PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Tác gỉa Đòan Trung Còn
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải - Nguyễn Minh Hiển hiệu đính Hán văn
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2009
PHẨM THỨ I: NGUYÊN DO HÀNH TRẠNG
Thuở ấy,
Đại sư đến chùa
Bảo Lâm, quan Thứ sử họ Vi ở Thiều Châu cùng các thuộc viên vào núi thỉnh, Sư liền khai duyên
thuyết pháp ở
giảng đường nơi Chùa
Đại Phạm trong thành. Sư lên tòa, quan Thứ sử và thuộc viên hơn ba mươi người;
tăng ni,
cư sĩ,
đạo sĩ, hơn ngàn người, đồng làm lễ, xin nghe điều cốt yếu của pháp Phật.
Đại sư nói với chúng rằng:
“Chư
thiện tri thức!
Tự tánh Bồ-đề vốn
thanh tịnh, chỉ dùng tâm này là đủ
thành Phật.
“Chư
thiện tri thức! Hãy nghe
nguyên do đắc Pháp của
Huệ Năng này. Cha
Huệ Năng quê ở Phạm Dương, làm quan bị giáng, đày ra xứ Lãnh Nam làm dân thường ở Tân Châu.
Thân phận không may, cha lại mất sớm, mẹ già
côi cút.
Mẹ con dời qua xứ Nam Hải, đắng cay nghèo thiếu, bán củi ở chợ.
“Khi ấy có một người khách mua củi, bảo
mang đến nhà. Khách nhận củi,
Huệ Năng được tiền, lui ra ngoài cửa,
chợt nghe một người
tụng kinh.
Huệ Năng thoáng
nghe lời kinh, tâm liền
khai ngộ, bèn hỏi xem khách
tụng kinh gì. Khách đáp: ‘Kinh
Kim Cang.’ Lại hỏi: ‘Ngài học Kinh ấy ở đâu?’ Khách đáp rằng: ‘Tôi từ chùa Đông Thiền, huyện
Hoàng Mai, Kỳ Châu lại đây. Chùa ấy là nơi
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại sư đang
giáo hóa,
môn đồ hơn ngàn người. Tôi đến đó
lễ bái, nghe giảng và
thọ trì Kinh này.
Đại sư vẫn thường khuyên người
xuất gia,
tại gia thọ trì Kinh này, sẽ tự thấy tánh
thành Phật.’
Huệ Năng nghe lời ấy, lại cũng nhờ đời trước có duyên, nên được người giúp cho mười lượng bạc, bảo dùng cấp dưỡng cho mẹ già, lại khuyên nên qua huyện
Hoàng Mai tham lễ
Ngũ Tổ.
Huệ Năng sắp đặt cho mẹ xong, liền từ giã mà đi. Chưa đầy một tháng đã đến
Hoàng Mai,
lễ bái Ngũ Tổ. Tổ hỏi rằng: ‘Nhà ngươi là người phương nào? Muốn cầu việc chi?’
Huệ Năng thưa: ‘Đệ tử là dân Tân Châu, Lãnh Nam. Đường xa đến đây lễ Tổ, chỉ cầu
làm Phật chớ chẳng
cầu chi khác.’
“Tổ nói: ‘Ngươi dân Lãnh Nam, lại là
thiểu số mường mán,
làm Phật sao được?’
Huệ Năng thưa: ‘Người có kẻ Nam người Bắc,
Phật tánh vốn không Nam Bắc. Thân mường mán này với thân
Hòa thượng tuy có khác, nhưng
Phật tánh có chi khác biệt?’
“Ngũ Tổ còn muốn nói với nữa, nhưng thấy
đồ chúng vây quanh, liền bảo
Huệ Năng theo chúng mà làm phận sự.
Huệ Năng thưa: ‘Đệ tử
tự tâm thường sanh
trí tuệ, chẳng rời
tự tánh, tức là
phước điền, chẳng hay
Hòa thượng dạy làm việc chi?’ Tổ nói: ‘Tên mọi này
căn tánh lanh lợi quá! Thôi đừng nói nữa, hãy
đi xuống chỗ làm việc đi.’
“Huệ Năng lui ra nhà sau, có người sai bửa củi giã gạo,
trải qua hơn tám tháng. Ngày kia, Tổ chợt thấy
Huệ Năng, bảo rằng: ‘Ta thấy chỗ biết của ngươi có thể dùng được, nhưng e có kẻ ác hại ngươi, cho nên chẳng nói với ngươi, ngươi có biết không?’
