Kinh Kim Sắc Đồng Tử Nhân Duyên

13/06/20233:47 CH(Xem: 1595)
Kinh Kim Sắc Đồng Tử Nhân Duyên

KINH KIM SẮC ĐỒNG TỬ NHÂN DUYÊN
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Sa-môn Duy Tịnh
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Kinh Tập Bộ 4 - số 550 từ quyển 1 đến hết quyển 12 (trang 563-679)

 

A-Nan
Tôn Giả A Nan

Ta nghe như vầy:

Sau khi Tôn giả Đại Ca-diếp viên tịch, Tôn giả A-nan là người có đầy đủ oai đứctrí tuệ lớn không khác gì Tôn giả Xá-lợi Tử, cũng lòng lành như Phật thương xót, bảo vệ tất cả chúng sinh, có thể ở một nơi nào đó của xóm làng, thành ấp trong nước, tùy theo mỗi nơi, mỗi chỗ, dùng các phương tiện thù thắng để giáo hóa tất cả chúng sinh. Mãi đến về sau, các Tôn giả vì muốn giáo hóa cho vô lượng trăm ngàn chúng sinh, nên mới giảng nói chánh pháp, tuôn mưa cam lồ rót vào tâm trí, làm lợi lạc cho mọi người ở vườn cây Am-la thuộc thành lớn Quảng nghiêm.

Khi ấy, tại thành Vương xá, có thương chủ tên là Nhật Chiếu, của cải rất nhiều, quyến thuộc đông đúc, càng lúc càng phát triển, như là Thiên vương Tỳ-sa-môn. Do giàu có nên thương chủ lấy vợ thuộc dòng họ cao quý, cùng nhau vui hưởng an lạc, đã lâu mà không có con nối dõi tông đường, cả dòng tộc Trưởng giả rất mong nên buồn rầu.

Bấy giờ, trên cung trời Đao-lợi có một Thiên tử, đầy đủ oai lực và phước đức, phước báocõi trời sắp hết, năm tướng suy đã hiện ra, nhưng vị ấy mong muốn được xem các tướng trang nghiêm của Phật, từ lúc xuất hiện ở đời cho đến khi nhập Niết-bàn, nên mong cầu tiếp tục thọ sinh trong loài người.

Khi ấy, Thiên chủ Đế Thích xem xét thấy Thiên tử kia sắp hết phước trời, muốn xem các tướng trang nghiêm của Phật, muốn tiếp tục thọ sinh trong loài người. Biết vậy, nên Thiên chủ nói với vị Thiên tử:

–Nếu ông muốn sinh trong loài người thì nên biết hiện trong thành Vương xáthương chủ tên là Nhật Chiếu, ông có thể nhập vào thai vợ ông ta.

Thiên tử thưa:

–Xưa, con từng nghe vị thương chủ ấy không có lòng tin thanh tịnh đối với pháp Phật.

Đế Thích lại bảo:

–Ông hãy làm theo ta, ta có thể làm cho thương chủ Nhật Chiếu kia phát sinh lòng tin thanh tịnh đối với pháp Phật.

Thiên tử thưa:

–Con xin vâng lời Thiên chủ. Nếu thương chủ kia và vợ chính của ông ta trọn đời quy y Tam bảo thì con sẽ xả báo thân này sinh vào nhà kia.

Sau đó, Thiên chủ rời khỏi Thiên cung đến nhà thương chủ Nhật Chiếu. Đế Thích hiện trên không trung. Do sắc tướng, oai lực thần thông của Thiên chủ Đế Thích đã làm cho xung quanh nhà đều có ánh sáng lạ chiếu rực rỡ. Thương chủ Nhật Chiếu thấy ánh sáng rất lạ đẹp này, lúc đầu bất ngờ, sau thì vô cùng vui mừng, nhìn khắp bốn phương, quan sát kỹ thấy tướng thù thắng của Thiên chủ Đế Thích, liền cúi đầu làm lễ dưới chân, thưa:

–Bạch Thiên chủ! Hôm nay con được lợi ích hoàn hảo, được bậc Thánh tôn giáng xuống nhà con, chắc sẽ chỉ dạy điều gì, ban cho việc tốt lành gì đây?

Thiên chủ đáp:

–Này thương chủ! Ta biết ông không có con. Nếu ông mong cầu có con thì ông cùng với vợ chính, từ nay trở đi cho đến suốt đời phải phát lòng tin thanh tịnh, quy y Tam bảo tức sẽ sinh được quý tử.

Nghe rồi, thương chủ Nhật Chiếu rất an tâm, hớn hở vui mừng làm lễ, thưa:

–Bạch Thiên chủ! Chúng con sẽ vâng lời Thiên chủ dạy bảo. Từ nay cho đến suốt đời, vợ chồng chúng con đều phát lòng tin thanh tịnh, quy y Tam bảo.

Bấy giờ, Thiên chủ Đế Thích chỉ bày cho thương chủ Nhật Chiếu và vợ của ông ta phát lòng tin thanh tịnh, quy y Tam bảo, rồi biến mất khỏi thành Vương xá. Trở về cõi trời Đao-lợi, đến cung Thiên tử kia, hiện ra trước mặt, kể lại các việc như trên. Vị Thiên tử này, phước báo nơi cõi trời đã hết, liền xuống nhập vào thai vợ của thương chủ Nhật Chiếu trong thành Vương xá. Khi Thánh tử vào thai, tướng lạ hiện ra, tự nhiên trong thân của vợ thương chủ có đủ các tướng ánh sáng tốt đẹp, tâm ý vui vẻ, được nghe những hương thơm từ xa bay đến.

Trong thành của nước đó, những người vợ hiền ở trong nhà, đều có những hiểu biết rộng, những người này có năm tướng rất khác lạ. Năm tướng đó là:

  1. Biết được điều người ưa thích.
  2. Biết được điều người không ưa thích.
  3. Biết đúng lúc.
  4. Biết thời giờ một cách tường tận.
  5. Biết các sự việc vào thai.

Sự việc vào thai là: Lúc vào thai, có thể biết khi sinh ra là trai hay gái. Nếu là bé trai thì nằm bên phải, nếu là bé gái thì nằm bên trái của thai.

Khi ấy, vợ ông ta rất vui mừng, thưa với chồng:

–Chàng nên biết: Hôm nay thiếp biết là đang mang thai một Thánh tử, bào thai đang lớn dần, nằm phía bên phải, sau này nhất định sẽ sinh con trai.

Người chồng nghe nói càng thêm vui mừng. Khi ấy, vợ của thương chủ cảm thấy nhẹ người, mới duỗi cánh tay phải và nói:

–Chúng ta lâu nay mong cầu có con, muốn thấy mặt con. Hôm nay thiếp đã có mang, hoặc đã sinh, hoặc chưa sinh, chúng ta phải nên làm việc phước thôi. Hãy gọi người giữ kho, lấy của cải ra, tùy theo đó mà ban cho, làm cho tộc họ chúng ta được thịnh vượng lâu dài. Vì sao? Vì đời trước chúng ta cũng đã làm việc phước đức, tùy theo khả năng mà ban cho hoặc nhiều hay ít, nên trong đời này được tiếng tốt theo ta đời đời không mất.

Bấy giờ, vợ của thương chủ đoán biết bào thai đang lớn dần, phải đến ở chỗ gác cao yên ổn lo giữ gìn chăm sóc, nuôi dưỡng. Tùy theo thời tiết lạnh hay nóng mà ăn uống những thức ăn cho phù hợp để nuôi dưỡng bào thai cho tốt, dùng thuốc dưỡng thai, ăn uống điều độ, không dùng thức ăn quá đắng, cay, chua, ngọt, mặn, lạt, sáu vị này bằng nhau, điều hòa không để sai lệch. Người mẹ còn dùng chuỗi bằng ngọc quý trang sức trên thân, trông giống như Thiên nữ, thường vui vẻ dạo chơi trong vườn. Chỗ nằm, ngồi tùy theo cao thấp đều thuận tiện, khi đi đứng không xúc chạm vào chỗ đất gồ ghề, cũng không nghe nhiều âm thanh không vừa ý. Đến khi bào thai đã đúng kỳ hạn hoặc mãn tám tháng hoặc mãn chín tháng, người mẹ sinh ra một Đồng tử tướng mạo khôi ngô tuấn tú, mọi người đều ưa muốn nhìn, thân thể xinh xắn, bụ bẫm, thân có ánh sáng màu vàng ròng, các bộ phận của cơ thể đầy đủ, nhìn rất vừa ý nên mọi người rất thích ngắm, có áo màu vàng ròng tự nhiên che thân, hương Chiên-đàn bay tỏa khắp thân, miệng tỏa ra mùi hương của hoa Ưu-bát. Khi đứa bé sinh ra, trong nhà Trưởng giả lại có mưa các loại vải tốt đẹp, đều màu vàng ròng, hoa Ca-ni-ca xen nhau rơi xuống. Những tướng kỳ lạ hiếm có như vậy, hiện ra đầy khắp nhà thật là tốt đẹp. Thương chủ Nhật Chiếu, vợ và các quyến thuộc thấy sự việc này thảy đều kinh ngạc.

Lúc ấy, thương chủ ra đứng trước nhà xem xét cảnh vật bên ngoài càng thêm vui mừng. Thấy như vậy, thương chủ nghĩ: “Đứa bé này sinh ra, càng làm cho ta tăng lòng thành tín.” Trưởng giả rất vui mừng, trở vào nhà, đến chỗ Đồng tử, thấy con mình tướng mạo rạng rỡ oai nghiêm đứng đắn nên càng thêm vui mừng và nói kệ:

Vui thay! Ta đang được lợi lành
Vui thay! Ý nguyện được thành tựu
Ngày nay sinh con đủ phước đức
Thế nên lòng ta rất vui mừng.

Nói kệ xong, do vui vẻ quá nên thương chủ lấy tất cả những y phục tốt đẹp nhất trong nhà đem cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn và họ hàng quyến thuộc cùng những người nghèo khổ, đơn côi, để tạo phước đức.

Khi Đồng tử sinh được hai mươi mốt ngày, thương chủ cũng đã làm tất cả việc phước đức rồi thì thân tộc tập hợp để đặt tên cho đứa bé. Có những người trong thân tộc nói:

–Đồng tử này thân có ánh sáng màu vàng ròng rực rỡ, chung ta nên đặt tên cho Đồng tửKim Sắc. Mọi người đều đồng ý, bèn đặt tên là Kim Sắc.

Lúc ấy, thương chủ chọn tám người nữ làm dưỡng mẫu cho Đồng tử Kim Sắc. Hai người lo việc nuôi dưỡng, hai người lo việc tắm rửa, hai người cho bú mớm, hai người lo việc vui chơi. Do đó, Đồng tử được nuôi lớn nhanh như hoa sen sạch vượt lên khỏi nước bùn. Lớn lên Đồng tử được giáo dục, học tập các kỹ năng nghệ thuật như sách vở, toán số và các loại nghề nghiệp.

Họ bày ra các thứ như ghi chép tính toán sổ sách.

Bày ra các vật dụng.
Bày ra y phục.
Bày ra ngựa.
Bày ra xe cộ.
Bày ra châu báu.
Bày ra đồng nam.
Bày ra đồng nữ.

Bày ra tám thứ này để xét xem sở thích của Đồng tử.

Sau đó, Đồng tử đều thành tựu về kỹ thuật nghề nghiệp, lời nói thông suốt, tâm ý hiền lành, lòng tin thanh tịnh, đầy đủ phước đức lớn, làm lợi mình và lợi người, tu tập hạnh Từ bi, thành tựu các điều mong muốn, thương mến chúng sinh, trí tuệ thông suốt, hiểu rõ các sách vở. Đồng tử đầy đủ các sự nghiệp như vậy.

Khi ấy, thương chủ suy nghĩ: “Lúc này, những y phục, phước đức, oai lực, của cải, Đồng tử thảy đều đầy đủ. Tuy nhiên, ta không biết oai lực, phước đức này do đâu mà có. Chắc là do oai lực của ta quy y Tam bảo nên sinh ra đứa con được phước đức thù thắng này.” Sau đó, thương chủ đối với pháp Phật càng thêm tin kính, nhờ đó mà từng lúc làm được nhiều việc Phật.

Bấy giờ, trong thành Vương xáthương chủ tên là Ly Cấu, đi vào biển lớn thu được rất nhiều của cải, an ổn trở về, tổ chức lễ cúng dường Đức Thế Tôn và một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo tùy tùng, rồi lại cúng dường mỗi vị Tỳ-kheo ba y. Lúc ấy, danh tiếng về lòng tin thanh tịnh của thương chủ Ly Cấu vang khắp các chốn, mọi người đều khen ngợi, đều cùng nhau ca tụng ông:

–Thương chủ Ly Cấu không những rất giỏi việc buôn bán, mà còn vượt qua biển lớn đạt được rất nhiều lợi ích, còn đối với pháp Phật lại làm được nhiều việc Phật lớn lao.

Nghe lời nói này, thương chủ Nhật Chiếu nguyện se làm theo như vậy, bèn suy nghĩ: “Ta sẽ làm theo như thế. Nếu vào biển lớn mà không có tai nạn được trở về thì ta nguyện sẽ cúng dường Phật và các chúng đệ tử Thanh văn có khắp trong cõi Diêm-phù-đề này, nhờ Phật ra lệnh nhóm họp lại một chỗ, ta sẽ đem dâng cúng đầy đủ những thức ăn hảo hạng và đến từng vị Tỳ-kheo cúng dường mỗi vị ba y tốt đẹp nhất.” Nghĩ như vậy rồi, thương chủ đem ý nghĩ trên nói với vợ. Người vợ nói:

–Thưa phu chủ! Nếu có khả năng thì tùy theo sở nguyện của chàng, ắt sẽ thành tựu.

Khi ấy, thương chủ Nhật Chiếu liền rung chuông ba lần thông báo khắp trong thành Vương xá, rồi cùng năm trăm thương nhân tùy tùng lên đường vào biển lớn, được an ổn đến xứ kia.

Lúc này, Đức Thế Tôn đã vào Niết-bàn. Sau đó Tôn giả Đại Ca-diếp cũng nhập Niết-bàn. Mãi về sau ở tinh xá Trúc lâm, Đồng tử Kim Sắc nghe một vị Tỳ-kheo tụng kệ vô thường:

Ban ngày hay ban đêm
Khi đi hay đứng lại
Như sông lớn chảy nhanh
Nối tiếp không dừng nghỉ.
Đêm dài ngủ nghỉ quá
Mạng sống giảm dần theo
Giống như cá ít nước
Đâu có vui sướng gì.
Thân tướng này suy yếu
Bệnh tật phá hoại ngay
Như dê sắp bị giết
Không bao lâu mất mạng.
Thân này không sống lâu
Đất cùng sáu đại thành
Giống như ở đồng trống
Không nhà, không cửa nẻo.
Thân này có gì thích
Tuôn chảy các nhơ uế
Bệnh khổ luôn trói buộc
Già chết thường lo sợ.
Nay thân nhơ nhớp này
Bị bệnh liền tan rã
Được vắng lặng cao tột
Mới an vui bậc nhất.

Đồng tử Kim Sắc nghe kệ này rồi, đối với sinh tử hết sức nhàm chán, rất vui thích và luôn khen ngợi Niết-bàn, liền làm lễ với Tỳkheo ấy và thưa hỏi:

–Thưa Thánh giả! Bài kệ vừa rồi con nghe Thánh giả tụng, lời này như thế nào?

Tỳ-kheo đáp:

–Con nên biết! Đó là lời dạy của Đức Phật.

Đồng tử nghe rồi đối với pháp Phật càng thêm tin tưởng, bèn hết lòng phát tâm xuất gia, ở trước vị Tỳ-kheo ấy cúi đầu cung kính làm lễ, thưa:

–Bạch Thánh giả! Nay con muốn xuất gia tu hạnh thanh tịnh. Nguyện xin Thánh giả tỏ lòng lành thương xót tiếp độ cho con được xuất gia.

Tỳ-kheo hỏi:

–Ông muốn xuất gia, cha mẹ ông có cho không?

Đồng tử thưa:

–Con chưa được lệnh cua cha mẹ.

Tỳ-kheo nói:

–Ông hãy về thưa với cha mẹ. Nếu họ cho phép thì mới được xuất gia.

Đồng tử lại thưa:

–Con xin vâng theo lời Thánh giả dạy.

Khi ấy, Đồng tử Kim Sắc rất lo sợ và nhàm chán về sinh tử, một lòng ưa thích việc xuất gia, liền trở về nhà đến chỗ mẹ, cúi đầu làm lễ sát chân, thưa:

–Xin mẹ hiểu cho, con muốn xuất gia để được thanh tịnh, tu học pháp luật ở trong chánh pháp, xin mẹ cho phép.

Nghe rồi, người mẹ lo sợ, than thở, giải thích với con:

–Chỉ có mình con. Mẹ rất thương yêu. Con ưa thích thứ gì, mẹ đều chìu theo, vì sao con lại bỏ mẹ mà đi xuất gia?

Đồng tử thưa mẹ:

–Mẹ nên biết, những sự yêu thương rồi cũng phải xa lìa, ngay bây giờ, xin mẹ cho con được xuất gia tu học chánh pháp.

Người mẹ nghe rồi càng thêm buồn rầu, nghẹn ngào rơi lệ bảo con:

–Con nên biết, ở trước mẹ con đừng nói lần thứ ba, đừng làm cho mẹ tức giận.

Nói rồi người mẹ lại thầm nghĩ: “Nếu làm thế này chắc chắn không ngăn được ý muốn của con, mà nên bày cách nào để con bỏ ý nghĩ đó.” Bèn bảo với con:

–Này Đồng tử! Cha conlòng tin thanh tịnh, ở trong pháp Phật làm những việc Phật lớn lao, nay đã đi vào biển lớn, chẳng bao lâu nữa sẽ về. Con nên đợi cha về rồi, cha sẽ cho con xuất gia.

Đồng tử vì giữ hiếu với mẹ nên liền suy nghĩ: “Nếu ta xin nài mẹ mãi, chắc làm cho mẹ ta thêm khổ não, ta nên đợi cha về.” Do đó, Đồng tử im lặng luôn vâng lời mẹ.

Bấy giờ, do tướng mạo đặc biệt tốt đẹp, nên Đồng tử Kim Sắc đi dạo chơi ở những nga tư, đều được mọi người nhìn xem không chán.

Mẹ Đồng tử thấy vậy lại càng suy nghĩ: “Con ta tướng mạo mạnh mẽ tươi đẹp, được mọi người yêu mến, ưa thích, nhưng đối với việc thế gian thì lại nhàm chán, do đó tâm ta rất lo âu. Đứa con này có khi sẽ bỏ ta xuất gia, vậy ta nên tìm cách ngăn lại. Nếu để nó đi thì sau sẽ khổ.”

Về sau, Đồng tử Kim Sắc thường đến gần gũi với các Sa-môn, Bà-la-môn có trí tuệ để nghe họ thuyết giảng, lãnh thọ chánh pháp vi diệu giải thoát, hoặc là tự mình ghi chép kinh điển và làm nhiều việc Phật sự.

Thương chủ Nhật Chiếu có một khu vườn lớn ở ngoài thành Vương xá, nước chảy trong veo, hoa trái sum suê xanh tốt. Đồng tử Kim Sắc ngày ngày đến vui chơi, nghỉ ngơi ở đó, hoặc cũng làm nơi đọc tụng kinh điển.

Khi ấy, trong thành Vương xá có một kỹ nữ tên là Ca-thi Tônna-lợi, tuổi trẻ xinh đẹp, mọi người đều mến mộ.

Bấy giờ, có đại thần Dũng Lệ, ở nước của vua A-xà-thế, rất được nhà vua yêu mến trọng dụng. Ông ta rất mến người kỹ nữ xinh đẹp này, ngày ngày thường mời đến khu vườn của mình để vui thú đùa giỡn.

Vào một bữa nọ, cô Ca-thi Tôn-na-lợi trang điểm thật xinh đẹp, ra khỏi thành Vương xá để đến khu vườn của đại thần Dũng Lệ. Vừa mới ra đường, cô ta thấy Đồng tử Kim Sắc cũng đi ra ngoài thành Vương xá để đến khu vườn của thương chủ Nhật Chiếu, tướng mạo khôi ngô tuấn tú, thân lại có ánh sáng màu vàng rực rỡ, lại có áo màu vàng ròng mặc sẵn trên thân, nhìn rất vừa ý nên mọi người đều thích ngắm. Thấy rồi, cô kỹ nữ kia suy nghĩ: “Lạ thật! Tướng mạo sao mà đẹp như thế. Lạ thật! Lại có ánh sáng rực rỡ đầy oai lực không ai sánh bằng.” Nghĩ xong, cô ta mặc sưc nhìn ngắm, rồi lại suy nghĩ tiếp: “Đời này, cô nào có đủ phước đức mới được Đồng tử này làm chồng. Cô nào ít phước đức, khó được cùng bậc trượng phu kia vui thú với nhau. Bây giờ biết làm sao đây! Ta muốn kết duyên với Đồng tử, có trở ngại gì không? Vì sao? Vì trong các người đàn

ông, chỉ có Đồng tử này là khôi ngô tuấn tú nhất. Bây giờ lòng ta rất thương mến, phải làm cách nào để ta được gần gũi.” Ngay khi ấy, cô ta liền đến trước mặt Đồng tử, chú ý xem kỹ, rồi lại suy nghĩ tiếp: “Thân thể của Đồng tử này trang nghiêm, đầy đủ oai đức lớn, xả bỏ tà dục ô nhiễmthế gian, hướng đến Niết-bàn, chánh đạo chân thật. Dẫu ta có thương mến, người kia cũng không chấp nhận. Bây giờ ta không sợ bị xấu hổ, không đến khu vườn của đại thần Dũng Lệ nữa, mà nên đi theo đến chỗ anh ta ở.” Nghĩ rồi, cô ta liền âm thầm đi theo sau Đồng tử.

Biết việc này, Đồng tử vội vàng đi nhanh vào trong vườn, sai người giữ vườn đóng chặt cửa. Lúc ấy, nàng kỹ nữ Ca-thi Tôn-na-lợi ở ngoài cửa nói:

–Này Đồng tử! Vì lẽ gì mà chàng đóng cửa vườn. Thiếp đến đây vì chàng, sao lại cố chấp không để cho thiếp được chiêm ngưỡng, việc đó không nên.

Đồng tử im lặng không đáp.

Nàng kỹ nữ kia lại suy nghĩ: “Hôm nay, Đồng tử không ra là vì hai việc: Hoàn toàn không bị các dục lạcthế gian làm ô nhiễm, hoặc là bị ma quỷ nhập. Đối với tất cả những thứ như tướng mạo, nhan sắc, lời nói của ta đều không làm cho chàng chú ý. Nhưng bây giờ thì các cửa đã đóng kín, dẫu ta có tìm mưu kế hay bày ra đủ cách, cuối cùng cũng chỉ làm cho Đồng tử thêm ngăn chận thôi.” Lúc này, ta chớ để cho những người hầu của Đồng tử biết, sáng sớm sẽ đi đến khu vườn trước, đứng ẩn nấp, Đồng tử ắt đến sau, lúc ấy ta có thể được gần gũi chàng.

Cô kỹ nữ suy nghĩ vậy rồi, liền trở về thành. Thế là ngày hôm ấy, cô kỹ nữ không đi đến khu vườn của đại thần Dũng Lệ. Cũng ngày hôm ấy, đại thần Dũng Lệ ở trong khu vườn suốt ngày dạo chơi, ngắm cảnh đến chiều tối, không thấy nàng kỹ nữ đến. Trông đợi đã lâu, về lại trong thành, Dũng Lệ liền sai người đến nhà cô kỹ nữ Ca-thi Tôn-na-lợi.

Người hầu đến nơi bảo:

–Này cô kỹ nữ! Vì sao hôm nay không đến khu vườn của đại thần Dũng Lệ?

Người kỹ nữ tìm cách đáp khéo léo:

–Ông có thể giúp tôi thưa với đại quan, hôm nay, tôi bị trúng gió chóng mặt, đau nhức đầu mắt, do đó không thể đến khu vườn được.

Người hầu nhận lời rồi chưa về kịp để trình lên. Người ở gần đấy lén nói với đại thần:

–Ngày hôm ấy, cô kỹ nữ kia đâu có bệnh gì. Chỉ vì cô ta đi đến khu vườn của Đồng tử Kim Sắc kia để dạo chơi, thế nên không tới khu vườn của đại thần được.

Khi nghe lời nói này, đại thần Dũng Lệ giận dữ, liền suy nghĩ: “Nếu nàng kỹ nữ Ca-thi Tôn-na-lợi kết thân với Đồng tư Kim Sắc kia thì thật là bất lợi cho ta.” Do đó giận dữ càng khắc sâu trong

lòng: “Ở đời đã nói người nữ là oan trái số một mà.”

Khi ấy, đại thần bị lửa sân giận đốt cháy tim gan, rất bực tức, trằn trọc suốt đêm, nên mới sáng sớm đã kêu người hầu vào bảo:

–Ngươi hãy cầm kiếm đi theo ta, ra khỏi thành Vương xá, đến khu vườn của thương chủ Nhật Chiếu, ta có chút việc cần phải làm ngay.

Người hầu đáp:

–Con xin vâng lời.

Khi ấy, người hầu cầm kiếm đi theo đại thần Dũng Lệ, ra khỏi thành Vương xá, đến khu vườn của thương chủ Nhật Chiếu. Lúc ấy, nàng kỹ nữ Ca-thi Ton-na-lợi trang điểm lộng lẫy cũng ra ngoài thành Vương xá, đến khu vườn của thương chủ Nhật Chiếu, cứ thế đi vào. Bỗng nhiên, nàng kỹ nữ thấy đại thần Dũng Lệ cũng có ở trong khu vườn, nên kinh sợ không biết trốn chỗ nào, mới tự nghĩ: “Hôm nay đối với ta, đại thần Dũng Lệ nhất định sẽ làm việc rất ác và bất lợi.”

Thấy nàng kỹ nữ rồi, đại thần Dũng Lệ bị ngọn lửa sân giận đốt cháy tim gan, hiện ra các tướng cau mặt, nhíu mày và bước nhanh tới, nắm nàng kỹ nữ lôi đi, làm cho tóc tai rối bù, mặt úp sát đất, lớn tiếng bảo nàng kỹ nữ:

–Hôm nay, ngươi đến đây cùng Đồng tử Kim Sắc chắc chắn có hẹn nhau rồi, lại nói dối với ta là bị trúng gió xây xẩm mặt mày. Hay cho nàng, khéo dùng phương kế mà lừa dối nhau, sự việc đến thế này, oán cừu đâu thể bỏ qua. Tin cho nàng biết, hôm nay mạng nàng khó bảo toàn.

Khi nghe lời nói này, nàng kỹ nữ Ca-thi Tôn-na-lợi rất kinh sợ chợt nghĩ: “Ta tự chuốc lấy sự phiền khổ này, chắc khó bảo toàn được tánh mạng.” Trong lòng rất đau đớn, than khóc, đứng dậy đến trước đại thần lễ bái dưới chân, năn nỉ van xin:

–Thưa đại quan! Xin đại quan thương xóttha cho tôi được sống, thân người nữ sinh nhiều tội lỗi. Từ nay về sau tôi không dám làm nữa, cho đến suốt đời nguyện làm nô tỳ. Xin Nhân giả thương xót, bớt sân giận mà tha thứ cho tôi.

Khi ấy, vị đại thần tuy đã nghe lời van xin thảm thiết, nhưng tâm bị ngọn lửa giận dữ thiêu đốt che lấp nên không tha được, liền bảo người hầu:

–Ngươi hãy cầm kiếm chặt đứt đầu kỹ nữ này vứt xuống đất.

Khi nghe đại thần nói lời hung ác này, người hầu phát run sợ, bèn suy nghĩ: “Khổ thay, người này si mê, không có tâm thương xót, rất say đắm nàng kỹ nữ, nhưng sao chỉ trong một lúc, vì một lỗi nhỏ mà muốn giết hại mạng sống. Khổ thay, hiện nay, ta đang sống nhờ vao người này, thật đáng kinh sợ giống như rắn độc. Tại sao ta nương dựa vào người đê hèn này để phải rơi vào các đường hiểm nạn? Chẳng lẽ hôm nay ta đến chỗ chết rồi sao? Hoặc là ta nên nói rõ ý của mình, nếu lúc ta noi rõ, biết đâu người ấy có thể ngừng việc tội lỗi, biết việc ấy là bất chính sẽ bỏ tâm giết hại, khi thấy người kỹ nữ này run sợ, đau khổ, khóc lóc van xin thảm thiết.” Suy nghĩ rồi, ông ta liền đến trước đại thần Dung Lệ chắp tay, thưa:

–Thưa đại quan, xin ông bớt giận, thương xót tha cho, đừng bảo con làm việc bất nghĩa này, đừng bảo con làm kẻ đồ tể giết người, đừng bảo con phải hung tợn để gây nghiệp sát sinh, chủ con là người nhân từ, xin cứu độ cho. Huống chi người nữ ấy dung mạo xinh đẹp, mọi người đều thích nhìn, trong thành Vương xá từ lâu đã là chỗ dừng nghỉ của những người ở nơi khác đến, họ thấy làm sao không mến mộ. Lại nữa, người nữ nay được tất cả mọi người thương mến nghĩ đến. Vì sao chủ con thông minh, có trí tuệ, lại giận dữ đối với một người nữ đã được tất cả mọi người đều thương mến? Xin đại quan đừng gây nhân ác sẽ thoát khỏi nghiệp sát sinh rất nặng trong hai đời, không nên cố chấp mà giết hại người kia, chớ để thân con phải tự thiêu đốt vì tạo việc ác.

Lại nữa, người nữ này đang tuổi trẻ đẹp, được mọi người thương mến, nay ở trước mặt đại quan chịu đau khổ giày vò, dùng lời tha thiết để khẩn cầu van xin. Nghe cô ấy nói con rất xúc động, nghe lời nói hung ác của đại quan muốn giết cô ta, con càng thêm run sợ. Cho đến những người hung ác ở nơi biên giới xa còn không giết hại mạng người huống hồ là ông mà giết người hay sao? Giả sử tất cả loài súc sinh, gặp lúc nguy khốn ta còn khởi tâm thương xót, huống chi cùng là loài người mà sinh tâm giết hại.

Khi ấy, người hầu bèn nói kệ ngợi khen:

Lời ông nói thật không hợp ý
Con không muốn nghe lời nói ấy
Huống là bảo con phải làm theo
Xin ông bỏ hành động ác này.

Mặc dù đã nghe lời nói như thế, nhưng vì sân giận nên đại thần Dũng Lệ vẫn cố chấp không xả bỏ được, tâm ý không còn như bình thường, càng tăng thêm sân giận, biểu hiện các tướng hung ác, lớn tiếng bảo người hầu:

–Chao ôi, nhà ngươi đối với người kỹ nữ này cũng rất thương mến nên ra sức bảo vệ, chống lại lệnh của ta, theo ngăn cản ta, không muốn giết người ấy. Ngươi vâng lời ta giết là tốt, nếu không giết thì bây giờ mạng ngươi cũng khó bảo toàn.

Lúc ấy, người hầu thấy chủ của mình chẳng nghe lời can ngăn và rất ác độc, nên suy nghĩ: “Khổ thay, hôm nay ta đi vào chỗ nguy hiểm rồi. Nếu ta không vâng lời giết thì ông ta chắc chắn sẽ hại ta. Vì sao? Vì ông ta rất thương mến người kỹ nữ mà còn cố giết, huống gì là đối với ta mà không giết chăng? Còn nếu ta vâng lệnh vung kiếm giết người nữ hiền thiện này thì sao gọi là trượng phu. Ta thà chịu nát thân mạng dưới bất cứ hình phạt nào, chắc chắn không thể giết hại cô ta.” Sau đó, người hầu xoay qua tìm cách khác, liền suy nghĩ: “Ta nên cầm kiếm chạy trốn, ắt có thể bảo vệ được mạng mình và mạng cô ấy.” Suy nghĩ rồi, người hầu liền cầm kiếm chạy thật nhanh trốn ra khỏi khu vườn.

