chống đối lẫn nhau. Chống đối mãi không thôi, nên tâm nổi nóng phát sinh ra lửa, đúc khí thành kim. Thế nên mới có những cảnh núi đao, rừng kiếm, búa, rìu, thương, cưa, v.v… như người bị hàm oan thì sát khí nổi lên. Hai tập khí đụng nhau nên mới sanh những việc như thiến, cắt, chém, chặt, dùi, đâm, đánh, đập, v.v… Vì thế mười phương Như lai thấy sân hận như gươm dao bén, Bồ tát xem sân hận như cảnh chém giết phải tránh.

Năm là thói quen giả dối, phát sanh nơi sự lôi kéo phỉnh gạt lẫn nhau. Lôi kéo mãi chẳng ngừng, nên mới có những cảnh dây, cây, thòng lọng, căng nọc,… như nước thấm ruộng thì cỏ cây sanh trưởng. Hai tập khí kéo nhau nên mới sanh những việc như gông, cùm, xiềng, xích, roi, gậy, đòn, v.v… Vì thế mười phương Như lai thấy sự giả dối như là gian tặc, Bồ tát xem gian trá như beo sói phải sợ.

Sáu là thói quen lừa gạt, phát sanh nơi sự phỉnh gạt lẫn nhau. Gạt mãi không thôi, buông tâm gian dối, nên mới có những cảnh như bùn đất, đại tiện, tiểu tiện, các thứ ô uế,… như bụi theo gió không thấy lẫn nhau. Hai tập khí dìm nhau, nên mới sanh những việc chìm đắm, nhảy, ném, bay, rơi, trôi lăn, v.v… Vì thế mười phương Như lai xem sự lừa gạt đồng như là cướp giết, Bồ tát thấy sự lừa gạt như giẫm phải rắn độc.

Bảy là thói quen thù oán, phát sanh nơi sự hiềm khích ôm ấp lòng sân giận. Thế nên mới có cảnh quăng đá, ném gạch, xe tù, cũi nhốt, bình đựng, đãy bọc, như người hiểm độc ôm ấp điều dữ. Hai tập khí nuốt nhau, nên mới sanh những việc ném, quăng, nắm, bắt, đánh, bắn, tóm, siết, v.v… Vì thế mười phương Như lai thấy sự thù oán như là Quỷ Vi Hại, Bồ tát xem thù oán như uống rượu độc.

Tám là thói quen tà kiến, phát sanh nơi chỗ tranh cãi chống trái lẫn nhau. Thế nên mới có thân kiến, giới cấm thủ và các nghiệp hiểu biết sai lầm, như người lạ đi đường, qua lại gặp nhau cãi cọ thưa kiện, nên mới có các cấp quan lại, nắm giữ hồ sơ văn bản đối chứng. Hai tập khí giao nhau nên mới có cảnh đồng tử Thiện Ác, tay cầm hồ sơ văn bản điều tra bằng chứng cụ thể, khám hỏi, tra khảo, thẩm vấn, v.v… Vì thế mười phương Như lai thấy tà kiến tranh cãi đồng như hầm độc, Bồ tát xem những kiến chấp hư vọng như vào hố độc.

Chín là thói quen vu khống, phát sanh nơi sự phỉ bán làm hại lẫn nhau. Thế nên mới có cảnh núi chèn, đá áp, cối nghiền, cối xay, như kẻ gièm pha vu oan người lương thiện. Hai tập khí bài xích lẫn nhau, mới sanh những việc như áp giải, đè đập, ép máu, tuốt mình, v.v… Vì thế mười phương Như lai thấy sự vu khống như là cọp gièm pha, Bồ tát xem sự vu khống như bị sấm sét.

Mười là thói quen thưa kiện, phát sanh nơi chỗ cãi vã che đậy lần nhau. Thế nên mới có cảnh gương soi, đuốc chiếu, như đứng giữa mặt trời, chẳng thể giấu bóng. Hai tập khí phơi bày lẫn nhau nên mới sanh ra những việc bạn ác, kính nghiệp chiếu soi, hỏa châu phơi bày nghiệp xưa mà đối nghiệm, v.v… Vì thế mười phương Như lai thấy sự che giấu như là hiểm tặc, Bồ tát xem sự che giấu như đội núi cao lội trong biển lớn.

SÁU ÁC BÁO

Sao gọi là sáu ác báo? Này A Nan! Tất cả chúng sanh, sáu thức tạo nghiệp, chiêu cảm ác báo đều từ sáu căn mà ra. Những ác báo nào từ sáu căn mà ra?

Một là nghiệp báo về Thấy, chiêu cảm quả ác.

