- Giải Thích Tên Kinh
- Phẩm Tựa Thứ Nhất
- Phẩm Phương Tiện Thứ Hai
- Phẩm Thí Dụ Thứ Ba
- Phẩm Tin Hiểu Thứ Tư
- Phẩm Dược Thảo Dụ Thứ Năm
- Phẩm Thọ Ký Thứ Sáu
- Phẩm Hóa Thành Dụ Thứ Bảy
- Phẩm Thọ Ký Cho Năm Trăm Vị Đệ Tử Thứ Tám
- Phẩm Thọ Ký Cho Bậc Hữu Học Và Vô Học Thứ Chín
- Phẩm Pháp Sư Thứ Mười
- Phẩm Thấy Bảo Tháp Thứ Mười Một
- Phẩm Đề Bà Đạt Đa Thứ Mười Hai
- Phẩm Khuyên Trì Thứ Mười Ba
- Phẩm An Lạc Hạnh Thứ Mười Bốn
- Phẩm Từ Dưới Đất Vọt Lên Thứ Mười Lăm
- Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai Thứ Mười Sáu
- Phẩm Phân Biệt Công Đức Thứ Mười Bảy
- Phẩm Tùy Hỷ Công Đức Thứ Mười Tám
- Phẩm Công Đức Pháp Sư Thứ Mười Chín
- Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh Thứ Hai Mươi
- Phẩm Thần Lực Của Như Lai Thứ Hai Mươi Mốt
- Phẩm Chúc Lũy Thứ Hai Mươi Hai
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Dược Vương Thứ Hai Mươi Ba
- Phẩm Bồ Tát Diệu Âm Thứ Hai Mươi Bốn
- Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm Thứ Hai Mươi Lăm
- Phẩm Đà La Ni Thứ Hai Mươi Sáu
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Vua Diệu Trang Nghiêm Thứ Hai Mươi Bảy
- Phẩm Khuyến Phát Của Bồ Tát Phổ Hiền Thứ Hai Mươi Tám
Giảng Giải: Hoà Thượng Tuyên Hoá
Hán dịch: Ngài Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
Phẩm Hóa Thành Dụ Thứ Bảy
‘’Hóa’’ là từ huyễn hóa mà ra, chứ chẳng phải thật có. Nó từ tinh thần giác ngộ triệt để của Phật hiển hiện ra. Nghĩa là gì ? Tức là muốn hàng nhị thừa phát đại tâm, xa lìa hiện chứng tất cả tướng, Phật hiện ra cảnh giới vi diệu không thể nghĩ bàn. Kì thật, Phật vốn nói ‘’hóa thành’’ chẳng tồn tại, như nay hóa hiện ra, cho nên tên phẩm nầy là ‘’Phẩm Hóa Thành Dụ’’.
Trước hết, chúng ta phải hiểu hóa thành nầy, vốn một vật cũng chẳng có, nó là hư vọng không thật, nên gọi là hóa thành, do Phật biến hóa ra. Phật mở bày môn phương tiện nầy, để cứu độ chúng sinh, đều chẳng phải là chân thật. Một thật pháp môn đại thừa mới là mục đích cứu kính.
Có người hỏi : ‘’Nếu tất cả đều không chân thật, vậy ích lợi
của nó ở chỗ nào‘’ ? Nếu bạn chẳng hiểu rõ gì là không chân thật, thì bạn cũng
chẳng cách chi tìm ra được chân thật. Hóa thành nầy là ví dụ pháp môn nhị thừa
: Pháp của hành Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa. Vì pháp nhị thừa nầy đều là
pháp của Phật phương tiện dẫn dắt, cho nên nói hóa thành nầy là vì hàng nhị
thừa nói hữu
Phật dùng phương tiện trí huệ mở bày ra pháp nhị thừa. Tại sao
? Ví như chúng ta đi học phải từ tiểu học đến trung học, từ trung học đến đại
học. Hàng nhị thừa giống như trình độ tiểu học, Bồ Tát thừa thuộc về trình độ
trung học, Phật thừa thì trình độ cao nhất, tức dũng là đại học. Thật chẳng
phải đại học có thể so sánh. Phật pháp vốn chẳng có gì cao thấp, song Phật dùng
pháp môn phương tiện để dẫn dắt tất cả chúng sinh, giống như trẻ con, trước hết
phải để cho chúng học tiểu học, hấp thụ được kiến thức tiểu học.
Trong Phật pháp, mục tiêu và điểm chủ yếu nhất là thấy, thấy cả chúng sinh đều có
Phật tính, đều sẽ thành Phật. Song, nếu Phật ban đầu nói pháp nầy cho chúng
sinh nghe, thì chúng sinh chắt chắn sẽ sợ khổ chẳng muốn tin nhận, tâm sinh sợ
hãi, cho nên Phật mở bày pháp môn quyền xảo phương tiện, để giáo hóa dẫn dụ
chúng sinh.
Có bốn phương pháp để giải thích ý nghĩa Phật nói phẩm nầy :
1. Căn cứ nhân duyên.
2. Căn cứ về chính yếu của giáo pháp.
3. Căn cứ về căn tính của chúng sinh.
4. Căn cứ quán sát tâm hạnh của tất cả chúng sinh.
1- Căn cứ về nhân duyên : Chúng sinh dừng lại ở trên con đường tu hành, chẳng muốn
tiến bước về trước, trụ nơi pháp không, cho rằng đã đạt được chỗ cứu kính, đây là
một quan niệm của hàng nhị thừa, các Ngài đạt được hữu
2- Căn cứ về chính yếu của giáo pháp : Hàng nhị thừa coi giáo
pháp của tiểu thừa, là giáo pháp viên mãn nhất, cho rằng hữu
3- Căn cứ vào căn tính chúng sinh : Phật là đấng Thế Tôn
đại từ đại bi, khi Phật thành đạo rồi, trong hai mươi mốt ngày, vì Bồ Tát đại
thừa mà nói Kinh
Lúc
4- Căn cứ quán sát tâm hạnh của tất cả chúng sinh: Phật quán
sát tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có thể sẽ thành Phật, nên mới khai
quyền hiển thật, nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy, để phá trừ chấp trước và tâm ích kỷ
tự lợi của chúng sinh, chẳng chướng ngại cơ hội các Ngài thành Phật.
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo rằng : Về thuở quá khứ, vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp
không thể nghĩ bàn, bấy giờ có đức Phật hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai,
ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ thế gian giải, Vô thượng sĩ,
Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Nước đó tên là Hảo Thành,
kiếp đó tên là Đại Tướng.
Các Tỳ Kheo ! Đức Phật đó diệt độ đến nay, rất là lâu xa.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo các chúng Tỳ Kheo rằng : Trong quá khứ vô lượng vô
biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn.
Lúc đó, có một vị Phật hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai, Ngài có thần thông quảng
đại và đại trí huệ, đầy đủ mười hiệu của Phật, tức là :
Như Lai : Như như bất động, tịch chiếu thường minh, biểu thị thể tính đức.
Ứng Cúng : Những gì cần làm đã làm xong, biểu thị từ bi nguyện đức.
Chánh Biến Tri : Lý trí vô ngại, viên dung khắp hết thảy, đầy đủ chánh tri chánh kiến, chẳng có gì mà không biết, biểu hiện lý trí đức.
Minh Hạnh Túc : Minh tức là được quả bồ đề vô thượng, hạnh túc là giới huệ đầy đủ, biểu thị tu nhân đắc quả đức, cũng gọi là biểu thị thần thông đức.
Thiện Thệ Thế Gian Giải : Vào vô
Vô Thượng Sĩ : Trong tất cả chúng, Phật là vô thượng, biểu thị trụ vị đức.
Điều Ngự Trượng Phu : Dùng lời diệu hòa, lời khổ thiết, khiến cho họ vào đường lành, biểu thị giáo chủ đức.
Thiên Nhân Sư : Như mặt trời chiếu khắp, hết thảy đều được lợi ích, đạo sư của trời người, biểu thị phổ lợi đức.
Phật : Ba giác cứu kính viên mãn, biểu thị giác quả đức.
Thế Tôn : Vạn đức tròn, phước đức đầy, bậc tôn kính của thế
gian và xuất thế gian, biểu thị viên mãn đức.
Đức Phật Đại Thông Trí Thắng có một cõi nước tên là Hảo Thành, vì nhân dân
trong cõi nước của Ngài đều rất thiện lương, kiếp đó tên là Đại Tướng.
Các Tỳ Kheo ! Vị Phật đó, ở trong kiếp quá khứ lâu xa không thể nói, đã vào cảnh
giới Niết Bàn không sinh không diệt, thời gian bao lâu ? Phật nói ra ví dụ ở
dưới đây.
Ví như tất cả đất đai của ba ngàn đại thiên thế giới. Giả sử có người đem
mài ra thành mực, rồi đi qua phương đông, cách một ngàn cõi nước, mới chấm xuống
một chút, lớn như hạt bụi. Rồi đi qua một ngàn cõi nước nữa, lại chấm xuống một
chút. Như thế, lần lược chấm hết mực mài bằng đất đai, ý của các ông nghĩ sao ?