Khi đó, đại thần Dũng Lệ cũng chạy theo sau, ra đến bên cửa.

Bấy giờ, người kỹ nữ Ca-thi Tôn-na-lợi sức lực đã suy yếu, mạng sống không còn bao lâu, không thể đi nổi, nhưng cũng muốn chạy chốn. Nghĩ rồi, liền gắng sức đi mau đến bờ tường, tường cao nên không thể vượt qua. Vừa lúc đó đại thần quay vào, người kỹ nữ liền chạy trốn trong bụi hoa A-đề-mục-đa-ca.

Đại thần không thấy, liền tìm kiếm khắp nơi, mới thấy cô ta núp ở bụi cây, bên cạnh bức tường cao. Khi ấy, dưới bức tường có một con rắn độc nằm sẵn trong hang, từ đó bò ra cắn vào chân bên phải cô gái làm cho bị thương. Thấy cô ta rồi, đại thần liền chạy nhanh đến. Bấy giờ cô ta suy nghĩ: “Đại thần này đến là để sát hại ta.”

Lúc này cô ta chỉ còn chờ chết. Sau đó không lâu, cô ta biết mình đã bị rắn cắn.

Khi ấy, thấy được người nữ, đại thần càng thêm tức giận, không còn chút thương xót, bước tới trước kéo lê cô ta, giẫm đạp trên đầu tóc làm cho thân thể cô gái càng thêm khốn cùng.

Than ôi! Cô ta chịu sự hành hạ tàn ác, nên sức lực cạn kiệt, ngã lăn ra đất. Thấy cô gái ngã lăn dưới đất, đại thần suy nghĩ: “Cô này đã chết rồi, ta nên quay về.” Nhưng còn lo người khác lén nhìn thấy sự việc, nên đại thần phải nhảy qua bờ tường để trở vào thành.

Bấy giờ, trong thành Vương xá, có các quan đi tuần tra kiểm soát khắp nơi, trên đường đi đến khu vườn của thương chủ Nhật Chiếu, thấy Đồng tử Kim Sắc ra khỏi thành Vương xá cũng đi vào khu vườn ấy, các quan vừa tới nơi, thấy ngay kỹ nữ Ca-thi Tôn-na-lợi nằm dưới đất. Thấy rồi, các quan tỏ ra thương xót, mới cùng nhau đến xem xét kỹ và suy nghĩ: “Người nào độc ác, không có tâm thương xót, không sợ nghiệp tội quả báođời sau, kết oán kết thù gì mà giết hại mạng người. Khổ thay, người gì mà tâm ý độc ác, đối với người nữ sao không thương mà phải giết hại.”

Các quan đi xem xét kỹ khap trong vườn, không thấy có sự việc gì, các quan lại suy nghĩ: “Cô gái này tướng mạo xinh đẹp, tiếng đồn khắp nơi, vì sao đến nỗi bị chết ở đây? Những kẻ xấu nào gây ra việc ác này, sự việc mờ ám chỉ có trời mới tỏ. Chúng ta không làm rõ nguyên do này cũng thật có lỗi.” Khi ấy các quan rất lo buồn, phân vân nghĩ ngợi. Các quan lại trở vào trong vườn lần nữa, cố xem xét kỹ mong tìm ra manh mối, nhưng cũng chỉ thấy các sự việc như trước, thấy cô ta vẫn nằm ngay dưới đất. Có phải nghiệp lực quả báo đời trước của Đồng tử Kim Sắc chưa hết, chớ vì sao cô ta lại chết ở đây.

Lúc này, các quan đi tuần cùng bàn với nhau:

–Không biết người nào giết cô gái này? Chúng ta dạo khắp trong vườn đã ba lần, xem xét rất kỹ, không có hiện trạng gì khác, chỉ thấy Đồng tử Kim Sắc.

Các quan liền gọi Đồng tử đến, hỏi:

–Kẻ nào giết cô gái này?

Đồng tử đáp:

–Xin các quan xét rõ việc ấy, tôi tuy thấy vậy, nhưng thật không biết ai đã giết cô gái này.

Bấy giờ, các quan tuần tra lại cùng nhau bàn luận:

–Hôm nay, mọi người đều thấy rõ Đồng tử này, tướng mạo hiền lành, xem anh ta không thể tạo ra việc ác như vậy. Nhưng hiện giờ không có hiện tượng nào khác. Ở đây chúng ta gặp phải khó khăn, làm sao giải quyết việc này cho đúng lý.

Trong nhóm có một người nói:

–Sự việc này chúng ta thật khó có thể giải quyết được. Trong nước có đại thần tư pháp trông coi luật pháp, nên đưa Đồng tử và người nữ đến đó, mọi việc sẽ rõ.

Sau khi các quan bàn luậnquyết định, liền đặt xác người nữ nằm trên kiệu tre và đưa cả Đồng tử đến chỗ quan tư pháp.

Lúc này, đại thần Dũng Lệ là người nắm giữ chức quan trông coi luật pháp, đang ngồi họp với các quan, thấy các quan đi tuần từ xa đi đến trước chỗ mọi người họp, liền hỏi:

–Các ông đến đây làm gì? Vì việc gì?

Các quan đáp:

–Người nữ này nằm chết trong khu vườn của thương chủ Nhật Chiếu, không biết kẻ nào đã giết hại. Chúng tôi đã xem xét kỹ ba lần khắp trong khu vườn ấy chỉ thấy có Đồng tử Kim Sắc, ngoài ra không có hiện tượng gì khác. Ngay khi ấy chúng tôi có hỏi Đồng tử: “Ai giết người nữ này?” Đồng tử đáp: “Các quan nên xét rõ, sự việc ấy tôi tuy thấy, nhưng thật ra không biết người nào giết.” Chúng tôi đưa hết đến đây, xin quan xét rõ việc này.

Đại thần Dũng Lệ nói:

–Các ông hãy chờ tôi xem xét lại một chút, sau đó đến nhà vua cầu xin cách giải quyết sự việc.

Khi ấy, vị đại thần coi luật pháp liền đến cung vua A-xà-thế.

Thấy quan canh cổng, đại thần liền đến trước, hỏi:

–Nhà vua đang làm gì? Ở đâu?

Quan canh cổng thưa:

–Nhà vua ở nơi cung điện, đang cho tập hơp các cung nữ để vui chơi, thổi kèn, đánh trống, đàn hát.

Bấy giờ, đứng ở cửa cung, đại thần trình bày các sự việc, xin quan trông coi cung nữ tâu đến nhà vua:

–Hôm nay, con của thương chủ Nhật Chiếu giết nàng kỹ nữ Cathi Tôn-na-lợi ở trong khu vườn nhà mình. Nếu nhà vua không ban chiếu thì các quan chúng tôi không thể phán xử được.

Khi ấy, quan trông coi cung nữ liền đến chỗ vua trình bày đủ các việc như trên. Gặp lúc nhà vua đang vui chơi, chưa rảnh xem xét, bèn bảo quan trông coi cung nữ:

–Ngươi hãy ra bảo với đại thần Dũng Lệ, phải nên xem xét rõ ràng đúng như sự thật.

Quan trông coi cung nữ vâng lệnh, ra nói lại lời của vua, bảo đại thần Dũng Lệ và các quan trông coi pháp luật nên xem xét rõ việc này. Nghe lời ban của vua, đại thần Dũng Lệ trở về công đường gọi các quan đi tuần đến bảo:

–Các ông có thể tập hơp các người đao phủ mau đến đây.

Khi họ đến, đại thần nói:

–Đồng tử này giết hại nàng Ca-thi Tôn-na-lợi trong khu vườn nơi nhà hắn. Các ngươi nên trói người này, đánh trống thông báo khắp các ngả tư và hang cùng ngõ hẻm, khiến mọi người đều nghe biết, rồi đưa ra khỏi cửa thành phía nam đến rừng bỏ thây, cột vào để xử chết. Sau đó, để chung với thây người nữ rồi chất củi thiêu đốt.

Tuy nghe lời dạy này, nhưng các đao phủ thấy Đồng tử Kim Sắc khôi ngô tuấn tú, giống như núi vàng, rất thương xót nên nhìn nhau bàn luận:

–Làm sao chúng ta có thể giết người này? Đồng tử ấy thật là hiếm có, trong đời khó gặp được người như vậy. Chúng ta tuy là những đao phủ, nhưng cũng có lòng thương, nỡ nào sát hại người như thế. Thà chúng ta chịu chết chứ quyết không dám dùng hình phạt phanh thây người ấy.

Nghe các đao phủ bàn với nhau, đại thần Dũng Lệ nổi giận nói:

–Vì sao các ngươi kéo dài thời giờ mà không mau vâng lệnh ta?

Đám đao phủ liền bước tới trước, cùng nhau chắp tay van xin tha thiết:

–Xin đại quan bớt giận! Chúng tôi tuy là đao phủ, nhưng không thể mạnh dạn làm việc ấy? Vì sao? Vì Đồng tử này có tướng mạo khôi ngô tuấn tú, được người đời thương mến, cớ sao hôm nay lại nhẫn tâm làm việc giết hại.

Nghe xong, đại thần Dũng Lệ lại càng giận dữ, bảo những người kia:

–Các người, nếu không vâng lệnh vua, nhất định ngày nay các người và vợ con quyến thuộc đều phải chết.

Nghe vậy, các đao phủ rất kinh sợ, cùng nói với nhau:

–Vì cớ gì đại thần nắm giữ luật pháp mà không y vào luật pháp để thi hành chân thật đúng lý? Đối với Đồng tử này, tướng mạo hiếm có trong đời, lại cố tình giết hại để anh ta bị chết. Vả lại, nếu chúng ta không giết thì toàn bộ vợ con quyến thuộc sẽ bị giết.

Vì sao chúng ta phải chịu lấy đau khổ khó khăn này? Làm sao chúng ta thi hành việc ấy?

Khi các đao phủ đang rất sợ cái chết thì lại hiện ra mưu kế: Đồng tử này đã được mọi người thương mến, nên dẫn đến chỗ đông người như ở ngả tư đường để mọi người nhìn thấy sự việc này. Khi Đồng tử ở trong hoàn cảnh như thế thì nhiều người sẽ phát tâm thương xót, không thể nhẫn tâm nhìn thấy, ắt phải tìm phương cách cứu giúp Đồng tử.

Lúc này, thân tâm các đao phủ đau đớn như dao cắt, cùng nhau thở than, nói:

–Khổ thay! Chúng ta tạo nghiệp tội gì mà đau khổ như vậy, để chúng ta phải làm việc vô nghĩa, không có lợi này!

Bấy giờ, đại thần Dũng Lệ càng thêm giận dữ, bảo những đao phủ:

–Vì sao các ngươi cứ kéo dài mãi?

Các đao phủ nghe lời nói này, đều khóc lóc, gắng gượng mà làm, cùng nhau đến lột áo, trói hai tay Đồng tử lại.

Thấy Đồng tử bị trói tay rồi, đại thần Dũng Lệ liền rời khỏi chỗ công đường, đi đến rừng bỏ thây chết.

Khi đó, dân chúng nhìn thấy cảnh như thế đều sinh tâm sân giận, như trong cảnh biệt ly nên thảy đều rơi lệ, cùng nói với nhau:

–Khổ thay! Ách nạn nguy khốn! Đồng tử này hiếm có trong đời mà đến lúc phải bỏ mạng!

Các đao phủ đưa Đồng tử đi khắp các ngả đường tìm cách để cứu Đồng tử. Khi ấy, tại thành Vương xá, nam nữ, già trẻ ở trong ở ngoài thành, cùng với các người từ phương xa đến, tất cả đều nhìn thấy Đồng tử Kim Sắc bị trói tay, thấy rồi, đều sinh đau khổ, thương xót, hoang mang, không biết rõ sự việc, đều hỏi:

–Vì sao người này bị trói như vậy?

Cac đao phủ thương khóc, nghẹn ngào đáp:

–Đồng tử này giết hại cô kỹ nữ Ca-thi Tôn-na-lợi, sắp phải bỏ mạng, nên bị dẫn đến đây cho khắp tất cả dân chúng hay biết. Rồi sẽ dẫn đến rừng bỏ thây chết, sau đó không bao lau sẽ bị giết.

Nghe rồi, mọi người đều buồn khổ, thương xót cùng nói:

–Khổ thay, khổ thay! Sao lại nguy khốn như thế. Đồng tử này tướng mạo khôi ngô, tuấn tú, mọi người đều ưa nhìn, thân thể cường tráng, có ánh sáng màu vàng, nét mặt vui vẻ, dáng điệu đàng hoàng, trí tuệ sáng suốt, đầy lòng Từ bi, thương yêu chúng sinh, ham thích giáo pháp, đủ oai đức lớn, người như vậy làm sao có thể giết người được! Bậc Thánh hiền công minh nay ẩn đâu mất rồi, chánh pháp thì bị che mờ, phi pháp thì hiện rõ. Vua quan thống lãnh ở ngôi cao quý, lẽ nào làm oan uổng, khốn khổ người như vậy! Lúc ấy, mọi người cùng nói kệ:

Tướng tốt khiêm nhường và tôn quý
Trang nghiêm bằng đức hạnh tối thượng
Chúng ta chiêm ngưỡng mãi không chán
Đẹp đẽ xưa nay chưa từng có.
Chúng ta đều thấy Đồng tử này
Nay bị đao phủ trói dẫn đi
Mọi người nhìn thấy rất đau khổ
Làm cho thân, tâm như tan nát.
Nét vui vẻ cảm hóa nhiều người
Làm cho ai nấy đều yêu mến
Vì sao đối với người như vậy
Mà nhà vua lại phạt nghiêm hình.
Nếu mọi người chịu xem xét kỹ
Tâm kia vui vẻ không gây tội
Sao đem giao cho quan luật pháp
Kho thay quan lại không thương xót.
Miệng nói ra cho là luật pháp
Cứ theo lời đó mà thi hành
Phải xét rõ người hiền lành này
Làm sao lại gây tội lớn ấy.
Đây chính là việc làm phi pháp
Chánh pháp bị mờ hoặc mất đi
Nếu người xử phạt bằng cách này
Chúng ta đều phải khổ chia lìa.

Khi mọi người nói kệ xong, trong thành có nhiều người nữ rất thương mến Đồng tử Kim Sắc, trong ấy có người vì khổ phải biệt ly nên lăn lộn dưới đất, hoặc có người đấm vào đầu gối cho bị thương, hoặc có người tâm ý mê mờ, coi như mình chia lìa đứa con thân yêu nên rất khổ não. Lúc Đồng tử này sắp đến chỗ bỏ mạng, tất cả những người trong và ngoài thành Vương xá đều rất đau khổ, do sự chia lìa, cùng nhau kêu gào, miệng nói lảm nhảm, run rẩy, sợ hãi.

Khi ấy, trong nhà của thương chủ Nhật Chiếu có một đồng nữ, nhân lúc đi chợ ngang qua ngả tư, bỗng nhiên nghe việc này liền thương khóc, vội vàng trở về nhà đến trước chỗ mẹ Đồng tử Kim Sắc ngã mình xuống đất.

Mẹ Đồng tử Kim Sắc thấy vậy phân vân, kinh ngạc, liền hỏi:

–Con có việc gì nên nói mau đi.

Đồng nữ thưa:

–Lão mẫu nên biết, Đồng tử Kim Sắc bị đao phủ trói tay dẫn đi. Mọi người đều nói, Đồng tử giết nàng kỹ nữ Ca-thi Tôn-na-lợi ở trong khu vườn nhà mình, không bao lâu nữa sẽ bỏ mạng trong rừng. Tất cả mọi người ở khắp các nẻo đường đều nghe biết hết.

Mẹ Đồng tử Kim Sắc nghe nói vậy thì rất đau khổ, ngã quỵ xuống đất. Bà được đồng nữ rưới nước lên mặt hồi lâu mới tỉnh. Bà ngồi dậy than và nói:

–Khổ thay cho con tôi! Khổ thay cho con tôi!

Ngay khi ấy, bà ta bỗng run rẩy bàng hoàng, tự đấm vào đầu gối rất thảm thương, tóc rối bù, bỏ ra khỏi nhà chạy đến ngả tư và các nẻo đường. Do nỗi khổ xa lìa con hành hạ nên sức lực yếu đuối, kêu la mệt mỏi, trông thấy ai bà cũng đều hỏi:

–Đồng tử Kim Sắc con tôi nay ở đâu? Khổ thay! Bây giờ tôi không gặp được con. Thưa các vị, nguyện xin cứu giúp! Nguyện xin cứu giúp! Để cho tôi được gặp con. Than khóc như vậy và bà ta đi lang thang khắp các nơi.

Do không gặp được Đồng tử Kim Sắc, vợ của thương chủ Nhật Chiếu rất buồn khổ, đau đớn, kêu gào, cuồng loạn, trông thấy ai cũng chắp tay lễ bái, thưa hỏi:

–Nguyện xin các vị mau cứu giúp. Nguyện xin các vị mau cứu giúp. Trong lúc con tôi chưa đến khu rừng ấy, xin các người cho tôi được gặp con.

Lại còn nói: Các người nên thương xót, đừng để con tôi đi đến chỗ mất mạng, để tôi được gặp con tôi.

Mẹ của Đồng tử Kim Sắc thốt ra những lời nói ấy, bảo với các người kia rồi mà không thấy, nghe gì đến tin con, bà lại than tiếp:

–Khổ thay! Tại sao không được gặp con tôi?

Rồi bà gieo mình xuống đất, lăn lộn trên mặt đất như cá ra khỏi nước ở trên đất khô cạn, vùng vẫy lung tung, không đứng yên một chỗ, ruột đau như cắt, lại càng thêm đau đớn, giống như con nghé lạc mất mẹ, rất sợ hãi nguy khốn, bà than thở:

–Khổ thay! Con của tôi. Khổ thay! Nó vui vẻ. Khổ thay! Nó là người khéo nhịn. Khổ thay! Nó là người rất có hiếu. Khổ thay! Đứa con yêu tôi hằng cầu nguyện mới được. Khổ thay! Con tôi mạnh mẽ đẹp đẽ mọi người đều ưa nhìn. Khổ thay! Thân thểcường tráng.

Khổ thay! Thân nó có màu vàng rực rỡ. Khổ thay! Nó luôn được mọi người vui vẻ chiêm ngưỡng. Khổ thay! Con tôi có nét mặt làm cho mọi người vui lây. Khổ thay! Con tôi thông minhtrí tuệ, lời nói hiền lành vui vẻ, không làm ai sợ hãi. Khổ thay! Con tôi có tâm Từ bi rộng lớn, thích nghe pháp, thương mến chúng sinh. Khổ thay! Dòng họ của con tôi nổi tiếng vào bậc nhất. Khổ thay! Nó là ngọn đuốc sáng trong tộc họ của tôi. Khổ thay! Đứa con tôi rất yêu mến. Khổ thay! Nó là vật quý báu của tôi. Khổ thay! Nó là sự chân thật của tôi. Khổ thay! Nó là con mắt mãi sáng của tôi. Khổ thay! Tôi thương yêu nó không dứt. Kho thay! Nó là vật quý báu trong tộc họ của tôi. Khổ thay! Tại sao quan trông coi pháp luật hành sự không xem xét kỹ để con tôi phải bỏ mạng.

Khi ấy, mẹ Đồng tử đã kiệt sức, mệt mỏi, chắp tay trình bày lại cho tất cả moi người bằng kệ:

Khổ thay! Tôi nói không ra lời
Vì sao? Tôi phải làm gì đây
Nay tôi như mộng, như cuồng si
Đau đớn thân, tâm, mê cuồng loạn.
Vì con sầu khổ rất nguy khốn
Đau thương quá sức tâm loạn mất
Nay tôi xin tất cả mọi người
Thương xót tôi đang rơi nước mắt.
Tâm không ổn định, thân xơ xác
Tôi không còn ưa thích gì cả
Con tôi sắp đến rừng bỏ thây
Nay cầu xin các người cứu giúp.
Nếu các người có lòng thương xót
Đem năng lực khéo giúp giùm tôi
Tôi hết lòng chân thật cầu xin
Nay mong muốn được gặp con mình.
Tôi không còn thích gì nữa cả
Các Chiên-đàn hương hoa thơm ngát
Cho đến các vật trang sức quý
Đều xả bỏ để cầu cứu giúp.
Các thứ trang sức vòng vàng xuyến
Nay tôi đều chẳng muốn mang nữa
Khốn khổ sắp lìa con yêu mến
Hết được gần: bồng, dắt, vỗ về.
Nay tôi không đi nhiễu ba vòng
Cũng không kính lễ ở dưới chân
Hôm nay chưa biết do duyên nào
Con tôi phải đến chỗ bỏ mạng.
Tôi nhìn mười phương đều rỗng không
Chỉ thấy tan nát và thiêu đốt
Tâm tôi nóng đốt lại rực cháy
Ý si mê, không biết tính lường.
Mau nhanh đến rừng bỏ thây chết
Quan chấp pháp xử phạt con tôi
Sau không gặp nữa thật khổ thay
Đứa con mà tôi hằng thương mến.
Chẳng phải đời này tôi tạo tội
Chắc do đời trước còn dư báo
Nay tôi vì con rất buồn khổ
Giống như lửa dữ đốt cỏ khô.
Tâm tôi luôn làm người chân thật
Không gây tội kẻ oán người thân
Con tôi nếu nhờ nhân duyên ấy
Nguyện cho nó thoát khỏi nạn này.

Bấy giờ, thương chủ Nhật Chiếu vượt qua biển lớn, hoàn thành chuyến đi, đã thu được lợi. Một ngày nọ, ông trở về thành Vương xá. Khi vừa vào thành, bỗng thấy hiện tượng không tốt, thương chủ Nhật Chiếu kinh sợ, run rẩy, hai mắt máy động. Hiện tượng đó là: Chim tụ tập thành bầy bay ở trước, lớn tiếng kêu liên tục. Thương chủ vốn hiểu được điềm này, nên suy nghĩ: “Như hôm nay, theo điềm này, ta thấy thật không tốt, chắc chắn Đồng tử Kim Sắc con ta đang có việc không an, theo như tướng pháp nói, ắt có chia ly.” Khi ấy, thương chủ nói kệ:

Như hai mắt ta đều máy động
Bầy chim dữ bay kêu liên tục
Chắc chắn con ta vào lúc này N
ỗi khổ chia ly đang gần kề.
Lại như thân thể phát run sợ
Tâm buồn bực, không an, kinh hãi
Nhất định chia lìa con thân yêu
Tướng ác hiện trước, ắt không xa.

Nói kệ xong, trong lòng rất run sợ, thương chủ Nhật Chiếu suy nghĩ trăm ngàn việc vô nghĩa bất lợi, ngờ ngợ trong lòng, đi quanh quẩn không biết nơi ngừng. Lại suy nghĩ: “Nay vì sao ta lại đến thành này.” Suy nghĩ, cho tới khi nghe tiếng mọi người kêu gào. Nghe rồi, thương chủ lại vừa đi vừa nghĩ tiếp, đến ngả tư, lại thấy nhiều người như bị quỷ La-sát khủng bố, ai cũng có nỗi đau khổ xa lìa. Thấy một người đứng trước, thương chủ bèn hỏi:

–Này Nhân giả! Vì sao mà có việc như vậy?

Người kia đáp:

–Con của thương chủ Nhật Chiếu tên là Đồng tử Kim Sắc, tướng mạo khôi ngô, đầy đủ các đức, nhưng Đồng tử ấy lại giết hại nàng kỹ nữ Ca-thi Tôn-na-lợi trong khu vườn nhà mình. Nay vua quan không chịu xét kỹ việc ấy, lại giao cho người chấp pháp, Đồng tử sắp bỏ mạng nên khắp các ngả tư, ngõ hẻm, mọi người đều nghe biết. Không bao lâu nữa Đồng tử ấy sẽ bỏ mạng nơi rừng bỏ thây chết.

Nghe nói rồi, thương chủ Nhật Chiếu do khổ chia lìa con làm cho đau đớn nên ngất xỉu, ngã lăn xuống đất. Được mọi người rưới nước lên mặt, hồi lâu thương chủ mới tỉnh, lần vịn đứng dậy, khóc lớn, nước mắt như mưa, quay nhìn bốn phía nói:

–Khổ thay! Đồng tử Kim Sắc con ta nay ở đâu?

Lúc ấy, thương chủ liền đi nhanh đến khắp các ngả đường tìm kiếm, mới thấy vợ mình tóc xõa, mê loạn, than khóc kêu gào, lang thang khắp nơi vì nỗi khổ lìa con. Thương chủ thấy rồi lòng đau đớn, nghẹn ngào, đi lần tới. Thấy chồng, người vợ càng thêm đau buồn, như tên bắn vào tim, nước mắt ròng ròng, vội vàng đến trước mặt chồng, ngã lăn xuống đất. Lúc ấy, thương chủ Nhật Chiếu nắm tay vợ, lớn tiếng than khóc. Người vợ cố gắng bước tới trước cung kính, thưa:

–Này phu chủ! Xin cứu thiếp. Cứu thiếp. Thiếp mong cầu chàng hãy cứu đứa con yêu quý. Xin chàng hãy thương xót. Rồi bà nói kệ:

Nay xin phu chủ an ủi thiếp
Thiếp không phước nên không vui vẻ
Thiếp đang bị xa cách con yêu
Rất đau khổ đến phải than khóc.
Phu chủ nên biết khi hai ta
Sinh được con là niềm vui lớn
Nay vì sao đứa con yêu quý
Không bao lâu sẽ phải chịu chết.
Con thiếp hiền hòa, không ngang ngược
Thông suốt tất cả các kinh sách
Tướng mạo tuấn tú không ai bằng
Người con có trí sắp bỏ mạng.
Đoạn dòng giống trong tộc họ ta
Phá nguồn gốc của tộc họ ta
Đuốc sáng an lành trong tộc họ
Ánh sáng chiếu soi bị tiêu diệt.
Con là của báu trong tâm thiếp
Là đứa con thiếp thương yêu mãi
Trong chúng, con thiếp là mắt sáng
Bị quan chấp pháp sắp hành hình.
Tất cả việc làm đều vì con
Mất con cũng như mù đôi mắt
Con quý trong tâm cũng mất luôn
Vì sao nay sắp bị giết hại.
Chàng nên mau gắng sức dũng mãnh
Vì con mà tìm mọi cách hay
Người nào có thể cứu con thiếp
Tất cả châu báu, thiếp đều cho.
Thiếp thấy con chúng ta lúc này
Chưa bị hình phạt, mạng còn sống
Theo ý chàng muốn và suy nghĩ
Hãy mau tìm cách cứu con mình.

Bấy giờ, tuy bị nỗi khổ xa lìa con làm cho đau đớn giày vò, nhưng thương chủ vẫn cố tỉnh táo, gắng sức giữ gìn thân tâm, thương chủ Nhật Chiếu lần đến trước chỗ mọi người, chắp tay, nói:

–Này các Nhân giả! Các ông nghe lời toi nói. Tôi đang gặp lúc ách nạn nguy khốn. Vì sao các ông không tìm chút ít phương cách để cứu giúp giải thoát cho con tôi? Nếu sự việc ở nơi vắng vẻ thì khó có ai thấy rõ. Nay sự việc ở giữa cung thành vua, lẽ nào các ông không thấy, huống chi con tôi rõ ràng có đức tốt. Vì sao lại giao cho quan chấp pháp đưa con tôi đến chỗ chết? Vì sao các ông không có một chút lòng thương nào để gắng sức cứu giúp nó? Vì sao nhà vua có nhiều pháp luật mà không xem xét kỹ? Vì sao các vị không mở lòng ra để hiểu rõ về con tôi?

Khi ấy, trong đám đông có một người nói:

–Thưa thương chủ! Đồng tử con ông các đức đầy đủ, chúng tôi

đều biết. Vả lại, hôm nay, chẳng phải riêng một mình ông đau khổ, mà tất cả người trong và ngoài thành như chúng tôi cũng đều đau khổ. Song chúng tôi chưa tìm ra phương cách nào để làm cho Đồng tử được thả ra. Vì thế, chúng tôi đều rất lo âu, bứt rứt.

Thương chủ nói:

–Các ông nên biết! Đồng tử con tôi hoàn toàn làm việc thiện, luôn có tâm Từ bi, có oai đức lớn, rất ưa thích chánh pháp, thương mến chúng sinh, đối với việc vô nghĩa, không lợi ích cũng không thể phát tâm làm, huống chi là làm việc tà ác như vậy. Xin các Nhân giả hãy mau xem xét kỹ sự việc này. Nếu Đồng tử thật không có tội xin được giải thoát khỏi ách nạn ấy. Này các ông! Nếu các ông xét rõ sự việc thì cùng nhau làm chứng, tất cả mọi người sẽ làm theo lời các ông, sẽ không có điều gì là sai lầm cả. Ngoài điều này ra, không có cách gì thể hiện tâm thương xót rõ ràng. Nếu được như vậy thì các ông đúng là những người có tâm thương yêu hiền lành, kính mến người có đức.

Nếu các ông phát tâm thương xót rồi, nên đến chỗ nhà vua cầu xin ban lệnh cho các quan, đúng như lời tâu trình sự việc của các ông, ngoài ra không nên tin nghe điều gì khác.

Các ông nên biết! Tôi sắp xa lìa con nên vô cùng đau khổ. Xin cứu giúp cho tôi. Người nào cứu được thì tôi sẽ cho hết tất cả châu báu. Xin các ông làm ơn cứu giúp, vì Đồng tử này mà xét đúng sự thật.

Khi nghe thương chủ nói, mọi người đều hiểu ý, cùng nói với nhau:

–Đồng tử này các đức đều đầy đủ, thật đáng kính mến.

Họ liền chọn lựa hai ba người có trí, thông minh, hiểu được lý lẽ đi đến cung vua, tâu lên nhà vua đầy đủ sự việc. Nếu vua vì Đồng tử Kim Sắc, ra lệnh các quan xem xét kỹ lại sự việc cho rõ ràng, thực hư thế nào thì những người dân chúng tôi sẽ dâng lên nhà vua mười vạn tiền vàng. Vua y theo lời tâu.

Bấy giờ, người có trí đại diện đi đến chỗ quan tư pháp là đại thần Dũng Lệ để trình bày làm rõ sự việc. Từ xa trông thấy hai ba người đi đến, đại thần Dũng Lệ liền hỏi:

–Các ông không có việc gì, vì sao đến đây?

Các người ấy đáp:

–Chúng tôi, dan chúng ở thành Vương xá đều thương xót thưa: Thưa đại nhân! Đồng tử Kim Sắc tướng mạo khôi ngô tuấn tú, các đức đầy đủ, được nhiều người yêu mến. Người ấy sắp phải chết rồi. Tất cả dân chúng trong thành Vương xá đều rất đau khổ. Hơn nữa, người này thường ưa chánh pháp, pháp luật… đức hạnh không thiếu. Người ấy không có một chút tội lỗi nào, mọi người đều tin tưởng. Vua ra lệnh cho đại nhân, vì Đồng tử Kim Sắc, tra xét lại sự việc trước đây. Chúng tôi đã đem mười vạn tiền vàng dâng lên nhà vua. Thương chủ Nhật Chiếu cũng tự bày ra đầy đủ các loại châu báu để dâng lên nhà vua, làm cho kho của cải báu nhà vua càng thêm nhiều.