Huệ Năng bạch rằng: ‘Đệ tử biết ý Tổ, nên chẳng dám ra phía trước, để người đừng hay biết.’
“Một ngày kia, Tổ gọi các
môn đồ lại đông đủ mà dạy rằng: ‘Các ngươi nghe ta bảo đây. Người đời
sanh tử là việc lớn, các ngươi suốt ngày chỉ lo cầu việc phước mà chẳng cầu ra khỏi biển khổ
sanh tử. Tánh mình nếu mê, phước nào cứu đặng? Các ngươi hãy lui ra, tự
quan sát trí tuệ, lấy tánh Bát-nhã nơi
bản tâm mình, mỗi người làm một
bài kệ đem trình ta xem. Nếu ai
ngộ đạo, ta sẽ
truyền pháp và y cho làm Tổ thứ sáu. Phải nhanh chóng lên, chẳng được
chậm trễ. Nếu còn phải
suy nghĩ là chẳng phải chỗ dùng được. Nếu thật người thấy tánh, vừa
nghe lời nói liền phải thấy ngay. Người như vậy, cho dù có vung đao ra trận cũng vẫn thấy biết.’
“Đồ chúng
nghe lời, lui ra, bảo nhau rằng: ‘Bọn ta chẳng
cần phải lắng lòng
dụng ý viết kệ trình
Hòa thượng làm chi.
Thượng tọa Thần Tú hiện là
Giáo thọ, ắt là sẽ được. Bọn ta có làm kệ cũng chỉ uổng
tâm lực mà thôi!’ Rồi tất cả đều buông xuôi, tự nghĩ rằng: ‘Từ đây về sau,
chúng ta chỉ cần nương theo Sư
Thần Tú, còn phải
phiền lòng làm kệ mà chi?’
“Thần Tú thì lại
suy nghĩ: ‘Mọi người chẳng làm kệ, vì ta đây đối với họ là thầy
Giáo thọ. Còn như ta lại
cần phải làm kệ trình
Hòa thượng. Vì nếu chẳng trình kệ,
Hòa thượng làm sao biết chỗ
hiểu biết trong lòng ta sâu cạn thế nào? Ý ta trình kệ, vì
cầu Pháp tức là việc tốt, nếu vì cầu ngôi Tổ tức là việc xấu, cũng như tâm
phàm phu muốn đoạt ngôi Thánh, có khác gì nhau? Mà nếu chẳng trình kệ,
rốt cuộc lại chẳng được Pháp. Thật là khó lắm, khó lắm!’
“Trước phòng
Ngũ Tổ có ba gian mái hiên, ngài định mời quan
Cung phụng là Lư Trân vẽ
biến tướng kinh Lăng-già và biểu đồ
truyền thừa năm vị Tổ để
lưu truyền cúng dường.
Thần Tú làm kệ xong, mấy phen muốn đem trình, cứ lên đến trước thềm thì trong lòng hoảng hốt, mồ hôi ra khắp mình, muốn trình mà chẳng được.
Trải qua bốn ngày, đến mười ba lần như vậy, chẳng trình kệ được! Tú bèn
suy nghĩ: ‘Chi bằng viết vào vách dưới mái hiên, khiến cho
Hòa thượng xem thấy. Nếu Ngài bảo là hay, thì
ta ra lễ bái, nhận là mình làm. Còn nếu Ngài bảo là chẳng được, thì thật
uổng công bao năm ở núi, nhận sự
lễ bái của người, còn
tu hành gì nữa?’
“Nghĩ vậy, canh ba đêm ấy chẳng cho ai biết, tự mình cầm đèn đến viết
bài kệ lên vách mái hiên phía Nam, trình chỗ
hiểu biết trong tâm mình. Kệ rằng
Thân là cây Bồ-đề,
Tâm như đài
gương sáng.
Thường siêng lau siêng rửa,
Chớ để bám bụi nhơ.
“Thần Tú viết kệ rồi,
lui về phòng, không ai hay biết. Lại
suy nghĩ rằng: ‘Ngày mai,
Ngũ Tổ thấy kệ mà
vui mừng, tức là ta có duyên với Pháp. Còn nếu ngài bảo chẳng được, tức là ta ngu mê,
nghiệp chướng còn nặng, chẳng thể
đắc Pháp. Ý Thánh thật khó lường!’ Ở trong phòng
suy tưởng mãi, nằm ngồi chẳng yên,
cho đến tận canh năm.