Các cõi nước đó, hoặc thầy toán, hoặc đệ tử của thầy toán, có thể biết được bờ
mé của số đó chăng ?
- Không vậy, đức Thế Tôn.
Các Tỳ Kheo ! Cõi nước của người đó đi qua, hoặc chấm mực, hoặc
không chấm mực, đều nghiền hết ra làm bụi, cứ một hạt bụi là một kiếp. Từ khi
đức Phật đó diệt độ đến nay, lại lâu hơn số đó, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn
ức A tăng kỳ kiếp.
Ví như, có người dùng cõi nước ba ngàn đại thiên thế giới mài ra thành mực, rồi
đi qua phương đông cách một ngàn cõi nước, thì chấm xuống một chấm mực nhỏ như
hạt bụi, lại trải qua một ngàn cõi nước, lại chấm xuống một chấm mực, cứ như
thế chấm hết số mực đã mài ra, có tính đếm được số cõi nước chấm mực chăng ?
Bạn thấy như thế nào ? Giả sử, nhà toán thuật, hoặc đệ tử của họ cùng nhau tính
đếm số mực nầy, họ có tính được số mực nầy chăng ? Tất cả các vị Tỳ Kheo đều
thưa : ‘’Không thể được, đức Thế Tôn‘’.
Các chúng Tỳ Kheo ! Cõi nước của người đó đi qua, có chấm mực hoặc không chấm mực,
đều nghiền ra làm bụi, dùng một hạt bụi làm một kiếp, mà Phật Đại Thông Trí
Thắng đã vào Niết Bàn, trải qua số kiếp lâu hơn số đó, vô lượng vô biên trăm
ngàn vạn ức A Tăng kỳ kiếp.
Ta dùng sức tri kiến của Như Lai, xem thuở lâu xa đó, như ngày hôm nay.
Phật là bậc Nhất thiết trí, dùng thiền định tam muội, nên đức Phật thấy kiếp
lâu xa như thế, như ngày hôm nay, chẳng lâu dài.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng.
Ta nhớ đời quá khứ
Vô lượng vô biên kiếp
Có Phật Lưỡng Túc
Hi
Khi đó, đức Phật muốn thuật lại ý nghĩa kinh trường hàng ở trên, nên dùng kệ để
nói.
Ta nhớ thuở trong đời quá khứ vô lượng vô biên kiếp số, có một vị Phật, đầy đủ phước
huệ viên mãn, Phật đó hiệu là Đại Thông Trí Thắng Phật.
Như người dùng sức mài
Ba ngàn cõi đại thiên
Hết tất cả đất đai
Thảy đều làm thành mực.
Qua khỏi ngàn cõi nước
Mới chấm xuống chút mực
Lần lược chấm như thế
Hết sạch số mực đó.
Các cõi nước như thế
Chấm mực hoặc chẳng chấm
Lại nghiền ra làm bụi
Một bụi là một kiếp.
Kiếp số lâu xa kia
Lại nhiều hơn số bụi
Phật đó diệt đến nay
Vô lượng kiếp như thế.
Ví như có người đem cõi nước ba ngàn đại thiên thế giới, đều mài ra làm mực,
sau đó đi qua một ngàn cõi nước, chấm xuống một chấm nhỏ, rồi lại đi qua một
ngàn cõi nước, cũng chấm xuống một chấm mực, cho đến lần lược chấm hết số mực
đó. Các cõi nước người đó đi qua, chấm mực hoặc chẳng chấm mực, đều nghiền ra
làm bụi, mỗi hạt bụi là một kiếp, Phật Đại Thông Trí Thắng diệt độ đến nay, nhiều
hơn số bụi đó vô lượng kiếp.
Trí vô ngại của Phật
Biết Phật đó diệt độ
Và Thanh Văn Bồ Tát
Như thấy nay diệt độ.
Các Tỳ Kheo nên biết!
Trí Phật tịnh vi diệu
Vô lậu chẳng gì ngại
Thông đạt vô lượng kiếp.
Phật đầy đủ trí huệ viên dung vô ngại, đều biết Phật Đại Thông Trí Thắng và
hàng Thanh Văn Bồ Tát đã diệt độ, như thấy được các Ngài hiện tại vừa diệt độ.
Các Tỳ Kheo ! Các ông phải biết trí huệ của Phật rất thanh tịnh, vi tế và áo
diệu, chẳng có lậu, cũng chẳng có gì quái ngại, thông đạt vô lượng số kiếp.
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo ! Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, sống lâu năm trăm bốn
mươi vạn ức Na do tha kiếp. Khi đức Phật đó, ngồi đạo tràng phá ma quân rồi,
sắp được đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà các Phật pháp chẳng hiện ra ở
trước, đức Phật ngồi kiết già như thế một tiểu kiếp, cho đền mười tiểu kiếp,
thân và tâm đều bất động, mà các Phật pháp cũng chẳng hiện ra.
Bấy giờ, chư thiên cõi trời Đao Lợi, trước đã vì đức Phật đó, làm tòa sư tử ở dưới
cội bồ đề cao một do tuần. Đức Phật ngự lên tòa đó, sẽ được Vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Khi Phật ngồi lên tòa đó, thì các vị Phạm Thiên Vương mưa
xuống các hoa trời, khắp một trăm do tuần. Gió thơm lại đến thổi đi các hoa héo,
rồi mưa xuống hoa tươi, cứ như thế không ngừng, trọn mười tiểu kiếp, để cúng dường
đức Phật. Cho đến sau khi đức Phật diệt độ, vẫn luôn luôn mưa xuống các hoa trời.
Bốn vị Tứ Thiên Vương vì cúng dường đức Phật, mà thường đánh trống trời, còn
các vị trời khác, thì tấu nhạc trời, trọn mười tiểu kiếp, đến khi đức Phật diệt
độ cũng lại như thế.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo các Tỳ Kheo ở trong hội rằng : Phật Đại Thông Trí Thắng
sống lâu đến năm trăm bốn mươi vạn ức Na do tha kiếp. Khi Phật Đại Thông Trí Thắng
ngồi dưới Bồ Đề đạo tràng, phá tất cả ma quân rồi. Phàm là người tu đạo chứng
quả, đều phải trải qua cửa ải ma khảo nghiệm. Phật Thích Ca Mâu Ni, trước khi
thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng phải trải qua sự khảo nghiệm. Khi
Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi dưới cội Bồ đề nhập định, thì ma vương phái một đám
biến thành thiếu nữ xinh đẹp, để nhiễu loạn thiền định của Phật.
Lúc đó, Phật đã đoạn sạch tất cả mọi dục niệm và vọng tưởng, xa lìa sự ràng buộc. Quán vạn sự vạn vật trong vũ trụ như mộng như huyễn, hà huống là đối với một đám mỹ nữ ở trước mặt, càng như như bất động, liễu liễu thường minh, Phật bèn nói với chúng rằng: ‘’Tuy bây giờ các người còn trẻ đẹp đẽ, song khi về già thì tóc bạc mặt nhăn xấu xí như bà lão, các ngươi bất quá chỉ là túi da hôi thối chứa đầy đồ dơ bẩn mà thôi’’ ! Khi đám mỹ nữ nghe Phật nói như thế, thì chúng biết mỹ nhân kế của chúng chẳng thành công, do đó chúng nhìn xem diện mạo của chúng, thì quả nhiên biến thành những bà già xấu xí, bỏ nhau chạy đi hết.
Trước khi tất cả các vị thành Phật đạo, đều phải trải qua sự khảo nghiệm, cho nên hàng phục được tất cả thiên ma ngoại đạo, mới đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lúc đó, Phật Đại Thông Trí Thắng ngồi kiết già, thân tâm bất động, nhập định, song vẫn chưa thành Phật đạo, cho nên Phật pháp chưa xuất hiện ra trước, như thế trải qua một tiểu kiếp, cho đến mười tiểu kiếp, Phật pháp vẫn chưa hiện tiền.
Bấy giờ, chư thiên cõi trời Đao Lợi, vì Đức Phật đó, chuẩn bị thiết lập tòa sư tử dưới cội bồ đề, cao một do tuần (bốn mươi dặm). Đức Phật bèn ngồi trên tòa đó, sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lúc đó, chư thiên Phạm Thiên Vương mưa xuống các hoa trời, rải khắp nơi một trăm do tuần, một trận gió thơm thổi đến, thổi các hoa héo đi, lại mưa xuống các hoa tươi, tiếp tục như thế không ngừng, trọn mười tiểu kiếp để cúng dường Phật.
Sau khi Phật diệt độ rồi, chư thiên vẫn mưa hoa trời xuống
như thường lệ. Khi đó, Tứ Thiên Vương thường đánh trống trời, tấu nhạc trời để cúng
dường Phật, còn chư thiên các cõi trời khác, thì thường tấu đủ thứ nhạc trời,
tiếp tục như thế trọn mười tiểu kiếp, cho đến khi Phật diệt độ rồi cũng lại như
thế.