Nghe như vậy, đại thần Dũng Lệ nổi giận, nói:

–Sự việc quyết định đã lâu rồi. Vì sao các ông lại muốn tra xét lại? Hơn nữa, sao lại nói đem dâng mười vạn tiền vàng để cho kho báu nhà vua tăng thêm. Lẽ nào ta lại nhận của phi lý để làm giàu cho kho báu của nhà vua sao? Các ông thật là không biết ý nhà vua. Dân chúng các ông ở mọi nơi khéo bày ra mưu kế muốn cho nhà vua làm việc vô nghĩa. Đây chẳng phải là đúng cách mà chính các ông đã phỉ báng nhà vua. Chỉ vì một việc khác mà muốn khiến cho nhà vua cùng xét đến việc này để thấy nhiều người đều bị hại.

Đại thần Dũng Lệ quở trách những người đại diện kia rồi, liền cho gọi bốn hạng người ác. Nghĩa là:

  1. Người làm nghiệp rất ác.
  2. Người không biết nhịn nhục.
  3. Người không có lòng thương xót.
  4. Người không có lòng lành.

Khi họ đến rồi, đại thần Dũng Lệ ra lệnh:

–Các ngươi hãy dẫn các đao phủ kia ra khỏi thành. Theo lệnh ta, đúng phép vua giết Đồng tử này. Các người chớ có tự ý thả ra, các quan khác có nói gì cũng không được thả. Các người y theo lệnh ta làm thì rất tốt, nếu không nghe lời ta mà có ý khác thì ta và các người sinh ra oán thù lớn đấy!

Các người kia đáp:

–Chúng tôi xin vâng lệnh.

Sau khi nhận lệnh, bốn quan giám sát đều cầm kiếm bén dẫn đường đi trước.

Khi ấy, các đao phủ suy nghĩ đến trăm cách mưu kế. Họ dẫn Đồng tử đi bộ từ từ lòng vòng khắp các ngả tư, ngõ hẻm, muốn để cho tất cả mọi người đều hay đều biết, bèn nói:

–Khổ thay! Nay ta phải có mưu kế gì để Đồng tử thoát khỏi nạn này. Lẽ nào chúng ta phải làm việc vô nghĩa ấy.

Khi ấy, bốn quan giám sát cầm kiem bén đến trước các đao phủ nói:

–Các người nên vâng lệnh của đại quan, mau thi hành việc ấy. Nếu các người không mau ra khỏi thành, theo lệnh giết Đồng tử này thì ta sẽ giết các người ngay.

Bốn quan giám sát rất hung ác, đều cầm kiếm bén, bộ dạng đáng sợ, giương đôi mắt giận dữ nhìn các đao phủ kia.

Các đao phủ nghĩ đến mạng sống, nên đều sợ hãi, cùng nói:

–Khổ thay! Bây giờ chúng ta không còn phương cách nào để cứu Đồng tử, mà phải tuân lệnh đem Đồng tử đi giết.

Nói xong, nước mắt tuôn rơi, đau xót. Khi ấy, các quan giám sát lại hối thúc mau kéo Đồng tử Kim Sắc ra ngoài thành. Khi Đồng tử ra khỏi thành, có vô số trăm ngàn người chạy theo nhìn ngắm, rồi đau đớn than khóc và đều nói:

–Khổ thay, khổ thay! Vật báu lớn của thương chủ Nhật Chiếu tan mất. Dòng họ tôn quý của thương chủ Nhật Chiếu nay đến lúc sắp đoạn tuyệt. Ngọn đuốc sáng trong dòng tộc của thương chủ Nhật Chiếu sắp bị tắt. Hạt ngọc trên búi tóc của thương chủ Nhật Chiếu sắp rơi xuống. Đôi mắt sáng của thương chủ Nhật Chiếu sắp bị hư. Sự tốt đẹp trang nghiêm của thương chủ Nhật Chiếu phải bị tan hoại. Tâm của thương chủ Nhật Chiếu rất đau đớn giống như bị mổ xẻ ra. Sự sống trong thân thể của thương chủ Nhật Chiếu đang dần chết. Khổ thay! Vì sao để Đồng tử ấy đến chỗ đồng trống, hiu quạnh ngoài thành, bơ vơ, quay cuồng, hoảng hốt, không nơi nương tựa, không người cứu giúp. Ở trong thành Vương xá, Đồng tử này là bậc cao quý nhất, giống như mặt trăng sáng bị La-hầu nuốt, giống như mặt trời trong thành lớn Vương xá giữa ban ngày mà bị tối đen, mọi người ở trong thành lớn Vương xá như mất con mắt sáng, mê mờ lạc phương hướng. Mọi người ở trong thành lớn Vương xá đành phải xa lìa lòng thương mến nhau đã có rất lâu. Sự tốt đẹp quý báu của mọi người ở trong thành Vương xá nay đành phế bỏ. Hạt châu trong búi tóc của mọi người ở thành Vương xá đã rơi xuống đất. Vật báu yêu mến của mọi người ở trong thành Vương xá đã bị phá hoại. Con mắt của mọi người ở trong thành Vương xá đã mất ánh sáng, làm sao để nhìn. Chúng ta chứng kiến việc này rồi làm sao có thể vui vẻ được, tâm ý chúng ta thật không có chỗ nương tựa!

Bấy giờ, Đồng tử Kim Sắc đã ra ngoài thành, các quan giám sát kia sai người đến báo với đại thần Dũng Lệ, là Đồng tử đã ra ngoài thành Vương xá. Nghe rồi, đại thần Dũng Lệ rất vui lòng.

Lúc này, những người dân ở trong và ngoài thành đã thấy, nghe việc ấy đều buồn rầu không vui, hoang mang không biết làm thế nào, bèn đi hỏi lại những người thông minh được bầu chọn đến gặp vua lúc trước. Những người nay trình bày đầy đủ sự việc trên. Dân chúng nghe rồi buồn rầu vô cùng, không biết làm sao nên cùng nhau bàn nói:

–Các người nên biết! Quốc chủ chúng ta, vua A-xà-thế là một vị vua ác, không tuân theo lẽ chánh đáng, xưa kia giết cha, nay làm việc phi pháp. Người kia có oai đức, tướng mạo khôi ngô, tuấn tú, được mọi người yêu mến, trí tuệ hơn người mà bị giết hại. Khổ thay! Nhà vua lại rất ác, không có tâm thương xót. Khổ thay! Nhà vua không biết người có đức. Nhà vua và các quan không có hiểu biết đúng đắn. Vì sao không dựa vào pháp luật chân chánh xem xét rõ ràng đối với người hiền lành, lại xem thường vứt bỏ, hay là do thời vận nên khiến sự việc như vậy. Chánh pháp chìm mất, phi pháp tăng trưởng, ở trong đời xấu ác tin theo lời người ác, nên làm cho người phước đức hiền lành phải chịu khổ chia lìa. Khổ thay! Khổ thay!

Thật là vô lý.

Nghe nói đầy đủ việc xảy ra như vậy, thương chủ Nhật Chiếu tan nát cả cõi lòng, buồn khổ, đau đớn đến ngất xỉu, ngã quỵ xuống đất, được mọi người xung quanh lấy nước rưới lên mặt, hồi lâu mới tỉnh dậy, từ từ ngồi dậy, rồi khóc than và nói:

–Khổ thay, khổ thay! Tôi chỉ có một đứa con, nay sắp bỏ mạng. Nói xong, lại than khóc lớn hơn, rồi nói kệ:

Khổ thay! Mắt con tôi lanh lợi
Khổ thay! Cao quý trong tộc họ
Tôi là cha nó nhưng ít phước
Vì làm hại con nên khóc lớn.
Tôi vì con nên lòng tan nát
Mê cuồng chẳng biết phương hướng đâu
Lửa thiêu đốt cha con xa lìa
Khổ thay! Lòng tôi như lửa cháy.
Con tôi người hiền lành có trí
Giàu lòng yêu mến thương xót người
Tôi làm cha nó nhưng rất ác
Gây cho con tôi nhiều ách nạn.
Vào ngày khi con mới chào đời
Cha rất vui vẻ không gì sánh
Mà nay sắp phải xa lìa con
Lửa buồn bừng cháy đốt tim gan.
Khổ thay! Nhà vua và quần thần
Không tâm phân biệt, không thương xót
Gặp người sống đúng theo pháp luật
Mà không xét rõ việc cho họ.
Khổ thay! Làm vua một nước lớn
Không tâm thương xót chẳng sáng suốt
Không thể điều trasự thật
Bỏ qua chứng cớ về con tôi.
hiền lành bậc nhất ở đời
Tâm ý hoàn toàn không mê muội
Đức hạnh con tôi ai cũng biết
Con bị giết nên tôi than khóc.
Các Thánh hiền ở trong thành này
Nay đang phân tán những nơi nào
Soi đuốc sáng vào người có đức
Để được tha, khỏi bị hành hình.
Trời Đế Thích cùng trời Hộ thế
Và các trời có oai đức lớn
Xin mở chút lòng lành thương xót
Vì con tôi xin khéo giúp cho.
Các bậc Tiên thành tựu giới cấm
chư Tiên tu hành thiền định
Xin đảnh lễ để mở lòng thương
Xin các vị hãy cứu con tôi.

Thương chủ Nhật Chiếu nói kệ này rồi, liền phát sinh trí sáng suốt, bèn suy nghĩ: “Nay ta kêu gào cũng chỉ uổng công, vô ích, nghe Đức Phật Thế Tônvô lượng công đức, thương yêu khắp tất cả chúng sinh trong thế gian, phát lòng thương xót lớn tùy theo ý nghĩcảm ứng. Đức Phật Thế Tôn ấy, đối với người không nơi nương tựa thì làm chỗ nương tựa, đối với người không có ai cứu giúp thì cứu giúp, không có nơi quay về thì làm chỗ để quay về, không có nơi hướng đến thì làm chỗ hướng đến. Lại nữa, Đức Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời, lòng lành thương xót cứu độ cho tất cả chúng sinh bị nạn khổ nguy hiểm, phiền não bức bách làm cho lo sợ. Như người đi buôn vượt biển, gặp cá lớn Ma-kiệt rất sợ hãi, nhưng người ấy nghĩ nhớ niệm Phật thì Phật cảm ứng theo tiếng niệm đó liền cứu độ cho họ. Lại nữa, ví như Ương-quật-ma-la cần giết hại một ngàn người, chỉ còn thiếu một người chưa giết được, sau đó muốn giết mẹ của mình cho đủ số, người mẹ lo sợ mất mạng, Phật liền dùng phương tiện để cứu độ. Lại như oán nghiệp đời trước mạnh mẽ, phải thọ thân các Dạ-xoa: Dạ-xoa Khoáng Dã, Dạ-xoa Chấp Trì… vì an uống nên ở thế gian giết hại vô số trăm ngàn chúng sinh, các Dạ-xoa này ăn máu, thịt người, tham mùi vị tanh hôi, ăn nuốt, giành giựt, hiện tướng lưỡi xấu, răng cứng, dài, bén nhọn, mũi xẹp, mặt dữ tợn não hại cho người thật đáng lo sợ. Các chúng sinh ấy cũng đều được Phật cứu độ. Đức Phật Thế Tôn chắc chắn sẽ cứu giúp con ta vượt qua khổ nạn này. Nếu Phật Thế Tôn dùng tâm đại Bi thù thắng thương mến các chúng sinh thì cầu xin Ngài biết được ý nghĩ của con.”

Thương chủ Nhật Chiếu suy nghĩ những điều này xong thì hỏi một Ưu-bà-tắc đang đứng bên cạnh:

–Này Nhân giả! Nay Đức Phật Thế Tôn đang ở nơi nào?

Ưu-bà-tắc nghe hỏi liền nhớ nghĩ đến Phật Thế Tôn, rơi lệ thổn thức, nghẹn ngào, nói kệ đáp lại thương chủ:

Bậc Đại sư ở trên đời này
Ban vui tối thượng cho thế gian
Đối với tất cả đều như nhau
Đức Phật Đại sư đã nhập diệt.
Chiếu ánh sáng cho người tăm tối
Nơi nương cho người không chỗ dựa
Ánh sáng Phật nay đã mất rồi
Cũng như ngọn đèn đã hết dầu.

Nghe nói Đức Phật Thế Tôn đã nhập Niết-bàn, thương chủ Nhật Chiếu càng thêm buồn khổ, như tên bắn vào tim, ngất xỉu ngã quỵ xuống đất, được rưới nước lên mặt, hồi lâu mới tỉnh, lần vịn đứng dậy, hướng đến chỗ Phật Thế Tôn Niết-bàn khóc lóc lớn tiếng, nói kệ:

Khổ thay! Vua pháp Nhất thiết trí
Hay trừ tội lỗi các oán thù
Nay không còn, người mất chỗ nương
Phật đã nhập diệt biết làm sao.
Khổ thay! Còn đâu việc cao cả
Thương tất cả chúng sinh như nhau
Làm cho biệt ly đều hòa hợp
Đạo sư chỉ bày đường Niết-bàn.
Khổ thay! Vì sao thế gian này
Vô minh che lấp con mắt sáng
Nếu chúng sinh xa Đức Thế Tôn
Sinh tử luân hồi không cùng tận.
Trong đạo vắng lặng Phật sẽ đến
Lòng thương cao tột càng mạnh mẽ
Nếu thế gian này không chỗ nương
Thì ta nương tựa vào ai đây!
Hết thảy đều sinh từ chánh pháp
Từ pháp lại sinh các con Phật
Con Phật cũng đã lìa thế gian
Thì lấy ai làm chỗ nương tựa.
Nhiều hạng chúng sinh ý chân thật
Mong Phật cứu khổ đều vẹn toàn
Chỉ bày chúng sinh thương yêu khắp
Về lại hư không nương vắng lặng.
Tất cả mọi người đều bình đẳng
Nghe Phật thuyết pháp sinh sáng suốt
Nay Phật Thế Tôn đã Niết-bàn
Còn ai tuyên nói chánh pháp đây.
Khổ thay! Hàng trời, người thế gian
Đều tan hoại không còn ánh sáng
Bậc Thánh hiện ở đời rất khó
Phật Đại Mâu-ni đã diệt độ.
Nghe Phật Thánh Tôn đã Niết-bàn
Lòng yêu chánh pháp cũng diệt theo
Pháp sâu xa chúng sinh ưa thích
Còn có người nào khéo thực hành.
Chỉ có lòng thương không sợ hãi
Sự thương xót là chỗ nương tựa
Tất cả công đức có thể thành
Đã diệt, sau này làm sao được.
Làm sao có lợi ích ba đời
Nghĩa là phát lòng thương rộng lớn
Thương xót chính là trí chân thật
Bình đẳng nương theo hạnh xa lìa.
Khổ thay! Công đức Phật quý báu
Tích chứa trải qua vô số kiếp
Đất này khó giữ nên đã mất
Chánh pháp của Phật cũng mất theo.
Thế Tôn Đạo Sư lìa thế gian
Khổ thay! Vô minh lại che lấp
Nên đời này sinh trong hiểm nạn
Gắng sức thành tựu đều tan vỡ.
Lớn thay! Báu Phật là cao tột
Vì sao bây giờ đều ly tán
Thật đáng xót thương cho thế gian
Mọi việc phát sinh đều tan hoại.
Phật diệt, chúng Tỳ-kheo cũng vắng
Ví như bầy nghé bị mất mẹ
Người có trí gặp sự việc này
Ai lại không phát sinh khổ não.
Thân sát đất chắp tay cung kính
Đảnh lễ Thế Tôn bậc lìa trần
Ánh sáng Phật nay đã lu mờ
Chúng con đến sau không chỗ hướng.
Việc lớn vô thường rất thảm hại
Hết thảy chúng sinh đều phải chịu
Phật cũng bị vô thường xâm đoạt
Làm cho con không được cứu giúp.
Pháp tám Thánh đạo như thuốc hay
Trị sạch nguồn gốc bệnh phiền não
Bậc thầy đại Bi vua thầy thuốc
Nay cũng bị vô thường cản ngăn.
Khổ thay! Nhanh chóng, không thương xót
Cha lành Thế Tôn đã nhập diệt
Tất cả thế gian đều đen tối
Ai là người mở mắt sáng đây.
Khổ thay! Thế Tôn đã nhập diệt
Con yêu quý sẽ không về nữa
Nay con sắp phải chịu hình phạt
Xin Phật đến cứu ách nạn này.
Thế Tôn cứu khắp các đau khổ
Tạo chỗ quay về cho hết thảy
Con tôi sắp chết không chỗ nương
Nay nguyện xin rũ lòng cứu giúp.
Nếu ngày nay con được lợi lớn
Như bậc oai đức đã giảng dạy
Khiến người con yêu không xa lìa
Đó là lời cao cả con xin.

Lời lẽ thảm thiết, thương chủ Nhật Chiếu nói kệ như vậy, sau đó lại hỏi Ưu-bà-tắc:

–Trong các đệ tử Thanh văn lớn của Phật, Đức Phật đem giáo pháp giao phó cho vị nào rồi nhập Niết-bàn?

Ưu-bà-tắc đáp:

–Thương chủ hãy lắng nghe! Đức Phật Thế Tôn của chúng ta đem giáo pháp dặn dò trao cho Tôn giả Đại Ca-diếp rồi nhập Niếtbàn. Tôn giả Đại Ca-diếp đúng theo lời dạy của Đức Thế Tôn đã đem giáo pháp dặn dò trao cho Tôn giả A-nan rồi nhập Niết-bàn. Chính Tôn giả A-nan, vị có oai đức lớn đang giữ gìn chánh pháp. Tôn giả A-nan có tâm thiện và lòng thương giống như Phật, có thể đi khắp mọi nơi, mọi xóm làng, mọi thành nước để điều phục giáo hóa chúng sinh. Đối với các chúng sinh chưa gieo trồng căn lành thì tìm cách giáo hóa làm cho họ gieo trồng căn lành, người đã liên tục tích tập căn lành thì làm cho được thành tựu, người đã được thành thục căn lành rồi thì làm cho họ tự được biết rõ lý lẽ chân thật. Nếu có người bị bệnh phiền não ràng buộc thì nói phương thuốc ngọt của pháp giải thoát cao đẹp làm cho hết bệnh, giống như thầy thuốc giỏi.

Lại nữa, chúng sinh bị phiền não che mờ tối tăm thì Tôn giả giảng thuyết chánh pháp, đem ánh sáng trong suốt như mặt trời phá tan phiền não mê mờ, phát ra lời trong sáng hòa hợp để điều phục cho phù hợp, giống như hoa Câu-mẫu-đà nở trông rất dễ mến, cũng như mặt trăng. Tôn giả thường dùng chánh pháp giáo hóa điều phục các vua nước nhỏ giống như Chuyển luân vương. Dùng trí tuệ đặc biệt và cách giảng giải tốt để thu phục tất cả ngoại đạo, tà giáo giống như sư tử. Chỉ bày luật pháp, mở đường, hướng dẫn cho tất cả, giống như vị thầy dẫn đường giảng thuyết chánh pháp cho khắp chúng sinh, làm tăng thêm lợi ích về pháp và của cải giống như thương chủ. Làm cho các hạt giống gieo trồng được tăng trưởng tươi tốt che mát giống như đám mây lớn. Chỉ bày điều tai hại, điều lợi ích giống như cha mẹ, khéo điều phục những chúng sinh khó điều phục, người chưa được độ làm cho được độ, người chưa an ổn làm cho được an ổn, người chưa Niết-bàn làm cho được Niết-bàn, làm cho tất cả nạn hiểm ác, khổ não bức bách vô số chúng sinh khiến họ kinh sợ đều được thoát khỏi. Nói tóm lại, bậc Thánh giả đó có oai đức lớn, tất cả việc Phật đã làm đều co thể làm được, tùy theo ý nghĩ của chúng sinhcảm ứng, như hôm nay, con ông mắc nạn nguy hiểm, tùy theo ý nghĩ của ông có thể được cứu giúp.

Nghe nói như vậy, thương chủ Nhật Chiếu như được sống lại, dần dần bớt kinh sợ, rồi nói:

–Này Nhân giả! Tôn giả A-nan hiện nay ở đâu?

Ưu-bà-tắc đáp:

–Này thương chủ! Tôn giả A-nan đang ở vườn cây Am-la, thuộc thành Tỳ-xá-ly.

Nghe nói vậy, thương chủ Nhật Chiếu liền cung kính quỳ gối sát đất, hướng về thành Tỳ-xá-ly, chắp tay đảnh lễ, nước mắt đầm đìa, thưa:

–Kính bạch Tôn giả có lòng lành lớn! Con của con đang bị khổ chia ly, buồn đau thúc ép, không nói được với Tôn giả. Con xin dốc hết lòng thành cầu xin Tôn giả A-nan, nguyện xin Tôn giả rũ lòng cứu giúp cho con.

Thương chủ liền nói kệ ca ngợi:

Hiện nay Tôn giả bậc tối thắng
Tâm ý chúng sinh thảy đều rõ
Ý nguyện thế nào thảy biết hết
Nay xin nghe con thưa việc này.
Phật Thế Tôn con đã nhập diệt
Các đệ tử Phật oai lực lớn
Tôn giả học rộng không ai bằng
Giữ gìn pháp thanh tịnh của Phật.
An ủi chúng con lúc gặp khổ
Làm chỗ quay về cho thế gian
Luôn làm lợi lạc cho chúng sinh
Nay xin Thánh giả xem xét việc này.
Do duyên gì mà con của con
Vì sao sắp bị người giết hại
Con con gặp nạn không chỗ nương
Xin thầy hiện thần lực cứu giúp.
Nếu Thánh giả không giúp thế gian
Làm sao chúng sinh được lợi ích
Khi người hiền lành sắp bị hại
Không thầy, người nào có thể cứu.
Trụ ở đời làm lợi chúng sinh
Giữ gìn đầy đủ pháp của Phật
Xin hãy mở rộng lòng thương xót
Lãnh nhận cứu giúp con của con.
Con không còn cách hay nào nữa
Nay không nơi nương, không người cứu
Cha, con đều chìm trong bùn khổ
Xin Tôn giả thương xót cứu vớt.
Con run sợ xin thưa bày rõ
Làm lợi thế gian còn ai nữa
Lời dạy của Thích-ca Mâu-ni
Như trong bóng tối chiếu ánh sáng.
Chỉ có Tôn giả làm lợi ích
Ngoài ra không người nào cứu được
Nguyện xin Tôn giả mau đến đây
khởi tâm thương cứu con con.
Vì con lòng buồn như gây oán
Khó chịu đựng người ác quấy nhiễu
Con và vợ con không nơi tựa
Xin Tôn giả sẵn lòng ban vui.

Khi thương chủ Nhật Chiếu nói kệ này thì Tôn giả A-nan đang trải lòng thương làm việc lợi ích, ngày đêm sau lần nhớ nghĩ. Ở trong hàng Thanh văn, Tôn giả được mắt sáng nhìn khắp cả thế gian, pháp nào là tăng, pháp nào là giảm, người nào hiểm ác, người nào mắc nạn khổ, người nào bị hành hạ, người nào chịu đủ các việc hiem ác đau khổ, bức bách, người nào hưng thịnh, người nào nhỏ mọn, người nào rộng lớn, người nào ở trong đường ác thì sẽ cứu vớt họ, người nào ở trong đường thiện, cõi trời và đạo giải thoát thì sẽ làm cho họ ổn định, người nào bị chìm trong vũng bùn ham muốn thì sẽ tự mình đưa tay cứu vớt, người nào xa lìa Thánh tài thì sẽ làm cho họ càng thêm rộng lớn nơi Thánh tài. Tôn giả A-nan luôn vì chúng sinhxem xét như Tôn giả Xá-lợi-phất khong khác.

Khi ấy, Tôn giả dùng Thiên nhãn thanh tịnh nhìn thấy Đồng tử Kim Sắc ấy xưa đã gieo trồng căn lành, nay nghiệp đã chín, song bị nạn hiểm ác làm cho khổ não, trói buộc. Thấy rồi, Tôn giả như vị voi chúa duỗi cánh tay, tức khắc đến cung vua A-xà-thế, đứng trên cửa cung điện ẩn thân không hiện, ở trong hư không khảy móng tay ra hiệu.

Khi ấy, nhà vua đang ở trong cung điện đam mê vui chơi, bỗng nghe giữa hư không có tiếng nói:

–Đại vương! Ông làm việc không tốt! Đồng tử Kim Sắc kia hoàn toàn không có tội lỗi. Nhà vua không tự mình xét rõ sự việc, nay lại cho dẫn Đồng tử ra khỏi thành Vương xá, đến rừng bỏ thây chết, sắp đem giết hại. Đại vương nên cho dừng ngay việc này.

Nghe lời nói của Tôn giả A-nan vang giữa hư không, vua A-xàthế rất kinh sợ, bèn hướng về phía Tôn giả A-nan đảnh lễ, rồi đến trước điện lớn tiếng bảo khắp trong bốn phương:

–Các ông nghe cho rõ! Hãy mau đến rưng bỏ thây chết, tuyên nói lời ta: “Chớ có giết hại Đồng tử Kim Sắc. Hãy mau thả ra.” Trong tất cả các ông, ai có thể đến đó thông báo, ta sẽ lấy vàng trong kho thưởng công và sẽ ban cho năm làng ấp lớn.

Nghe nhà vua đã ban lệnh rồi, những người thương mến Đồng tử Kim Sắc đều muốn Đồng tử được thả ra.

Có hàng trăm ngàn người chạy nhanh đến rừng bỏ thây chết để nói lời ấy. Lúc này, bốn vị quan giám sát và các đao phủ đã đưa Đồng tử Kim Sắc đến nơi khu rừng bỏ thây. Thân người nữ Ca-thi Tôn-na-lợi được thân quyến bạn bè dùng đủ thứ vải màu xanh, vàng, đỏ, trắng tốt đẹp nhất để trang sức, đặt lên xe đưa vào trong rừng ấy. Lúc đó, lại có người bạn cô ta đến ngay tại đó gom củi lại để làm giàn hỏa.

Các đao phủ nói:

–Các ông không nên bố trí giàn hỏa ngay, hãy đợi một chút, chờ chúng tôi trói Đồng tử vào giá chém này, rồi giết, sau đó mới đặt Đồng tử Kim Sắc cùng với cô kỹ nữ Ca-thi Tôn-na-lợi kia thiêu chung một lúc. Nói xong các đao phủ liền sai người đem giá chém đặt trên đất.

Thấy giá xử chém đặt trên đất, Đồng tử Kim Sắc liền nghĩ tới mẹ, lòng càng đau đớn, nước mắt tuôn trào: “Ta đang xa lìa mẹ, mẹ ta hiện giờ ở nơi nào? Khi xưa, vào lúc giữa đêm, không thấy ta trong chốc lát là mẹ đã rất đau khổ rồi….”

“Mẹ ta chỉ có một đứa con. Nay ta phải xa lìa thì làm sao mẹ sống nổi. Khổ thay! Ta thật là vô phước, làm cho mẹ phải chịu nỗi đau chia lìa. Nay mẹ và con đều phải chịu khổ lớn.”

Các đao phủ trong lúc đào đất để dựng giá xử chém, đã cùng nhau bàn luận:

–Trong đám đao phủ chúng ta, ai có thể đứng ra trói Đồng tử Kim Sắc vào giá?

Họ đùn đẩy nhau:

–Ngươi hãy làm đi!

Trong bọn họ một người nói:

–Tôi bị đau đầu, chóng mặt, không thể làm được.

Một người khác lại nói: –Tôi bị đau vai quá.

Người khác nữa lại nói:

–Tôi đau nhức hai bên hông.

Một người khác lại nói:

–Tôi bị đau bụng.

Các đao phủ, mỗi người đều nói bệnh khổ của mình, cùng nhau muốn tránh né không chịu làm việc vô nghĩa ấy.

Bấy giờ, Đồng tử Kim Sắc nghe các đao phủ bàn luận với nhau và thấy giá chém đang dựng ở chỗ đất đã đào, liền than:

–Khổ thay! Ta phải chịu nạn nguy hiểm này! Ta cảm thấy chán nản đối với lỗi lầm to lớn của sinh tử, muốn vui thích mong cầu đạo giải thoát. Nhưng thân ta không còn chỗ nương tựa, trong lòng lo sợ những điều hiểm ác hiện đến.

Trong khoảng thời gian ngắn, Đồng tử lại kêu than:

–Khổ thay! Ta đã đem hết sức mình mà không thể làm được việc gì! Hôm nay với thân người này còn có thể làm được điều gì lợi ích? Khổ thay! Ta nay ở trong biển sinh tử, lại còn bị trôi lăn cùng khắp. Ta đang đi trong sinh tử. Ta đang ở trong cánh đồng sinh tử, giữa các hiểm nguy, hối hả quay cuồng. Lại nữa, nay ta trở lại chỗ sinh tử rất hiểm ác, nay ta lại rơi vào chỗ sinh tử, nay ta lại rơi vào lưới lớn sinh tử. Lại nữa, nay ta lại rơi vào các địa ngục Dây đen, địa ngục Kêu gào lớn, địa ngục Nóng đốt, địa ngục Rất nóng, địa ngục A-tỳ…
Lại nữa, ta sẽ sinh vào loài súc sinh, vào các loài cầm thú: Voi, ngựa, chim chóc… Ta sẽ sinh vào loài ngạ quỷ, luôn chịu các khổ đói khát, không được thức ăn uống dư thừa và cả đại tiểu tiện cũng không thuận lợi. Sinh vào các đường này đều phải chịu khổ não. Xưa ta nghe Đức Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiệnthế gian, như hoa Ưu-đàm-bát cao đẹp khó có được. Đức Phật Thế Tôn hiểu biết các luật pháp, hay chỉ bày giảng thuyết cho thế gian những pháp khó được ấy, chỉ trong một sát-na là đầy đủ hết.

Lại nữa, thân người khó được, mà nay ta đã được, lại sinh vào nơi cao quý, các căn không thiếu, không điếc, không câm ngọng, thân cũng không tật nguyền, sức lực đầy đủ, cũng có thể biết lời nói thiện, lời nói ác, nghĩa lý của các pháp. Nay ta xa Phật Thế Tôn không ai cứu giúp, lại không xa lìa được tám nạn, tuy được thân người nhưng thật uổng phí, không lợi ích, bây giờ ta biết làm sao! Đức Phật Thế Tôn là người rất thương xót chúng sinh, nay ở đâu? Nguyện xin Ngài có lòng lành lớn nghĩ nhớ đến con, thương xót con, nay con không còn nơi nương tựa, không người đỡ đầu, không người cứu giúp, không chỗ quay về, không nơi hướng đến, lại không có ngọn đuốc chiếu sáng, nạn khổ hiểm ác càng làm thêm đau khổ. Đức Thế Tôn với lòng thương xót lớn, nguyện xin Ngài mau biết đến cứu giúp con…

Than rồi, lại suy nghĩ: “Ta phước mỏng, nghiệp tội sâu dày, vì sao mà Đức Thế Tôn mau nhập Niết-bàn.” Lúc đang run sợ như vậy thì trí tuệ bỗng phát sinh, lại tiếp tục suy nghĩ: “Nếu Phật Thế Tôn đã nhập Niết-bàn thì trong hàng đệ tử của Phật, bậc có oai đức lớn là Tôn giả Đại Ca-diếp. Đức Như Lai đã giao pho Tôn giả gìn giữ giáo pháp, nay cũng lại nhập Niết-bàn. Ta nghe Tôn giả A-nan hiện đang gìn giữ giáo pháp của Như Lai, có thần thông lớn, đầy đủ oai đức lớn, luôn làm lợi ích lớn cho tất cả chúng sinh, che chở chúng sinh chưa từng dừng nghỉ. Tôn giả kia có lòng thương xót lớn, sẽ nghĩ đến ta đang chịu gian nan, khổ sở này. Nguyện xin Tôn giả lòng lành thương xót như Phật, mau đến cứu giúp.”