Nghiệp báo về Thấy này hiện rõ lúc lâm chung. Trước hết người chết thấy lửa hừng cháy khắp mười phương, thần thức đọa theo khói vào thẳng địa ngục Vô gián. Trong ấy thấy rõ hai tướng: một là khi sáng thì thấy mọi thứ hung dữ nên tâm sanh khiếp sợ vô cùng; hai là lúc tối thì thấy toàn là mù mịt nên lòng sanh khinh hãi khủng khiếp.

Lửa như thế, khi đốt thính giác thì thành chảo dầu sôi, nước đồng chảy; đốt khứu giác thì thành khói đen, lửa đỏ; đốt vị giác thì thành viên sắt nóng cháy; đốt xúc giác thì thành tro nóng, lò than; đốt ý thức thì thành sao lửa rưới khắp rung động cả hư không.

Hai là nghiệp báo về Nghe, chiêu cảm quả ác.

Nghiệp ác báo về Nghe này hiện rõ lúc lâm chung. Trước hết người chết thấy sóng cuộn chìm ngập trời đất, thần thức đọa theo dòng nước trôi thẳng vào địa ngục Vô gián. Trong ấy thấy rõ hai tướng: một là khi nghe rõ thì nghe các âm thanh ồn ào khiến tinh thần rối loạn, hai là lúc điếc hẳn thì lặng lẽ chẳng nghe gì khiến thần thức chìm lịm.

Sóng như thế, khi chảy vào thính giác thì thành sự trách hỏi; chảy vào thị giác thì thành sấm sétkhí độc; chảy vào khứu giác thì thành mưa, sương mù, rưới sâu độc đầy khắp vào cơ thể; chảy vào vị giác thì thành mủ, huyết và các thứ nhơ nhớp; chảy vào xúc giác thì thành súc sanh, ma quỷ và đại tiểu tiện; chảy vào ý thức thì thành điện chớp, mưa đá, đập nát tâm phách.

Ba là nghiệp báo về Ngửi, chiêu cảm quả ác.

Nghiệp báo về Ngửi này hiện rõ lúc lâm chung.

Trước hết người chết ngửi hơi độc đầy dẫy xa gần, thần thức từ dưới đất vọt lên, rồi lao vào địa ngục Vô gián. Trong ấy thấy rõ hai tướng: một là khi ngửi thông thì bị các hơi độc xông vào, nhiễu loạn tâm thần; hai là lúc nghẹt mũi, hơi thở chẳng thông thì làm chết giấc trên đất.

Khí như thế, khi xông vào khứu giác thì làm thông, làm ngạt; xông vào thị giác thì thành lửa, thành đuốc; xông vào thính giác thì làm chìm đắm, làm nước sôi; xông vào vị giác thì làm sình làm thối; xông vào xúc giác thì làm nứt nát, làm thành núi thịt lớn có trăm ngàn con mắt, hút ăn không cùng; xông vào ý thức thì làm thành tro bụi, khí độc và cát đá bay lên đập nát thân thể.

Bốn là nghiệp báo về Nếm, chiêu cảm quả ác.

Nghiệp báo về Nếm này hiện rõ lúc lâm chung.

Trước hết người chết thấy lưới sắt phát lửa bừng cháy, che khắp thế giới; thần thức sa đọa mắc lưới, treo ngược đầu xuống, rồi vào thẳng địa ngục Vô gián. Trong ấy thấy rõ hai tướng: một là nuốt vào thì kết thành băng giá làm nứt nẻ thân thể, hai là mửa ra thì bay lên thành lửa hừng đốt cháy xương tủy.

Nếm như thế, qua vị giác thì thành nhận chịu; qua thị giác thì thành kim thạch nung đỏ; qua thính giác thì thành binh khí sắc bén; qua khứu giác thì thành lồng sắt lớn, che khắp quốc độ; qua xúc giác thì thành cung tên nỏ súng; qua ý thức thì thành sắt nóng, bay từ trên không rưới xuống như mưa.

Năm là nghiệp báo về Xúc, chiêu cảm quả ác.

Nghiệp báo về Xúc này hiện rõ lúc lâm chung.

Trước hết người chết thấy núi lớn từ bốn phía hợp lại, chẳng còn đường ra; thần thức thấy thành sắt lớn, rắn lửa, chó lửa, cọp sói, sư tử, lính ngục đầu trâu, la sát mặt ngựa, tay cầm thương xóc, lùa vào cửa thành hướng về địa ngục Vô gián. Trong ấy thấy rõ hai tướng: một là khi hợp xúc thì núi lớn hợp lại ép thân, thịt xương tuôn máu; hai là khi lìa xúc thì dao gươm đâm chém, cắt xẻ tim gan.