Các Tỳ Kheo ! Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua mười tiểu kiếp, các Phật pháp
mới hiện ra ở trước, thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Phật Thích Ca lại bảo các Tỳ Kheo nói rằng : Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua mười
tiểu kiếp, Phật pháp mới xuất hiện ở trước, Ngài mới thật sự thành Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, rộng vì chúng sinh, chuyển đại pháp luân.
Khi đức Phật đó chưa xuất gia, thì có mười sáu người con. Người con thứ nhất
tên là Trí Tích. Các người con đều có đồ chơi tốt đẹp, quý báu lạ thường, nghe
cha đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều bỏ đồ chơi báu lạ, đi đến
chốn Phật. Các bà mẹ khóc rơi lệ, đi theo tiễn đưa. Ông nội của các vị đó, là
chuyển luân thánh vương, với một trăm vị đại thần, và trăm ngàn vạn ức nhân dân
khác, đều cùng nhau vây quanh theo đến đạo tràng. Đều muốn gần gũi đức Đại Thông
Trí Thắng Như Lai, cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi.
Đến rồi, thảy đều cuối đầu đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu Phật xong rồi, một
lòng chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, dùng kệ nói rằng.
Trước khi vị Phật đó chưa xuất gia, thì Ngài có mười sáu người con. Người con
cả thứ nhất tên là Trí Tích. Ngài đầy đủ đại trí huệ, mỗi người con đều có công
đức báu phước đức quý khác nhau, đầy đủ đồ chơi quý báu đẹp lạ.
Song, khi các vị đó nghe người cha đắc được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,
đều lập tức bỏ hết các đồ chơi quý báu đẹp lạ, đi đến chỗ Phật thành đạo. Bà mẹ
của các Ngài khóc lóc rơi lệ, cùng đi với các Ngài đến gặp Phật. Tại sao bà mẹ
đau buồn như thế ? Vì mười sáu người con của bà ta, đều muốn bỏ mẹ đi theo Phật
tu đạo.
Lúc đó, ông nội của các Ngài là Chuyển Luân Thánh Vương,
dẫn một trăm vị đại thần và trăm ngàn vạn ức nhân dân, đều cùng vây quanh để đi
đến đạo tràng nơi Phật thành đạo, để gần gũi Phật Đại Thông Trí Thắng, cúng
dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Phật. Đến chốn Phật rồi, tất cả đều năm
thể sát đất, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi một lòng
chấp tay, chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Sau đó, dùng bài kệ để tán thán Phật.
Thế Tôn oai đức lớn
Vì cứu độ chúng sinh
Trong vô lượng ức kiếp
Nay mới được thành Phật.
Các nguyện đã đầy đủ
Hay thay lành vô thượng
Thế Tôn rất ít có
Một phen ngồi mười kiếp.
Thân thể và tay chân
Vắng lặng yên chẳng động
Tâm Phật thường lặng lẽ
Chưa từng có tán loạn.
Rốt ráo hằng tịch diệt
An trụ pháp vô lậu
Ngày nay thấy Thế
An
Chúng con được lợi lành
Rất hớn hở vui mừng
Chúng sinh thường khổ não
Đui mù không đạo sư.
Chẳng biết đạo dứt khổ
Không biết cầu giải thoát
Ngày đêm thêm nẻo ác
Tổn giảm chúng chư thiên.
Từ tối vào nơi tối
Trọn chẳng nghe tên Phật
Nay Phật được vô thượng
Đạo an ổn vô lậu.
Chúng con và trời người
Vì được lợi lành lớn
Cho nên đều cuối đầu
Quy mạng đấng Vô Thượng.
Đức Thế Tôn là bậc có đại oai đức nhất trong thế gian, vì cứu độ tất cả sáu nẻo
chúng sinh chịu khổ trong mười phương, mà trải qua vô lượng ức kiếp trang
nghiêm vạn hạnh, mới được thành Phật đạo, đầy đủ viên mãn thệ nguyện đã phát ra
từ trước. Cho nên, nói: Nếu ai chân chánh muốn phát tâm tu đạo, thì phải phát
đại thệ nguyện. Mười phương chư Phật thành tựu Phật quả, đều phát thệ nguyện vô
thượng và tâm bồ đề rộng lớn, tại sao chúng ta ở trong sự tu đạo chịu khổ chẳng
được ? Hoặc sinh tâm thối chuyển ? Vì chúng ta chẳng thật sự đem chân tâm ra để
tu đạo, chưa từng phát tâm thệ nguyện kim cang kiên cố Ba la mật.
Phật là bậc cát tường thù thắng nhất, vô thượng nhất, rất hiếm có trên thế gian.
Phật hay nhập vào thiền định thâm sâu, như thế trải qua mười tiểu kiếp thời
gian lâu dài, song thân thể tay chân của Phật vẫn vắng lặng an nhiên chẳng
động, tâm của Ngài xa lìa tất cả điên đảo mộng tưởng, chẳng có ô nhiễm một chút
bụi, cho nên chẳng tán loạn.
Phật rốt ráo đắc được viên giác vĩnh hằng, an trụ ở trong thường tịch quang, lấy pháp vô lậu, mở bày hàng nhị thừa. Như hôm nay chúng con được thấy Đức Thế Tôn an ổn thành tựu Phật đạo, vì đắc được lợi ích tốt lành, cho nên chúng con biểu lộ vui mừng hớn hở.
Tất cả sáu nẻo chúng sinh thường chịu các sự thống khổ bức bách,
như người mù, mất đi đạo sư dẫn dắt, chẳng biết con đường lìa khổ, chẳng biết
làm thế nào để ra khỏi sinh tử luân hồi, cứ tạo tội nghiệp chồng chất. Chúng
sinh điên đảo trầm luân ở trong đường ác, bị vô minh che lấp đi trí huệ Phật
tính, tội nghiệp chướng ngại, cho nên chẳng nghe được hồng danh của Đức Phật.
Như nay Phật đắc được vô thượng, Phật đạo an ổn, chúng con và tất cả trời người
như tối có đèn, đều được lợi ích rất lớn, cho nên chúng con năm thể sát đất,
cuối đầu đảnh lể, một lòng quy mạng đấng Thế
Khi chúng ta một lòng quy y Phật Pháp
Bấy giờ, mười sáu vị vương tử nói kệ khen đức Phật rồi, bèn thỉnh cầu đức
Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, đều thưa rằng : Đức Thế Tôn thuyết pháp được nhiều
sự an ổn, thương xót lợi ích các trời người, lại nói kệ rằng.
Khi mười sáu vị vương tử khen ngợi Đức Phật rồi, các Ngài lại thỉnh Phật chuyển
bánh xe diệu pháp. Chuyển bánh xe pháp như thế nào ? Diễn nói bốn diệu đế, mười
hai nhân duyên, cho đến sáu độ Ba la mật kinh điển giáo nghĩa, giải nói nghĩa
lý Phật pháp, đều là chuyển bánh xe pháp; còn có nhiều phương tiện lìa khổ được
vui, tứ thiền bát định .v.v. Chuyển bánh xe pháp như hộ trì Tam bảo, khen ngợi
Tam Bảo, tuyên
Mười sáu vị đồng tử lại dị khẩu đồng âm nói: ‘’Đức Thế Tôn ! Thỉnh Ngài vì
chúng con nói Phật pháp vô thượng, khiến cho chúng con tất cả chúng sinh được an
ổn, xin Ngài thương xót và lợi ích tất cả trời người.’’ Lại nói kệ khen ngợi
Phật.
Thế Tôn chẳng ai bằng
Trăm phước tự trang nghiêm
Được trí huệ vô thượng
Xin vì thế gian nói.
Độ thoát cho chúng con
Và các loài chúng sinh
Vì phân biệt hiển bày
Khiến được trí huệ Phật.
Nếu chúng con thành Phật
Chúng sinh cũng như thế
Thế Tôn biết chúng sinh
Nghĩ gì trong thâm tâm.
Cũng biết họ nguyện gì
Lại biết sức trí huệ
Ưa muốn và tu phước
Nghiệp tạo ra đời trước.
Thế Tôn biết cả rồi
Nên chuyển pháp vô thượng.
Phật là đấng Thánh hùng xuất thế gian. Chúa Đại hùng thế gian không thể sánh
với đại Thánh Tôn ! Ba A Tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp trồng ruộng phước, vạn
đức trang nghiêm tướng tốt, đầy đủ oai nghi. Phật là đại Thánh hùng vô thượng
của thế gian, cho nên xưng là ‘’Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn‘’. Vì
Phật trong ba A tăng kỳ kiếp tu phước huệ, trong trăm kiếp vun bồi tướng tốt trang
nghiêm viên mãn, Phật đắc được trí huệ vô thượng, cho nên Phật vì tất cả chúng
sinh thế gian nói ra pháp vi diệu, khiến cho chúng con xa lìa biển khổ, sớm lên
bờ giác ngộ. Vì nhân duyên của mười hai loài chúng sinh, đều hiển bày khác
nhau, khiến cho chúng con đắc được trí huệ vô thượng, Phật quả bồ đề.