Nghĩ rồi lại khóc, nước mắt tuôn trào, lo sợ xoay van trong sinh tử, thật hết sức đáng chê trách, phát khởi tâm mong cầu xuất ly bậc nhất, từ xa hướng về phía Tôn giả A-nan, tha thiết nói kệ:

Trong đường sinh tử rất đáng sợ
Con thường không được sống an vui
Tôn giả A-nan đều biết rõ
Nguyện xin Tôn giả nghe lời này.
Phật Đấng Đại Bi, Nhất thiết trí
Giáo hóa sau khi nhập Niết-bàn
Pháp môn chánh: lợi ích chúng sinh
Giao phó Tôn giả Đại Ca-diếp.
Tôn giả kia đã làm lợi lạc
Giáo hóa xong việc nhập Niết-bàn
Lại đem pháp lợi ích thế gian
Phó chúc A-nan oai đức lớn.
Tôn giả Ca-diếp tiếng vang khắp
Sau khi nhập Niết-bàn đến nay
Tôn giả đối thế gian bình đẳng
Làm lợi lạc cho khắp chúng sinh.
Ba cõi không chủ, làm chủ tể
Các người lo sợ, làm không sợ
Người mệt cho ở chỗ nghỉ ngơi
Khiến người không hướng, có hướng về.
Tôn giả với thế gian bình đẳng
Việc Đại sư làm đều làm được
Đệ tử Phật từng là thị giả
Đang gìn giữ chánh pháp Như Lai.
Thưa Thánh giả con đang bị nạn
Nếu không rũ lòng cứu giúp con
Ngoài Thánh giả còn ai để nương
Xin biết con đang bị nguy hiểm.
Đã có sinh thì phải có tử
Bậc trí không nên lo sợ chết
Tôn giả đối với vòng sinh tử
Biết rõ con đường nào giải thoát.
Nếu có thể ra khỏi tám nạn
Làm việc có lợi đến khi chết
Sát-na thành việc rất là khó
Do duyên này nên con buồn khổ.
Chư Phật ra đời bày các pháp
Nhưng mà tối thượng rất khó được
Hôm nay Tôn giả nên nghĩ đến
Quá khứ chính Phật đi hóa độ.
Lòng thương Tôn giả rất vững bền
Lòng lành thương xót không bỏ con
Vì các chúng sinhxuất hiện
Con hướng đến cầu đạo giải thoat.
Tôn giả oai lực, công đức lớn
Thường phát tâm lợi ích chúng sinh
Nay con bị đau khổ bức ép
Nguyện đem lòng lành khéo xét xem.
Nay con khốn khổ không ai cứu
Nguyện xin bậc mắt sáng chiếu soi
Tôn giả lòng lành mau hiện đến
Cứu giúp con khỏi nạn khổ này.

Đồng tử Kim Sắc nói kệ này xong, Tôn giả A-nan vì muốn thành tựu lợi lạc cho khắp thế gian, nên phát sinh lòng yêu thương, xem xét các việc ưa muốn của vô lượng, vô biên chúng sinh, làm lợi ích liên tục không dứt, liền dùng Thiên nhãn quán thấy Đồng tử Kim Sắc rất đau khổ, không nơi nương nhờ. Quán như vậy rồi, Tôn giả phát tâm thương xót, phóng ra ánh sáng vi diệu chiếu khắp cung điện, thành, nước, tất cả cảnh giới đều được chiếu sáng. Rồi cùng năm trăm đại A-la-hán quyến thuộc, đều vận dụng thần lực, đồng thời bay vút lên cao như mây như lọng ở giữa hư không, hiện ra tất cả tướng tốt, ánh sáng vây quanh luân phiên chiếu khắp, rồi tất cả hướng về rừng bỏ thây chết.

Bấy giờ, vua A-xà-thế đứng trên lầu cao rộng tráng lệ, nhìn thấy Tôn giả A-nan cùng chúng Tỳ-kheo như tướng hình bán nguyệt, Tôn giả A-nan ngồi kiết già ở giữa, tất cả bay vọt lên hư không như mây như lọng, với tất cả sự trang nghiêm tốt đẹp, rất đáng yêu đi về rừng bỏ thây chết.

Thấy rồi, nhà vua liền suy nghĩ: “Tôn giả A-nan chắc chắnĐồng tử Kim Sắc nên mới đến đây. Tôn giả đã đến ắt sẽ hiện tướng trang nghiêm lạ thường, muốn giảng thuyết pháp chưa từng có, ta nên mau đến đó.”

Khi ấy, nhà vua A-xà-thế hướng về Tôn giả và A-la-hán cung kính đảnh lễ, rồi từ lầu cao, đi xuống cùng với vô số trăm ngàn người thân cận vây quanh theo sau hướng đến rừng bỏ thây chết.

Lúc này, bốn vị quan giám sát đều tức giận, cầm kiếm cưỡng bức mấy đao phủ và nói:

–Vì sao các ông cứ kéo dài việc này, không mau đem Đồng tử

Kim Sắc kia trói vào giá chém?

Những đao phủ nghe nói sợ hãi liền bắt Đồng tử trói vào giá. Khi ấy, Đồng tử Kim Sắc lại càng nhàm chán những tội lỗi cua sinh tử, không chỗ nương nhờ, liền nói:

–Khổ thay, khổ thay! Hôm nay, nếu Tôn giả A-nan không cứu giúp con, con ắt bỏ mạng.

Lúc Đồng tử nói ra lời này, Tôn giả A-nan từ xa đi đến, liền phát ra tiếng để an ủi tất cả, rồi lại an ủi Đồng tử Kim Sắc:

–Con chớ lo sợ! Con là người hiền lành biết pháp luật, ta sẽ ngăn chận việc phi pháp này cho con, giống như ngăn nọc độc rắn và khiến người rất ác ấy không được làm hại. Thế nên, ta sẽ giải thoát ách nạn này cho con, ta sẽ làm cho con được viên mãn ý nguyện như Phật Thế Tôn. Ta sẽ dùng cái thấy, biết của Phật, tùy theo căn cơ mà giảng bày, lại cũng như Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đem chánh pháp giao phó cho Tôn giả Đại Ca-diếp. Ta sẽ làm đúng theo lời dạy ấy, chân thật thi hành và nay sẽ giảng nói cho con. Pháp của các bậc có oai đức lớn đứng đầu trong hàng Thanh văn nói ra, nay ta sẽ làm cho con được mãn nguyện, ta sẽ chấm dứt nỗi lo sợ chết và tất cả nỗi lo sợ trong kiếp luân hồi cho con, ta sẽ nhổ sạch mũi tên hý luận nghi ngờ cho con, do xấu ác nên mắt trong sạch bị che phủ, ta sẽ dùng thuốc hay để chữa trị làm cho trong sạch, ngọn lửa sân giận của con sẽ được ta diệt trừ. Nay ta sẽ làm cho con xa lìa lòng tham, được trong sạch, ta sẽ làm cho con được gieo hạt giống tốt khắp nơi, ta sẽ kéo con ra khỏi bùn sinh tử, ta sẽ làm cho con vượt qua được biển khổ, ta sẽ làm cho con ra khỏi tận cùng tất cả hiểm nạn, ta sẽ làm cho con được giải thoát khỏi bị phiền não trói buộc, ta sẽ phá tan cửa chướng ngại cho con. Nói tóm lại, ta sẽ tùy theo hoàn cảnh mà làm mọi việc cho con. Con ở trong vô số trăm ngàn kiếp đã tu tập các pháp tối thượng khó được, nghĩa là đã diệt sạch phiền não, chứng quả A-la-hán, dùng lửa trí tuệ đốt cháy tất cả củi phiền não, sự chứng đắc được tăng cao, lìa được bệnh nghi ngờ, như cây đại thọ trải qua hơn ngàn năm khó mà chết được, phải dùng trí kim cang mới chặt tận gốc. Bấy giờ, Tôn giả nói kệ:

Tham, sân, kiêu mạn thường liên tục
Chảy vào biển ba cõi không cùng
Nương thuyền trí tuệ tinh tấn kia
Nay ta vì con làm khô cạn.
Sinh là khổ lớn, già là rễ
Chết tức là nơi nguy hiểm nhất
Trí tuệ kim cang rất sắc bén
Phá tan tất cả các núi khổ.
Trải qua cả ngàn ức số kiếp
Chịu khổ tu tập vẫn chưa thành
Hôm nay với điều khó được này
Khiến cho con được pháp vô lậu.

Nghe Tôn giả A-nan nói kệ như vậy rồi, Đồng tử Kim Sắc như được sống lại, thân tâm an ổn, rất vui mừng, ngửa mặt lên hư không, một lòng thành kính hướng về phía Tôn giả, mắt nhìn không rời. Khi ấy, bốn vị quan giám sát gọi các đao phủ lại và nói:

–Các ngươi nên biết! Các vị Tỳ-kheo này là người Từ bi. Nay từ hư không đến làm chướng ngại việc của chúng ta. Các ông nên mau trói Đồng tử vào giá chém, bằng không chúng ta trái lệnh của vua, tạo ra tội lỗi, thành việc làm vô ích.

Các đao phủ nghe rồi, đều sợ vợ con, quyến thuộc mất mạng, tức thời cùng nhau đưa Đồng tử Kim Sắc treo vào giá chém.

Tôn giả A-nan vội dùng thần lực, ngay trên giá chém, đặt một bánh xe như mặt trăng sáng, ánh sáng trong suốt, giữa vầng tròn lại hiện ra đài hoa sen xinh đẹp, rộng lớn. Do sức thần lực hộ trì của Tôn giả, làm cho Đồng tử Kim Sắc tự nhiên đến ngồi kiết già trên tòa hoa sen ấy. Sau khi ngồi yên, Đồng tử xem xét khắp nơi, thấy trong hư khôngvô số trăm ngàn những Thánh hiền cùng lúc nói: “Lạ thay, la thay!” Và nói kệ:

Lạ thay! Chánh pháp oai lực lớn
Nhất thiết trí Phật chưa từng có
Nay đệ tử Thanh văn cũng vậy
Hay làm việc thần biến Như Lai.
Tôn giả A-nan vào lúc này
Hiện rõ thần lực oai đức lớn
Việc làm giống như Bậc Thiện Thệ
Chánh pháp rộng lớn chưa từng có.
Ánh sáng mặt trời Phật tuy lặn
Oai quang Tôn giả vẫn chiếu soi
Các khổ bức ép đều diệt trừ
Lạ thay! An lành hoan hỷ lớn.
Phước đức, trí tuệ, oai thần lớn
Ánh sáng rực rỡ rất trang nghiêm
Tôn giả giống như vầng trăng đẹp
Trong sáng xuất hiện giữa hư không.
Ánh sáng Thiện Thệ tuy đã lặn
Bóng tối dẫu che khắp thế gian
Thần quang Tôn giả vẫn chiếu rọi
Chánh pháp ngày nay vẫn huy hoàng.
Phật báu tối thượng nay tuy ẩn
Đức khó nghĩ bàn đều viên mãn
Vật báu thế gian an lành lớn
Tôn giả A-nan có thể bày.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan ở trên hư không, giống như ánh trăng rằm mùa thu trong suốt, ánh sáng chiếu soi khắp tất cả. Lại như lọng mây hiện tướng thiện, trong sáng biến khắp cả, oai lực của ánh sáng hơn cả mặt trời. Tôn giả cùng với năm trăm đại A-la-hán thân cận vây quanh, đứng trên hư không nói kệ cho Đồng tử Kim Sắc:

Như Lai Đại sư xuất thế gian
Là bậc tối thượng thật hiếm có
Bậc thầy cao cả của trời, người
Năm mắt thanh tịnh không chướng ngại.
Như Phật Thế Tôn xưa đã nói
Pháp môn lìa khổ được thanh tịnh
Pháp này cho biết khổ do đâu
Tất cả khổ kia sẽ bị diệt.
Vì biết khổ nên đoạn nhân khổ
Liền có thể vượt qua pháp khổ
Tám Thánh đạo đúng lý tu hành
Hướng đến Niết-bàn được an vui.
Nay ta làm theo lời Phật dạy
Tất cả pháp khổ phải diệt trừ
Chánh trí sẽ phá tâm vô trí
Bỏ thân này rồi không sinh nữa.

Sau khi nghe Tôn giả A-nan nói kệ, Đồng tử Kim Sắc dùng trí kim cang phá tan thân kiến cao như hai mươi ngọn núi, liền chứng quả Tu-đà-hoàn. Khi Đồng tử Kim Sắc chứng quả rồi, giống như người đi buôn được lợi lớn, như người làm ruộng được mùa, như người ra trận dũng mãnh được chiến thắng, lại được như bậc Chuyển luân thánh vương, phát sinh niềm vui mừng cao tột, liền chắp tay hướng về Tôn giả A-nan, nói kệ khen ngợi:

Tôn giả A-nan con cúi đầu
Quay về nương tựa bậc cao cả
Cũng quy y các đệ tử Phật
Dựng cờ chánh pháp của Mâu-ni.
Lòng thương rộng lớn thật hiếm có
Lòng lành cao tột cũng hiếm có
Con nay bị khổ làm điên đảo
Tôn giả Từ bi khéo cứu con.
Tôn giả A-nan ở nơi này
Luôn nghe được khắp những tiếng kêu
Con bị khổ não không nơi tựa
Nhờ Tôn giả cứu được giải thoát.
Trong đường khổ não rất nóng bức
Nhờ sức Tôn giả nên mát mẻ
Tâm Từ bi như vầng trăng sáng
Mâu-ni xuất hiện như trăng rằm.
Con nay chứng đắc được các việc
Chẳng do cha mẹ, hay bà con
Tôn giả bạn lành đến cho con
Và làm cho con được lợi lớn.
Tôn giả khéo ngăn các đường ác
Lại chỉ bày pháp môn giải thoát
Làm khô cạn dòng chảy sinh tử
Phá tan đống xương chứa như núi.
Sinh tử không có đầu, giữa, cuối
Phiền não chứa đựng các lo sợ
Dùng pháp bình đẳng trí kim cang
Tôn giả ra khỏi vòng sinh tử.
Vô thỉ đến nay bị chìm sâu
Mũi tên buồn trong tim chưa nhổ
Nay gặp thầy thuốc lớn cao cả
Từ miệng sinh pháp lìa các bệnh.

Khi ấy, các bậc Thánh hiền ở giữa hư không liền hướng về phía Tôn giả A-nan hết lòng tôn kính chiêm ngưỡng. Trong một khoảnh khắc, chỗ rừng bỏ thây chết tự nhiên loại bỏ tất cả đất, đá, sỏi, ngói, gạch gồ ghề, bên trong bên ngoài được rưới nước hương Chiên-đàn, đốt các thứ hương thơm, dựng cờ, lọng và lầu báu, lại có nhiều y phục được trang sức bằng châu báu, các loại hoa thơm đẹp rải khắp mọi nơi. Nơi ấy, bỗng nhiên biến thành trang nghiêm thanh tịnh, giống như vườn Hoan hỷ của các cõi trời.

Lúc này, các Thánh hiền sắp đặt thật trang nghiêm với các thứ châu báu tốt đẹp, dùng tất cả vàng ròng tạo thành tòa Sư tử lơn và ghế báu để cho Tôn giả A-nan gác chân. Lại sắp xếp cho năm trăm A-la-hán, mỗi vị cũng có một tòa báu trang nghiêm.

Tôn giả A-nan từ trên hư không hạ xuống, đến ngồi ở tòa Sư tử.

Năm trăm A-la-hán cũng từ hư không hạ xuống, mỗi vị đều ngồi lên tòa của mình.

Bấy giờ, vua A-xà-thế cùng với vô số trăm ngàn đại thần tùy tùng đã đến chỗ đông người ấy, thấy các tướng đặc biệt hiện ra, thấy Đồng tử Kim Sắc có ánh sáng rực rỡ như vầng trăng, ngồi trên đài hoa sen như ánh trăng rằm giữa trời thu trong suốt, lại có các phướn bằng vàng, ánh sáng rực rỡ, trang nghiêm kỳ diệu.

Thấy rồi, nhà vua rất ngạc nhiên, cho là việc vô cùng kỳ lạ, hiếm có, lông tóc dựng đứng, mặt mày rạng rỡ, như biển gợn sóng nhỏ lăn tăn, càng tăng thêm lòng tin thanh tịnh, liền hướng đến Tôn giả A-nan, toàn thân phủ phục sát đất, cung kính hết lòng lễ bái dưới chân. Sau đó chắp tay kính trọng nhìn ngắm Tôn giả A-nan rồi nói kệ:

Quy y Thánh giả bậc tối thượng
Hành động Tôn giả thật tốt đẹp
Có thể cứu hết người trong hội
Lại còn đưa tay giúp chúng con.
Những người chúng con vào lúc này
Nếu chẳng được Tôn giả tiếp độ
Một tiếng động lớn ở trong hội
Tất cả chúng con đều bị hoại.
Nếu chẳng được Tôn giả cứu giúp
Việc lợi chúng sinh đều ngừng lại
Hôm nay chúng con cùng chúng hội
Bị lửa lớn thiêu đốt hành hạ.
Lạ thay! Tôn giả trí thù thắng
Tâm thiện thương xót rất đủ đầy
Việc làm cao cả thật hiếm có
Diễn giải rõ ràng thật lạ kỳ.
Hiện bày thần biến như mây thiện
Chúng con thấy việc chưa từng có
Ánh sáng lớn vắng lặng cao tột
Không khác với ánh sáng Như Lai.
Thế gian chất chứa các khốn khổ
Thánh giả làm chủ ra tay độ
Làm lợi ích lớn cho chúng sinh
Như Phật Từ bi thương yêu khắp.
Thế Tôn quán khắp các thế gian
Chúng con thảy đều được vui vẻ
Nay Tôn giả soi chiếu thế gian
Giư gìn pháp thanh tịnh Như Lai.

Vua A-xà-thế nói kệ khen ngợi rồi mới cảm thấy thỏa mãn ý nguyện, trong lòng vui vẻ liền bước tới vòng sắt trói người kia, đưa hai tay tiếp đón Đồng tử Kim Sắc, tâm vô cùng hoan hỷ như được đứa con yêu mến.

Khi ấy, Đồng tử từ tòa sen thản nhiên bước xuống. Nhà vua do lòng thương mến sâu xa liền bước đến trước ôm choàng lấy Đồng tử vỗ về hai ba lần, ánh mắt nhìn ngắm Đồng tử không rời và nói kệ:

Như ta lúc trước lên ngôi vua
Khi ấy niềm vui không lớn lắm
Thấy ngươi thoát được khỏi khổ lớn
Nỗi vui mừng tăng hơn gấp bội.
Ánh mắt sáng ngời trên gương mặt
Giống như cánh đóa hoa sen xanh
Như ánh sáng mặt trăng trong suốt
Hôm nay chúng con được chiêm ngưỡng.
Tướng mạo cân đối lại thanh nhã
Trang nghiêm bằng đủ các công đức
Các phần thân thể đều đầy đặn
Nét tươi sáng rạng rỡ thích nhìn.
Trước ông đã gặp những người nào
Kẻ đó rất ác không lòng thương?
Do ông được mọi người thương mến
Sắp đem giết hại và vứt bỏ.
Việc ông làm rất là rõ ràng
Lời nói ra ai cũng thích nghe
Tướng mạo nghiêm trang đời hiếm có
Thế gian người nào không yêu mến.
Đức hạnh như vậy ai sân giận
Công đức vậy lẽ nào gây tội
Giống như tâm kim cang chân thật
Vì sao ở đây làm sai đi?
Những người có trái tim sắt đá
Và những kẻ không có suy nghĩ
Những người tâm thức bị hủy hoại
Nên đối với ông không thương xót.
Ngọn lửa kim cang bùng cháy mạnh
Như có người để trên đầu ta
Lại như kiếm bén đâm vào ngực
Thấy giết hại ông cũng như vậy.
Lại như sấm sét chấn động lớn
Trên không đánh xuống vào tim ta
Nay ông được mọi người thương mến
Người nào ra lệnh giết hại ông?
Khổ thay! Người nào nói lời ác
Bảo rằng ông gây ra nghiệp này
Do tâm cực ác oán kết vào
Đối với ông lại không thương mến.
Lẽ nào thần chết đến quấy nhiễu
Người nào lại hiểm ác như vậy?
Khi trước người nào muốn giết ông
Ông hãy mau nói rõ ta nghe.

Nghe vua A-xà-thế nói như vậy, Đồng tử Kim Sắc liền suy nghĩ: “Nếu hôm nay ta đem sự việc trước kia tâu trình đầy đủ cho vua nghe, há chẳng phải ta lại tạo nghiệp ác với đại thần Dũng Lệ chăng. Vì sao? Vì tánh vua nóng nảy, khi hiểu rõ sự việc thì sẽ hại tánh mạng người kia.” Rồi tự suy nghĩ tiếp: “Phải tự xét kỹ về nghiệp đời trước. Sống ở đời trước, ta đã trải qua các kiếp, chắc chắn đã tạo các nghiệp chẳng tốt, nay đã thành thục, mới có quả báo rõ ràng, nên nghiệp nhân nơi đời trước không thể khôngquả báo. Nay ta thật không có lỗi, bị người khác muốn giết hại, nên khiến trừ bỏ.”

Nghĩ vậy rồi, quyết định không còn phân vân, liền đến trước vua, nói kệ:

Như tôi ở vào đời quá khứ
Tự gây ra các nghiệp chẳng thiện
Nghiệp thành quả chín thật rõ ràng
Báo ứng hiện hành ngày hôm nay.
Nhận lấy thật chẳng phải quả tốt
Đều do đã gây nhân bất thiện
Nay chịu quả báo thật không nghi
Vì tôi vua nên xem xét kỹ.

Nói kệ xong, Đồng tử đến trước Tôn giả A-nan, toàn thân phủ phục xuống đất, đảnh lễ nơi hai chân, rồi lui qua một bên. Khi ấy, Tôn giả bảo Đồng tử:

–Này Đồng tử! Nàng Ca-thi Tôn-na-lợi trước bị rắn độc cắn vào chân, ong hãy dùng năng lực gia trì chân thật, làm cho mau được bình phục như cũ, cũng làm cho tất cả đại chúng trong chúng hội này đều phát sinh lòng tin thanh tịnh.

Nghe Tôn giả nói, Đồng tử Kim Sắc muốn làm cho tất cả chúng sinh phát tâm vững bền liền tư duy dũng mãnh, phát ra năng lực gia trì chân thật. Nếu pháp chân thật thì lời nói cũng sẽ chân thật: Ta với nàng Ca-thi Tôn-na-lợi nhất định chưa từng phát sinh một chút phiền não, hoặc tham, hoặc sân, hoặc si, hoặc hại, hoặc các tâm sở tùy phiền não khác. Pháp chân thật tức là lời nói cũng chân thật sẽ làm cho nọc độc trong thân người nữ này được tiêu trừtrở lại như cũ.

Đồng tử nghĩ nhớ đến năng lực gia trì chân thật xong, nọc độc trong người nàng Ca-thi Tôn-na-lợi liền tiêu trừ và nàng tỉnh lại, trở lại an vui như trước, quay nhìn bốn phía thấy được tất cả đại chúng trong chúng hội.

Khi ấy, tất cả vô số trăm ngàn hàng trời, người trong đại chúng cùng lúc nói:

–Kỳ lạ thay! Hiếm có thay! Đồng tử Kim Sắc tâm ý thật là thanh tịnh. Có thần lực, oai lực lớn mới có thể làm được như vậy. Do năng lực gia trì chân thật mà vị ấy đã làm cho nàng Ca-thi Tôn-nalợi được thân thể an ổn và sống trở lại.

Bấy giờ, nàng Ca-thi Tôn-na-lợi nhìn kỹ chúng hội, mới thấy trong rừng bỏ thây chết có Tôn giả A-nan và đại chúng Tỳ-kheo đứng theo hình bán nguyệt, có nhiều ánh sáng báu rực rỡ, đẹp đẽ, thứ tự ngồi trên tòa Sư tử, cũng thấy vua A-xà-thế cùng vô số trăm ngàn quần thần tùy tùng đang ở trong chúng hội. Lại thấy mình đang nằm trên sàn tre, trang sức lụa là, đủ các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng. Thấy vậy, đồng nữ rất hoang mang, sợ sệt, nghĩ: “Ta đây đang nằm mộng mà thấy hay sao, tâm ta mê loạn hay sao, nghiệp mình làm nay đưa đến như vậy hay sao?” Sau đó, thân tộc cô ta nói rõ hết sự việc lúc trước và bảo:

–Sự việc này đều nhờ Tôn giả A-nan đoái hoài đến đây và hiện bày sức thần thông làm cho cô sống lại.

Nghe nói rồi, đồng nữ liền đến trước Tôn giả A-nan phát tâm tin kính thanh tịnh tột bực, rất thán phục, rồi tự mình suy xét nhớ lại mọi sự việc trước kia ở trong khu vườn của thương chủ Nhật Chiếu, bị đại thần Dũng Lệ muốn giết hại, cái chết cận kề, làm cho tâm ý mê loạn rất chán nản đối với những hoạn nạn do kẻ ác gây ra. Xét thân người nữ có nhiều tổn não. Khổ thay, khổ thay! Gọi là người nữ so với các đồng loại khác rất là thấp kém, là nơi tập hợp các khổ. Nay ta làm thế nào để có thể bỏ được thân người ô uế đáng chán này?

Nghĩ vậy rồi, liền đứng dậy rời khỏi chúng hội, tìm một tấm vải đẹp, cầm đến trước Tôn giả A-nan, nghiêm trang đảnh lễ dâng lên và phát sinh tâm tin kính thanh tịnh hết mực, nghĩ đến công đức cao cả của Tôn giả A-nan trước đây đã dùng lực gia trì chân thật làm cho mình được an ổn, pháp của Tôn giảchân thật, lời nói của Tôn giả cũng chân thật. Trong hàng đệ tử của Như Lai, Tôn giả là bậc học rộng đệ nhất, là bậc rất tối thắng trong các bậc tối thắng, là bậc tối thượng trong các bậc tối thượng, là rồng trong hàng Thanh văn, là sư tử trong hàng Thanh văn, là Đại tiên trong hàng Thanh văn, là bậc hiền lành trong hàng Thanh văn, là hoa sen hồng trong hàng Thanh văn, là hoa sen vàng trong hàng Thanh văn, là hoa sen trắng trong hàng Thanh văn, là bậc Điều ngự trong hàng Thanh văn, là thầy hướng dẫn trong hàng Thanh văn, là mặt trăng trong hàng Thanh văn, là mặt trời trong hàng Thanh văn, là vật báu trong hàng Thanh văn, là viên ngọc quý trên búi tóc trong hàng Thanh văn, là vị nghe pháp nhiều, nắm giữ giáo pháp. Vị A-la-hán này đã đoạn tận các lậu, việc cần làm đã làm xong, đã bỏ gánh nặng xuống, đã làm được lợi ích cho mình, trừ hết các ràng buộc của phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát, có thần thông lớn, đầy đủ oai đức lớn, ánh sáng lớn, là ruộng để bố thí lớn, Tôn giả đã có những công đức lớn như vậy, nếu pháp chân thật thì lời nói cũng chân thật, sẽ làm cho ta hôm nay chuyển thân người nữ thành tướng người nam.

Khi nói ra lời này, nhờ vào lực gia trì chân thật của Tôn giả nên chỉ trong khoảng sát-na, Đồng nữ Ca-thi Tôn-na-lợi liền chuyển thân nữ thành thân nam, có đầy đủ sắc tướng trang nghiêm đẹp đẽ, mọi người đều ưa nhìn, có cả y phục đẹp, đồ trang sức đầy đủ.

Lúc ấy, trên hư không tự nhiên mưa các loại vải trời rất tốt đẹp, rất vừa ý. Những tấm vải trời ấy rộng lớn trùm khắp hư không, như bánh xe che phủ khắp tất cả, trong chốc lát ở rừng bỏ thây chết kia, bánh xe vải ấy che khuất cả ánh mặt trời.

Thấy sự việc này, hàng trời, người, đại chúng trong hội đều rất kinh ngạc. Là do Tôn giả A-nan có công đức oai thần lớn như vậy, nên liền khi ấy trên hư khôngvô số trăm ngàn Thiên chúng đều nói:

–Lạ thay, lạ thay! Thật là vĩ đại và đặc biệt chưa từng có. Tôn giả A-nan đầy đủ oai đức lớn, tối thượng thanh tịnh, làm ruộng bố thí lớn. Đồng nữ Ca-thi Tôn-na-lợi kia chỉ đem một tấm vải dâng cúng, nhờ nguyện lực nối tiếp mà chuyển được thân nữ thành thân nam. Hạnh nguyện thật lớn thay. Đặc biệt cao cả là vậy.

Các chúng trời đều phát lòng tin thanh tịnh, ở trên hư không mưa các hoa trời và trổi các loại nhạc trời.

Bấy giờ, Đồng tử Ca-thi Tôn-na-lợi, nhờ oai đức lớn của Tôn giả A-nan nên các ý nguyện mong muốn đều được viên mãn, đã thấy rõ quả báo hiện thời như vậy nên vô cùng vui mừng, toàn thân sung sướng, đứng trước Tôn giả A-nan, quỳ gối sát đất, chắp tay cung kính, thành tâm nói kệ ca ngợi:

Lạy bậc khó được, không nghĩ bàn
Trang nghiêm bằng công đức vi diệu
Nay con không có nơi nương tựa
Nhờ Tôn giả nên được sống lại.
Hôm nay con không gặp Thánh giả
Bậc trí nhãn thanh tịnh cứu giúp
Thì mạng sống con không thể còn
Tôn giả đem mạng sống cho con.
Lạ thay! Công đức oai lực lớn
Lạ thay! Ban vui khắp chúng sinh
Khi gặp hoạn nạn khổ gây hại
Khéo dùng phương tiện cứu giúp người.
Lạ thay! Chính là Bậc Ứng Cúng
Rất khó được, điều thiện trong sạch
Con đem một tấm vải cúng dường
Nhờ oai thần, lợi nhỏ thành lớn.
Lại nữa tấm vải dù rất nhỏ
Đem dâng Tôn giả Đại Mâu-ni
Tùy theo mong muốn được viên mãn
Nhờ oai lực nên có quả ngay.
Theo ý con nghĩ, thân người nữ
Chất chứa đủ các lỗi lầm lớn
Nhờ oai lực Tôn giả gia trì
Được chuyển thân nữ thành thân nam.
Tướng trời người chuyển đi chuyển lại
Dùng vật báu trời để trang sức
Trên không lại mưa vải trời đẹp
Rực rỡ rơi xuống thêm vui mừng.
Ruộng phước công đức tốt như vậy
Người nào không thể làm như thật
Người đó ít phước không lợi ích
Bị phiền não ngu si… buộc ràng.

Sau khi nói kệ khen ngợi xong, Đồng tử thấy rõ quả báo hiện thời như thế, liền suy nghĩ: “Ta được chuyển thân tướng như vầy, lại xem đủ các quả báo ưa thích, không ưa thíchsự lý rõ ràng, ta nay không nên ở nhà thế tục nữa, phải cầu xuất gia.” Nghĩ vậy rồi, đến trước Tôn giả A-nan, hai chân đứng thẳng, đảnh lễ và thưa:

–Bạch Tôn giả! Cho con được đến với Tôn giả, được xuất gia ở trong pháp thanh tịnh, thọ giới cụ túc thành Tỳ-kheo, ở chỗ Tôn giả phát nguyện tu phạm hạnh.

Tôn giả A-nan liền truyền dạy pháp xuất gia cho Đồng tử, sau khi thành Tỳ-kheo, dứt sạch các phiền não, chứng quả A-la-hán.