“Tổ vốn đã biết là
Thần Tú chưa được đạo, chẳng thấy
tự tánh.
“Sáng ra, Tổ mời quan
Cung phụng họ Lư đến chỗ vách tường mái hiên phía Nam để vẽ biểu đồ. Chợt thấy
bài kệ ấy, liền bảo rằng: ‘Quan
Cung phụng chẳng cần vẽ nữa. Thật đã làm nhọc ngài từ xa đến đây! Kinh nói: “Những gì có
hình tướng đều là
hư vọng.” Chỉ cần lưu lại
bài kệ này cho người trì tụng.
Y theo kệ này tu khỏi đọa nẻo ác,
y theo kệ này tu, được
lợi ích lớn.’ Nói rồi sai môn nhân
đốt hương lễ kính, bảo
mọi người đều nên tụng kệ này. Môn nhân tụng kệ đều khen: ‘Hay lắm thay!’
“Khoảng canh ba, Tổ gọi
Thần Tú vào phòng, hỏi rằng: ‘Kệ của ngươi làm phải không?’
Thần Tú nói: ‘Thật là Tú này làm, chẳng dám vọng cầu ngôi Tổ, chỉ mong
Hòa thượng từ bi xem coi có chút
trí tuệ nào hay chăng?’
“Tổ nói: ‘Ngươi làm kệ này chưa thấy được
bản tánh, chỉ như đến ngoài cửa, chưa vào được trong. Như đem chỗ
hiểu biết ấy mà
cầu đạo Vô thượng Bồ-đề thì quyết chẳng thể được.
Vô thượng Bồ-đề vốn tự
bản tâm, thấy tự
bản tánh, chẳng sanh chẳng diệt. Bất cứ lúc nào, niệm tưởng nào cũng đều tự thấy biết, muôn
pháp không ngăn ngại, một
pháp chân thật thì hết thảy pháp đều
chân thật, muôn cảnh
tự như như. Tâm
như như đó tức là
chân thật. Nếu thấy biết được như vậy, tức là
tự tánh Vô thượng Bồ-đề. Ngươi nên
lui về suy nghĩ trong một hai ngày nữa, làm một
bài kệ khác trình ta xem. Nếu kệ của ngươi vào được trong cửa, ta sẽ
truyền pháp và y.’
“Thần Tú làm lễ lui ra. Lại qua vài ngày, làm kệ chẳng được. Trong lòng hoảng hốt,
tâm thần chẳng yên,
mơ màng như trong mộng, lúc đi lúc ngồi đều chẳng được vui.
“Hai hôm sau, có một
chú tiểu đi ngang qua chỗ giã gạo, tụng
bài kệ của
Thần Tú.
Huệ Năng vừa nghe qua, biết ngay
bài kệ ấy chưa thấy
bản tánh. Tuy chưa được dạy dỗ
giáo pháp, nhưng đã sớm biết
đại ý. Liền hỏi
chú tiểu rằng: ‘Người tụng kệ gì vậy?’
“Chú tiểu nói: ‘Gã mường mán này,
thật không biết gì sao?
Đại sư có nói: Người đời
sanh tử là việc lớn. Ngài muốn
truyền pháp và y, nên dạy
môn đồ làm kệ trình. Nếu ai ngộ được
đại ý, Ngài sẽ trao y và pháp, cho làm Tổ thứ sáu.
Thượng tọa Thần Tú viết
bài kệ Vô tướng trên vách tường hiên phía Nam.
Đại sư bảo
mọi người đều nên tụng, tu theo kệ ấy khỏi đọa nẻo ác, tu theo kệ ấy, có
lợi ích lớn.’
“Huệ Năng nói: ‘Này thượng nhân! Tôi giã gạo nơi đây hơn tám tháng rồi, chưa hề lên tới trước chùa. Mong được
thượng nhân dẫn tôi tới trước
bài kệ đó để
lễ bái.’
“Chú
tiểu dẫn đến
lễ bái trước
bài kệ.
Huệ Năng nói: ‘Huệ Năng không biết chữ, xin
thượng nhân đọc giùm cho nghe.’