Nếu chúng con đều thành Phật đạo, thì tất cả sáu nẻo chúng sinh thảy đều như
thế. Đức Thế Tôn biết rõ tâm của tất cả chúng sinh, nghĩ gì và nguyện gì, Phật
biết hết sức trí huệ của họ có bao nhiêu, nghĩ muốn được bao nhiêu thiện lạc,
tích tập bao nhiêu phước đức, tạo bao nhiêu tội nghiệp, cho nên Phật đều biết
đều thấy, nên Phật chuyển bánh xe pháp.
Phật bảo các Tỳ Kheo ! Khi đức Phật Đại Thông Trí Thắng được Vô thượng chánh
đẳng chánh giác, thì trong mười phương, mỗi phương đều có năm vạn ức thế giới của
chư Phật, có sáu thứ chấn động. Trong các cõi nước đó, chỗ tối tăm ánh sáng mặt
trời mặt trăng không thể chiếu đến, mà nay đều sáng rực rỡ. Chúng sinh ở trong
đó đều thấy nhau, đều nói rằng : Trong đây tại sao bỗng sinh ra chúng sinh ? Và
cung điện của chư Thiên, cho đến cung điện của Phạm thiên, trong các cõi đó,
đều có sáu thứ chấn động. Quang minh chiếu khắp đầy các thế giới, sáng hơn ánh sáng
của chư Thiên.
Phật Thích Ca lại bảo các Tỳ Kheo rằng: ‘’Khi Phật Đại Thông Trí Thắng được quả
Vô Thượng Chánh Đẳng Cháng Giác, thì trong mười phương, mỗi phương đều có năm
trăm vạn ức thế giới của chư Phật, đều hiện sáu thứ chấn động.
Lúc đó, trong tất cả cõi nước đó, phàm là chỗ nào tối tăm, ánh sáng mặt trời mặt
trăng không thể chiếu đến được, thì nay đều xuất hiện ánh sáng. Chúng sinh ở
đây thấy rõ được tất cả, họ bèn nói rằng: ‘’Chúng sinh từ đâu đến’’? (kì thật
trước kia họ sống trong bóng tối, có cũng chẳng thấy, cho nên nói chẳng có
chúng sinh tồn tại. Bây giờ, bỗng có ánh sáng, mới thấy có chúng sinh khác).
Lại nữa, ở trong phạm vi những cõi nước đó, tất cả Thiên cung cho đến cung điện
của Phạm thiên, đều hiện sáu thứ chấn động, được quang minh chiếu khắp, đầy các
thế giới. Quang minh đó sáng hơn tất cả quang minh của chư Thiên, hơn ánh sáng
của mặt trời mặt trăng mấy ngàn vạn lần.
Bấy giờ, ở phương đông năm trăm vạn ức cõi nước, các cung điện của cõi trời Phạm
thiên, có ánh sáng chiếu sáng gấp bội hơn ánh sáng thường. Các vị Phạm Thiên Vương
đều nghĩ : Hôm nay ánh sáng chiếu đến cung điện, từ xưa chưa từng có, bởi nhân
duyên gì mà hiện tướng nầy ? Lúc đó, các Phạm Thiên Vương đều đi đến với nhau
cùng bàn về việc nầy. Khi đó, trong chúng có một vị Phạm Thiên Vương, tên là
Cứu Nhất Thiết, vì các chúng Phạm Thiên mà nói kệ rằng.
Khi đó, ở phương đông các cung điện của trời Phạm Thiên, trong năm trăm vạn ức cõi
nước, đều được ánh sáng chiếu sáng, ánh sáng đó hơn ánh sáng thường gấp ngàn
vạn lần.
Lúc đó, tất cả các vị Phạm Thiên Vương đều sinh ra hoài nghi : ‘’Như hôm nay cung
điện của chúng ta có ánh sáng nầy, từ xưa chưa từng có, bởi nhân duyên gì mà
nay hiện ra tướng điềm lành nầy’’?
Do đó, tất cả các vị Phạm Thiên Vương, đều tự tìm đến cùng nhau, thảo luận về việc
ánh sáng chiếu đến cung điện. Lúc đó, trong chúng trời Phạm Thiên Vương, có một
vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Cứu Nhất Thiết, vì tất cả chúng Phạm Thiên mà
nói ra bài kệ.
Các cung điện chúng ta
Ánh sánh xưa chưa có
Đây là nhân duyên gì ?
Thảy đều cùng nhau tìm.
Là trời đại đức sinh
Hay Phật hiện ra đời ?
Mà ánh sáng lớn nầy
Chiếu khắp trong mười phương.
Các cung điện của chúng ta được ánh sáng chiếu đến, đây là ánh sáng không thể nghĩ
bàn chưa từng có. Đây là nhân duyên gì ? Chúng ta đều cùng nhau đi tìm ánh sáng
nầy từ đâu đến ? Theo ý của tôi thì, đây có thể là một vị đại đức Thánh nhân ra
đời, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra đời, nên mới có ánh sáng như thế, chiếu
khắp mười phương thế giới.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức các cõi nước, cùng với cung
điện, ai nấy đều dùng túi y đựng đầy các hoa trời, đồng đi đến hướng tây để tìm
tướng ánh sáng đó. Thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, ngồi trên tòa sư tử,
tại đạo tràng dưới cội bồ đề. Chư Thiên, Long vương, Càn thác bà, Khẩn na la,
Ma hầu la già, nhân, phi nhân .v.v... đều cung kính vây quanh, và thấy mười sáu
vị vương tử, thỉnh đức Phật chuyển bánh xe pháp.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương đông, đều
mang theo cung điện của họ cùng bay đi. Phàm là người trời đều có thể bay đi tự
tại, chẳng những như thế, mà họ còn có thể mang theo cung điện của họ cùng đi,
rất thuận tiên tự tại, và họ còn dùng túi đựng đầy các hoa trời, đồng đi đến
phương tây, để tìm nguồn gốc tướng ánh sáng đó, thấy đức Đại Thông Trí Thắng
Như Lai, ngồi trên tòa sư tử tại đạo tràng dưới cội Bồ đề.
Lúc đó, tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn Thác Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu
Tức thời, các vị Phạm Thiên Vương cúi đầu đảnh lễ đức Phật, nhiễu trăm ngàn vòng,
liền lấy hoa trời rải trên đức Phật, hoa rải xuống nhiều như núi Tu Di, cùng để
cúng dường cây bồ đề của Phật. Cây bồ đề đó cao mười do tuần, cúng dường hoa
xong, ai nấy đều đem cung điện dâng lên đức Phật đó, mà bạch rằng : Xin đức
Phật thương xót lợi ích cho chúng con, cung điện dâng cúng đây, xin đức Phật
hãy nhận để ở.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước đức Phật, một lòng đồng
thanh nói bài kệ rằng.
Thế tôn rất ít có
Khó có thể gặp được
Đủ vô lượng công đức
Hay cứu hộ tất cả.
Đại sư của trời người
Thương xót nơi thế gian
Các chúng sinh mười phương
Khắp đều được lợi ích.
Chúng con đều đến từ
Năm trăm vạn ức cõi
Xả bỏ vui thiền định
Vì cúng dường đức Phật.
Chúng con phước đời trước
Cung điện rất tốt đẹp
Nay dâng lên Thế
Cúi
Khi đó, tất cả các vị Phạm Thiên Vương, đều đảnh lễ dưới chân đức Phật, cung
kính đi nhiễu chung quanh Đức Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời của họ rải ở
trên thân Đức Phật, hoa rải ra nhiều như núi Tu Di, lại dùng hoa trời để cúng
dường cây Bồ đề của Phật. Cây Bồ đề đó cao mười do tuần, cúng dường như thế
rồi, các vị Đại Phạm Thiên Vương, ai nấy đều đem cung điện mà họ ưa thích nhất,
để dâng cúng Đức Phật.
Sau đó nói: ‘’Chư Phật từ bi thương xót chúng con, lợi ích
cho chúng con mà nhận cung điện của chúng con dâng cúng.’’ Nói xong rồi, tất cả
vị Phạm Thiên Vương đều quỳ xuống ở trước Phật, một lòng đồng tiếng, nói kệ.
Đức Thế Tôn ! Ngài là đấng Thánh Tôn ít có nhất trên đời, rất khó gặp nhất, Phật
đầy đủ vô lượng công đức nên thành Phật. Chúng ta tất cả chúng sinh, cũng phải
đầy đủ vô lượng công đức, mới có cơ hội gặp được Phật. Phật hay cứu hộ tất cả
chúng sinh, Ngài là đạo sư của trời người, Phật hay từ bi thương xót tất cả
chúng sinh thế gian, hay lợi ích khắp tất cả chúng sinh.
Chúng con tất cả các Phạm Thiên Vương, từ năm vạn ức cõi
nước đến đây, vì muốn tìm ánh sáng nầy, cho nên bỏ sự vui thiền định thâm sâu.