Trường hợp của thương chủ Nhật Chiếu và vợ trước đây, vì xa lìa Đồng tử Kim Sắc, bị buồn khổ, đi khắp các hang cùng ngõ hẻm trong thành Vương xá, ngã lăn xuống đất, vừa ngồi lên lại ngã xuống, tới lui hoang mang, không biết đi đâu, đau buồn sợ hãi đưa tay đánh vào thân, la lớn: “Khổ thay con tôi, khổ thay con tôi”, kêu la thảm thiết rồi khóc lóc, nay bỗng nhiên nghe mọi người nói: “Tôn giả A-nan từ trên không hạ xuống đến rừng bỏ thây chết để cứu giúp Đồng tử Kim Sắc, làm nhiều việc hiếm có”, thương chủ Nhật Chiếu và vợ như có nước cam lồ rót vào lòng, vô cùng vui mừng, giống như Chuyển luân thánh vương thọ ngôi vị quán đảnh nên rất vui mừng, liền vội vàng đi khỏi thành Vương xá, tới rừng bỏ thây chết. Đến nơi, ông bà thấy Đồng tử Kim Sắc như trăng tròn mùa thu chiếu sáng trong suốt, mênh mông, ánh sáng của La-hầu không hiện ra được, ngồi an nhiên gần Tôn giả A-nan.

Lại thấy Tôn giả có oai lực lớn, có thể phát sinh tướng hiếm có đặc biệt tốt đẹp, thần thông bien hóa vĩ đại làm hàng trời, người kinh ngạc.

Thương chủ thấy rồi liền đối với Tôn giả A-nan phát sinh tâm tin kính thanh tịnh đặc biệt tối thượng, toàn thân sát đất, đảnh lễ nơi chân Tôn giả, đứng dậy, rồi quỳ gối sát đất, chắp tay cung kính say sưa ngắm nhìn, lòng rất vui mừng, nước mắt chảy ròng, hướng đến Tôn giả A-nan nói kệ khen ngợi:

Lạ thay! Tôn giả phước lực lớn
Oai thần rộng bày thật rõ ràng
Nay con gặp nạn khổ nguy ách
Tôn giả khéo tìm cách giúp con.
Lạ thay! Lòng lành đức đại thắng
Lạ thay! Diệu trí đều viên mãn
Nhất thiết trí, như Đức Thế Tôn
Trong sạch cao tột và sáng suốt.
Như con hôm nay vì đứa con
Mà chìm trong biển khổ ách nạn
Tôn giả trí tuệ oai quang lớn
Khéo tìm cách để cứu giúp con.
Nếu hôm nay con không được gặp
Tôn giả lòng lành tiếp độ cho
Con và vợ con lâu nay đã
Lọt vào lưới khổ không ra khỏi.
Nay Tôn giả đi đến nơi này
Oai lực đại Bi phát sinh ra
Con con được cứu khỏi biển khổ
Cũng được thoát khỏi chỗ hiểm nạn.
Dây ưu sầu nay cũng đã thoát
Nước mắt ưu phiền nay cũng ngừng
Lo âu sợ hãi diệt trừ hết
Ngục ưu phiền nay đã ra khỏi.
Không còn chìm đắm trong bùn lo
Không sợ đâm chém tổn thương thân
Không còn lo rắn độc xâm hại
Không sợ mũi tên lo bắn trúng.
Không sợ lưỡi kiếm sầu chặt đứt
Không gặp các âu lo thù oán
Không bị cá lớn phiền não nuốt
Không bị ngọn lửa sầu đốt cháy.
Hôm nay Tôn giả khéo chỉ bày
Ánh sáng đẹp chiếu khắp chúng hội
Mắt sáng chúng sinh được khai mở
Tất cả đại chúng đều mừng vui.
Tôn giả xưng tên là Khánh Hỷ
Chúng sinh được lợi ích an vui
Khéo mở cửa cứu thoát như vậy
Hôm nay con rất đỗi vui mừng.

Thương chủ Nhật Chiếu nói kệ khen ngợi Tôn giả xong, liền cùng với vợ đến trước Đồng tử Kim Sắc, vì lòng thương yêu con mãnh liệt nên tiến đến trước ôm choàng, vỗ về ba lần, vui mừng khôn xiết đến rơi nước mắt.

Cùng luc, cha mẹ đều vui vẻ nhìn kỹ Đồng tử và nói kệ ngợi khen:

Tướng tốt như trăng tròn mùa thu
Thân thanh tịnh ánh sáng chiếu khắp
Các ý nguyện đều được viên thành
Cha mẹ vui được thấy mặt con.
Mắt xanh tướng màu đồng sáng chói
Cao lớn trang nghiêm và rất đẹp
Đều nhờ Tôn giả đã đến kịp
Cha mẹ vui được thấy mặt con.

Bấy giờ, Đồng tử Kim Sắc đối với cảnh lỗi lầm của sinh tử rất là nhàm chán nên thưa với cha mẹ, rồi đến trước chỗ Tôn giả A-nan, đến nơi Đồng tử đảnh lễ dưới chân, thưa:

–Con xin được xuất gia trong giáo pháp thanh tịnh của Tôn giả, thọ giới Cụ túc, thành Tỳ-kheo, ở chỗ Tôn giả thệ nguyện tu phạm hạnh.

Tôn giả A-nan liền trao pháp xuất gia cho Đồng tử. Cho đến khi thành Tỳ-kheo, chỉ trong chốc lát Đồng tử dứt hết các phiền não, chứng quả A-la-hán. Chứng quả rồi, dùng trí hiểu biết về thân mạng của đời trước, xét rõ nghiệp nhân liên tục xảy ra ở đời trước, mới thấy thân mình có đầy đủ tất cả oai lực, phước đức thù thắng, liền nghĩ: “Ta tuy được oai lực phước đức như vầy, nhưng thọ nhận được phước ấy có giới hạn. Ta nay được phước báo như thế là do đời trước đã tạo các nhân phước đức. Ta nên vì các chúng sinhmở rộng cửa phước, làm cho hết thảy đều phát tâm tôn trọng, đồng thời tự hiện rõ oai lực phước đức của mình.”

Nghĩ như vậy rồi, Đồng tử cởi áo để bố thí. Nhờ thần lực, chiếc áo vừa cởi ra thì có chiếc áo khác lại xuất hiện, cứ như vậy, áo lấy ra rồi áo khác lại xuất hiện rất nhiều, chất thành đống trước Tôn giả A-nan. Đống áo ấy tốt đẹp, vô giá, ánh sáng rực rỡ như mặt trăng mới mọc, lại giống như đống vàng Diêm-phù-đàn sáng đỏ phản chiếu ánh sáng càng thêm đẹp.

Khi ấy, tất cả đại chúng ở hội thấy sự việc này lấy làm kinh ngạc, đồng thanh nói:

–Lạ thay! Thật là hiếm có! Lạ thay! Thật là hiếm có! Lạ thay, oai lực cao tột của người có phước đức. Lạ thay, làm việc phước mà có sức oai thần rộng lớn như vậy. Nếu Tôn giả này liên tục lấy y ra thì đống áo tốt đẹp, vô giá rộng lớn kia nhiều vô số kể!

Bấy giờ, Tôn giả Kim Sắc đem áo đến dâng cho cha mẹ trước, đem áo cúng dường cho Tôn giả A-nan và chúng Tỳ-kheo, cho đến tất cả đại chúng trong hội ở rừng bỏ thây chết, mỗi người đều được hai áo đắp trên thân. Do thần lực của Tỳ-kheo Kim Sắc, nên áo đã cho tất cả mà đống áo đó cũng không hết.

Khi ấy, Tôn giả Kim Sắc dùng thần lực của mình bay lên hư không đến thành Vương xá, đi khắp các nẻo đường, cứ liên tục cởi y đẹp màu vàng đang đắp trên người tạo ra số lượng rất nhiều chất thành đống, cất tiếng nói vang khắp thành:

–Các người nên biết! Ta lấy áo đang mặc trên mình để ban cho tất cả, các người hãy tùy ý lấy, theo nhu cầu của mình.

Mọi người nghe rồi, trong khoảng sát-na đã có vô số trăm ngàn người tập hợp lại, cùng ngắm nhìn áo đẹp màu vàng chất thành đống lớn ở khắp các nẻo đường trong thành Vương xá. Nó giống như mặt trời mới mọc, có ánh sáng rực rỡ chiếu khắp, lại sáng chói như vàng Diêm-phù-đàn. Tôn giả Kim Sắc ở trên hư không, oai quang hiển hiện, cũng như núi vàng bừng sáng tạo nên sự an lành. Tất cả đại chúng nhìn thấy tướng như vậy rồi, lòng rất kinh ngạc, sắc mặt rạng rỡ phấn khích như sóng biển và đều nghĩ: “Lạ thay! Việc này thật là kỳ lạ, hiếm có. Do tu nhân gì mà được phước báo như vậy, oai thần, phước đức đều thù thắng. Chúng ta nếu có thể biết được do tu nhân gì, sẽ làm theo đúng như vậy ắt sẽ được quả oai thần như thế.”

Tôn giả này oai thần phước đức đặc biệt cao cả như thế, là do từ lâu đã tu hành giới cấm hay là đầy đủ trí Thiên nhãn? Chúng ta hãy mau thưa hỏi. Sau khi bàn với nhau, họ vui mừng chắp tay hướng lên hư không, một lòng tin kính chiêm ngưỡng quy y đảnh lễ Tôn giả Kim Sắc, rồi cùng cất tiếng nói kệ:

Tôn giả đầy đủ phước thù thắng
Và được chứng đắc trí Thiên nhãn
Oai thần lớn bố thí như vậy
Tôn giả giải thích cho chúng con.
Nếu ở đời này hoặc đời sau
Mong cầu phước vui và công đức
Tu các hạnh gì được thành đủ
Tôn giả nói rõ cho chúng con.
Lúc ấy Tôn giả Đại Chánh Sĩ
Phát sinh lòng Từ bi thương xót
Vui vẻ giảng giải rõ mọi điều
Diệu âm vang đến khắp nơi nơi.
Nay ta giảng nói nghĩa lý này
Mở bày chỉ rõ cho mọi người
Cứ thế tuần tự giảng giải đủ
Mọi người hãy lắng nghe ta nói.
Ta vào đời này và đời khác
Đều được thành tựu các cửa phước
Phước vui công đức đều hiếm có
Do tu phước mà được như vậy.
Mọi người phải chán ghét khổ não
Nên ham muốn thành tựu an vui
Nên mau tu tập các nhân phước
Phước đức an vui sẽ kéo đến.
Chúng sinh mong cầu quả an vui
Ở đời này hoặc ở đời khác
Tất cả đều được không còn nghi
Do tu phước mới được quả này.
Trưởng giả, cư sĩthương chủ
Bà-la-môn các hạng người khác
Tùy tâm thọ hưởng những giàu sang
Do tu phước mới có quả này.
Ở trong loài người ham muốn được
Vợ con cùng với các quyến thuộc
Hòa hợp tròn đầy, tâm sướng vui
Do tu phước mới có quả này.
Sắc tướng khiêm nhường đều tốt đẹp
Ý vui, mắt sáng nhìn khắp ca
Trong kiếp người được oai quang tốt
Do tu phước mới có quả này.
Nếu trong kiếp người muốn thành tựu
Quyến thuộc đầy đủ không tan lìa
Của báu luôn đủ dùng không hết
Do tu phước mới có quả này.
Muốn đủ phước lớn và túc mạng
Lời nói ra người nghe tin nhận
Trong kiếp người thường được kính phục
Do tu phước mới có quả này.
Nếu muốn thành tựu phước rộng lớn
Sinh ở đâu cũng có phước theo
Trong loài người luôn được vừa ý
Do tu phước mới có quả này.
Trong kiếp người muốn được thành tựu
Đầy đủ vô số những của báu
Lâu bền không giảm lại tăng thêm
Do tu phước mới có quả này.
Nếu muốn sinh châu Bắc Câu-lô
Chỗ sinh ra vô ngã, ngã sở
Tuổi thọ loài người được quyết định
Do tu phước mới có quả này.
Có đủ ruộng lúa mạ ngũ cốc
Không trồng tự nhiên có kết quả
Trong kiếp người thọ hưởng đầy đủ
Do tu phước mới có quả này.
Cây Kiếp ba cho áo tốt đẹp
Tự nhiên mà có chẳng làm ra
Tùy ý dùng để che thân thể
Do tu phước mới có quả này.
Lại muốn sinh châu Bắc Câu-lô
Trong kiếp người thọ hưởng không dứt
Sau khi qua đời sinh cõi trời
Do tu phước nên có quả này.
Long vương phước báo như Thiên tử
Thức ăn ngon ngọt như cõi trời
Ở đây thọ hưởng nhờ phước trời
Do tu phước nên có quả này.
Oai quang nhà vua rất thù thắng
Cũng đầy đủ như trời không khác
Mọi người tôn kính phước đức tăng
Do tu phước nên có quả này.
Chuyển luân thánh vươngTiểu vương
Quyền lực tùy theo quả vị mình
Đồng với Thiên chủ oai quang lớn
Do tu phước nên được quả này.
Trong kiếp người ai muốn có đủ
Tất cả bảy báu đều thành tựu
Chuyển luân vương dùng cũng không hết
Do tu phước nên được quả này.
Thân vua Tỳ-ma Chất-đa-la
Và tất cả vua A-tu-la
Thọ dụng cũng như trời Đế Thích
Do tu phước nên có quả này.
Thiên vương Tỳ-sa-môn tối thắng
Tứ Thiên vương bảo vệ thế gian
Thọ dụng các thứ càng vui vẻ
Do tu phước nên có quả này.
Vườn Hoan hỷ ở trong cõi trời
Nơi thọ hưởng tốt của chư Thiên
Thường cùng Thiên nữ vui trong đó
Do tu phước nên có quả này.
Lại có vô số các Thiên vương
Thiên chủ Đế Thích đầy đủ hết
Nhận nhiều tốt đẹp càng vui sướng
Do tu phước nên có quả này.
Trên trời tất cả tùy ý muốn
Sướng giàu thọ dụng không hề tận
Cung điện biến hóa đẹp để ở
Do tu phước nên có quả này.
Cõi trời mười công đức cao tột
Tuổi thọ, sắc tướngthể lực
Cõi trời này tốt hơn cõi trước
Do tu phước nên có quả này.
Ở cõi Dục các việc đều tốt
Sướng giàu đều đầy đủ như trời
Tự tại thọ hưởng nơi cõi Dục
Do tu phước nên có quả này.
Tùy theo điều ưa thích mong cầu
Trong cõi trời được dùng tùy ý
Không cần phải tốn công nhọc sức
Do tu phước nên có quả này.
Lại có các cõi trời Phạm chúng
Người tu định ở yên cõi định
Được an vui lìa xa sinh tử
Do tu phước nên có quả này.
Người được định từ định sinh vui
Tham muốn hết, niềm vui tăng trưởng
Được vui vắng lặng, bỏ các niệm
Do tu phước nên có quả này.
Lại có chúng Thanh văn của Phật
Đầy đủ công đức thù thắng nhất
Oai thần rộng lớn đều đã thành
Do tu phước nên có quả này.
Trong trăm kiếp siêng năng tu tập
Chứng đắc quả Bồ-đề Duyên giác
Oai thần phước cao tột đều thành
Do tu phước nên có quả này.
Vô lượng điều tốt không sánh được
Tất cả công đức trang nghiêm khắp
Thành tựu quả Chánh đẳng Chánh giác
Do tu phước nên có quả này.
Trẻ trung, xinh đẹp rất hoàn hảo
Dòng họ cao quý đức trang nghiêm
Người hầu quyến thuộc nhờ phước báo
Vừa ý sướng vui không ngại gì.
Tu phước lớn nên được sinh Thiên
Có đủ Thiên nữ và quả phước
Được vừa ý từ phước sinh ra
Tất cả ưa thích đều đã thành.
Do tu phước nên luôn luôn được
Trang nghiêm trong sạch trí tuệ tốt
Do phước luôn sinh tâm tin, sáng
Biện tài ghi nhớ đều hoàn hảo.
Do phước nên nói lời hòa nhã
Do phước nên được tiếng khen lớn
Tất cả đều do phước sinh ra
Các công đức thù thắng tốt đẹp.
Không có việc tốt nào ở đời
Mà không do phước để được thành
thế thường mong cầu người tốt
Thường nên tu tập các việc phước.
Ta thuở xưa nhờ tu chút phước
Nên được gặp Phật Tỳ-bà-thi
Tùy theo ý muốn được viên mãn
Rốt ráo thành tựu lớn như vầy.
Ta thuở xưa sinh trời lục dục
Làm chủ tự tại cõi trời ấy
Trải qua vô số ngàn kiếp sống
Ở đó mà hưởng vui cao tột.
Chưa từng khổ não không thiếu thốn
Sướng nhất trong loài người cũng vậy
Vua Chuyển luân vô cùng cao quý
Thọ hưởng đầy đủ các phước vui.
Nên biết phước có oai lực lớn
Dù sinh ra bất cứ nơi nào
Tùy sở thích ta đều có được
Tự thọ dụng hưởng phước an vui.
Sắc tướng học rộng đều viên mãn
Miệng tỏa hương hoa Ưu-bát-la
Tiếng hay người nghe đều ưa thích
Phát ra lời nói mọi người vui.
Do nguyện lực xưa kia ta phát
Nay được phước báo cũng như vậy
Sắc tướng công đức đều viên mãn
Người thấy đều sinh tâm vui mừng.
Đời này dòng họ rất rộng lớn
Của cải giàu sang khó lường hết
Y đẹp màu vàng Diêm-phù-đàn
Trang nghiêm thân thể rất đáng yêu.
Khắp cả thân thể tỏa hương thơm
Ngào ngạt cũng như hương chiên-đàn
Mùi thơm hương ấy bay đi khắp
Theo gió ai nghe cũng thích ưa.
Những điều mà mọi người mong cầu
Y phục, châu báu các nhạc cụ
Tùy theo sự suy nghĩ của ta
Tất cả đều có như ý muốn.
Trong lời dạy của Đại Thích Tôn
Pháp xuất gia ta được đầy đủ
Quả A-la-hán đã chứng thành
Ở nơi mát mẻvắng lặng.
Nay ta vượt qua đời sống này
Không còn thọ sinh thân sau nữa
Cũng không trở lại thế gian này
Đã vui chứng Niết-bàn vô lậu.
Do đã gây tạo nghiệp đời trước
Nay lãnh thọ quả báo lớn ấy
Ta coi việc đó lẽ đương nhiên
Phước báo cùng tận không thấy hết.

Sau khi Tôn giả Kim Sắc nói kệ, vô số trăm ngàn người được nghe các việc phước chưa từng có, không hạn lượng, không nghĩ bàn như vậy, tất cả đều kinh ngạc, phát tâm lạ kỳ đặc biệt rất cao cả, hết lòng tôn trọng giáo pháp thanh tịnh của Đại sư Thế Tôn, tùy theo ước muốn và năng lực của mình mà thực hành sự bố thí, phát lời thệ nguyện lớn làm các việc phước.

Bấy giờ, Tôn giả Kim Sắc vì tất cả đại chúng với vô số chủng loại có ở trong thành mà mở bày phước hạnh, làm cho họ phát sinh tâm tin kính, tùy theo đó mà giảng nói các việc phước. Sau đó, Tôn giả vận dụng thần lực từ trên không trở lại rừng bỏ thây chết, hướng đến Tôn giả A-nan và chung Tỳ-kheo, lần lượt đảnh lễ dưới chân, rồi lui ra ngồi một bên.

Bấy giờ, quốc vương A-xà-thế nghe việc đại thần Dũng Lệ, trước đây ở trong vườn của thương chủ Nhật Chiếu, do giận đồng nữ Ca-thi Tôn-na-lợi mà làm việc bất nghĩa. Đồng tử Kim Sắc vốn không có lỗi mà làm cho có tội, rồi sai người giết hại đem đi bỏ. Nghe rồi, vua tức giận nhìn khắp các cận thần, bảo:

–Các khanh nên biết! Người rất ác này gây tạo việc ác như vậy, các khanh hãy bắt đem đi giết.

Khi ấy, đại thần Dũng Lệ đang theo vua ở trong hội, nghe vua ban lệnh như vậy, sợ chết nên toàn thân run rẩy, tâm hồn mê loạn, như lửa thiêu đốt, liền hướng về phía trước vội vã bỏ chạy.
Lúc đó, các quan và vô số trăm ngàn người đều rất tức giận nên cùng nhau đuổi theo bắt lấy. Nhiều người bắt được đại thần càng thêm tức giận nên cùng nhau đánh đập, làm cho đại thần đau đớn khắp thân không thể chịu nổi.

Bây giờ, đại thần Dũng Lệ do gặp nguy ách nên khóc lóc đến trước Tôn giả A-nan, thưa:

–Cúi xin Tôn giả khởi tâm cứu giúp cho con qua nạn khổ này. Nay con không có chủ, không người giúp đỡ, không chỗ nương tựa.

Mọi người đều ghét bỏ, con sắp chết đến nơi.

Tôn giả A-nan liền bảo mọi người:

–Các người hãy dừng lại, chớ nên giết hại, ta sẽ nói với đại vương.

Nghe Tôn giả A-nan nói như vậy, mọi người đều thả đại thần Dũng Lệ không bắt giữ nữa.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan quay nhìn vua A-xà-thế. Vua suy nghĩ kỹ, rồi thưa Tôn giả:

–Nếu đại thần Dũng Lệ này có thể ở trong pháp của Tôn giả xuất gia thanh tịnh cho đến trọn đời làm người cận sự, ta sẽ y lời dạy của Tôn giả thả hắn ra.

Tôn giả đáp:

–Đúng như vậy.

Khi ấy, mọi người đều dừng lại không đánh đập gây khổ não nữa. Sau đó, Tôn giả A-nan bảo Tôn giả Kim Sắc:

–Ông hãy dùng lực gia trì chân thật làm cho mọi đau đớn trên thân thể của đại thần Dũng Lệ đều tiêu tan hết, trở lại nhẹ nhàng như trước.

Tôn giả Kim Sắc liền phát tâm bền vững rộng lớn, làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh, rồi phát lực gia trì chân thật, nói:

–Nếu pháp chân thật, lời nói chân thật thì đại thần Dũng Lệ tuy làm việc bất nghĩa đối với ta, nhưng ta thật sự đối với người ấy không khởi tâm làm tổn hại chút nào. Pháp này chân thật, lời nói chân thật thì mau làm cho các đau đớn trên thân thể của người này đều được nhẹ nhàng.

Khi nói như vậy, các đau khổ cua đại thần Dũng Lệ đều tiêu tan, trở lại nhẹ nhàng như cũ, có thể cử động được. Lúc ấy đại thần mới phát sinh tâm tin kính giáo pháp trong sáng của Như Lai, đến trước Tôn giả A-nan đảnh lễ dưới chân, thưa:

–Con xin được xuất gia trong giáo pháp thanh tịnh của Tôn giả, thọ giới Cụ túc, thành tướng Tỳ-kheo, ở chỗ Tôn giả thề nguyện tu phạm hạnh.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan liền truyền dạy pháp xuất gia cho đại thần. Cho đến khi đã thành Tỳ-kheo, trong chốc lát dứt sạch các phiền não, chứng quả A-la-hán. Sau khi chứng quả, liền bay vọt lên hư không, hiện ra các oai thần biến hóa, làm cho tất cả mọi người trong hội đều ngạc nhiên.

Khi ấy, Tỳ-kheo Dũng Lệ từ trên không hạ xuống, đến trước Tôn giả A-nan và chúng Tỳ-kheo lần lượt đảnh lễ dưới chân, rồi lui ra ngồi một bên.

Bấy giờ, thấy Tôn giả A-nan hiện oai lực thần thông rộng lớn hy hữu như vậy, tất cả các đại chúng đối với Tôn giả phát sinh tâm tin kính thanh tịnh tối thượng, vui vẻ hết lòng chiêm ngưỡng.

Tôn giả A-nan, tùy theo căn cơ từng loài mà thuyết pháp cho đại chúng.

Vô số trăm ngàn người trong chúng hội nghe thuyết pháp đều được lợi ích, chứng các quả khác nhau, hoặc có người chứng quả Tuđà-hoàn cho đến có người chứng quả A-la-hán, có người phát tâm Bồ-đề Thanh văn, cho đến có người quay về nương Phật, tin ưa Pháp, tôn trọng Tăng, tất cả đều được lợi ích, tùy theo căn cơ mà được trụ yên. Thương chủ Nhật Chiếu và vợ ở trong chúng hội này cũng được chứng ngộ chân lý.

Lại có vô số trăm ngàn chúng cõi trời phát tâm tôn trọng, tin kính thanh tịnh, mưa xuống những áo báu cõi trời, tấu nhạc trời, lại mưa đủ các loại hoa thơm đẹp ở cõi trời, như hoa Ưu-bát-la, hoa Bátnột-ma, hoa Câu-mẫu-đà, hoa Bôn-noa-lợi-ca, hoa Mạn-đà-la…, số lượng rất nhiều, cao đến đầu gối. Lại còn tung rải các loại hoa trời đầy khắp khu rừng bỏ thây chết để cúng dường với lòng tôn kính.

Sau khi thấy việc thần biến và những việc hiếm có xảy ra ở cõi trờicõi người như vậy, quốc vương A-xà-thế phát sinh tâm tin kính đặc biệt thanh tịnh tối thượng, mới nói lời khen ngợi:

–Lạ thay, lạ thay! Thật chưa từng có, oai lực công đức của Tôn giả A-nan cao cả và đặc biệt đến như vậy, lại hiện bày rất rõ, có thể khai mở giáo pháp thanh tịnh bậc nhất của Như Lai bằng oai lực thần thông rộng lớn.

Lớn thay, lớn thay! Giáo pháp thanh tịnh tối thượng do Đức Thế Tôn Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác tuyên thuyết bằng sự thấy biết cao tột đã giao phó cho Tôn giả Đại Ca-diếp, Tôn giả ấy đã làm theo một cách chân thật.

Khổ thay! Đức Như Lai, mặt trời Thánh đã ẩn mất! Ánh sáng công đức của Tôn giả A-nan lại lên cao chiếu tỏa khắp nơi.

Khổ thay! Đức Như Lai, mặt trăng rất đẹp đã ẩn mất! Không còn chiếu sáng như bị sao La-hầu A-tu-la ăn nuốt. Mặt trăng trí tuệ của Tôn giả A-nan lại chiếu sáng khắp cả hư không, soi tỏ mọi nơi, như rừng hoa Câu-mẫu-đà tốt tươi nở rộ.

Khổ thay! Đức Như Lai đã nhập Niết-bàn. Thế gian chia lìa rất là đau xót, cũng như lửa thiêu đốt, nóng bức xâm hại. Tôn giả trong sáng như đám mây lớn che khắp tất cả, diễn nói pháp thiện như mưa cam lồ thấm nhuần thế gian, làm cho mọi người đều được vui vẻ.

Lớn thay! Đức Như Lai ý nguyện tối thắng! Tôn giả chân chánh hiền lành, tất cả đều được viên mãn.

Vĩ đại thay! Giáo pháp vô thượng của Đức Như Lai! Tôn giả đã lãnh thọ và chỉ bày cho tất cả.

Vĩ đại thay! Giáo pháp vô thượng của Đức Như Lai! Tôn giả đã gánh vác chỉ bày rõ ràng.

Lạ thay! Tôn giả trong hàng Thanh văn được danh tiếng là cao tột hơn cả, hành động rất chân thật và đầy đủ như vậy, thật xưa nay chưa từng có, công đức thù thắng, oai lực thần thông rất rộng lớn, làm lợi ích thành tựu cho vô biên chung sinh, có thể giải thích rộng về Nhất thiết trípháp công đức lớn.

Lạ thay! Tôn giảthể hiện rõ và nêu bày oai lực thần thông rộng lớn, do lòng thương lớn sinh ra của Đại sư Thế Tôn, hiện ra trí tuệ làm lợi ích cho tất cả.

Sau khi khen ngợi Tôn giả A-nan xong, vua A-xà-thế phát sinh tâm tin kính tối thượng liền hướng về phía trước, toàn thân sát đất, đảnh lễ dưới chân Tôn giả, sau đó ngồi dậy, quỳ gối sát đất, vô cùng xúc động, chắp tay cung kính nói kệ:

Quy mạng Bậc tối thắng trên đời
Quy mạng Bậc học rộng như biển
Lạy Bậc hiếm có không nghĩ bàn
Lạy Bậc gánh vác giáo pháp Phật.
Pháp Phật thanh tịnh oai lực lớn
Lạ thay! Tôn giả chỉ rất đúng
Tôn giả hiem có, lại khó nghĩ
Khéo làm lợi ích cho thế gian.
Giáo pháp vô thượng của Như Lai
Giao phó cho Ca-diếp đại trí
Ca-diếp giao phó lại A-nan
Tôn giả chân thật thực hành theo.
Tôn giả làm lợi ích cho con
Cao cả không thể nghĩ bàn được
Cửa công đức: Nhất thiết trí Phật
Làm cho mọi người đều hiểu rõ.
Việc hy hữu Như Lai thế nào
Tôn giả làm lợi ích cũng vậy
Nhất thiết trí Phật, lòng thương lớn
Thảy đều khai mở cho tất ca.
Tôn giả hiện ra tướng Thanh văn
Con được thấy thật là hiếm có
Lòng thương lớn như lời Phật dạy
Là làm lợi ích khắp chúng sinh.
Nhiều người trong nước Ma-già-đà
Vui thay hôm nay được lợi ích
Tất cả chúng sinh đều buông thả
Nhờ Tôn giả nên được lợi ích.
Pháp Như Lai giao phó Tôn giả
Cũng là ngôi vị của Như Lai
Cũng ngang đồng với Đấng Thiện Thệ
Hãy ban cho nhiều việc hiếm có.
Nhờ bậc Thánh Tôn giả A-nan
Hiện oai lực lớn rất kỳ lạ
Từ đấy nhớ tưởng bậc Chánh giác
Hết lòng đảnh lễ và khen ngợi.
Lạy Đấng Thế Tôn Bậc Vô Úy
Đảnh lễ Chánh Giác Lưỡng Túc Tôn
Thanh văn hiện oai thần như vậy
Đều vì lợi ích cho chúng sinh.
Oai lực rộng lớn của Như Lai
Khéo mở bày làm cho rực rỡ
Thế Tôn tuy diệt cũng như còn
Tôn giả giáo hóa thật hoàn hảo.

Sau khi nói kệ khen ngợi Tôn giả, vua A-xà-thế thưa hỏi:

–Thưa Tôn giả! Thương chủ Nhật Chiếu và vợ ông ta đời trước tu nhân gì mà hiện tại được phước báo đặc biệt tốt đẹp như vậy? Được nhà cửa rộng lớn, giàu có, của cải dồi dào, ở trong pháp Phật được chứng ngộ chân lý?

Lại nữa, Tỳ-kheo Ca-thi Tôn-na-lợi và Tỳ-kheo Dũng Lệ do tu nhân gì mà đời này được giàu có, tích chứa nhiều của báu, sinh trong dòng họ cao quý, được xuất gia tu đạo trong pháp Phật, đoạn các phiền não, chứng quả A-la-han?

Tỳ-kheo Kim Sắc xưa kia tu nhân gì mà đời này được phước báo đặc biệt tốt đẹp, sinh trong dòng họ cao quý, giàu có, lại được thân tướng đoan nghiêm, có ánh sáng sắc vàng, thường tỏa chiếu, được mọi người thích nhìn và trìu mến, y phục tốt đẹp tự nhiên mặc lên thân, toàn thân thơm ngát như hương Chiên-đàn, trong miệng tỏa hương thơm hoa Ưu-bát-la theo gió bay đi ai cũng đều ưa thích. Lúc sinh ra trên hư không tự nhiên có mưa y phục tốt đẹp màu hoàng kim và hoa Câu-mẫu-đà, lại được đầy đủ các oai đức lớn, xưa nay chưa từng có như vậy? Sau lại được ở trong pháp Phật xuất gia tu đạo, đoạn các phiền não, chứng quả A-la-hán? Nguyện xin Tôn giả giải thích cho con.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bảo vua A-xà-thế:

–Đại vương nên biết! Những việc này đều do đời quá khứ đã tu các nhân phước, đến ngày nay quả chín hoàn toàn nên thọ hưởng phước báo.