“Khi ấy, có quan Biệt giá Giang Châu họ Trương, tên
Nhật Dụng cao giọng đọc lên.
Huệ Năng nghe rồi liền nói: ‘Tôi cũng có một
bài kệ, mong được quan Biệt giá viết giùm tôi.’
“Biệt giá nói: ‘Ngươi cũng làm kệ, thật là việc ít có!’
“Huệ Năng nói với quan Biệt giá: ‘Muốn
học đạo Vô thượng Bồ-đề, chẳng nên khinh người mới học. Người
thấp hèn có khi có
trí tuệ cao thượng, người cao thượng có khi không
trí tuệ. Nếu khinh người thì mắc tội không kể xiết!’
“Biệt giá nói: ‘Người chỉ việc đọc kệ đi, ta viết giùm cho. Nếu người
đắc Pháp, nên tiếp độ ta trước, chớ quên lời.’
Huệ Năng đọc kệ rằng:
Bồ-đề vốn chẳng phải cây,
Gương sáng cũng chẳng phải đài.
Xưa nay vốn không một vật,
Chỗ nào bám được bụi nhơ ?
“Viết
bài kệ xong,
đồ chúng đều
kinh hãi,
ai nấy sửng sốt bảo nhau rằng: ‘Lạ thay! Thật là không thể lấy vẻ ngoài để
xét đoán người! Sao lâu nay
chúng ta lại dám
sai khiến vị Bồ-tát xác phàm này?’
“Tổ thấy
mọi người kinh động, e có kẻ làm hại
Huệ Năng, bèn lấy chiếc dép chà xóa
bài kệ ngay đi và nói rằng: ‘Cũng chưa thấy tánh.’
Đồ chúng đều nghe vậy.
“Hôm sau, Tổ đến chỗ giã gạo, thấy
Huệ Năng lưng đeo đá, giã gạo, bảo rằng: ‘Người
cầu đạo, vì pháp
quên mình đến thế sao?’ Lại hỏi: ‘Gạo đã trắng chưa?’
Huệ Năng thưa: ‘Gạo trắng
đã lâu, còn thiếu cái sàng gạo.’ Tổ liền dùng gậy gõ lên thành cối ba cái rồi đi.
“Huệ Năng
hiểu ý Tổ, trống canh ba vào thất. Tổ lấy áo cà-sa che quanh, chẳng cho ai trông thấy, rồi
giảng kinh Kim Cang cho nghe. Đến câu ‘Nên sanh
tâm từ nơi chỗ chẳng trụ vào đâu cả.’
Huệ Năng vừa nghe liền
đại ngộ, hiểu rằng hết thảy muôn pháp chẳng rời
tự tánh. Liền bạch Tổ rằng: ‘Ngờ đâu
tự tánh vốn tự
thanh tịnh. Ngờ đâu
tự tánh vốn chẳng
sanh diệt. Ngờ đâu
tự tánh vốn tự đầy đủ. Ngờ đâu
tự tánh vốn chẳng lay động. Ngờ đâu
tự tánh sanh ra muôn pháp.’
(1) “Tổ biết là đã ngộ
bản tánh, nên bảo
Huệ Năng rằng: ‘Chẳng biết
bản tâm, học pháp
vô ích. Nếu tự biết
bản tâm, tự thấy
bản tánh, tức là bậc
Trượng phu; là thầy của hàng trời, người; là Phật.’
“Thọ pháp vào canh ba, chẳng ai hay biết. Tổ
truyền pháp Đốn giáo và
y bát, bảo rằng: ‘Nhà ngươi làm Tổ đời thứ sáu, khéo tự
giữ gìn, rộng độ
chúng sanh,
lưu truyền đạo lý cho
đời sau, đừng để tuyệt mất. Hãy nghe kệ ta đây:
Tình khởi nên gieo giống,
Vòng
nhân quả loanh quanh.
Không tình cũng không giống,
Không tánh cũng không sanh.’
“Tổ lại nói: ‘Thuở xưa,
Đại sư Đạt-ma mới đến đất này, lòng người chưa tin, nên
truyền y này như vật làm tin,
đời đời truyền nối. Còn
truyền Pháp tất phải lấy
tâm truyền tâm, khiến cho
tự ngộ,
tự chứng. Từ xưa, chư Phật chỉ truyền
bản thể, chư Tổ ngầm nối
bản tâm. Y là đầu mối sanh ra
tranh đoạt, đến ngươi không nên truyền nữa. Nếu
truyền y này thì nguy đến
tính mạng. Ngươi nên mau đi đi, kẻo có người làm hại.’