Nếu người tu đạo, một ngày chẳng chứng được cảnh giới vui thiền định, thì thái
độ đều cẩu thả, người chân chánh đắc được vui thiền định, thì rất hoan hỉ tham
thiền đả tọa. Thấy tất cả thế gian vạn sự vật đều rất an lạc, mà các chư Thiên
nầy, tuy chứng được thiền định, song chưa dứt sinh tử thoát khỏi tam giới, do
đó, khi họ thấy được ánh sáng nầy, ai nấy cũng đều muốn bỏ vui thiền định, để
đi tìm nguyên do của ánh sáng nầy, cũng vì muốn cúng dường Phật mà đến, lại nói
với Phật : Chúng con thuở xưa tại nhân địa, tu các phước báu, mới có được cung
điện tốt đẹp trang nghiêm nầy, hiện nay gặp được Phật, chúng con dâng cúng cung
điện nầy lên Đức Phật, cúi xin Phật thương xót tiếp nhận sự cúng dường của
chúng con.
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi, ai nấy đều nói :
Cúi xin đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, độ thoát cúng sinh, mở đường Niết Bàn.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh nói kệ rằng.
Thế hùng Lưỡng Túc
Cúi
Dùng sức đại từ bi
Độ chúng sinh khổ não.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương nói bài kệ khen Đức Phật rồi, họ cùng nhau bạch
rằng: ‘’Cúi xin Đức Thế Tôn hãy vì chúng con chuyển bánh xe diệu pháp, độ thoát
tất cả chúng sinh chịu khổ, xin Phật từ bi mở con đường Niết bàn‘’. Lúc đó, các
vị Phạm Thiên Vương lại một lòng đồng thanh nói ra bài kệ.
Đức Thế Tôn ! Ngài là đấng Đại Thánh Hùng vô thượng trong thế gian, vạn đức
viên mãn, phước huệ đều đủ. Cúi xin Đức Thế Tôn vì chúng con chúng sinh diễn
nói diệu pháp, hy vọng nhờ sức đại từ bi của Đức Thế Tôn, để độ thoát sự khổ
ràng buộc của chúng con và chúng sinh, đều ra khỏi biển khổ sinh tử, sớm lên bờ
giác ngộ.
Bấy giờ, đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời.
Lại nữa, các Tỳ Kheo ! Phương đông nam, có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị Đại Phạm Vương, đều thấy ánh sáng chiếu sáng cung điện của mình, từ xưa chưa từng có, thảy đều hớn hở vui mừng, sinh tâm hy hữu, bèn cùng nhau đi đến bàn về việc nầy.
Lúc đó, trong chúng đó có một vị Đại Phạm Thiên Vương, tên là Đại Bi, vì các chúng Phạm Thiên mà nói kệ rằng :
Việc nầy nhân duyên gì ?
Mà hiện tướng như thế
Các cung điện chúng ta
Ánh sáng chưa từng có.
Là trời đại đức sinh
Hay là Phật ra đời ?
Chưa từng có tướng nầy
Nên cùng một lòng tìm.
Qua ngàn vạn ức cõi
Theo luồng sáng tìm đến
Phần nhiều Phật ra đời
Độ thoát chúng sinh khổ.
Lúc đó, Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời, sự thỉnh cầu của các vị
Phạm Thiên Vương.
Phật nói : Ở phương đông nam, có năm trăm vạn ức cõi nước, tất cả các vị Đại Phạm
Thiên Vương, đều thấy các cung điện của họ, đều hiện ánh sáng chiếu sáng, từ
xưa chưa từng có, do đó họ đều hớn hở vui mừng, sinh tâm hy hữu. Họ tụ lại với
nhau cùng thảo luận vấn đề nầy.
Lúc đó, ở trong chúng hội đó, có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Đại Bi, vì tất
cả các Phạm Thiên Vương, mà nói ra bài kệ.
Việc nầy rất là thù thắng, cho nên hiện tướng điềm tốt nầy, chiếu đến cung điện
của chúng ta. Ánh sáng nầy từ xưa chưa từng có, chắc chắn là có vị đại đức từ
trên trời hàng sinh xuống, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra đời. Đây là cảnh
giới chúng ta chưa từng thấy qua, nên cùng nhau đi tìm nguyên do.
Do đó, trải qua ngàn vạn ức cõi nước, để đi tìm nguyên nhân của ánh sáng đó. Theo
sự suy đoán của tôi, phần nhiều chắc chắn là có vị Phật xuất hiện ra đời, để độ
thoát tất cả chúng sinh khổ não.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước, đều mang theo
cung điện đi với, ai nấy cũng đều dùng túi đựng đầy hoa trời, cùng đi đến
phương tây bắc, để tìm tướng đó, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, ngồi
trên tòa sư tử, nơi Đạo tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long vương, Càn thác
bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân .v.v... thảy đều cung kính vây quanh,
và thấy mười sáu vị vương tử, đang thỉnh đức Phật chuyển pháp luân.
Lúc đó, ở phương đông nam, năm trăm vạn ức các Phạm Thiên Vương đều mang theo cung
điện của họ, cùng nhau đi tìm ánh sáng nầy. Mỗi vị Đại Phạm Thiên Vương, đều
dùng túi đựng đầy hoa trời, chuẩn bị dùng để rải hoa cúng dường mười phương chư
Phật, họ đều đi về hướng tây bắc để tìm tướng ánh sáng đó.
Lại thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, đang ngồi trên tòa sư tử, nơi Đạo tràng
dưới cội Bồ đề. Tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương cuối đầu đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh
đức Phật trăm ngàn vòng, bèn dùng hoa trời rải lên trên đức Phật. Hoa rải nhiều
như núi Tu Di, cùng cúng dường cây bồ đề của Phật, cúng dường hoa rồi, ai nấy
đều đem cung điện dâng lên cúng dường đức Phật đó, mà bạch rằng : Cúi xin đức
Phật thương xót lợi ích chúng con, cung điện dâng cúng đây, xin đức Phật hãy
nhận.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước đức Phật, một lòng đồng
thanh nói bài kệ rằng.
Lúc đó, hết thảy các vị Đại Phạm Thiên Vương đảnh lễ dưới chân của Đức Phật, và
nhiễu trăm ngàn vòng. Nhiễu Phật xong rồi, thì dùng hoa trời của họ mang đến
rải lên thân Phật, hoa rải lên cúng Phật nhiều như núi Tu Di, chẳng những cúng
dường Đức Phật, mà còn cúng dường cây Bồ đề của Phật.
Cúng dường rồi, mỗi vị Đại Phạm Thiên Vương đều đem cung điện của họ mang đến,
dâng lên cúng dường Phật Đại Thông Trí Thắng, và nói : ‘’Cúi xin đức Phật từ bi
thương xót chúng con, lợi ích chúng con, hiện nay cung điện dâng cúng là cung
điện báu đẹp của chúng con, xin Phật hãy nhận lãnh‘’. Lúc đó, các vị Phạm Thiên
Vương của năm trăm vạn ức cõi nước, ở trước đức Phật một lòng đồng cất tiếng,
dùng kệ để khen ngợi Đức Phật Đại Thông Trí Thắng.
Thánh chúa Thiên trung
Ti
Thương xót các chúng sinh
Chúng con nay kính lễ.
Thế Tôn rất ít có
Lâu xa hiện một lần
Một trăm tám mươi kiếp
Trải qua chẳng có Phật.
Đầy dẫy ba đường ác
Chúng chư thiên giảm bớt
Nay Phật hiện ra đời
Mắt sáng của chúng sinh.
Chỗ thế gian nương tựa
Cứu hộ thảy mọi loài
Cha lành của chúng sinh
Thương xót làm lợi ích.
Chúng con nhờ phước xưa
Nay được gặp Thế Tôn.
Phật cũng gọi là Thánh Chúa, tức là Thánh
Chúng con năm trăm vạn ức các Phạm Thiên Vương, nay hướng về
đức Thế Tôn kính lễ. Đức Thế Tôn ! Ngài rất là ít có, rất khó được gặp ! Vì Phật
trải qua số kiếp lâu xa, mới xuất hiện ra đời. Theo chỗ chúng con biết, thì trong
một trăm tám mươi kiếp đã qua, đều chẳng có Phật xuất hiện ra đời. Do đó, chúng
sinh đọa lạc trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, ngày càng nhiều,
song chư thiên chúng con ngày càng ít. Bây giờ, Phật xuất hiện ra đời, mà trước
kia chúng sinh đọa lạc trong ba đường ác đều vì họ chẳng nghe được pháp âm,
chẳng phân biệt được thị phi trắng đen, tạo các nghiệp ác, vì chẳng có ai dẫn
dắt họ, cho nên họ mê hoặc ở trong đen tối, Phật là thiện tri thức mắt sáng của
tất cả chúng sinh, cho nên khi Phật xuất hiện ra đời, thì tất cả chúng sinh,
đều được Phật chỉ dẫn con đường thoát khỏi đen tối nguy hiểm. Chúng sinh trong
ba đường ác sẽ giảm bớt, còn chúng sinh ba đường lành sẽ thêm nhiều.
Tất cả chúng sinh thế gian đều về nương tựa với Phật, hướng về bồ đề giác đạo, Phật
cứu hộ tất cả chúng sinh, cho nên Phật là cha đại từ bi của chúng con, còn
chúng con đều là con bất hiếu của Phật.