Đại vương, ông hãy lắng nghe! Trong đời quá khứ, cách đây chín mươi mốt kiếp, có Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhan Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy trú ở thành tên Mãn-độ-ma-đế.

Bấy giờ, trong thành có một thương chủ tên là Diệu Nhĩ, nhà cửa rộng lớn, giàu có, của cải rất nhiều, ngày càng tăng thêm, chẳng khác gì Thiên vương Tỳ-sa-môn. Trong thành Mãn-độ-ma-để, gia tộc thương chủ là cao quý nhất, không ai bằng, vì giàu sang nên thương chủ ấy lấy vợ cũng thuộc dòng họ cao quý.

Sau đó, vợ chồng vui sống, người vợ mang thai, đứa con chưa sinh ra, nhưng thương chủ Diệu Nhĩ đã cùng với năm trăm thương nhân làm bạn đồng hành, muốn đi vào biển lớn để có thêm tài lợi. Thai nhi trong bụng người vợ ở lại nhà dần dần lớn lên.

Khi ấy, thương chủ và các thương nhân đã đi xa đến xứ khác, dựa vào khả năng kinh doanh cũng kiếm được chút ít tài lợi, nhưng tài lợi ấy hoặc bị lửa lớn thiêu đốt, hoặc bị giặc cướp, hoặc bị gia nhân của bạn đồng hành trộm lấy rồi bỏ đi… Ở nhà, người vợ mang thai đủ tháng, đến kỳ sinh, sinh được một Đồng tử, da dẻ thô cứng, đen đủi, dung mạo xấu xí, đủ mười tám tướng xấu, thật là đáng chán ghét, thân miệng tỏa ra mùi rất hôi thối, đến nỗi mùi hôi đó theo gió bay đi, người nhà thân thuộc ngửi nhầm cũng phải quay mặt chỗ khác.

Lại nữa, Đồng tử mới sinh ra, trong nhà tự nhiên có lửa bùng cháy, của cải sản vật đều bị thiêu đốt, không còn sót thứ gì.

Khi ấy, vợ thương chủ Diệu Nhĩ hốt hoảng kịp ôm lấy đứa con mới sinh, vội vã chạy ra khỏi nhà. Tất cả tài sản, vật dụng trong nhà đều bị lửa dữ đốt cháy hết, thiêu đốt không còn vật gì lửa mới tắt.

Vợ thương chủ vào trong nhà đã bị lửa hủy hoại, xé đôi chiếc ao của mình đem trải dưới đất rồi đặt Đồng tử nằm lên. Bà ta thở dài, tự than, nghĩ đến thương chủ Diệu Nhĩ rơi lệ, nói: “Khổ thay, khổ thay! Ta nay vì sao mà nhà cửa tan nát như vầy?”

Bấy giờ, các nô tỳ, quyến thuộc, người làm việc trong nhà của thương chủ, thấy lửa cháy thiêu đốt hết tất cả, rất sợ hãi, nghĩ: Chúng ta có phải do duyên xấu ác mà bị hủy hoại như vầy? Bèn cùng nhau bàn luận, rồi bỏ nhà thương chủ ra đi, chỉ có một cô hau giúp việc hiếu nghĩa tự nghĩ: “Nay nhà thương chủ Diệu Nhĩ, của cải thì bị thiêu đốt, quyến thuộc thì chia ly, không còn một chỗ nào để nương tựa. Vợ thương chủ đơn độc, không có bạn bè, không có chỗ nương nhờ, ta không nên bắt chước những người khác mà bỏ đi, ta nên ở lại với bà.” Rồi lại nghĩ tiếp: “Nhà cửa, tài sản của thương chủ đều bị thiêu đốt hết, cơm ăn một ngày còn chưa đủ, biết tính làm sao đây.”

Nghĩ như vậy rồi, người nữ giúp việc liền đi đến nhà những người bà con thân thích của thương chủ Diệu Nhĩ. Đến nơi cô nói: “Các vị nên biết! Vợ của thương chủ nay đang lâm vào hoàn cảnh thật là khốn khổ, bức bách, các vị nên tìm cách giúp đỡ, nuôi sống bà ta.”

Các người bà con thân thích, liền theo lời nói ấy, góp sức nuôi dưỡng vợ con thương chủ Diệu Nhĩ.

Chẳng bao lâu sau, trong nhà những người bà con đó, thường xảy ra những việc bất lợi, các người ấy cùng bàn với nhau: “Đứa con của thương chủ Diệu Nhĩ này rất xui xẻo, không có phước đức. Do sinh ra nó, mà nhà cửa, tài sản, tất cả đều bị tan hoại. Nếu chúng ta nuôi dưỡng nó thì nhà chúng ta cũng như vậy, không bao lâu cũng sẽ tan nát hết. Vì sao? Vì đứa con của thương chủ này, chỉ nghe đến tên là đã kinh sợ, huống gì là nuôi dưỡng.”

Các người bà con liền bảo người nữ giúp việc: “Từ đây về sau cô chớ có đến nhà chúng tôi nữa.”

Người nữ giúp việc bị các người bà con không cho đến, liền tự nghĩ: “Vợ thương chủ không còn bất cứ nơi nào để nương nhờ, ta tìm cách gì để cứu giúp đây? Hay là ta đến nhà người khác tìm việc làm để có tiền nuôi vợ thương chủ Diệu Nhĩ?”

Nghĩ như vậy rồi, cô ta liền đi đến nhà người khác, làm các việc phục dịch, thuê mướn, nhận được thù lao đem về đổi lấy thức ăn cho vợ con thương chủ. Người mẹ vì sinh ra Đồng tử có đủ các tướng xấu xí bèn đặt tên cho con là Đồng tử xấu tướng.

Từ đó, mỗi ngày người nữ giúp việc đều đi đến nhà người khác ra sức làm việc để kiếm ăn hàng ngày, sức lực càng tăng thù lao càng nhiều, một người làm việc không lười biếng nên cả ba người cũng sống được qua ngày. Cuộc sống kéo dài như vậy thật là khó khăn! Vợ thương chủ Diệu Nhĩ bỗng suy nghĩ: “Trong nhà ta trước đây có rất nhiều nô tỳ, người giúp việc, bà con quyến thuộc, nay chỉ còn có người nữ giúp việc này là còn ở nuôi giúp ta, nhờ vậy mà ta được sống còn. Trong dòng họ mẹ, chỉ có người này là thương mến giúp đỡ, nhưng sự việc này kéo dài thời gian lâu, người kia sức lực đơn độc, việc làm ngày càng nhiều, lẽ nào không mệt mỏi, chán nản. Khi đã mệt mỏi, kiệt sức rồi, người ấy sẽ bỏ đi. Hơn nữa, một người làm việc thì tiền công rất ít, do đó không đủ để nuôi sống. Ta nên chấp nhận nghiệp đời trước, nay quả đã như vậy, có khổ cũng đành cam chịu. Ta nên cùng đi làm thuê với người nữ giúp việc.”

Nghĩ như vậy rồi, bà ta liền kêu người nữ giúp việc lại, cùng đi đến nhà người khác làm việc, lấy tiền đem về sinh sống. Nhưng vợ thương chủ, thể lực rất yếu, không làm nổi những việc nặng nhọc, lửa đói thiêu đốt, bị các khổ hành hạ, trong chốc lát mệt quá mê loạn, tuyệt vọng cúi xuống dừng nghỉ, rơi lệ thở dài, nghĩ đến thương chủ Diệu Nhĩ, buồn khổ than: “Khổ thay! Ta vì sao phải chịu khổ nạn như vầy? Lẽ nào mọi người không thấy, ta trước kia từng ở trong thành này, là cao quý, giàu có nhất, nhà cửa, tài sản tất cả đều đầy đủ. Vì sao hôm nay phước đức lại hết, trở thành người tan hoại nhất trong thành này, hàng ngày phải đến nhà người khác làm thuê kiếm sống, chịu nhiều khổ não hành hạ?”

Khi ấy, vì đau khổ hành hạ, vợ thương chủ nhìn người nữ giúp việc mà rơi lệ. Lúc đó, người nữ giúp việc càng thêm buồn khổ, cũng chảy nước mắt, nói: “Khổ thay, khổ thay! Vợ thương chủ xưa giàu có, oai quyền, mặc toàn loại y phục quý tốt, xoa hương thơm, đeo những vòng hoa thơm đẹp đẽ trang sức nơi thân, trong miệng thường ngậm những mùi hương thơm để tiết ra những nước thơm. Lại như Thiên nữ thường sống trong nước Hoan hỷ, đầy đủ các thức ăn uống, y phục, châu báu, đồ trang sức, nô tỳ, bà con thân quyến nội ngoại, bẹn bè đông đúc, ai cần gì đều cho đầy đủ. Vì sao nay lại tan nát như vầy, tình cảnh thật vô cùng xót xa, đầu tóc rối tung, thân thể dơ bẩn, đầy rận rệp, rất hôi hám, là người thấp hèn chịu khổ cực nhất trong thành, phải đi làm thuê cho nhà người khác để kiếm miếng ăn. Tình cảnh tan nát ấy thật là thảm thương. Khổ thay! Vì sao phước đức bị tan mất nhanh như vậy? Khổ thay! Giàu sang tồn tại không bao lâu. Khổ thay! Đủ các nghiệp báo khác nhau.” Bấy giờ, than thở xong, người nữ giúp việc nói kệ:

Trước đây mặc y phục tốt đẹp
Trang sức bằng đủ loại châu báu
Giống như Thiên nữ rất xinh tươi
Nay ở ngõ hẹp rất cực khổ.
Cớ sao lúc này lại như vầy!
Tất cả phước đức đều tan hết
Thân thể tiều tụydơ bẩn
Mảnh áo rách nát che trên thân.
Trước đây hình dung như Thiên nữ
Mắt đẹp mọi người đều thích nhìn
Mà nay hôi xấu như ma quỷ
Người thấy đều sinh tâm chán bỏ.
Trước đây giàu có nhiều của báu
Giàu sang bậc nhất trong thành này
Luôn cung cấp cho người ăn xin
Nay lại khốn khổ và nghèo hèn.
Trước đây thọ hưởng nhiều vui vẻ
Dòng họ giàu sang của cải nhiều
Nay quả báo đến thật rõ ràng
Đau buồn khổ não theo nhau tới.
Khổ thay! Luân hồi thật đáng trách
Khổ thay! Giàu sang cũng không bền
Thế gian trước thọ hưởng vui sướng
Nhất định về sau chịu khổ, phiền.

Bấy giờ, vợ thương chủ Diệu Nhĩ cùng người nữ giúp việc hàng ngày đi đến nhà người khác làm thuê lấy tiền công. Do vì xấu tướng, phước đức của Đồng tử cạn kiệt, nghiệp lại tăng thêm, nên tiền trả công làm việc ngày càng ít đi. Về sau, từ lúc mặt trời mới mọc cho đến chiều tối, làm việc vất vả mà tiền công lại không được bao nhiêu. Cuối cùng những nơi làm đều cho nghỉ, không thuê nữa.

Khi ấy, vợ thương chủ bàn với người nữ giúp việc: “Nay chúng ta không còn chỗ làm thuê nữa, vậy chỉ còn đi xin ăn thôi.”

Nói rồi, họ liền cầm bát đi xin thức ăn. Về sau, khi Đồng tử xấu tướng đã trưởng thành, có thể đi lại, người mẹ bảo: “Con hãy tự mình đi xin ăn để nuôi sống.”

Nói rồi, bà đưa cho con một cái bát. Đứa bé cầm lấy bát đi khắp hang cùng ngõ hẻm xin ăn để tự nuôi sống. Do đứa bé ấy da dẻ đen, thô, dung mạo xấu xí, đủ mười tám tướng xấu đáng chán nên ai nhìn thấy cũng đều che mặt bỏ đi. Còn hễ đi đến cửa nhà người ta thì do gầy gò, mùi hôi bốc ra theo gió bay làm cho ai cũng bịt mũi, hoặc lấy cây, gậy, ngói, đá ném đuổi và nói: “Hãy mau đi khỏi nhà tao, giống như loài trùng bọ.”

Đứa bé đi khắp các thành ấp, băng qua các nơi đầy sỏi đá, dơ bẩn, đến đâu cũng bị người ta lấy cây, gạch, đá ném đánh xua đuổi. Nó giong ruổi cầu xin một bữa ăn mà cũng không được. Cái bát cầm trên tay cũng bị đánh vỡ nát. Vào lúc này, Đồng tử như là kẻ giặc ác bị người ghét bỏ, nên khóc lóc, hốt hoảng chạy về chỗ mẹ, thấy con, người mẹ vỗ về, thương xót nói: “Khổ thay! Con tôi nguy khốn thế này! Những người nào không thương xót, không sợ tội lỗi mà đánh đập làm cho con chịu khổ như vầy?”

Khi ấy, Đồng tử nghẹn ngào khóc, rồi nói kệ:

Con đến nhà người khắp mọi nơi
Chỉ để xin ăn nuôi mạng sống
Nhưng đều bị mọi người xua đuổi
Dùng cây, gậy, đá ném đánh con.

Nghe rồi, người mẹ ôm chầm lấy Đồng tử xấu tướng quá thương xót, than khóc và nói kệ:

Há chẳng phải con ở đời trước
Đã từng gây tạo nghiệp chẳng thiện
Nay mới bị nhiều người đánh đập
Chẳng phải đời này gây tội lỗi.
Thân con xấu xí lại khô gầy
Nên mất tất cả điều vui sướng
Chịu nghèo cùng khốn khổ gian nan
Không được người nào thương xót đến.
Khổ thay! Nhà ta bị tan nát
Thân con thương tổn, bát bị vỡ
Cái vật xin ăn đã không còn
Làm sao có thể nuôi mạng sống.
Cha mẹ xa lìa, con nương ai
Cửa nhà tan hoại suy sụp hết
Cái bát xin ăn cũng không còn
Bây giờ người nào nuôi con đây.
Bà con thân quyến và bạn bè
Chủ nhà, tôn trọng đều chia ly
Bát đi xin đã không còn nữa
Bây giờ người nào nuôi con đây.
Có người nào thấy con nghèo bệnh
Mà có thể phát tâm dũng mãnh?
Khổ thay! Tai họa đến thế này
Chắc do nghiệp tội con đời trước.
Khổ thay! Con là người hiền lanh
Cớ sao không được ai thương xót
Lòng người sao cứng như sắt đá
Cứ làm tổn hại như dao búa.
Đã tan nát cả chịu khổ nghèo
Lẽ nào còn nhẫn tâm làm hại
Thấy kẻ đi xin rất đói khổ
Không ai dũng mãnh phát lòng thương.
Đói khát ốm yếu tâm mỏi mệt
Chia ly tan nát không còn gì
Bệnh khổ bao vây còn gây phiền
Chao ôi! Tàn hoại lại tàn hoại.
Nghèo cùng khốn khổ rất sầu lo
Đói khát hành hạ không nói nổi
Xác thân khô cạn sức chẳng còn
Người thấy lẽ nào không xót thương.
Họ lại nhẫn tâm đánh đập con
Có phải đời trước con kiêu căng
Nên nay chịu các khổ bệnh này
Cực khổ không người tỏ lòng thương.
Nghèo cùng, đói khát, khổ hành hạ
Đã xin khắp nơi nào được gì
Lắm khi gặp được chút thực phẩm
Của quạ, chó ăn còn sót lại.
Khổ thay! Thân tôi thật vô phước
Không biết phải làm thế nào đây?
Nghiệp trước là nhân gây tan hoại
Nay là chủ nghiệp chịu như vầy.

Nói xong, vợ thương chủ càng thêm sầu lo, buồn khổ, dừng chân trước ngôi nhà bị tàn phá, tạm thời ở qua ngày, vì Đồng tử xấu tướng trước bị đánh đập, máu chảy bê bết khắp thân. Bà ta ôm lấy vết thương dính đầy bụi dơ ngói gạch, lấy tay lau sơ thân Đồng tử rồi từ từ dẫn con đi vào trong hẻm. Thấy con của các gia đình giàu có, con của thương chủ, con trưởng giả, Bà-la-môn giàu sang khác, mặc áo Ca-thi-ca tốt đẹp, sạch sẽ, thơm tho, trang sức các chuỗi ngọc báu, tai đeo các vòng ngọc, tay mang những vật rất quý giá, còn có các lọng hoa thơm đẹp sáng rỡ che chở.

Thấy như vậy rồi, nhìn mình đang trong tình cảnh rất gian khổ, nguy khốn, lại nhìn Đồng tử xau tướng nghèo cùng khốn khổ, ốm yếu, mặt mày tiều tụy, liền thở dài, nước mắt đầm đìa, nói kệ:

Xưa giàu có đầy đủ tất cả
Các loại ngọc nhiều như núi báu
Gia tộc rộng lớn và đông đủ
Thọ hưởng sự an vui tối thượng.
Nay mẹ con đều bị tan nát
Sống ở nơi bẩn thỉu tanh hôi
Phải khéo nói những lời van xin
Còn không có người cho thức ăn.
Buồn lo như sóng nước biển sâu
Lo sợ hành hạ không ích gì
Lớn tiếng kêu cứu càng khốn khổ
Chìm sâu theo dòng nước nghèo cùng.
Trong dòng nguy hiểm nhiều thủy tộc
Sóng lớn phá tan nguy lại đến
Bệnh tật hiểm nghèo làm hại thêm
Đắm chìm trong dòng nước nghèo cùng.
Bệnh khổ sầu lo như tên bắn
Như tiếng sư tử giữa đồng trống
Như chim tụ lại để giữ trứng
Nghèo cùng lo khổ cũng như vậy.
Xưa với người hiền không bố thí
Không phát tâm thanh tịnh cúng dường
Nay mẹ, con đều không có phước
Thấy các việc vui như oán thù.
Xưa từng không cho người ăn xin
Chán bỏ người ít phước hèn hạ
Nay mẹ con ta bị tan hoại
Gian nan khổ cực cùng nhau chịu.
Xưa kia đối với các Thánh hiền
Đã không cung kính lại coi thường
Nay mẹ con ta bị tan hoại
Và cũng bị người khác khinh khi.
Xưa từng quấy nhiễu các Thánh hiền
Lại còn đánh đập những người khác
Nay bị người dùng gậy, ngói, đá
Đánh đập, ném đau phải chịu thôi!
Xưa kia không tôn trọng người khác
Hoặc hay mở lời trách mắng người
Nay mẹ con ta bị tan hoại
Lại còn bị người khác mắng chửi.
Đời trước đã không tôn trọng người
Hoặc đối với người lại coi thường
Nay chịu cực khổ lắm gian nan
Trở lại bị người khác khinh ghét.
Đời trước mẹ con ta keo kiệt
Thấy người đến xin không hề cho
Nay nghèo khổ áo cũng không có
Trở lại không được người khác cho.
Xưa kia đối với việc của người
Gây ra nhiều chống trái, chướng ngại
Đời nay quyến thuoc đều chia ly
Thường bị khổ não và than khóc.
Xưa kia gặp người lúc lỡ đường
Không cho họ giường nằm, các thứ
Ngày nay ngủ ở nơi gai gốc
Quả báo rõ ràng phải thọ lấy.
Các giường tòa trang sức tốt đẹp
Xưa chưa từng bo thí người hiền
Nay phải nằm ngồi ở trên đất
Lại còn bị nhiều thứ gai gốc.
Xưa chưa từng cho người giày dép
Xe cộ cùng các thứ nhạc cụ
Ngày nay giẫm đạp đi trên đất
Tiếp xúc nhiều đủ loại gai chông.
Nghỉ đêm nhà cửa và đồ dùng
Xưa kia bỏn sẻn chưa từng cho
Ỷ mình sang giàu tự cao ngạo
Nay bị rơi vào chỗ bẩn, dơ.
Xưa kia từng thấy người tiều tụy
Khát nước cần xin miếng nước uống
Tuy thấy chẳng chịu cho nước sạch
Đời nay mặt mày chịu khô gầy.
Xưa kia người nghèo và bè bạn
Do đói khổ nên đến cầu xin
Không có tâm tôn trọng bố thí
Nay không có ăn lại hoảng loạn.
Xưa thấy người khác được lợi lạc
Liền phát sinh đủ cách ghét ganh
Đời nay bị làm người thấp hèn
Bị người khác sân giận ghét bỏ.
Xưa mẹ con ta ỷ giàu sang
Thường kiêu ngạo đối với người khác
Hoặc lại quấy nhiễu người có đức
Nay chịu quả xấu, khổ đành chịu.
Biển sinh tử xoay tròn, không đầu
Hết thảy bệnh khổ đều đáng sợ
Chưa từng bố thí thuốc chữa trị
Ngày nay bệnh nặng luôn hành hạ.
Cha mẹ, tôn trọng, người tu hành
Cho đến người nghèo cùng bậc nhất
Ăn uống, tắm gội không bố thí
Đời nay vô phước chịu khổ nghèo.
Nay ta đói khát rất mệt mỏi
Không có thức ăn uống, y phục
Các bệnh khổ hành hạ thân tâm
Nay có người nào cứu giúp ta.
Mẹ con ta muốn làm nô tỳ
Người nào chấp nhận, nguyện theo hầu
Để hai mạng người này được sống
Là việc rất khó được ở đời.
Khổ thay!Đời trước không làm phước
Khổ thay! Nay nghèo khó như vầy
Thành nước này là nơi giàu có
Nhưng không ai để ta cậy nhờ!

Nói kệ xong, vợ thương chủ Diệu Nhĩ đành chịu đói khát, buồn rầu. Mẹ con đành cam chịu theo nghiệp báo.

Lại nói về thương chủ Diệu Nhĩ.

Truớc kia qua biển lớn buôn bán để kiếm thêm của cải, chẳng may thuyền bè đều bị tan nát, của cải chìm hết. May nhờ một tấm ván nổi trên biển và một đứa ở nhỏ, ông đã qua khỏi ách nạn và được lên bờ yên ổn. Giữa đường, ông xin nghỉ đêm tại một làng gần thành Man-độ-ma, ở đó có một nông dân trông coi làng ấy. Thấy thương chủ này, vốn đã biết mặt nên người kia mới nghĩ: “Thương chủ này vì sao lại ốm o tiều tụy như vầy, tất cả vàng bạc, của báu, hàng hóa có được đều bị tan hoại! Chỉ nhờ đứa ở nhỏ giúp đỡ mà đến đây. Nay ta nên đem chuyện nhà của thương chủ bị cháy ra nói, hay là để sau này thương chủ sẽ tự biết?”

Nghĩ rồi, người kia đem nước cho thương chủ rửa tay và hai bánh đậu xanh cho ông ta ăn.

Bấy giờ, thương chủ Diệu Nhĩ tự suy nghĩ: “Ta không nên về nhà với tay không.” Bèn lấy một cái bánh cất lại, rồi bẻ cái kia ra chia cho đứa ở nhỏ cùng ăn.

Sáng hôm sau, ông tiếp tục đi, dần tiến về phía trước, thân thể khô gầy, sức lực yếu đuối, mệt mỏi, mặc áo dơ rách, dần dần cũng về đến thành ấp. Bấy giờ, Đồng tử xấu tướng đang ở trong căn nhà tan nát, vừa mới sáng sớm bỗng tự nghĩ: “Ta đói khát gầy mòn như vầy, mạng sống tuy còn, nhưng bây giờ lấy gì để sống? Ta nên tự tìm lấy cái chết.” Nghĩ rồi, bèn đến trước chỗ mẹ thưa: “Thưa mẹ, con nay muốn đi đến vườn của ông cha.”

Người mẹ đáp: “Con cứ tùy ý.”

Khi ấy, thương chủ Diệu Nhĩ đã vào thành rồi, dần dần đi về nhà cũ, thấy nhà cửa sụp nát, quyến thuộc chia ly, vắng vẻ hiu quạnh, chỉ còn một đống đất, thương chủ tự nghĩ: “Nhà cửa ta vì sao như vầy?” Thương chủ liền vào phía trong nhà tan hoại, thấy vợ mình và người nữ giúp việc đang ngồi im lặng, dung mạo vợ ông khô gầy, đen đủi, ốm yếu, che thân bằng y phục dơ bẩn. Thấy rồi, ông than lớn: “Khổ thay, khổ thay! Sao lại đến nỗi này.”

Nói xong, thương chủ ngất xỉu ngã quỵ xuống đất, được gió mát thổi vào thân thể, hồi lâu mới tỉnh dậy. Người vợ bèn hướng tới trước gào khóc lớn tiếng, rồi từ từ kể hết mọi chuyện trong nhà đã xảy ra. Khi ấy thương chủ liền thở dài, nói: “Kiếp trước, chúng ta đã không gieo trồng ruộng phước, lại không tu tạo các việc phước đức, nên nay phải chịu các việc tan hoại như vầy. Bây giờ ta nên làm thế nào, đi đến nơi đâu, có người nào thương giúp ta không, có người nào thương xót sự nghèo cùng khốn khổ này? Chúng ta bị chìm đắm trong biển lớn nghèo cùng, ai đến cứu vớt chúng ta đây? Chúng ta bị tan nát, chìm hãm trong vũng bùn, ai sẽ rửa sạch cho chúng ta? Chúng ta tự gieo mình vào trong dòng sông khổ rộng lớn, ai sẽ cứu vớt? Chúng ta gặp oán thù nghèo khổ, ai sẽ giúp chúng ta chống lại? Chúng ta đã trồng các gốc cây khổ, ai sẽ chặt đứt cho chúng ta? Chúng ta đã chôn sâu gốc cây nghèo cùng, ai sẽ đào lên cho chúng ta? Chúng ta bị ngọn lửa khát ái thiêu đốt, ai sẽ dập tắt cho chúng ta? Chúng ta bị con voi say đắm nhiễm những điều không sạch quấy nhiễu, ai sẽ giúp chúng ta điều khiển? Chúng ta bị các khổ, rắn độc, khí độc tấn công, ai sẽ giải trừ cho chúng ta? Chúng ta bị đội quân lớn nghèo cùng phá tan tất cả đến gây chiến, ai sẽ giúp chúng ta đánh đuổi? Chúng ta bị tất cả các xiềng xích nghèo cùng, lao nhọc, khổ não trói buộc thân tâm, ai sẽ giải thoát cho chúng ta? Chúng ta bị rơi vào hang sâu nghèo cùng, ai sẽ kéo chúng ta lên? Chúng ta đã ở lâu trong nhà nghèo cùng, đóng kín kiên cố, ai sẽ mở ra cho chúng ta? Chúng ta bị đám ác nghèo cùng đến gây hại, ai sẽ đuổi chúng đi? Chúng ta bị chìm đắm trong dòng hiểm ác, ai sẽ cứu vớt chúng ta? Chúng ta bị nỗi lo sợ, nghèo cùng, gian khổ hành hạ theo đuổi, ai sẽ cứu giúp chúng ta?”

Thương chủ Diệu Nhĩ thốt ra nhiều lời thảm thiết như vậy rồi lại lớn tiếng nói: “Ở trong ba cõi chỉ có Phật Thế Tôn là bậc cao quý hơn hết, không một pháp nhỏ nào mà không biết, không thấy, tất cả đều hiểu rõ. Chư Phật Thế Tôn pháp là như thế, có đầy đủ các tướng tốt, hào quang sáng rỡ như mặt trời chiếu khắp, lại như ngọc báu mani sáng sạch, giống như ngọc trong suốt không có tỳ vết; đầy đủ các đức tốt như hoa sen nở, như mặt trời mới mọc, như cây cung của Đế Thích xinh đẹp mềm dẻo; như viên ngọc trên búi tóc, hình bánh xe, ánh sáng rực rỡ, giống như ngọn lửa mạnh, lại có thêm dầu vào càng thêm sáng đỏ; lại như vầng may ánh sáng có đủ màu sắc; như thân chim công có các màu sắc. Ánh sáng Phật chiếu khắp tất cả phá tan các tăm tối, mê mờ. Sinh, già, bệnh, chết là cái lồng của ba cõi, oai lực trí tuệ của Phật có thể tháo mở ra, Phat đã chứa nhóm vô số trăm ngàn công đức trí lực thiện xảo mới thành tựu các tướng tốt. Ánh sáng của Phật trong sáng như voi trắng, hoa trắng, vải trắng, như tuyết, như ngó sen trong sạch đáng yêu. Ánh sáng của Phật sáng rỡ như vàng Diêm-phù-đàn phát ra hào quang rực rỡ như đỉnh núi cao rộng lớn đặc biệt hơn hết không ai sánh bằng. Lông trên thân Phật mềm mại đều xoay hướng về bên phải, ánh sáng xoay tròn tự tại chiếu soi, lông trắng giữa đôi chân mày hiện rõ tướng đặc biệt, mặt trong sáng như hoa sen mới nở.

Lại nữa, xưa kia Phật ở trong a-tăng-kỳ kiếp lớn đã đem bố thí nào là đầu, mắt, tay, chân, các phần trên của thân và cả máu thịt vợ con, nô tỳ, voi, ngựa, xe cộ, y phục tốt đẹp, đồ nằm ngồi, vàng bạc, châu báu, các vật của mình có cho đến ngôi vua, thành nước. Ngài có thể xả bỏ tất cả để tăng trưởng tâm Bồ-đề Vô thượng, tu hành các hạnh thù thắng rộng lớn, dùng oai lực vô ngại để thu phục quân ma, thanh tịnh tinh khiết như vầng trăng mùa thu, ngàn vầng ánh sáng vây quanh chiếu khắp, xuất hiện rõ ở trên cao như là núi chúa. Ánh sáng của vầng trăng chiếu soi làm tan hết những đám mây che, trắng trong như ngà voi, lại như biển sữa, như hoa trắng nở. Thân Phật sáng rỡ, thanh tịnh trang nghiêm cũng như núi vàng đầy đủ các tướng tốt đẹp, như núi Khổng Tước, như núi Lưu Ly có ánh sáng tràn đầy soi khắp.

Phật dùng lửa trí tuệ hiện chứng thiêu đốt các điều ác thành như tro bụi. Các Thiên vương thường đến cung kính, các Thiên vương này thường đội nón báu, gắn ngọc báu ma-ni và trang sức các loại vàng ròng tốt đẹp, lễ kính dưới chân hoa sen sáng của Thế Tôn. Hai chân Phật đều có tướng đặc biệt tốt, mười móng chân màu đồng đỏ, mỏng mướt rất đẹp, các ngón chân tròn như nửa vầng trăng, chân hoa sen trong sạch không nhơ đủ các tướng trang nghiêm giẫm đạp các cành cây tham ái chúng sinh.

Phật lại dùng ánh sáng trí tuệ chiếu soi, phá tan tất cả bóng tối làm mê mờ, xem khắp thế gian đều như bạn thân, dùng lòng lành không nhân duyên thương yêu chúng sinh, yên ổn ở trong cảnh giới trí lớn không nghĩ bàn, thu phục tất cả các loài rồng rắn độc dữ, tích chứa vô số trăm ngàn các hạnh đặc biệt cao đẹp, các công đức cao cả khó làm, từ vô lượng kiếp đến nay làm nhiều việc phước đức, dùng kiếm trí tuệ chặt đứt các gốc cây phiền não từ xa xưa của chúng sinh. Phạm vương, Đế Thích và các vị bảo vệ thế gian trong mười phương, các đại chúng đều ca ngợi công đức cao đẹp và chánh pháp của Phật.