Xúc như thế, khi qua xúc giác thì thành con đường địa ngục, gặp Diêm La Vương xử án; qua thị giác thì thành đốt cháy, nung đỏ; qua thính giác thì thành đánh, đập, đâm bắn; qua khứu giác thì thành tóm, đựng, khảo, trói; qua vị giác thì thành cày, kìm, chém, chặt; qua ý thức thì thành rơi, bay, nấu nướng.

Sáu là nghiệp báo về Ý, chiêu cảm quả ác.

Nghiệp báo về Ý này hiện rõ lúc lâm chung.

Trước hết người chết thấy cuồng phong thổi nát quốc độ; thần thức bị thổi lên hư không, xoáy rơi theo gió, đọa vào địa ngục Vô gián. Trong ấy thấy rõ hai tướng: một là không biết nên vô cùng hoang mang, chạy mãi không dừng; hai là biết rõ thì hay biết các khổ, nung đốt không cùng, đau đớn khổ sở.

Ý lầm lạc như thế, khi kết vào ý thức thì thành phương sở; kết vào thị giác thì thành gương soi, bằng chứng; kết vào thính giác thì thành núi lớn áp nhau, thành băng giá, sương mù, đất bùn; kết vào khứu giác thì thành xe lửa, thuyền lửa, cũi lửa; kết vào vị giác thì thành tiếng la hét, than khóc; kết vào xúc giác thì thành lớn nhỏ, nghiêng ngửa, trong một ngày muôn lần chết đi muôn lần sống lại.

Này A Nan! Mười thói quen xấu và sáu ác báo trong địa ngục kể trên, đều do chúng sanh mê vọng tạo ra. Nếu sáu căn đồng tạo ác nghiệp thì đọa vào địa ngục Vô gián, trải qua vô lượng kiếp chịu vô lượng khổ đau.

Nếu các căn trong sáu căn tạo nghiệp riêng và nghiệp tạo ra ấy bao gồm cả căn lẫn cảnh thì người đó bị đọa vào khu 8 ngục Vô gián. Nếu thân khẩu ý cả ba cùng tạo nghiệp sát đạo dâm thì người ấy bị đọa vào khu 18 địa ngục. Nếu không gồm cả ba nghiệp, mà trong đó chỉ tạo một nghiệp sát hay nghiệp trộm cướp, thì người ấy bị đọa vào khu 36 địa ngục. Nếu chỉ có một căn riêng tạo một nghiệp, thì người ấy bị đọa vào khu 108 địa ngục.

Mỗi chúng sanh dù riêng tạo biệt nghiệp, nhưng cùng vào chỗ đồng phận trong thế giới, ấy đều do vọng tưởng sanh ra, chẳng phải vốn sau mới có.

MƯỜI LOÀI HÌNH QUỶ

Lại nữa A Nan! Nếu các chúng sanh phá hủy luật nghi, phạm giới Bồ tát, phỉ báng Niết bàn của Phật và tạo các nghiệp khác, thì trải qua nhiều kiếp bị thiêu đốt, sau khi đền tội xong, phải thọ các hình quỷ. Nếu ở nơi bản nhân:

Do tham tài vật mà gây tội, người ấy khi đền tội xong, gặp vật thành hình, gọi là Quái Quỷ.

Do tham sắc diện mà gây tội, người ấy khi đền tội xong, gặp gió thành hình, gọi là Bạt Quỷ

Do thích dối trá mà gây tội, người ấy khi đền tội xong, gặp súc vật thành hình, gọi là Mị Quỷ

Do thích sân hận mà gây tội, người ấy khi đền tội xong, gặp sâu bọ thành hình, gọi là Cổ Độc Quỷ

Do thích ghim gút thù oán mà gây tội, người ấy khi đền tội xong, gặp kẻ thù vận suy thành hình, gọi là Lệ Quỷ

Do thích ngạo mạn mà gây tội, người ấy khi đền tội xong, gặp khí thành hình, gọi là Ngạ Quỷ

Do thích lừa gạt mà gây tội, người ấy khi đền tội xong, gặp u ẩn thành hình, gọi là Yểm Quỷ

Do thích vạch trần mà gây tội, người ấy khi đền tội xong, gặp tinh linh thành hình, gọi là Vọng Lượng Quỷ

Do thích vu vạ mà gây tội, người ấy khi đền tội xong, gặp linh hiển thành hình, gọi là Dịch Sử Quỷ

Do tham bè đảng mà gây tội, người ấy khi đền tội xong, gặp con người thành hình, gọi là Truyền Tống Quỷ

Này A Nan! Loại người này đều do thuần tình mà sa đọa, khi nghiệp lửa đốt cạn thì lên làm quỷ, ấy đều do vọng tưởng của mình chiêu cảm nghiệp quả, nếu ngộ tánh Bồ đề thì nơi diệu tâm sáng tỏ, vốn chẳng có gì cả.