Song, Phật rất thương xót lợi ích chúng con, nguyện độ chúng
con sớm lên bờ giác. Chúng con các chư Thiên, đều vì đời trước đã từng làm công
đức và việc lành, cho nên đời nầy mới may mắn được gặp Phật. Hiện nay chúng con
nghe được pháp của Phật nói, đều do nhân duyên căn lành đời trước.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi, ai nấy đều bạch rằng
: Cúi xin đức Thế Tôn thương xót tất cả, chuyển bánh xe pháp, độ thoát chúng
sinh.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh nói bài
kệ rằng.
Đại Thánh chuyển pháp luân
Hiển bày các pháp tướng
Độ chúng sinh khổ não
Khiến được vui mừng lớn.
Chúng sinh nghe pháp nầy
Đắc đạo hoặc sinh thiên
Các đường ác giảm dần
Người khéo nhẫn thêm nhiều.
Lúc đó, hết thảy các vị Đại Phạm Thiên Vương, của năm trăm vạn ức cõi nước ở
phương đông nam, dùng kệ khen ngợi đức Phật rồi, bèn bạch Phật rằng : ‘’Hiện
nay chúng con chỉ mong cầu Phật thương xót tất cả chúng sinh, vì chúng con
chuyển bánh xe diệu pháp, dạy chúng con như thế nào để liễu sinh thoát tử, ly
khổ đắc lạc.’’ Khi đó, tất cả Đại Phạm Thiên Vương một lòng đồng cất tiếng nói
ra bài kệ.
Hiện tại, chúng con thỉnh Đức Phật chuyển bánh xe pháp, để giáo
hóa chúng sinh. Chỉ rõ cho chúng con thật tướng của tất cả pháp, để độ thoát chúng
sinh khổ não, khiến cho họ đều được vui mừng lớn. Chúng sinh nghe được pháp của
Phật nói, thì sẽ lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử, nếu hay tu đạo, thì có thể
sinh về ba đường lành, còn chúng sinh đọa lạc trong ba đường ác sẽ giảm bớt,
người hay tu nhẫn nhục, giữ năm giới tu thập thiện, thì ngày càng thêm nhiều.
Bấy giờ, đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời.
Lại nữa, các Tỳ Kheo ! Ở phương nam, có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị Đại Phạm Vương, đều thấy ánh sáng chiếu sáng cung điện của mình, từ xưa chưa từng có tướng điềm lành nầy, ai nấy đều vui mừng hớn hở, sinh tâm hy hữu, bèn cùng nhau tụ lại luận bàn việc nầy. Vì nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta có ánh sáng nầy ?
Lúc đó, trong chúng có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Diệu Pháp, vì các Phạm chúng mà nói kệ rằng :
Các cung điện chúng ta
Ánh sáng chiếu sáng rực
Đây là nhân duyên gì ?
Tướng nầy phải tìm cầu.
Trải qua trăm ngàn kiếp
Chưa từng thấy tướng nầy
Là trời đại đức sinh
Hay là Phật ra đời?
Lúc bấy giờ, Phật Đại Thông Trí Thắng im lặng nhận lời. Phật bèn nói: ‘’Nầy các
Tỳ Kheo ! Các Đại Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương nam,
ai nấy đều nhìn thấy cung điện của mình ánh sáng chiếu soi, từ trước chưa từng
thấy qua tướng điềm lành nầy, do đó họ đều vui mừng hớn hở, sinh tâm ít có, đều
tụ tập lại cùng nhau thảo luận về việc nầy : Vì nhân duyên gì mà cung điện của
chúng ta có ánh sáng nầy ? Lúc đó, ở trong hội có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên
là Diệu Pháp, vì chúng hội Đại Phạm Thiên Vương mà nói ra bài kệ.
Hiện nay cung điện của chúng ta ở, phát ra ánh sáng rất sáng
rực, ánh sáng nầy chưa từng thấy qua, chắt chắn là có nhân duyên lớn, cho nên chúng
ta phải đi tìm nhân duyên của tướng điềm lành nầy. Vì trong trăm ngàn kiếp quá khứ,
chưa từng thấy qua tướng điềm lành nầy, đại khái là có bậc đức hạnh lớn, từ
trên trời sinh xuống nhân gian, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra đời.
Bấy giờ, năm trăm vạn ức các vị Phạm Thiên Vương, đều mang theo cung điện của
họ, và dùng túi y đựng đầy hoa trời, cùng nhau đi về phương bắc, tìm tướng ánh
sáng đó, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, ngồi trên tòa sư tử, nơi Đạo
tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la
già, nhân, phi nhân .v.v... thảy đều vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử
đang thỉnh đức Phật chuyển bánh xe pháp.
Lúc bấy giờ, các vị Đại Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương nam,
đều mang theo cung điện của họ, và y trời của họ, thảy đều đầy ắp hoa trời,
thân thể đều phát ra đủ thứ hương thơm, đây là phước báu của họ, lần nầy họ
cũng dùng túi y mang đầy đủ thứ hoa trời, cùng nhau đi về phương bắc, để tìm
tướng ánh sáng đó, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, đang ngồi trên tòa sư
tử, nơi Đạo tràng dưới cội bồ đề, thành đạo mà phát ra vô lượng ánh sáng không
thể nghĩ bàn nầy.
Lúc đó, tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn Thát Bà, (thần nhạc trời), Khẩn Na La
(chim đại bàng cánh vàng), Ma Hầu
Lại thấy mười sáu vị vương tử của Phật. Mười sáu vị vương tử nầy, đều đời đời kiếp
kiếp phát nguyện làm con của Phật, hộ trì đạo tràng. Khi Phật thành đạo rồi,
lại vì tất cả chúng sinh, thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp, đó đều là một thứ
nhân duyên thù thắng.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh trăm
ngàn vòng, bèn dùng hoa trời rải lên trên đức Phật. Hoa rải nhiều như núi Tu
Di, cùng để cúng dường cây bồ đề của Phật. Cúng dường hoa rồi, ai nấy đều đem
cung điện dâng lên cúng dường đức Phật đó, mà bạch Phật rằng : Cúi xin Phật
thương xót, lợi ích cho chúng con, cung điện dâng cúng đây, xin Phật hãy nhận
ở. Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước đức Phật, một lòng đồng thanh nói
bài kệ rằng.
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương nam, thảy
đều năm thể (đầu, hai tay, hai chân) sát đất, cung kính đảnh lễ Đức Phật, nhiễu
Phật trăm ngàn vòng, lại dùng hoa trời mà họ mang đến rải lên Đức Phật, hoa rải
nhiều như núi Tu Di, và họ còn cúng dường cây bồ đề của Phật. Cúng dường hoa
rồi, họ lại dâng cung điện quý báu nhất của họ, để cúng dường đức Phật Đại
Thông Trí Thắng, sau đó nói : ‘’Cúi xin đức Thế Tôn đại từ bi thương xót chúng
con, tất cả chúng sinh, lợi ích cho chúng con, cung điện của chúng con dâng
cúng đây, xin Đức Phật từ bi nhận lấy, thỉnh Đức Phật vào ở trong cung điện
nầy.’’
Lúc đó, tất cả Đại Phạm Thiên Vương đều ở trước Phật, một lòng đồng thanh dùng kệ,
để khen ngợi đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai.
Thế Tôn rất khó gặp
Bậc phá các phiền não
Qua trăm ba mươi kiếp
Nay mới gặp một lần.
Các chúng sinh đói khác
Đều thấm nhuần mưa pháp
Xưa chưa từng gặp Phật
Bậc vô lượng trí huệ.
Như hoa ưu đàm bát
Hôm nay mới gặp được
Các cung điện chúng con
Nhờ ánh sáng nghiêm sức.
Thế Tôn đại từ mẫn
Cúi xin hãy nhận ở.
Trăm ngàn vạn kiếp rất khó gặp được Phật. Phật là bậc đại giác ngộ, đã phá trừ tất
cả vô minh phiền não, tức cũng là bậc đại từ bi, hay phá tất cả phiền não của
chúng sinh. Chúng con trải qua một trăm ba mươi đại kiếp đến nay, mới được gặp
Phật, tất cả chúng sinh đói khác ở trong ba đường ác, đều được đượm nhuần mưa
pháp của Phật, thuở xưa chưa từng gặp được Phật Pháp Tăng. Đức Thế Tôn là bậc
vô lượng vô biên đại trí huệ, như
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi, ai nấy đều bạch Phật
rằng : Cúi xin đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, khiến cho tất cả thế gian chư
Thiên, ma vương, Phạm Vương, Sa môn, Bà la môn, đều được an ổn mà được giải
thoát.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh, nói bài kệ rằng.
Cúi xin Thiên Nhân
Chuy
Đánh vang trống pháp lớn
Thổi lên ốc pháp lớn.
Rưới khắp mưa pháp lớn
Độ vô lượng chúng sinh
Chúng con đều thỉnh cầu
Nói tiếng pháp sâu xa.