Chư Phật Thế Tôn phát lòng thương lớn bảo bọc thế gian, thương yêu bình đẳng không phân biệt, dùng lời nói không hai, bình đẳng thuyết pháp, an ổn ở trong sự thấy biết vắng lặng, khéo nói ba loại pháp điều phục, vượt qua bốn dòng nước, vận dụng bốn thần túc, dùng bốn Nhiếp pháp tu hành trong thời gian lâu dài, giáo hóa cho chúng sinh, đoạn năm phần kết sử, vượt qua năm nẻo, đầy đủ sáu pháp, viên mãn sáu pháp Ba-la-mật, nở hoa bảy Giác chi, chỉ dạy tám Thánh đạo, tu trọn vẹn chín thứ đệ định, đầy đủ mười Lực, tiếng khen vang khắp mười phương thế giới, đạt được ngàn điều tự tại cao ngạo, ngày ba thời, đêm ba thời thường dùng ánh sáng của mắt Phật trong sáng xem khắp thế gian, biết: Pháp nào tăng, pháp nào giảm, pháp nào gian khổ, pháp nào nguy hiểm, pháp nào phiền não, pháp nào có nhiều gian khổ nguy hiểm thúc ép, pháp nào nhỏ, pháp nào lớn dần, pháp nào rộng lớn; biết người nào bị chìm đắm trong biển lớn sinh tử… thì sẽ cứu vớt họ; người nào bị La-sát và nghiệp phiền não ăn nuốt, sẽ cứu họ thoát khỏi; người nào bị rắn độc nghèo cùng làm cho bị thương thì sẽ giải trừ; người nào bị lửa sân giận thiêu đốt tim gan thì sẽ dùng mưa pháp cam lồ rót vào tâm trí; người nào bị các si mê ám chướng, phiền não che lấp thì sẽ dùng ánh sáng thanh tịnh chiếu soi, đưa họ an ổn ở yên trên núi cao chánh định vô thượng; người nào mắc bệnh lâu ngày rất đau khổ thì sẽ dùng thuốc tám Chánh đạo để chữa trị, làm cho họ hoàn toàn hết khổ đau; người nào lâu ngày bị trói buộc trong cảnh nhà nghèo kiên cố thì sẽ mở ra cho họ; người nào bị u mê không có trí, tối tăm che khuất con mắt sáng, ta sẽ dùng thuốc trí tuệ khai sáng cho họ; người nào bị gông cùm cực ác trói buộc thân thể thì Ngài sẽ cỡi trói cho họ.”

Bấy giờ, thương chủ lại nói kệ:

Biển cả, loài cá rồng nương ở
Thủy triều nước biển có khi sai
Phật tùy cơ giáo hóa chúng sinh
Đúng thời quyết định không sai mất.

Lúc này, Phật Tỳ-bà-thi Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác xem xét kỹ khắp thế gian này, thấy thương chủ Diệu Nhĩ bị chìm trong vũng bùn nghèo cùng, khốn khổ, gian nguy, lo sợ. Xem thấy rồi, Ngài phát lòng thương lớn, đắp y mang bát đi vào thành Mãnđộ-ma lần lượt khất thực. Các bậc Trưởng giả, Cư sĩ, Bà-la-môn, thương chủ, muôn dân, vô số trăm ngàn người trong thành thấy Phật Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác vào thành khất thực, đều đem thức ăn uống trong sạch, thơm ngon nhất cúng dường Phật, làm đầy bát của Thế Tôn Như Lai. Khi ấy, vì thương xót thương chủ Diệu Nhĩ, Đức Thế Tôn đi đến giữa ngả tư đường, ngồi yên ở đó. Thân Phật tỏa ánh sáng, các tướng đầy đủ như mặt trời mới mọc, trong sáng rất đẹp như mây giữa hư không, trang nghiêm cao đẹp như anh trăng mùa thu, như cây Kiếp ba, như cây san hô quý báu trang nghiêm, rất đẹp, lại như cờ vàng, cây vàng rạng rỡ cao quý. Như đống châu báu chất cao như núi báu lớn, tự tại không sợ như ngỗng chúa vui chơi trong ao sen vàng, bước đi tiến thẳng như voi chúa, ở cõi trời Ái-la Phược-la nơi ao sen, như sư tử chúa đầy đủ oai lực lớn, mang điềm lành lớn, trang nghiêm rất khéo đẹp biến khắp mười phương. Tướng “Thiên bức luân” dưới bàn chân Phật đặc biệt sạch sẽ, mềm mại, tốt đẹp. Thân Như Lai có hình chữ vạn, ở lòng bàn chân có tướng hình con cá đặc biệt trang nghiêm, mười ngón chân có màu đồng đỏ, ánh sáng rất đẹp như mặt trăng mới lên, các ngón chân hẹp, dài, sáng, sạch, mềm mại như sợi Đâu-la, mu bàn chân đầy đặn, mềm diệu, vuông vức, sạch sẽ trắng trẻo đặc biệt không ai bằng. Thân Phật tỏa ánh sáng chiếu khắp mười phương.

Ánh sáng ấy cũng chiếu đến căn nhà tan hoại của thương chủ Diệu Nhĩ.
Bấy giờ, Đức Phật Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác phóng ra ánh sáng rực rỡ thanh tịnh giống như vàng ròng mới ra khỏi lửa, giống như các loại hoa thơm đẹp nở ra tươi tốt trang nghiêm rộng khắp. Khi ấy, tại nhà tan hoại của thương chủ Diệu Nhĩ, trong ngoài đều được ánh sáng chiếu khắp. Thấy ánh sáng này thương chủ rất kinh ngạc, rồi lại thấy Phật Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác có đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, có ánh sáng vàng rực rỡ đầy đủ các màu sắc trang nghiêm. Thấy rồi, thương chủ liền phát lòng tin kính thanh tịnh đặc biệt rất cao cả và nghĩ: “Ta nghèo cùng không có vật gì dâng cúng Đức Thế Tôn.” Chợt nhớ lại lúc trước mình còn cất một cái bánh đậu xanh, bèn đem ra, bảo vợ: “Lúc trước, ta đem về một cái bánh đậu xanh, nay muốn dâng cúng Phật Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Xin Phật Từ bi thương xót làm cho vật nghèo hèn này thành vật cúng dường cao cả, vật tuy quá nhỏ nhưng tâm rất thanh tịnh, coi như gieo trồng chút hạt giống bố thí thanh tịnh, nguyện xin Phật nhận cho vật cúng dường này của ta. Chúng ta sẽ được cứu giúp khỏi bần cùng khốn khổ.”

Người vợ đáp: “Tốt lắm! Đây là việc làm cao đẹp nhất, biết đâu do căn lành này mà sẽ được ra khỏi nhân của sinh tử.”

Bấy giờ, thương chủ Diệu Nhĩ liền nhớ nghĩ: “Trước kia ở thành này, ta rất giàu có mà nay lại nghèo khổ, vật nhỏ bé thế này làm sao đem cúng dường? Trong thành ấy, các quan, thứ dân, Bà-lamôn, Trưởng giả, Cư sĩ, thương chủmuôn dân đều sẽ nhìn thấy ta đem vật nhỏ bé này dâng cúng Thế Tôn. Ta nên tìm một chiếc lá để gói lại, đừng để mọi người thấy.”

Nghĩ vậy, thương chủ liền vào trong nhà tan hoại của mình tìm kiếm lá, kiếm khắp mọi nơi nhưng không có. Khi ấy thương chủ tự trách mình: “Khổ thay, ta nay quá ư cực khổ. Chao ôi! Thật là đáng thương cảm.”

Nói rồi, ông liền ra khỏi nhà, phát sinh lòng tin thanh tịnh rộng lớn, đành phải cầm cái bánh dâng cúng Đức Thế Tôn Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, cung kính đặt vào trong bát trong sạch, cúng dường xong, đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, rồi phát nguyện: “Bạch Thế Tôn! Con nguyện đem chút ít căn lành làm pháp cúng dường với lòng tin thanh tịnh này, nguyện cho con qua đời này đến đời sau, không chịu nghèo khổ dù chỉ một ngày, được giàu có, tùy ý thọ hưởng đầy đủ các vật dụng.”

Phát nguyện xong, thương chủ Diệu Nhĩ lễ bái Đức Như Lai Tỳ-bà-thi. Nhờ thần lực của Phật làm hiện rõ phước báo thù thắng, khiến cho hình tướng khô gầy, yếu đuối của thương chủ không còn nữa, tướng đẹp đẽ tròn đầy trở lại như trước, những mong muốn được đáp ứng, nen rất sung sướng.

Khi ấy, Như Lai Tỳ-bà-thi Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác ra khỏi thành Mãn-độ-ma, trở lại đồng trống nơi Phật đã ở lúc trước. Bấy giờ, ở thành ấy, trong số các bạn bè trước kia của thương chủ Diệu Nhĩ có một người bảo: “Hôm nay, các ông đều đã thấy thương chủ Diệu Nhĩ bị tan hoại, nghèo cùng khốn khổ như vậy, chúng ta không nên bỏ mặc, mỗi người có thể giúp đỡ chút ít, không cần phải nhiều. Các ông nên cùng nhau giúp đỡ, đem đến vật gì đều đặt lại một chỗ.”

Trưởng giả ấy nói xong, các Trưởng giả kia đều đem vô số châu báu, vòng đeo tai, vòng đeo tay và các đồ trang sức quý báu khác có đến trăm ngàn thứ để giúp đỡ thương chủ. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, vàng, bạc, châu báu, các vật tốt đẹp đã được đem đến rất nhiều, chất thành đống cao.

Thương chủ Diệu Nhĩ thấy sự việc ban cho đặc biệt cao đẹp như vậy, liền bảo vợ: “Bà hãy xem những hạt giống sạch về lòng ban cho này để có thể phát sinh mầm thiện.”

Người vợ liền rất vui vẻ, từ xa hướng về phía Phật Tỳ-bà-thi cung kính đảnh lễ, rồi mặc y phục và mang đồ trang sức đi vào trong nhà.

Bấy giờ, Đồng tử xấu tướng trước đi đến vườn của ông cha, do đói khát, khổ não bức bách nên càng thêm xấu xí. Đồng tử rất buồn khổ, chán nản, tự nghĩ: “Ta do nghiệp tội gì đến nỗi như thế này? Đã không có phước, lại xấu xí, bị khổ não bức bách, sống có ích lợi gì nữa đâu. Ta nên tự tìm lấy cái chết.”

Nghĩ rồi, Đồng tử liền đến chỗ cây Ba-tra-lê rất cao, vịn níu cành cây leo lên, cành cây gãy, Đồng tử rơi xuống đất, thân thể tổn thương đau đớn vô cùng.

Chư Phật Thế Tôn bất cứ việc gì cũng đều thấy và cũng đều hiểu rõ.

Khi ấy, Như Lai Tỳ-bà-thi dùng mắt Phật trong sáng vượt xa mắt trầnthế gian, thấy Đồng tử xấu tướng đang chịu khổ não liền phát lòng thương rộng lớn, dùng thần thông đến khu vườn ấy, đem ánh sáng của lòng lành yêu thương do trăm kiếp tích tập chiếu đến thân Đồng tử. Khi Đồng tử được ánh sáng chiếu đến, mọi đau đớn về thân thể của Đồng tử đều tiêu tan hết, đói khát cũng tiêu trừ, tất cả được nhẹ nhàng an ổn. Đồng tử liền cử động trở mình thì nhìn thấy Đức Như Lai Tỳ-bà-thi Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác với ba mươi hai tướng trong sáng cao tột khó được, do trăm ngàn vô số kiếp tu tập gom lại, ánh sáng rất là đẹp và trang nghiêm chiếu khắp.

Thấy Đức Phật tướng tốt trong sáng cao đẹp, Đồng tử phát lòng tin an vui, chân thật, liền cởi tấm áo màu vàng đang mặc trên thân vừa đủ một thước đem dâng cúng Đức Như Lai Tỳ-bà-thi, phát lòng tin sâu xa trong sáng cao tột đặt lên chỗ Phật và cầm một cành hoa Ca-lan-nị-ca cùng dâng cúng Phật. Nhờ thần lực của Phật Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác nên tấm áo lại vừa vặn với thân Phật, cành hoa cúng dường giống tán lọng lớn to như bánh xe trụ ở trên Phật. Thấy tướng như vậy, Đồng tử xấu tướng càng tăng thêm lòng tin sâu, trong sạch rộng lớn, liền cung kính lễ dưới chân Phật phát thệ nguyện lớn và nói kệ:

Đồng tử xấu tướng xin dâng cúng
Như Lai tối thượng Lưỡng Túc Tôn
Con nguyện từ nay qua đời này
Đời sau sẽ được hình tướng đẹp.
Thân màu vàng ròng, quần áo tốt
Có ánh sáng rực rỡ trang nghiêm
Miệng tỏa hương hoa Ưu-bát-la
Thân thể ngào ngạt hương chiên-đàn.
Thân có sắc vàng, da dẻ mịn
Ai được nhìn thấy đều vui thích
Trừ bỏ hết tất cả nhiễm ái
Tất cả lời dạy đều thông suốt.
Lời nghĩa đúng lý đều lưu giữ
Xa lìa những gì không ích lợi
Những gì được thấy là trên hết
Đầy đủ hết các tướng trang nghiêm.
Nguyện sẽ được thành tựu quả Phật
Lòng lành luôn thương nhớ chúng sinh
Đức nhiều trong sạch an lành lớn
Tài sản châu báu được đủ đầy.

Khi Đồng tử xấu tướng nói kệ phát nguyện lớn này, nhờ thần lực của Phật và phước báo đặc biệt cao cả hiện rõ, nên ngay lúc ấy, tướng xấu xí của Đồng tử ẩn mất, Đồng tử trở thành người có sắc tướng đẹp đẽ, trang nghiêm, thân như có màu vàng, tự nhiêny phục màu vàng đẹp đẽ đáng yêu từ trên không bay xuống mặc nơi thân Đồng tử. Lại có các đồ trang sức như chuỗi ngọc, vòng ngọc đeo tay… Lại có các Thiên tử từ trên không mưa các thứ hoa trời thơm đẹp như hoa Ca-lan-nị-ca, hoa Ưu-bát-la, hoa Chiêm-ba-ca, hoa Bát-nột-ma, hoa Câu-mẫu-đà, hoa Mạn-đà-la… và làm mưa hương thơm cõi trời, như hương Chiên-đàn, hương Trầm thủy, hương Cungcâu-ma, hương Đa-ma-la, Bát-đa-la và các loại hương xoa. Trên không lại phát ra tiếng nói lớn: “Lạ thay! Đối với Phật Như Lai mà gieo trồng hạt giống ban cho trong sạch đáng yêu thì hiện tại được phát sinh ngay mầm cây cao tốt.”

Khi ấy, trong hư không lại tiếp tục có mưa hương hoa, số lượng rất nhiều chất cao đến đầu gối.

Bấy giờ, Như Lai Tỳ-bà-thi ra khỏi vườn, trở về đồng trống nơi Phật đã ở.

Lúc này, thương chủ Diệu Nhĩ đang ở trong nhà bỗng nói với vợ: “Con chúng ta đâu rồi?”

Người vợ đáp: “Hôm trước, Đồng tử đến thưa với tôi là muốn vào vườn của ông cha, nay chưa thấy về, ông nên mau đến khu vườn ấy tìm xem, coi chừng Đồng tử tự tử đó.”

Người chồng nói: “Vì sao con tôi đến nông nổi như vậy?”

Người vợ đáp: “Nó vì xấu xí, lại thêm nghèo khổ, đói khát bức bách nên như vậy.”

Thương chủ liền vội đến khu vườn tìm con. Tới nơi, ông thấy một Đồng tử tướng mạo đẹp đẽ, thân như sắc vàng, mặc chiếc áo cũng màu vàng, trang sức bằng các vật báu tốt đẹp, mọi người nhìn thấy đều yêu mến, ánh sáng đặc biệt tốt đẹp như Thiên tử. Thấy rồi, ông rất kinh ngạc liền nói: “Lạ thay, lạ thay! Người có phước đức đầy đủ mới sinh được đứa con như thế này.”

Nói rồi liền hỏi Đồng tử: “Cháu là con ai?”

Đồng tử đáp: “Cháu là con của thương chủ Diệu Nhĩ.”

Thương chủ bèn tự suy nghĩ: “Đồng tử này chẳng lẽ nói giỡn với ta.”

Nghĩ rồi, sinh nghi ngờ nên càng xem xét kỹ lưỡng, rồi lại nói: “Đồng tử, cháu nên nói sự thật. Cháu là con ai?”

Đồng tử lại thưa: “Vì sao ông lại tra hỏi như vậy? Thật sự cháu là con của thương chủ Diệu Nhĩ.”

Thương chủ lại nói: “Lạ thay! Đồng tử, sao cháu cứ nói giỡn như vậy.”

Thương chủ ngầm nghĩ sự việc, biết như thật, rồi lại nói: “Này Đồng tử! Vì sao? Con ta tướng mạo vốn xấu xí, cháu thì tướng mạo đẹp đẽ, do đâu mà xấu xí trở thành đẹp đẽ?”

Khi ấy, Đồng tử vui vẻ nói cho thương chủ nghe bằng kệ ca ngợi:

Con trước kia bị lửa nghèo cùng
Nóng bức thieu đốt tim gan con
Tìm cây cao tự ý gieo mình
Rơi xuống đất sắp bị mất mạng.
Thân thể bị thương rất đau đớn
Nằm lăn dưới đất thoi thóp thở
Khi ấy mê loạn không biết gì
Trong khoảng sát-na sắp bỏ mạng.
Bấy giờ Như Lai Tỳ-bà-thi
Xem thấy liền phát lòng thương xót
xót thương nên đại Thánh Tôn
Lại đến khu vườn cứu giúp con.
Thân Phật ánh sáng màu vàng ròng
Ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm
Sáng rỡ như vàng vừa mới chảy
Ánh sáng chiếu khắp mười phương cõi.
Thân con nhờ ánh sáng chiếu đến
Được trở lại an lành như cũ
Do đó tất cả trở nên vui
Được rưới giọt cam lồ tối thắng.
Các đau khổ, đói khát, não phiền
Mọi điều không tốt nơi thân con
Nhờ ánh sáng Từ bi Phật chiếu
Trong khoảng sát-na đều bị diệt.
Con thấy Bậc Đại Thánh Mâu-ni
Ánh sáng điềm lành cao đẹp quá
Do đấy con sinh lòng dũng mãnh
Tự đứng lên để được thấy Ngài:
Thế Tôn bậc an lành cao cả
Giống như núi báu cao hiện rõ
Lại như ánh chớp khắp mười phương
Thấy rồi con phát lòng tin sáng.
Cả thân tâm vô cùng vui vẻ
Cởi tấm áo nhỏ mặc trên thân
Đem dâng cúng dường Phật Thế Tôn
Phát lòng tin thanh tịnh tối thượng.
Có một hoa Ca-la-nị-ca
Con cũng đem dâng cúng dường Ngài
Do thần lực Phật ở trên không
Hoa như lọng lớn che trùm khắp.
Khi ấy thấy rồi con rất vui
Cung kính đảnh lễ dưới chân Phật
Con đem tâm thanh tịnh chân thật
Đến trước Phật phát lời nguyện lớn.
Nguyện con nhờ nhân cúng dường Phật
Từ đời này cho đến đời sau
Bỏ tướng xấu xí được đẹp đẽ
Rốt ráo ra khỏi biển tử sinh.
Nói rồi trời mưa áo màu vàng
Thân tướng trang nghiêm cũng màu vàng
Thân tỏa hương hoa Ưu-bát-la
Miệng thơm phức mùi hương Chiên-đàn.
Do oai lực nguyện tối thắng này
Mọi việc con làm đều viên mãn
Được nhiều tướng tốt đẹp như vậy
Sinh ra các tướng ý đều thích.
Mưa y phục tốt đẹp vô giá
Da màu vàng ròng lại mịn màng
Áo này đồng thời mặc cho con
Chỉ trong sát-na đều xuất hiện.
Khi ấy lại có các chúng trời
Trên không mưa xuống hoa thơm đẹp
Và các mùi hương thơm thanh khiết
Như là hương chiên-đàn, trầm thủy…
Trên không lại phát tiếng nói lạ
Và tấu lên nhạc trời vi diệu
Ca ngợi, nương về Phật Thế Tôn
Âm thanh phát ra vang khắp nơi.
Do việc làm này đều tốt lành
Nên con được tướng tốt như vậy
Ai nhìn thấy cũng đều vui vẻ
Màu vàng sáng rỡ không ai bằng.

Nghe nói kệ xong, thương chủ Diệu Nhĩ rất vui mừng, lông tóc dựng đứng, trong chốc lát phát sinh lòng tin thanh tịnh, chắp tay hướng về đức Như Lai Tỳ-bà-thi cung kính đảnh lễ, nhìn kỹ hình tướng đẹp đẽ của Đồng tử, rồi nói: “Đồng tử, hãy cùng với cha trở về nhà mình.”

Khi ấy, Đồng tử tướng tốt mới phát tâm tôn kính thừa nhận cha mình, liền hướng lên trước bái lạy cha, thưa: “Thưa cha kính yêu!” Thưa rồi, liền cùng cha trở về nhà.

Bấy giờ, Thiên chủ Đế Thích xem xét khắp hạ giới, biết rõ việc này liền nghĩ: “Thương chủ Diệu Nhĩ này đối với chư Phật hay làm các việc Phật, lẽ nào lại ở trong ngôi nhà tan nát?” Nghĩ rồi liền bảo Thiên tử Tỳ-thủ-yết-ma: “Ông hãy đến ngôi nhà tan hoang của thương chủ Diệu Nhĩ, biến hóa nó thành ngôi nhà khang trang, tốt đẹp, làm bằng bốn loại châu báu, có tám lớp với nhiều tầng cấp.”

Thiên tử Tỳ-thủ-yết-ma vâng lệnh, trong khoảng sát-na đi đến nhà của thương chủ Diệu Nhĩ tại thành Mãn-độ-ma-đế, biến hóa thành ngôi nhà khang trang, làm bằng bốn loại châu báu, có tám trụ cột, nóc, xà nhà, bậc cấp trước sau cao ráo tốt đẹp, có đầy đủ cửa, cửa sổ, mái hiên, tường vách, trên gác lầu có trang trí ngà voi như quả xoài, có các dây báu quấn kết thành các loại hoa, treo rũ xuống, cờ lọng treo xung quanh thẳng hàng rất đẹp, sạch sẽ trang nghiêm như ánh sáng mặt trăng. Lại có các loại giống như tuyết tơ lụa lẫn lộn cùng vô số vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh, mã não, đế thanh, đại thanh… đủ các loại châu báu quý đẹp trang trí nhà cửa. Ở mỗi bốn cửa đều để một cái bình vàng chứa đầy nước tám công đức. Lại có vô số trăm ngàn châu báu tốt đẹp đầy ở trong nhà.

Bấy giờ, thương chủ Diệu Nhĩ vừa về đến nhà mình, thấy nhà cửa sang đẹp quý báu như vậy, rất kinh ngạc nhưng lòng thì vui vẻ. Vợ ông ta cũng vui mừng đem bình vàng đựng nước trao cho chồng rửa, rồi thưa: “Thưa phụ chủ! Chỉ oai lực của phước đức mới có thể đem lại việc đặc biệt tốt đẹp như vậy! Nhà cửa sáng đẹp quý báu này do đâu mà được?”

Thương chủ Diệu Nhĩ lại càng vui mừng khôn xiết, phát sinh lòng tin trong sáng rộng lớn đối với Đức Như Lai Tỳ-bà-thi, lông tóc dựng đứng, chắp tay hướng về Đức Như Lai Tỳ-bà-thi Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác cung kính đảnh lễ, nói: “Phật là châu báu như ý lớn không thể nghĩ bàn, luôn làm ruộng phước cao cả tốt đẹp nhất.”

Nói rồi, nét mặt vui vẻ như hoa sen, thương chủ vui mừng nói kệ ca ngợi:

Công đức thành nhờ ruộng phước lớn
Xa lìa tất cả các tội lỗi
Con gieo hạt giống thí rất ít
Mà lại được phước ruộng lớn này.
Xưa tâm con ít biết ban cho
Đã không cho vật dụng tối thượng
Nay lại được châu báu trang nghiêm
Nhà cửa khang trang từ đâu có?
Trước kia nhà con rất buồn khổ
Không con gì chỉ có bức tường
Nay sáng sủa như trời mây tạnh
Trong sáng như ánh trăng mùa thu.
Trước đây nhà con đầy chỗ trống
Trùng, chuột đến làm nhiều hang ổ
Nay trang trí châu báu tốt nhất
Các cửa đều sáng sủa sạch đẹp.
Trước đây nhà con rất nhơ bẩn
Tiếng ghê rợn cáo kêu, chó sủa
Nay nhà cửa tốt đẹp trang nghiêm
Châu báu đầy dẫy từ đâu có?
Trước đây nhà con đầy trùng rắn
Tấm áo rách nát không có gì
Nay đầy đủ y phục tốt đẹp
Dây ngọc châu rũ thật dễ thương.
Nhà con xưa lửa cháy tan rụi
Chó đến nhai cắn càng thêm nhơ
Nay rộng rãihoa thơm đẹp
Canh đẹp trang nghiêm từ đâu đến?
Xưa kia nghèo khó luôn buồn khổ
Thường khóc than nước mắt như mưa
Nay đất báu sạch sẽ không nhơ
Nước hương thơm chiên-đàn rưới khắp.
Xưa bị lửa lớn thiêu cháy hết
Quạ đậu trên cửa rất bẩn nhơ
Nay trang trí bằng ngọc châu đẹp
Ánh sáng màu vàng từ đâu đến?
Xưa kia ở nhà cửa tan hoại
Trong nhà trống trải chẳng có gì
Nay cửa được làm bằng thủy tinh
Cao rộng tốt đẹp từ đâu đến?
Xưa kia ở trong nhà tan hoại
Sụp đổ rách nát người khinh ghét
Nay nhà cửa tốt đẹp khang trang
Các cột nhà chạm ngọc ma-ni.
Xưa con nghèo cùng khổ bức bách
Tiếng buồn lo vang khắp bốn phương
Ngày nay khúc nhạc vang lên khắp
Tiếng nhạc không hầu nghe trong thanh.
Xưa kia nhà con nhiều nhơ bẩn
Đầy dẫy xương khô đốt sót lại
Nay nhiều loại châu báu yêu thích
Trang trí nhiều khắp ở trong nhà.
Xưa kia vật quý như ngà voi
Đều bị thiêu rụi không còn gì
Nay trang trí vật quý đế – thanh
Xung quanh nhà đều bằng thủy tinh.
Các giường tòa đẹp xưa thiêu cháy
Tan rụi hết phải nằm dưới đất
Ngày nay các loại quý tốt đẹp
Giường tòa, y phục lại đầy đủ.
Xưa kia lấy đất làm giường tòa
Đầy dẫy các thứ vật nhơ bẩn
Nay nệm lụa mịn màng tốt đẹp
Ngồi tòa an lành được thích ý.
Xưa ở nơi gai gốc nhơ bẩn
Trải cỏ làm giường để ngủ nghỉ
Ngày nay tơ lụa mỏng mịn màng
Dùng trải giường nằm, rất thích ý.
Xưa lửa thiêu đốt các đồ vật
Trong nhà mùi hôi xông lên khắp
Ngày nay hương thơm xông ngào ngạt
Tỏa khắp trong nhà thật đáng ưa.
Xưa kia trong ngoài đều thiêu đốt
Cháy rụi tan hoại thật họa lớn
Nay các loại châu báu tốt đẹp
Trưng bày khắp nơi rất ưa thích.
Xưa ở nhà rách nát, dột lủng
Chim quạ lại đến thải phân dơ
Nay nhà cửa rộng lớn đẹp đẽ
Châu ngọc treo giăng càng trang nghiêm.
Xưa kia nghèo khổ luôn thúc ép
Duỗi tay gào khóc nhiều lo sợ
Ngày nay treo đủ cờ lọng báu
Thanh tịnh trang nghiêm thật tuyệt vời.
Đảnh lễ Như Lai Đại Thế Tôn
Là thầy ruộng phước con quy kính
Ngài phát lòng thương đến nơi này
Cứu giúp con khỏi biển nghèo cùng.
Cúi lạy bậc tối thượng thế gian
Nhất thiết trí hiệu Tỳ-bà-thi
Phát lòng thương xót đến nơi này
Khiến con được mọi việc tốt lành.
Như cung điện rộng đẹp cõi trời
Công đức trang nghiêm không thể bàn
Phát lòng thương xót đến nơi này
Khiến con có được nhà cửa đẹp.
Nay con hướng về thầy ba cõi
Cao lớn cũng như ngọn Chỉ-la
Nay chỗ ở của con cũng giống
Như ánh trăng mùa thu trong sáng.
Con nghĩ xưa ở thành lớn này
Phải chịu nghèo cùng và khốn khổ
Do lòng thương Phật đến nơi này
Được nhiều của cải giàu bậc nhất.
Nay con mới gieo chút ít giống
Hưởng lấy lợi lớn lại quá nhiều
Phật ở thế gian là trên hết
Người sao lại không biết cúng dường.

Nói kệ xong, thương chủ Diệu Nhĩ ở trước Đức Phật Thế Tôn phát sinh lòng tin thanh tịnh mới suy nghĩ: “Đức Phật Thế Tôn hiện đến nơi này, làm cho ta được nhiều việc đặc biệt tốt đẹp. Ta nên thỉnh Phật Thế Tôn và chúng Thanh văn đến nhà để ta được cúng dường.” Nghĩ như vậy rồi, thương chủ liền ở trước Phật Tỳ-bà-thi Như Lai và chúng Thanh văn phát tâm kính trọng rộng lớn và cung kính mời các vị về nhà, chuẩn bị thức ăn với một trăm vị thơm ngon nhất, cúng dường trong bảy ngày. Phật thọ trai xong, thương chủ đảnh lễ dưới chân Phật, thưa: “Bạch Thế Tôn! Từ nay cho đến suốt đời, con nguyện xin cung cấpcúng dường tất cả vật thọ dùng.”

Khi Đức Phật đến nhà thương chủ thọ cúng dường thì nhà kế bên cũng có một người giữ ruộng, vào lúc sáng sớm đến nhà chủ ăn cơm xong trở về, giữa đường nghe Phật Thế Tônoai đức lớn, thương chủ Diệu Nhĩ chỉ đem một chiếc bánh đậu xanh dâng cúng Phật, liền được tướng tốt thù thắng. Nghe rồi, người ấy liền hỏi một vị Ưu-bà-tắc bên cạnh: “Này Nhân giả! Đức Phật Thế Tôn kia có đầy đủ những oai lực Thánh đức nào?”