Huệ Năng thưa hỏi: ‘Giờ biết đi đâu?’ Tổ đáp: ‘Gặp Hoài thì ngừng; gặp Hội thì ẩn.’
“Huệ Năng nhận
y bát đang lúc canh ba, thưa với Tổ rằng: ‘Huệ Năng người miền Nam, không
thông thạo đường đi ở núi này, làm sao ra được đến cửa sông?’ Tổ đáp: ‘Ngươi chẳng phải lo, ta tự đưa ngươi đi.’
“Tổ đưa ra đến bến Cửu Giang, bảo
Huệ Năng lên thuyền. Ngài tự cầm chèo mà chèo đi.
Huệ Năng thưa: ‘Xin
Hòa thượng ngồi, để
đệ tử chèo.’ Tổ nói: ‘Ta nên độ ngươi sang sông.’
Huệ Năng thưa: ‘Khi mê thầy độ, ngộ rồi thì tự độ. Độ tuy là một tiếng, mà chỗ dùng chẳng giống nhau.
Huệ Năng sanh nơi
biên địa, giọng nói không chuẩn, được nhờ Thầy
truyền pháp, nay đã ngộ rồi, chỉ nên tự độ.’ Đoạn này không thể diễn hết ý trong Hán văn. Vì chữ độ ( 度 ) mang cả
hai nghĩa: một nghĩa là đ?a sang sông, một nghĩa là
cứu độ.
Ngũ Tổ nói một câu mà chữ độ đ?ợc hiểu theo cả
hai nghĩa.
Huệ Năng lãnh ý nên
trả lời hợp ý Tổ
“Tổ nói: ‘Đúng vậy, đúng vậy! Pháp Phật từ nay về sau do ngươi mà rộng truyền. Ngươi đi rồi, ba năm sau ta sẽ bỏ cõi thế. Ngươi đi
may mắn,
gắng sức về phương Nam. Nên
ẩn nhẫn, chớ
vội vàng giảng pháp, pháp Phật sẽ khó mà
sanh khởi.’
“Huệ Năng từ biệt Tổ, hướng phương Nam mà đi.
Ngũ Tổ quay về, luôn mấy ngày chẳng lên
giảng đường.
Môn đồ nghi hoặc, gặn hỏi Ngài: ‘Chẳng hay
Hòa thượng có
bệnh hoạn,
sầu não gì chăng?’
“Ngài đáp: ‘Ta không bệnh, nhưng
y pháp đã về phương Nam rồi.’
“Chúng
đệ tử lại hỏi: ‘Ai được truyền thọ?’
“Ngài đáp: ‘Huệ Năng được.’ Nguyên văn “Năng giả đắc chi” được dùng theo
hai nghĩa: người tên Năng (
Huệ Năng), mà cũng là “người có tài năng”.
“Lúc ấy
đồ chúng mới biết. Liền có vài trăm người đuổi theo, muốn cướp
y bát. Trong số đó có một vị tăng tên
Huệ Minh, họ Trần, trước đây từng giữ chức quan võ hàng tứ phẩm, tánh tình
thô bạo,
hết sức đuổi tìm. Ông này cầm đầu cả bọn, đuổi riết trong hai tháng, tới núi Đại Sưu thì bắt kịp.
“Huệ Năng đặt
y bát trên một hòn đá mà nói rằng: ‘Áo này là vật làm tin, há
dùng sức mà tranh được sao?’
“Huệ Năng ẩn vào cỏ rậm.
Huệ Minh đuổi tới, đưa tay nhặt lấy
y bát, nhấc lên không được, liền kêu lên rằng: ‘Hành giả, hành giả! Tôi thật vì pháp, chẳng phải vì y mà đến đây.’
“Huệ Năng
bước ra, lên ngồi trên hòn đá.
Huệ Minh lễ bái, nói: ‘Mong được ngài vì tôi mà
thuyết pháp.’
Huệ Năng nói: ‘Nếu ông đã vì pháp mà đến đây, vậy nên dứt bỏ hết các duyên, chớ sanh niệm tưởng, ta sẽ vì ông mà giảng rõ.’ Một lúc lâu sau,
Huệ Năng mới nói: ‘Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay
trong lúc ấy, mặt mũi
xưa nay của
Thượng tọa Minh là gì?’