Bấy giờ, tất cả các vị Đại Phạm Thiên Vương dùng kệ khen ngợi Phật rồi, họ khác
miệng cùng tiếng nói: ‘’Cúi xin Đức Thế Tôn vì chúng con, tất cả chúng sinh,
chuyển bánh xe diệu pháp, khiến cho tất cả thế gian, các Thiên chúng, ma, Phạm
vương, Sa môn, Bà La môn, đều được an ổn và khoái lạc, và được thoát khỏi khổ
ba đường ác‘’.
Lúc đó, tất cả chúng Đại Phạm Thiên Vương, một lòng đồng thanh
dùng kệ để khen ngợi Phật : Chúng con cúi xin Phật Thế Tôn, được trời người tôn
kính, vì chúng con chuyển bánh xe diệu pháp vô thượng, đánh trống pháp lớn,
thổi ốc pháp lớn. Như âm thanh nầy sẽ vang khắp tận hư không, thậm chí chư
Thiên ở trên trời, đều nghe được pháp âm nầy rất rõ ràng. Mưa pháp vũ xuống
khắp mọi nơi, chỉ có pháp vi diệu của Phật, mới độ thoát được vô lượng vô biên chúng
sinh. Chúng con thảy đều một lòng quy y Phật, thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp,
xin Phật hãy vì chúng con diễn nói pháp âm sâu xa nhất.
Bấy giờ, đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời. Phương tây nam
cho đến phương dưới, cũng lại như thế.
Bấy giờ, phương trên có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị Đại Phạm Thiên Vương, đều tự thấy ánh sáng, chiếu sáng rực cung điện của mình, từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở, sinh tâm hy hữu, đều tụ lại cùng nhau bàn về việc đó. Vì nhân duyên gì, mà cung điện của chúng ta có ánh sáng đó ?
Lúc đó, ở trong chúng có một vị Đại Phạm Thiên Vương, tên
là Thi Khí, vì các chúng Đại Phạm Thiên, mà nói bài kệ rằng.
Nay bởi nhân duyên gì ?
Các cung điện chúng ta
Ánh sáng chiếu sáng rực
Trang nghiêm chưa từng có.
Diệu tướng lạ như thế
Xưa nay chưa nghe thấy
Là trời đại đức sinh
Hay là Phật ra đời ?
Bấy giờ, Phật Đại Thông Trí Thắng im lặng nhận lời. Phương tây nam cho đến phương
dưới cũng đều như thế. Lúc đó, phương trên có các vị Đại Phạm Thiên Vương, của
năm trăm vạn ức cõi nước, đều thấy tướng ánh sáng chiếu sáng cung điện của họ,
từ xưa chưa từng có, thấy rồi rất vui mừng hớn hở, sinh tâm ít có. Họ đều muốn
biết nguyên do cảnh giới thù thắng nầy, do đó các vị Đại Phạm Thiên Vương cùng nhau
tụ lại để thảo luận, vì nhân duyên gì mà cung điện của họ đều có ánh sáng nầy ?
Lúc đó, ở trong hội đó có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Thi Khí, vì tất cả
chúng Đại Phạm Thiên mà nói ra bài kệ.
Hiện nay, vì nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta, được ánh sáng chiếu rực
rỡ trang nghiêm từ xưa chưa từng có. Tướng tốt vi diệu nầy, xưa nay chúng ta
chưa từng thấy qua, đại khái chắt là vị đại đức ở trên trời sinh xuống nhân
gian, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra đời.
Khi đó, năm trăm vạn ức các vị Đại Phạm Thiên Vương, ai nấy đều mang theo cung
điện của họ, và dùng túi y đựng đầy các hoa trời, cùng nhau đi về phương dưới,
để tìm tướng đó. Thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, đang ngồi trên tòa sư
tử, nơi Đạo tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long vương, Càn thát bà, Khẩn na
la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân, thảy đều cung kính vây quanh đức Phật, và thấy
mười sáu vị vương tử đang thỉnh đức Phật chuyển bánh xe pháp.
Bấy giờ, ở phương trên có năm trăm vạn ức Đại Phạm Thiên Vương, dùng kệ khen Đức
Phật rồi, họ bèn mang theo cung điện và dùng túi y đựng đầy đủ thứ hoa trời,
cùng nhau đi về phương dưới để tìm nguyên nhân tướng nầy. Kết quả, họ thấy đức
Đại Thông Trí Thắng Như Lai đang ngồi trên tòa sư tử, nơi Đạo tràng dưới cội bồ
đề.
Hết thảy tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già,
nhân, phi nhân, thảy đều cung kính vây quanh đức Phật. Lại thấy mười sáu người
con của đức Phật Đại Thông Trí Thắng, đang thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương cúi đầu đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh
đức Phật trăm ngàn vòng, bèn dùng hoa trời rải lên trên đức Phật. Hoa rải nhiều
như núi Tu Di, cũng dùng để cúng dường cây bồ đề của Phật, cúng dường hoa rồi,
ai nấy đều đem cung điện dâng cúng dường đức Phật đó, mà bạch rằng : Cúi xin đức
Phật thương xót lợi ích chúng con, cung điện dâng cúng đây xin đức Phật hãy
nhận ở.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước đức Phật, một lòng đồng thanh nói bài
kệ rằng.
Bấy giờ, tất cả các vị Đại Phạm Thiên Vương đều đảnh lễ Đức Phật, lại nhiễu quanh
Đức Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời rải lên trên Đức Phật, hoa rải cúng Phật
vô lượng vô biên nhiều như núi Tu Di, chẳng những họ dùng hoa để cúng dường
Phật, mà họ còn cúng dường cây Bồ đề của Phật.
Dùng hoa cúng dường xong rồi, ai nấy đều đem cung điện quý báu nhất của họ,
dâng lên cúng dường đức Phật Đại Thông Trí Thắng mà bạch rằng: ‘’Chúng con một
lòng xin Phật thương xót chúng con, lợi ích chúng con, chúng con nguyện làm
công đức trồng phước ở trước Tam Bảo, xin Đức Phật hãy nhận cung điện nầy để ở.’’
Lúc đó, các vị Đại Phạm Thiên Vương ở trước Phật một lòng đồng thanh dùng kệ,
để khen ngợi đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai.
Lành thay gặp được Phật
Đấng Thánh Tôn cứu đời
Thường ở ngục tam giới
Độ thoát các chúng sinh.
Thiên Nhân Tôn trí khắp
Thương xót loài quần mê
Khai mở cửa cam lồ
Rộng độ hết tất cả.
Thuở xưa vô lượng kiếp
Trải qua chẳng có Phật
Khi Phật chưa ra đời
Mười phương thường đen tối.
Ba đường ác thêm nhiều
A tu la cũng thịnh
Chúng chư thiên bớt đi
Chết nhiều đọa đường ác.
Chẳng theo Phật nghe pháp
Thường làm những việc ác.
Chúng con cảm thấy may mắn muôn phần, được gặp Phật. Phật là đấng Thánh Tôn cứu
vớt chúng sinh khổ ở thế gian, hay khiến tất cả chúng sinh thoát ra khởi dục
giới, sắc giới, và vô sắc giới, ba cõi ngục tù liễu sinh thoát tử, lìa khổ được
vui. Phật cũng là bậc Đạo Sư đầy đủ đại trí huệ, từ bi, khắp hết thảy trời
người, thương xót tất cả chúng sinh hữu tình vô tình, phát tâm đại từ bi, khai
mở pháp môn cam lồ, khiến cho tất cả chúng sinh được nghe pháp yếu mà bỏ mê về
giác.
Phật là từ bi bình đẳng, cho nên rộng độ vô lượng Hằng hà sa số tất cả chúng sinh.
Thuở xưa trải qua vô lượng vô biên đại kiếp, chưa từng có Phật xuất hiện ra
đời.
Lúc đó, mười phương thế giới đều một màng tối u ám chẳng có
ánh sáng, chúng sinh đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh càng ngày càng nhiều,
và đường A tu la cũng rất hưng thịnh, vì chúng sinh chỉ biết tạo nghiệp, chẳng
làm mười điều lành, chỉ làm mười điều ác, cho nên chúng chư thiên càng ngày
càng giảm bớt. Do đó, đủ thấy đa số chúng sinh chết rồi, đều đọa vào ba đường
ác.
Vì tất cả chúng sinh chưa từng thấy Phật, chưa từng nghe pháp, cho nên cũng chẳng
biết tu hành như thế nào, chẳng biết giữ giới luật, rộng tu pháp lành, chỉ biết
nhận giặc làm con, nhận đen làm trắng, tạo ra nhiều nghiệp ác, thì tự nhiên
trồng xuống nhiều nhân ác.
Sắc lực và trí huệ
Thảy đều giảm bớt dần
Vì tội nghiệp nhân duyên
Mất vui cùng tưởng vui.
Trụ trong pháp tà kiến
Chẳng biết nghi tắc lành
Chẳng nhờ Phật hóa độ
Thường đọa trong đường ác.