SÁU LOÀI SÚC SANH

Lại nữa A Nan! Khi hết nghiệp quỷ, tình và tưởng cả hai đều không, mới ở thế gian cùng người nợ cũ oán đối gặp nhau, thân làm súc sinh để trả nợ xưa.

Loài Quái Quỷ theo tài vật, khi tài vật tiêu, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chim Cưu.

Loài Bạt Quỷ theo gió, khi gió tiêu, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài Cửu Trưng, báo điềm kỳ dị.

Loài Mị Quỷ theo súc sanh, khi súc sanh chết, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chồn cáo.

Loài Cổ Quỷ theo sâu bọ, khi sâu diệt, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài độc hại.

Loài Lệ Quỷ theo vận suy, khi vận suy hết, quả báo tận, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài giun sán.

Loài Ngạ Quỷ theo ám khí, khi ám khí tiêu mất, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài gia súc.

Loài Yểm Quỷ theo u ẩn, khi u ẩn tiêu, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài tằm, cừu, cung cấp đồ mặc.

Loài Vọng Lượng Quỷ theo tinh hoa, khi tinh hoa tiêu, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chim mùa.

Loài Dịch Sử Quỷ theo linh hiển, khi linh hiển diệt, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm Hưu Trưng, báo điềm tốt lành.

Loài Truyền Tống Quỷ theo con người, khi con người chết, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài tùng phục.

Này A Nan! Các loài này đều do nghiệp lửa đốt xong, sanh làm súc vật để trả nợ cũ. Tất cả đều do vọng nghiệp của mình tự chiêu cảm; nếu ngộ tánh Bồ đề thì các vọng duyên này, vốn chẳng có gì cả. Như lời ngươi hỏi về những quả báo ác của Bảo Liên Hương, vua Lưu Lytỳ kheo Thiện Tinh từ đâu ra? Phải biết các ác nghiệp ấy vốn tự mình tạo ra, chẳng phải từ trên trời rơi xuống hay từ dưới đất vọt lên, cũng chẳng phải từ người khác mang đến. Tự tạo vọng nghiệp, tự chiêu ác quả. Trong tâm bồ đề, chúng chỉ là hư vọng giả dối kết tụ mà thôi.

MƯỜI HẠNG NGƯỜI

Lại nữa A Nan! Trong loài súc sinh đền trả nợ cũ, nếu trả vượt quá thì trở lại làm người, đòi lại chỗ dư. Nếu người kia có sức mạnh và có cả phước đức, thì ở ngay trong thân người vẫn có thể hoàn lại chỗ thừa đó, nhưng nếu khôngphước đức thì người ấy phải trở lại làm súc sanh để đền trả phần nhận thừa kia.

A Nan nên biết! Nếu dùng tiền của hay sức lực của loài vật, khi đền trả đủ thì xong. Nhưng nếu trong đó có sự giết hại thân mạng để ăn thịt, như thế cho đến ăn nhau giết nhau, trải vô số kiếp như bánh xe quay hoài, chỗ cao chỗ thấp thay đôi chẳng ngừng; trừ khi gặp Phật ra đời, ngộ pháp Xa ma tha, nếu không thì nghiệp báo chẳng thể đình chỉ.

Nay ngươi nên biết, loài chim Cưu, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng ngoan cố.

Loài Cửu Trưng, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng quái dị.

Loài chồn, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng ngu dại.

Loài độc hại, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng nham hiểm.

Loài giun sán, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng hèn hạ.

Loài súc sanh, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng nhu nhược.

Loài tằm cừu, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng nghèo khổ.

Loài chim mùa, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng văn hoa.

Loài hưu trưng, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng thông minh.

Loài tùng phục con người, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng thông thạo.

Này A Nan! Các loài này dù trả hết nợ cũ, trở lại làm người, đều do điên đảo tạo nghiệp, sanh nhau giết nhau từ vô thỉ, nên chẳng gặp Như lai, chẳng nghe chánh pháp, ở trong trần lao xoay vần như vậy. Như lai gọi chúng là thật đáng thương xót.