“Huệ Minh nghe qua
đại ngộ, lại hỏi: ‘Ngoài lời kín đáo, ý
bí mật đó, còn có
bí mật nào khác nữa chăng?’
Huệ Năng đáp: ‘Đã nói ra với ông, tức chẳng phải
bí mật. Nếu ông tự
soi xét lại mình, thì chỗ
bí mật chính ở nơi ông.’
Huệ Minh nói: ‘Tôi tuy ở chỗ
Hoàng Mai Tức là
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, vì Tổ
giảng pháp ở núi
Hoàng Mai. nhưng thật chưa tự
nhận ra mặt mũi của mình. Nay nhờ ngài chỉ dạy cho, như người uống nước, nóng lạnh tự
nhận ra. Nay ngài chính là thầy của
Huệ Minh này vậy.’
Huệ Năng nói: ‘Nếu ông được như vậy, thì ta với ông cùng một thầy là Tổ
Hoàng Mai, nên khéo tự
giữ gìn.’
Huệ Minh lại hỏi: ‘Từ nay,
Huệ Minh biết đi đâu?’
Huệ Năng nói: ‘Đến Viên Sau ứng là
Viên Châu. thì dừng, gặp Mông Sau ứng là
Mông Sơn tại
Viên Châu. thì ở.’
Huệ Minh lễ bái từ biệt.
“Huệ Năng sau đến
Tào Khê, lại bị kẻ ác đuổi tìm, bèn
lánh nạn trong đoàn thợ săn nơi huyện Tứ Hội, Ứng theo lời
Ngũ Tổ: “Gặp Hội thì ẩn”.
trải qua mười lăm năm, thường khi
tùy nghi thuyết pháp với bọn thợ săn. Thợ săn thường sai giữ lưới, mỗi khi có thú vướng vào thì lén thả ra hết. Đến bữa cơm, chỉ
ăn rau luộc chung trong nồi thịt. Hoặc có kẻ hỏi, liền đáp rằng: ‘Chỉ
ăn rau luộc bên thịt được rồi.’
“Một ngày kia, tự nghĩ đã đến lúc
hoằng pháp, không nên
ẩn lánh nữa. Liền đi ra Quảng Châu, đến chùa
Pháp Tánh, gặp lúc
Ấn Tông Pháp sư đang
giảng Kinh Niết-bàn. Khi ấy, trong chúng có hai vị tăng
bàn cãi chuyện gió và phướn. Một vị nói: ‘Gió động.’ Vị kia nói: ‘Phướn động.’
Bàn cãi hồi lâu chẳng dứt,
Huệ Năng bước đến nói rằng: ‘Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, ấy là tâm các ông động.’ Cả chúng nghe đều
kinh hãi.
“Ấn Tông liền thỉnh ngồi trên, hỏi nghĩa sâu kín. Thấy
Huệ Năng nói lời giản dị mà lý
chánh đáng, chẳng theo
văn tự,
Ấn Tông mới nói: ‘Ngài
chắc chắn không phải người thường! Từ lâu vẫn nghe
y pháp của Tổ
Hoàng Mai đã về phương Nam, chắc là ngài đây chăng?’
“Huệ Năng nói: ‘Không dám.’
“Ấn Tông liền làm lễ, xin đưa
y bát ra cho
đại chúng xem.
Ấn Tông lại hỏi: ‘Ý chỉ truyền trao của ngài
Hoàng Mai như thế nào?’
Huệ Năng đáp: ‘Trao nhận tức là không. Chỉ luận việc thấy tánh, không
luận bàn thiền định giải thoát.’
“Tông hỏi: ‘Sao chẳng
luận bàn thiền định giải thoát?’
“Huệ Năng đáp: ‘Vì là pháp
phân biệt đối đãi, chẳng phải pháp Phật. Pháp Phật là
pháp không phân biệt đối đãi.’
“Tông lại hỏi: ‘Thế nào là pháp Phật không
phân biệt đối đãi?’