Ưu-bà-tắc đáp: “Ngươi nên biết! Công đức của Phật Thế Tôn cao vời vợi rộng lớn không thể lường, tôi làm sao có thể nói được. Tuy nhiên tôi có thể nói tóm lược việc đó, ông nên lắng nghe: Như Lai Tỳ-bà-thi Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác có đầy đủ tướng cua bậc đại trượng phu cao tột trang nghiêm, thanh tịnh, có ánh sáng rực rỡ giống như núi vàng, ánh sáng mặt trời, mặt trăng không thể sánh bằng; là người dũng mãnh, người này có đủ giới đức, thân tướng tốt đẹp, lời nói hoàn hảo, tâm ý tịch tĩnh, rất trang nghiêm, nét mặt hiền hòa; người luôn làm việc thiện, biết rõ các pháp thiện; người rất khéo nhẫn nhục, thuyết pháp giỏi và thông suốt; người khéo điều phục, khéo giáo hóa; người rất hiểu biết luật nghi, người khéo nhu hòa luôn nhớ báo ân, khéo quan sát kỹ, các căn tịch tĩnh, dứt trừ các ham muốn yêu thương không còn sân giận, phá các si mê, mở bày giải thoát, sáng lập chánh pháp, ngăn chận đường ác, chỉ bày đường chân chánh, hiện rõ sự chân thật, đoạn trừ sự nghi ngờ, dứt hết phiền não, phá tan các ma, cứu giúp thế gian; thật là đại Pháp vương, bậc Đại sĩ chân thật, bậc tôn kính của thế gian, cờ trí tuệ lớn, lời nói thông suốt, kho phước đức lớn, nguồn gốc chánh pháp lớn, bậc đại Thánh dẫn đường, đảm nhận chánh pháp lớn, bậc nghe và giữ gìn chánh pháp lớn, ruộng phước cúng dường lớn, là chỗ cung kính cúng dường của Phạm vương, Đế Thích, bậc thù thắng ra khỏi thế gian, làm lợi ích lớn cho chúng sinh. Bậc tối thượng đã đoạn trừ hết các lậu, dứt hết các khổ, bậc đại A-la-hán có hiểu biết rộng lớn tất cả luật pháp, tự tại không lo sợ, các việc bàn luận hỏi đáp đều thông suốt, không bị tất cả các lỗi lầm làm ô nhiễm, mở bày tất cả các giáo nghĩa rất cao đẹp. Đối các sắc tướng, giới hạnh, thiền định, tinh tấn, trí tuệ tuy đã viên mãn nhưng không chấp trước, giảng nói các pháp không bị chướng ngại, giải thoát các khổ não, xa lìa các lý luận vô ích, chỉ dạy pháp tăng, giảm cho người, dùng lòng lành lớn làm phương tiện ban bố cho chúng sinh, đầy đủ sự thắng giải trong sạch, dùng chánh pháp vô thượng để chỉ bày điều phục, làm thầy thuốc giỏi chữa lành các bệnh, đầy đủ trí tự nhiên, ba cõi đều tôn kính, thân tướng nghiêm trangvô lượng ánh sáng, bớt ham muốn biết đủ, hiểu biết đúng lúc, đúng nghĩa, đầy đủ trí chân chánh, bẻ gãy phiền não, diệt trừ lửa ba độc, tám pháp không lay chuyển. Chúng sinhthế gian rất nhiều đau khổ, phiền não chìm đắm trong hố bùn vô trí. Phật xem xét xong dùng trí lực tùy theo đó mà cứu độ, Phật khởi tâm thương xót đến tất cả chúng sinh, dùng sắc tướng oai lực trí tuệ tối thắng ban bố, làm cho họ thoát khỏi. Phật giải thoát các đau khổ, các nỗi sợ hãi của thế gian làm cho họ được an ổn. Tất cả chúng sinh chìm đắm trong bùn sinh tử, Phật đều khéo léo lôi ra. Tất cả chúng sinh bị ngọn lửa thiêu đốt tâm can, Phật sẽ ban cho dòng nước mát mẻ. Chúng sinh nào lười biếng, Phật mở bày hạnh mạnh mẽ tiến tơi. Phật khi xưa trong vô số trăm ngàn đời đã từng bố thí thức ăn uống, y phục, giường tòa, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, đầu mắt, máu thịt, cả các phần thân thể, đối với người khôn, kẻ ngu đều bình đẳng, lìa các tướng có. Đối với các chúng sinh Phật dùng các phương tiện tư duy làm lợi ích, lúc nào Phật cũng xem xét khắp thế gian. Tất cả chúng sinh bị khổ, già, bệnh, chết, ngu mê, loạn động, chìm đắm, không nơi nương tựa, hoặc hiện ở trước, hoặc không hiện ở trước, với tâm thương xót, Phật xem xét khắp rồi an ủi họ. Chư Phật thường nói, nếu không có các công đức bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ thì dù có trải qua vô số trăm ngàn cau-chi kiếp cũng hoàn toàn không thể được quả Bồ-đề Vô thượng tịch tĩnh. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác siêng tu các hạnh, là cao tột hơn hết trong tất cả chúng sinh, đầy đủ tiếng khen lớn, thực hành pháp an ổn, các tâm phân biệt hiểu rõ đều tròn sáng, rộng lớn, siêng năng tinh tấn lời thệ nguyện phát ra rốt ráo, không hư dối, phá trừ si mê ám chướng, xa lìa tội lỗi, đầy đủ các đức, tâm vắng lặng, điều phục ba nghiệp, không vướng mắc vào các căn cảnh, được tự tại, không có đời sau, đầy đủ vô lượng ánh sáng oai đức, là kho tàng trí tuệ lớn trang nghiêm, tướng trong sáng như trăng tròn, Thiên vương, Long vương, A-tu-la vương, tất cả Thien chúng đều cung kính, tin tưởng, lễ bái, khen ngợi, phước tuệ viên mãn, là bậc đại Thánh trong các vị Thánh, giống như ánh sáng của vàng mới vừa nung xong, tự tại trong các pháp, tối thượng trong các pháp, cứu mình và cứu người, đến bờ bên kia, là bậc rất tôn quý trong tất cả các bậc đứng đầu, như đại Long vương, giải thoát, không sợ, là trời trong các cõi trời.

Này thiện nam! Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác có đầy đủ công đức lớn tối thắng vô lượng như vậy, bằng ngôn từ ít ỏi làm sao có thể khen ngợi hết được.”

Lúc này Ưu-bà-tắc lại nói kệ ca ngợi:

Sắc tướng nhu hòa gồm các đức
Tốt đẹp tròn đủ rất trang nghiêm
Ngoài Đức Như Lai Bậc Đại Giác
Bậc tối thượng không có ai bằng.
Lời nói của Phật không ai hơn
Trí Phật thông suốt không ai bằng
Không ai hiểu rõ được như Phật Phật
Đại Mâu-ni của muôn loài.
Phật là đại pháp khí hơn hết
Phật là an vui cao đẹp nhất
Không ai khéo điều hòa như Phật
Phật: Bậc Tôn quý trong muôn loài.
Phật là Đại sư không thể sánh
Phật là cha lành không ai bằng
Phật là bạn tốt không ai hơn
Không ai thương yêu được như Phật.
Không ngã, không sợ ai cũng phục
Không nhiễm, xa lìa nơi ồn ào
Vượt qua hiểm nạn trong ba cõi
Không oán, không lo, thường trong sáng.
Tướng tốt đẹp thanh tịnh đặc biệt
Đầy đủ niệm lực, đại tự tại
Mở cửa lợi ích khắp chúng sinh
Phật tối thắng thượng không gì sánh.
Gom tụ các công đức chân thật
Lời nói rất hay đúng như pháp
Phật là tối thượng trong ba cõi
Ông nên tin nhận công đức ấy.

Nghe Ưu-bà-tắc kia nói những công đức rất cao cả của Như Lai rồi, người giữ ruộng liền phát sinh lòng tin thanh tịnh, lông trên thân dựng đứng và nói: “Thương chủ Diệu Nhĩ chỉ đem một cái bánh đậu xanh dâng lên cúng dường Đức Như Lai Tỳ-bà-thi, là gieo trồng ruộng cúng dường trong sáng cao tột. Trong khoảng sát-na, thương chủ liền được xa lìa các nghèo khổ. Nhờ thần lực của Phật, đem một vật dù rất nhỏ nhưng với tâm trong sạch cúng dườngnguyện lực đã thành tựu. Do nhân duyên cao đẹp này nên được châu báu như ý.

Đức Như Lai Tỳ-bà-thi Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác này đã xuất hiện ở đời, trải qua câu-chi na-hữu-đa trăm ngàn kiếp, ta không thể nào được gặp, cũng rất khó thấy, nhưng Phật Thế Tôn ở trong trăm ngàn kiếp tu thành đạo Chánh giác Vô thượng, luôn làm lợi ích cho chúng sinh, có vô lượng phước đức, tùy theo chúng sinhphát khởi tâm thương rộng lớn, dùng phương tiện để cứu độ chúng sinh thoát khỏi vòng khổ lớn của sinh tử, phiền não, rắn độc, lòng lành luôn nghĩ nhớ chúng sinh cũng như thân thuộc bạn bè. Ta hôm nay, nhà không có tài sản, tuy lâu nay làm việc nhưng không để dành được gì, sẵn đây chỉ có tấm lòng trong sạch đem phần ăn có được của người giữ ruộng mà ban cho, tuy rất ít nhưng cũng xin dâng cúng và xin phát nguyện: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được viên mãn ý nguyện cao cả của mình.”

Khi người giữ ruộng nói như vậy, Đức Như Lai Tỳ-bà-thi Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác liền dùng thần lực hiện ra trước mặt người ấy. Người giữ ruộng thấy Phật Thế Tôn oai đức rất thù thắng, xưa nay chưa từng thấy, thân tướng đoan nghiêm giống như núi vàng, ánh sáng rực rỡ làm che mờ ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Thấy rồi, người ấy liền phát sinh lòng tin yêu rộng lớn cao cả, với tâm trong sạch đem thức ăn có được dang lên Đức Thế Tôn Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác và để vào trong bình bát sạch của Phật. Cúng dường xong, người ấy lại càng tăng thêm lòng tin sâu xa thanh tịnh, đảnh lễ sát chân Phật, phát lời nguyện lớn, nói kệ khen ngợi:

Do cúng dường Phật được phước đức
Nguyện hết đời này sinh đời sau
Con phát lòng thương xót cao cả
Xem khắp chúng sinh làm lợi ích.
Như Phật chứng đắc đạo Vô thượng
Như Phật đạt thành các tướng tốt
Con cũng sẽ thành Phật như vậy
Được tất cả các pháp vô thượng.
Như Phật giảng nói rõ chánh pháp
Như Phật thành tựu Nhất thiết trí
Con cũng sẽ được quả như vậy
Đủ Nhất thiết trí khéo nói pháp.
Như Phật thu phục các quân ma
Khéo chuyển bánh xe pháp trong sáng
Con đắc quả và làm như vậy
Thu phục quân ma, giảng chánh pháp.
Phật ở trong biển lớn sinh tử
Cứu mình cứu người để được ra
Con cũng sẽ cứu các chúng sinh
Ra khỏi cùng về đạo Vô thượng.

Bấy giờ, Đức Như Lai Tỳ-bà-thi Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác liền tạo ra đám mây rất rộng lớn, gầm tiếng gầm của sư tử, thọ ký cho người giữ ruộng: “Này thiện nam! Vào đời vị lai, ông sẽ được thành Phật hiệu là Nhất Thiết Nghĩa Thành, làm bậc thầy trong ba cõi, đầy đủ oai đức lớn, dùng lực đặc biệt cao cả điều phục quân ma, làm các việc Phật như Phật đã làm.” Đức Như Lai Tỳ-bà-thi thọ ký quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của người cho người giữ ruộng rồi trở về chỗ cũ. Tất cả dân chúng trong thành Mãn-độ-mađế đều được nghe sự việc này cho đến nhà vua, khi đã nghe sự việc này roi, liền nghĩ đến năng lực căn lành của người giữ ruộng. Nhà vua bèn bảo sửa soạn xe cộ để đi đến chỗ người giữ ruộng, phát lòng tin tưởng kính trọng, trang sức tòa ngồi trên voi báu, rồi mời người giữ ruộng cỡi voi ấy, cùng đến cung vua và trao cho người đó một nửa ngôi vua.

Lúc ấy, người giữ ruộng thưa với vua: “Tâu đại vương! Lời dạy của đại vương chẳng phải là điều thần mong muốn. Chí nguyện của thần là ưa thích xuất gia, tu phạm hạnh trong sạch.”

Nhà vua nghe vậy, liền thuận theo ý nguyện của người giữ ruộng, rồi trở về cung. Người giữ ruộng cầu xin Phật xuất gia, ở trong giáo pháp của Phật Tỳ-bà-thi cho đến trọn đời tu hành phạm hạnh. Sau khi qua đời, người ấy được sinh lên cõi trời Hóa lạc, cho đến thân cuối cùngĐồng tử tướng tốt đẹp kia. Do đầy đủ phước đức thù thắng nên được mọi người kính trọng, như vua đang ở trên ngôi dùng luật pháp điều hành lãnh đạo đất nước, trải qua sáu vạn năm dùng chánh pháp cai trị, giáo hóa, sau khi qua đời được sinh lên cõi trời Đâu-suất.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bảo vua A-xà-thế:

–Này đại vương! Ý ông thế nào? Nhà vua có tướng tốt đẹp ở trong giáo pháp của Phật Tỳ-bà-thi kia đâu phải người nào khác, chính là Tỳ-kheo Kim Sắc. Nhà vua ấy, khi xưa gặp Phật Tỳ-bà-thi Như Lai, bởi nghèo khổ nên cởi tấm áo nhỏ trên thân, đem cúng dường Phật, cúng dường rồi phát lời thệ nguyện lớn. Do nghiệp thiện này mà được ở trong cõi trời, người thọ lấy sự an vui thù thắng, sinh ra ở nơi nào đều có thân màu vàng, áo màu vàng tự nhiên đắp mặc trên thân. Lúc sinh ra trời mưa xuống các thứ hoa tốt đẹp, cho đến ngày nay cũng còn đầy đủ phước đức lớn, thân có áo tốt đẹp, cở ra rồi có trở lại, đầy đủ các tướng tốt đẹp.

Thương chủ Diệu Nhĩ lúc ấy chính là thương chủ Nhật Chiếu này. Vợ của thương chủ Diệu Nhĩ ngày xưa nay chính là vợ của thương chủ Nhật Chiếu ấy. Người nữ giúp việc xưa kia nay chính là đồng nữ Ca-thi Tôn-na-lợi. Người gia đồng khi ấy nay chính là đại thần Dũng Lệ.

Bấy giờ, vua A-xà-thế lại thưa với Tôn giả A-nan:

–Thưa Tôn giả! Tỳ-kheo Kim Sắc kia lại tạo nghiệp gì mà vốn không có tội lỗi, lại bị người ta vu oan, gán cho tội lỗi ô nhiễm, phải bị treo vào cái giá bằng sắt sắp bỏ mạng? Lại tạo duyên thiện gì mà liền được xuất gia chứng được quả A-la-hán?

Tôn giả A-nan đáp:

–Này đại vương! Vào thời quá khứ, có Phật xuất hiện ở đời, hiệu là Diệu Nguyệt gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Khi ấy, có một nước, ở ngoài thành nước ấy có chùa Tăng. Trong số chúng Tăng trú ở có một Tỳ-kheo giỏi thuyết pháp, các Bàla-môn, Trưởng giả ở trong thành đều đến nghe pháp, cung cấp đầy đủ các thức ăn uống và vật dụng cần thiết, cho đến về sau có một Tỳ-kheo tên là Vô Thắng cũng đến trú tại chùa đó, vị này đã thông minh lại còn khéo nói giáo pháp, giảng giải rõ ràng không gặp trở ngại, lời nói thông suốt, âm thanh trong trẻo. Khi ấy, tất cả mọi người đều đến chỗ của Tỳ-kheo Vô Thắng để nghe và lãnh nhận giáo pháp. Lời giảng nói của vị ấy đầu, giữa, cuối giọng nói khéo, ý nghĩa sâu xa, tướng phạm hạnh hoàn toàn trong sạch.

Lúc đó, mọi người ở khắp bốn phương được nghe thuyết giảng rồi, đều tin kính mến mộ cung cấp đầy đủ các vật dụng thức ăn uống, y phục, giường nằm, đồ ngồi, thuốc thang chữa bệnh. Họ ngưng cung cấp các vật dụng cần thiết cho vị Tỳ-kheo đã thuyết giảng giáo pháp trước kia.

Vị Tỳ-kheo đã từng thuyết pháp trước kia tự suy nghĩ: “Nay có Tỳ-kheo Vô Thắng cùng ở một chỗ với ta thì các thức ănvật dụng cần thiết của ta ắt sẽ chấm dứt. Do việc này mà ta sẽ không còn những quyền lợi nữa. Vị ấy lại có trí tuệhọc rộng chắc được nhiều người tin tưởng, như vậy họ sẽ không cung kính ta nữa!”
Nghĩ rồi, vị ấy lo sợ bèn bịa đặt mọi cách để ngăn cản việc này. Ông ta đi mời một đồng nữ Bà-la-môn, bày cho cô ta đi lại giả vờnhân duyên yêu thương nhau để vu khống Tỳ-kheo Vô Thắng.

Đồng nữ vâng lời theo như cách ấy mà làm.

Sau đó, vào một ngày, tất cả các Tỳ-kheo đang hội họp trong phòng Tăng như thường lệ để bàn luận, bỗng một đồng nữ đi vào thưa: “Trong nhóm người xuất gia các ông, lẽ nào có người lại chẳng phạm hạnh. Vì sao? Vừa rồi tôi bị Tỳ-kheo Vô Thắng dùng nhiễm duyên quấy rối, đối với người tu phạm hạnh đây là việc rất sai.”

Lúc ấy, các Tỳ-kheo nghe rồi, liền bịt tai bảo với đồng nữ: “Này đồng nữ, chớ nói lời này, chớ để người khác nghe lời nói xấu ác ấy, đó chỉ là do Tỳ-kheo thuyết pháp nói lời không tốt, chê bai Tỳ-kheo Vô Thắng nên mới đưa ra những lời nói như vậy. Thật ra khong có việc như thế.”

Cho đến về sau chuyện này dần dần lan ra đến tai Tỳ-kheo Vô Thắng. Vị ấy nghe rồi, liền nói: “Vì sao Tỳ-kheo thuyết pháp kia đối với ta lại bày ra lời nói này?”

Nói rồi liền đến chỗ Tỳ-kheo thuyết pháp kia nói: “Thưa Tôn giả! Tôi với Tôn giả không có xúc phạm, vì sao lại nói xấu chê bai nhau?”

Khi ấy, Tỳ-kheo thuyết pháp kia càng sân giận, lại càng nói ra những lời xấu ác quở trách: “Ông có tội này, sau sẽ thọ lay đau khổ bị trói vào giá sắt.”

Nghe nói, Tỳ-kheo Vô Thắng tự suy nghĩ: “Việc làm như vậy là phá hoại pháp tu hành.” Biết việc này, vị ấy liền thu dọn y bát, dụng cụ rời khỏi chùa, đi đến một gốc cây trú nghỉ.

Lúc đó, bốn chúng đều trông thấy liền cùng nhau chạy đến khuyên mời, năn nỉ trở về lại chùa, nhưng Tỳ-kheo Vô Thắng hoàn toàn không theo lời mời. Sau đó, Tỳ-kheo thuyết pháp kia tự suy nghĩ: “Nay ta đã làm việc không tốt, chỉ vì những thức ăn và đồ dùng mà tạo nghiệp đọa vào đường ác.” Suy nghĩ như vậy nên lòng cảm thấy có tội, bèn nghĩ: “Ta nên đến đó xin nhận lỗi.” Suy nghĩ rồi, rời khỏi chùa đi tìm Tỳ-kheo Vô Thắng, tự quở trách mình thậm tệ, nước mắt ràn rụa, giống như trẻ con khóc mãi không thôi.

Khi ấy, có vô số trăm ngàn Bà-la-môn, Trưởng giả, mọi người đều thấy việc này. Đến nơi, Tỳ-kheo thuyết pháp kia liền đến trước Tỳ-kheo Vô Thắng, hai chân đứng thẳng làm lễ thưa: “Bạch Tôn giả! Nay tôi biết tội lỗi, nguyện xin Tôn giả tha thứ cho. Tôi như đứa trẻ, như người ngu si, không hiểu biết, vì tham lam những đồ vật cúng dường nên tạo nghiệp bất thiện, đem việc không thực mà nói lời bất thiện để chê bai Tôn giả, tội lỗi rất nặng! Tội lỗi rất nặng! Nguyện xin Tôn giả thương xót tha thứ cho.”

Tỳ-kheo Vô Thắng đáp: “Này Đại đức! Tôi tha thứ cho ông rồi. Nay tôi chỉ vì nhàm chán chỗ ồn ào nên trú ở bên gốc cây, ngồi kiết già, thân ngay thẳng nhớ nghĩ chân chánh, tu hạnh tịch tĩnh.”

Nói xong, Tỳ-kheo Vô Thắng phát sinh tâm rất nhàm chán, nghĩ thế gian thật đáng kinh sợ, biến đổi, lưu chuyển, hoại diệt, các hoạt động của thân, miệng, ý không dừng, năm uẩn tuần hoàn lưu chuyển trong sinh tử cho đến được Đế Thích và các trời cúng dường khen ngợi đều chẳng phải là đã rốt ráo.

Nghĩ thế, liền bay vọt lên, giống như ngỗng chúa, trắng tinh trong sạch, tất cả đại chúng đều được nhìn, kính phục phát sinh lòng tin cao cả trong sáng, ở trên hư không Tỳ-kheo Vô Thắng hiện đủ các thần thông biến hóa.

Khi thấy sự việc ấy, Tỳ-kheo thuyết pháp kia liền nói: “Khổ thay! Tại sao ta đối với bậc đại Thánh này lại có sự hiềm khích hủy báng.”

Nói rồi, ngất xỉu, ngã lăn dưới đất.

Khi ấy, Đức Diệu Nguyệt Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác biết sự việc này, nên phát tâm thương xót, nghĩ đến Tỳ-kheo kia, không để cho vị ấy nôn ra máu đến phải chết, liền vận thần lực hiện ra trước vị ấy, rồi Phật Thế Tôn mới duỗi bàn tay, với tướng trăm phước như màng lưới trong sáng, xoa đầu, an ủi Tỳ-kheo ấy.

Khi được Phật xoa đầu, Tỳ-kheo này lại bình tâm cảm thấy được nhẹ nhàng, liền đứng trước Phật hết lòng xin sám hối.

Bấy giờ, Đức Như Lai Diệu Nguyệt nói kệ cho đại chúng:

Con ngườithế gian
Miệng nói ra lời ác
Cũng như dao búa bén
Tự cắt thân thể mình.
Đáng khen lại hủy báng
Đáng chê lại khen ngợi
Lời ác từ miệng sinh
Nói ra không tự biết.
Tâm ác ban đầu ít
Như cờ bạc hao tài
Trong các điều ác lớn
Là hủy báng La-hán.
Tâm sinh nhân hủy báng
Chúng sinh đọa đường ác
Tâm sinh nhân thanh tịnh
Chúng sinh đến đường thiện.

Bấy giờ, Đức Như Lai Diệu Nguyệt giảng thuyết diệu pháp cho bốn chúng, chỉ dạy cho tất cả đều được lợi ích, vui vẻ rồi trở về chỗ ở.

Lúc này, Tôn giả A-nan bảo vua A-xà-thế:

–Thưa đại vương! Ý đại vương thế nào? Tỳ-kheo thuyết pháp khi ấy đâu phải người nào khác mà chính là Tỳ-kheo Kim Sắc này, xưa kia đối với Tỳ-kheo Vô Thắng, một vị đã đắc quả Thánh, phát ra lời nói ác, lừa dối, chê bai, do nghiệp báo ấy, nên năm trăm đời bị đọa vào ngục lớn, trong mỗi địa ngục chịu đủ các khổ đau, lại năm trăm đời đọa vào đường ngạ quỷ, lại năm trăm đời đọa vào đường súc sinh. Các quả báo ấy hết, sau đó năm trăm đời được sinh trong loài người, trong mỗi kiếp phải chịu mỗi tội lỗi, bị người vu khống ghét cho tội nhiễm duyên, bị treo trên giá chém, chịu lấy khổ rất đau đớn, cho đến đời này quả báo nghiệp ác mới dứt, cuối cùng là bị đại thần Dũng Lệ vu oan tội ái nhiễm, bị trói trên giá chém, ta dùng thần lực cứu độ làm cho thoát khỏi.

Này đại vương! Người này, do nghiệp tội như vậy nên chịu khổ báo. Khi xưa cũng nhờ căn lành xuất gia, với lòng tin thanh tịnh, gìn giữ phạm hạnh ở trong giáo pháp của Đức Như Lai Diệu Nguyệt. Do nghiệp thiện này, nay ở trong giáo pháp của Thích-ca Như Lai cũng được xuất gia thanh tịnh, dứt các phiền não, chứng quả A-la-hán.

Này đại vương! Thế nên, chúng sinh ở đời thà tự chịu đau khổ, chứ không nên chê bai người khác. Mình sợ tiếng xấu thì không nên làm cho người khác nhận lấy tiếng xấu. Nếu mình thọ hưởng an vui, liền phải san sẻ cho người khác sự an vui đó.

Khi Tôn giả A-nan thuyết giảng pháp này, có vô số trăm ngàn chúng sinh được lợi ích lớn, hoặc có người chứng đắc quả Tu-đàhoàn, hoặc có người chứng đắc quả Tư-đà-hàm, hoặc có người đắc quả A-na-hàm, hoặc có người đắc quả A-la-hán, hoặc có người phát tâm Chánh giác Vô thượng, hoặc có người phát tâm Bồ-đề Thanh văn, hoặc có người phát tâm quy hướng thọ giới cận sự. Ở trong hội cũng có người chỉ biết Phật đáng tin, biết Pháp để nương nhờ, biết Tăng để phụng sự.

Bấy giờ, ở trong hội, thương chủ Nhật Chiếu quỳ gối phải sát đất, cung kính, chắp tay thưa Tôn giả A-nan:

–Thưa Tôn giả! Con thuở xưa từng phát nguyện muốn được thỉnh Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo đến nhà mình, để con được tự mình lo việc cúng dường thức ăn uống và y phục tốt đẹp trị giá trăm ngàn cho mỗi vị Tỳ-kheo. Nhưng khổ thay, con nay ít phước, Phật Thế Tôn đã nhập Niết-bàn! Con nay lòng thành kính mời Tôn giả và các Tỳkheo đến nhà để con được cúng dường.

Tôn giả bảo:

–Lành thay, thương chủ! Ông cứ theo ý muốn. Ta sẽ cùng đại chúng tất cả đệ tử Thanh văn của Phật Thích-ca Như Lai trong toàn cõi Diêm-phù-đề sẽ tập hợp đến theo lời mời của ông.

Khi ấy, thương chủ Nhật Chiếu được thỏa mãn ý nguyện nên rất vui mừng, liền quét dọn sạch sẽ trong ngoài thành, dọn dẹp hết tất cả sỏi đá, dựng cờ phướn, rưới nước hương chiên-đàn khắp nơi, treo các dây hoa châu báu rực rỡ, đốt các hương thơm, rải các hoa thơm đẹp.

Sau khi trang sức các thứ đặc biệt cao đẹp như vậy rồi, lại chuẩn bị tiếp các thức ăn uống thơm ngon trong sạch cao quý.

Đến sáng hôm sau, trải bày các chỗ nằm ngồi với nệm chiếu tốt đẹp, ở giữa đặt bình nước có hương thơm trong sáng. Sắp đến giờ ăn, thương chủ sai người đến bạch Tôn giả A-nan:

–Chúng con đã dọn bày xong, nguyện xin Tôn giả đến nhà chúng con.

Khi ấy, Tôn giả A-nan liền dùng thần lực vụt bay lên hư không, phóng ra ánh sáng màu vàng rực rỡ chiếu khắp cõi Thiệm bộ châu này. Trên khong, tự nhiên vang lên tiếng kiền chùy, phát tiếng nói lớn:

–Tất cả đại chúng Thanh văn của Thế Tôn đã được thần thông, đều tự dùng thần lực để đến dự hội ngọ trai. Các chúng phàm phu thì nương thần lực của Tôn giả A-nan để cùng đến dự.

Tất cả Thanh văn nghe trong kiền chùy phát ra tiếng nói rồi thì

từ các nơi đang ở như là trời Đao-lợi, núi Đại tuyết, núi Đại dã, núi Ma-la, núi Kiếp-nĩ-la, núi Hương túy, núi Diệu cao, núi Trì song, núi Trì trạc, núi Di-dân-đà-la và các vườn, rừng, bên gốc cây, xóm làng, thành ấp, sông ao và các Tiên nhân đang ở biển lớn kia cho đến bên đường, nhà trống, rừng bỏ thây chết… Tất cả đại chúng Tỳ-kheo ở khắp các nơi như vậy đều ra khỏi thiền định, trong khoảnh khắc bay vọt lên hư không như hoa A-thâu-ca, màu sắc rực rỡ xanh, vàng, đỏ, trắng che khắp từ trên hư không xuống, từ từ vào thành lớn Vương xá, trong khoảng sát-na trong ngoai thành đều đầy khắp, đông vô số kể, có ba hạng:

  1. Những vị đã dứt hết các phiền não.
  2. Chúng Hữu học.
  3. Chúng phàm phu hiền lành.

Khi ấy, Tôn giả A-nan và đại chúng đã đến nơi, theo thứ lớp thượng, trung, hạ mà ngồi.

Bấy giờ, thương chủ Nhật Chiếu xem xét khắp, thấy đại chúng đã ngồi yên vào chỗ, liền đem thức ăn trong sạch và thơm ngon nhất tự tay dâng cúng. Thọ trai xong, Tôn giả A-nan và đại chúng đang rửa bát thì thương chủ liền đem ba y tốt đẹp giá trị trăm ngàn muốn dâng cúng Tôn giảđại chúng, phát tâm thanh tịnh tôn kính chiêm ngưỡng khắp trong đại chúng.

Khi ấy, Tỳ-kheo Kim Sắc biết ý cha mình, liền nói:

–Con sẽ giúp cha thực hành pháp cúng dường.

Nói rồi, trong khoảng sát-na, Tỳ-kheo liền cởi ba y màu vàng ròng đang mặc trên thân mình, lần lượt dâng cúng Tôn giả A-nan và vô số đại chúng, y cởi ra rồi có lại không hết…

Khi ấy, trên hư không trăm ngàn chung cõi trời đều phát tiếng nói:

–Lạ thay, lạ thay! Thật là hiếm có!

Trên không lại tấu lên các nhạc trời, mưa các hoa trời.

Bấy giờ, tất cả đại chúng từ các nơi đến, cả quốc vương A-xàthế, cung nữ, quyến thuộc, quần thần, thứ dân đều rất vui mừng khi nhìn thấy việc này, đều đồng lòng khen ngợi:

–Lành thay, lành thay! Thật là hiếm có!

Liên tiếp khen ngợi, nói lời này ba lần:

–Lạ thay! Gieo trồng phước đức được quả báo thù thắng. Lạ thay! Phước đứcnăng lực lớn. Bố thíruộng phước vững bền nhất. Vì thế nên biết, nếu gieo hạt giống bố thí thì được quả báo tốt đẹp nhất và không uổng phí. Những người có trí, xem xét kỹ phước đứcquả báo như vậy, ai mà không gieo vào ruộng thí thanh tịnh.

Nói vậy rồi, vô số trăm ngàn người cùng chắp tay đảnh lễ và cùng đọc:

–Nam-mô Phật-đà-da.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan giảng nói rộng rãi pháp bố thí thanh tịnh cho đại chúng. Thương chủ Nhật Chiếu liền rời khỏi chỗ ngồi, gối phải quỳ sát đất, hướng về Tôn giả A-nan chắp tay đảnh lễ thưa ba lần:

–Bạch Tôn giả! Hôm nay con được thấy các việc đặc biệt cao đẹp như vầy, chẳng phải cha, chẳng phải mẹ, chẳng phải vua, chẳng phải trời, chẳng phải bạn bè thân thuộc, chẳng phải Sa-môn, Bà-lamôn mà có thể làm được! Chỉ có Tôn giả với lòng thương lớn khéo cứu giúp con. Như con ngày xưa, do lòng yêu thương vợ con mà nước mắt khóc than như biển, Tôn giả đã dùng thần lực làm khô cạn nguồn gốc yêu thương ấy.

Thưa xong, lại nói kệ:

Tôn giả đã lìa sinh, già, chết
Tất cả trời, người đều cúng dường
Ngàn đời khó được gặp bậc Thánh
Nay được quả thù thắng chân thật.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan tùy nghi giảng nói pháp, chỉ dạy, làm lợi ích an vui cho tất cả đại chúng trong hội.

Tôn giả giảng xong, vô số trăm ngàn trời, người trong hội và tất cả đại chúng nơi thành Vương xá đều phát tâm thanh tịnh quy thuận theo lời dạy, đảnh lễ, thưa:

–Hôm nay, chúng con đều được lợi ích hoàn toàn. Thưa rồi, tất cả liền rời khỏi chỗ ngồi, ra khỏi hội.

Bản gốc: Bộ Kinh Tập 4  - Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh









Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
25/02/2015(Xem: 17282)
18/10/2010(Xem: 49211)
07/05/2018(Xem: 9143)
07/09/2011(Xem: 58971)
10/05/2010(Xem: 311041)
18/05/2010(Xem: 144947)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.