MƯỜI HẠNG TIÊN

Này A Nan! Lại có chúng sanh từ trong cõi người không y theo chánh pháp tu Tam ma địa, mà riêng tu theo vọng niệm, giữ tâm củng cố hình hài, ẩn trong rừng núi, nơi con người chẳng đến được, thành mười loại tiên.

Này A Nan! Những chúng sanh ấy, kiên trì ăn uống tẩm bổ chẳng ngừng, thành tựu đạo thực, gọi là Địa Hành Tiên.

Kiên cố ăn uống cỏ cây chẳng ngừng, thành tựu đạo thuốc, gọi là Phi Hành Tiên.

Kiên cố luyện đơn chẳng ngừng, thành tựu đạo hóa chất, gọi là Du Hành Tiên.

Kiên cố luyện khí chẳng ngừng, thành tựu tinh khí, gọi là Không Hành Tiên.

Kiên cố luyện nước bọt chẳng ngừng, thành tựu nhuận đức, gọi là Thiên Hành Tiên.

Kiên cố hấp thụ tinh hoa chẳng ngừng, thành tựu sự hấp thụ, gọi là Thông Hành Tiên.

Kiên cố luyện bùa chú chẳng ngừng, thành tựu bùa phép, gọi là Đạo Hành Tiên.

Kiên cố chuyên chú tâm niệm chẳng ngừng, thành tựu niệm tưởng, gọi là Chiếu Hành Tiên.

Kiên cố về thủy hỏa giao cấu chẳng ngừng, thành tựu sự cảm ứng, gọi là Tinh Hành Tiên.

Kiên cố biến hóa chẳng ngừng, thành tựu tà ngộ, gọi là Tuyệt Hành Tiên.

Này A Nan! Những loại này đều ở trong cõi người mà luyện tâm, chẳng tu chánh giác, xa cách người đời, thọ muôn ngàn tuổi, ẩn dật núi sâu, hoặc nơi đảo lớn, những chỗ không người. Đó cũng là luân hồi trôi theo vọng tưởng, chẳng phải tu tam muội, nên đến khi phước báo hết, phải trở lại trong các thú.

SÁU CÕI TRỜI

Này A Nan! Những người thế gian, chẳng cầu thường trụ, chưa thể rời bỏ việc ân ái vợ chồng, nhưng tâm chẳng buông lung trong tà dâm. Do tâm lắng trong phát ra sáng suốt. Sau khi mạng chung, thọ sanh nơi gần nhật nguyệt. Hạng này gọi là trời Tứ Thiên Vương.

Đối với vợ mình, dâm ái ít ỏi, trong lúc tịnh cư, chưa hoàn toàn trong sạch. Sau khi mạng chung, vượt ánh sáng nhựt nguyệt, thọ sanh trên đảnh cõi người. Hạng này gọi là trời Đao Lợi.

Gặp dục tạm giao, qua rồi thì chẳng nhớ, ở nơi cõi người động ít tịnh nhiều. Sau khi mạng chung, an trụ nơi hư không, thọ sanh nơi ánh sáng nhựt nguyệt chẳng thể soi đến. Các hạng người đó tự có ánh sáng, nên đều gọi là trời Tu Diệm Ma.

Lúc nào cũng tịnh, nhưng khi có sự cảm xúc đến thì chưa thể lìa bỏ. Sau khi mạng chung, sanh lên cõi tinh vi, chẳng tiếp giao với cảnh thiên nhân ở dưới, cho đến kiếp hoại, tam tai cũng không thể đến nơi ấy được. Hạng này gọi là trời Đâu Suất Đà.

Chính mình không có lòng dâm dục, chỉ vì đáp ứng nhu cầu của người hành sự, nhưng xem việc dâm dục vô vị như ăn sáp. Sau khi mạng chung, sanh vượt vào cõi biến hóa. Hạng này gọi là trời Lạc Biến Hóa.

Không có tâm thế gian, chỉ đồng theo thế gianhành sự. Trong hành sự giao tiếp mà tuyệt nhiên siêu thoát. Sau khi mạng chung, vượt lên tất cả cảnh biến hóa và không biến hóa. Hạng này gọi là trời Tha Hóa Tự Tại.

Này A Nan! Sáu cõi trời kể trên, dù hình thức tuy ra khỏi động nhưng tâm còn dính mắc. Từ các cõi ấy trở xuống gọi là Dục giới.

HẾT QUYỂN 8

 
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
25/02/2015(Xem: 17120)
18/10/2010(Xem: 49077)
07/05/2018(Xem: 9038)
07/09/2011(Xem: 58822)
10/05/2010(Xem: 308839)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.