Huệ Năng đáp: ‘Pháp sư
giảng Kinh Niết-bàn, làm rõ
Phật tánh, ấy là pháp Phật không
phân biệt đối đãi. Như khi Cao Quý Đức Vương Bồ-tát hỏi Phật rằng: “Những kẻ phạm
bốn giới cấm nặng, làm
năm tội nghịch và bọn nhất-xiển-đề có dứt mất
thiện căn, tánh Phật hay không?” Phật đáp: “Thiện căn có hai: một là thường, hai là
vô thường. Tánh Phật chẳng phải thường, chẳng phải
vô thường, nên không thể dứt mất.” Đó là không
phân biệt đối đãi. Lại nữa, một là thiện, hai là
bất thiện, tánh Phật chẳng phải thiện, chẳng phải
bất thiện, như vậy là không
phân biệt đối đãi. Các uẩn
Năm uẩn : sắc, thọ, tưởng, hành, thức, năm món ấy hiệp làm thân người. và giới,
Mười tám giới : sáu căn,
sáu trần và sáu thức.
phàm phu thấy có
phân biệt, kẻ trí
hiểu rõ tánh
thật không phân biệt. Tánh
thật không phân biệt ấy là tánh Phật.’
Ấn Tông nghe
giảng giải,
vui mừng chắp tay nói rằng: ‘Lũ
chúng tôi giảng kinh dường như ngói, sỏi; còn Ngài
luận nghĩa thật như vàng ròng!’
“Liền đó,
Ấn Tông cạo tóc cho
Huệ Năng, nguyện thờ làm thầy.
Huệ Năng dưới cây Bồ-đề nơi ấy mà khai mở
Pháp môn Đông Sơn.
“Huệ Năng này
đắc pháp ở
Đông Sơn, từng chịu đủ mùi
cay đắng, tánh mạng
mong manh như sợi tơ treo. Ngày nay cùng sứ quân và các quan viên, tăng, ni, đạo, tục đồng trong hội này. Nếu các vị chẳng nhờ duyên lành từ nhiều kiếp xa xưa, từng trong
quá khứ cúng dường chư Phật, gieo trồng căn lành, làm sao lại được nghe
nhân duyên đắc pháp Đốn giáo như ta vừa kể?
“Giáo pháp là do các vị Thánh trước đây truyền lại, chẳng phải
tự do trí Huệ Năng biết được. Nguyện cho những ai nghe
giáo pháp này, đều được
thanh tịnh trong tâm. Nghe rồi, đều tự dứt lòng nghi, đồng như
Thánh nhân không khác.”
Hết thảy
chúng hội nghe Pháp, thảy đều
vui mừng, làm lễ lui ra.
______________________________________________________
Chú thích:
(1) Lục Tổ vào lúc chứng ngộ đã cảm thán nói ra 5 câu: "Ngờ đâu tự tánh vốn tự thanh tịnh. Ngờ đâu tự tánh vốn chẳng sanh diệt. Ngờ đâu tự tánh vốn tự đầy đủ. Ngờ đâu tự tánh vốn chẳng lay động. Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp." Bốn câu đầu tiên là nói về thể của tự tánh, câu cuối cùng là nói về dụng của tự tánh. Câu cuối này cũng có ý nghĩa tương đồng với câu "Nhất thiết chư pháp giai tùng tâm sanh", bởi từ chỗ thấy biết của người đã chứng ngộ thì hết thảy muôn pháp đều không ra ngoài tự tánh. Tuy nhiên, gần đây có một số người không biết vô tình hay cố ý đã lầm lẫn trong sự diễn giải cái dụng của tự tánh như đã nói ở trên, và lầm lẫn hơn nữa khi cho rằng tự tánh trong câu cuối cùng này cũng chính là Phật Tánh, do đó, "tự tánh sanh ra muôn pháp" đã được diễn giải với ý nghĩa như một kiểu quyền năng siêu việt, và từ đó đồng hóa danh xưng Phật Tánh trong Kinh điển Phật giáo với danh xưng Thượng Đế, có quyền năng linh thiêng định đoạt, an bài, sáng tạo, chi phối muôn loài, muôn vật v.v... Việc "du nhập" danh xưng này khi giảng nói về Giáo pháp của đức Phật chẳng có ý nghĩa tích cực gì mà rất dễ gây hiểu lầm và lạc dẫn cho người nghe, người đọc. Hơn nữa, dùng danh xưng Thượng Đế để chỉ Phật Tánh chỉ làm hoang mang cho người nghe, người đọc, vì Phật giáo xưa nay luôn bác bỏ hoàn toàn quan điểm về một Thượng Đế tạo dựng nên con người và vạn vật.