Phật là mắt thế gian
Lâu xa mới xuất hiện
Thương xót các chúng sinh
Nên mới hiện ra đời.
Vượt khỏi thành chánh giác
Chúng con rất sung sướng
Và các chúng sinh khác
Vui mừng chưa từng có.
Các cung điện chúng con
Nhờ ánh sáng trang
Nay
Xin
Nguyện đem công đức nầy
Hồi hướng khắp tất cả
Chúng con và chúng sinh
Đều cùng thành Phật đạo.
Do đó, chúng con thể suy lực yếu, trí huệ cũng ngày càng giảm bớt, đó đều do
nhân duyên tạo ra quá nhiều tội ác. Tự tính vốn an lạc cũng mất đi, lạc vào tà tri
tà kiến, chẳng biết thiện tri thức, chẳng được Phật giáo hóa, đời đời kiếp kiếp
đều luân hồi ở trong ba đường ác. Phật là thiện tri thức mắt sáng của chúng ta,
lâu xa nhiều kiếp mới xuất hiện ra đời. Phật vì thương xót tất cả chúng sinh mà
xuất hiện ra đời, tu đạo được thành chánh giác. Chúng con và tất cả chúng sinh
đều rất sung sướng, từ xưa chưa từng vui mừng và khen ngợi như thế. Cung điện
của chúng con, nhờ ánh sáng của Phật chiếu sáng trang nghiêm hơn so với lúc
trước, cho nên hiện nay chúng con xin dâng lên cúng dường Đức Phật, xin Phật từ
bi nhận sự cúng dường nầy của chúng con, và phát nguyện đem công đức nầy, hồi
hướng khắp tất cả pháp giới chúng sinh, nguyện chúng con và tất cả chúng sinh,
đều cùng thành Phật đạo.
Khi đó, năm trăm vạn ức các vị Phạm Thiên nói kệ khen đức Phật rồi, ai nấy đều bạch Phật rằng : Cúi xin đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, được nhiều sự an ổn, được nhiều sự độ thoát.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương bèn nói bài kệ rằng :
Thế Tôn chuyển pháp luân
Đánh trống pháp cam lồ
Độ chúng sinh khổ não
Mở bày đường Niết Bàn.
Cúi xin nhận con thỉnh
Dùng âm thanh vi diệu
Thương xót mà diễn nói
Pháp tu vô lượng kiếp.
Lúc đó, năm trăm vạn ức các vị Phạm Thiên Vương, dùng kệ khen ngợi Phật rồi,
cùng nhau bạch Phật rằng : ‘’Cúi xin đức Thế Tôn, hãy vì chúng con chuyển bánh
xe pháp, khiến cho chúng con được an ổn và giải thoát‘’.
Lúc ấy, tất cả Đại Phạm Thiên Vương dùng kệ để khen ngợi Đức Phật.
Chúng con và tất cả chúng sinh, đều thỉnh cầu Đức Phật chuyển bánh xe diệu
pháp, như đánh lên trống pháp cam lồ, để độ thoát tất cả chúng sinh trong ba
đường ác, mở bày cho chúng con con đường tu thành Phật không sinh không diệt.
Cúi xin đức Thế Tôn hãy nhận lời thỉnh cầu của chúng con, dùng âm thanh vi diệu
không thể nghĩ bàn của Ngài, vì chúng con thuyết pháp, và thỉnh cầu đức Thế Tôn
thương xót chúng con, mà diễn nói pháp môn tu thành Phật đạo của Phật, tích tập
trí huệ tư lương từ vô lượng kiếp đến nay.
Bấy giờ, đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, nhận lời thỉnh cầu của các vị Phạm
Thiên Vương trong mười phương, và mười sáu vị vương tử, lập tức ba lần chuyển
bánh xe pháp mười hai hành. Dù Sa môn, Bà la môn, hoặc chư Thiên, ma vương,
Phạm vương, và các thế gian khác, không thể chuyển được.
Đây là khổ, là khổ tập, là khổ diệt, là khổ diệt đạo, và pháp
độ thoát mười hai nhân duyên : Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên
danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên
ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử ưu bi khổ
não. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh
sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt
thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu
diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tữ ưu bi khổ não diệt.
Lúc đó, đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, nhận lời thỉnh cầu của mười phương năm
trăm vạn ức các vị Đại Phạm Thiên Vương, và mười sáu vị vương tử, lập tức trước
hết nói về pháp Tứ Diệu Đế, vì Tứ Diệu Đế mỗi đế chuyển ba lần, cộng lại thành
mười hai lần, nên gọi là ba lần chuyển bánh xe pháp tứ đế mười hai hành.
Chuyển làn thứ nhất gọi là thị chuyển, tức là nói với chúng ta :
- Đây là khổ, tính bức bách.
- Đây là tập, tính chiêu cảm.
- Đây là diệt, tính khả chứng.
- Đây là đạo, tính khả tu.
Chuyển lần thứ hai gọi là khuyến chuyển, tức là khuyên chúng ta :
- Đây là khổ, ông nên biết.
- Đây là tập, ông nên đoạn.
- Đây là diệt, ông nên chứng.
- Đây là đạo, ông nên tu.
Chuyển lần thứ ba gọi là chứng chuyển :
- Đây là khổ, ta đã biết.
- Đây là tập, ta đã đoạn.
- Đây là diệt, ta đã chứng.
- Đây là đạo, ta đã tu.
Bất cứ là Sa Môn, Bà la môn, chư Thiên, ma vương, Đại Phạm Thiên Vương, thậm chí
tất cả thiên ma ngoại đạo, đều không thể chuyển được bánh xe pháp Tứ Diệu Đế,
chỉ có Phật mới có phương tiện nầy, pháp được nói ra tức là : Khổ, tập, diệt,
đạo. Bốn pháp nầy lại có khổ pháp nhẫn, khổ pháp tập, tập pháp nhẫn, tập pháp
tập, diệt pháp nhẫn, diệt pháp tập, đạo pháp nhẫn, đạo pháp diệt, cho nên gọi
là bát nhẫn pháp tập.
Phật lại rộng nói mười hai nhân duyên, tức là:
Vô minh duyên hành
Hành duyên thức
Thức duyên danh sắc
Danh sắc duyên lục nhập
Lục nhập duyên xúc
Xúc duyên thọ
Thọ duyên ái
Ái duyên thủ
Thủ duyên hữu
Hữu duyên sinh
Sinh duyên lão tử ưu bi khổ não.
Chúng sinh đều thuận theo dòng nầy mà sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh. Vẫn có cửa
diệt:
Vô minh diệt thì hành diệt
Hành diệt thì thức diệt
Thức diệt thì danh sắc diệt
Danh sắc diệt thì lục nhập diệt
Lục nhập diệt thì xúc diệt
Xúc diệt thì thọ diệt
Thọ diệt thì ái diệt
Ái diệt thì thủ diệt
Thủ diệt thì hữu diệt
Hữu diệt thì sinh diệt
Sinh diệt thì chẳng có già chết, lo sầu khổ đau cũng diệt.
Pháp của hàng Thanh Văn tu, là pháp Tứ Diệu Đế, pháp của hàng Duyên Giác tu, là
pháp mười hai nhân duyên.
Khi đức Phật ở trong đại chúng trời người nói pháp đó, thì có sáu trăm vạn
ức Na do tha người, vì chẳng thọ tất cả các pháp, nên ở nơi các lậu, tâm được
giải thoát, đều được thiền định thâm sâu vi diệu, ba minh sáu thông, đủ tám
giải thoát.
Khi nói pháp lần thứ hai, thứ ba, thứ tư, thì có ngàn vạn ức
Hằng hà sa Na do tha chúng sinh, cũng vì chẳng thọ tất cả các pháp, nên ở nơi các
lậu, tâm được giải thoát. Từ đó về sau, các chúng Thanh Văn vô lượng vô biên
không thể tính đếm.
Đức Phật vì năm trăm vạn ức chư thiên, các vị Đại Phạm Thiên Vương, và trăm ngàn
vạn ức bất khả tư nghì Hằng hà sa số chúng sinh nói pháp Tứ Diệu Đế, và pháp
mười hai nhân duyên, thì có sáu trăm vạn ức Na do tha người, đều đã xả bỏ tất
cả pháp ác, nên đắc được tất cả pháp lành vô lậu.
Lậu là gì ? Chín lỗ trong thân thể chúng ta, thường thải ra vật dơ dáy cũng
thuộc về lậu, như dưới đáy ly có lủng lỗ thì không thể chứa đầy nước được. Tất
cả chúng sinh đều có tám vạn bốn ngàn các lậu, lậu lớn nhất là tham sân si mạn
nghi. Có đủ thứ lậu nầy, thì sinh ra phiền não, có phiền não thì sinh ra vô
minh, có vô minh thì chẳng có trí huệ. Nếu ai trừ khử sạch vô minh thì trí huệ
Bát nhã sẽ hiện tiền, nếu ai đoạn sạch phiền não, thì biến phiền não thành Bồ
đề.
Lúc đó, thân tâm đều được giải thoát, gọi là được lậu tận (sạch lậu). Do sạch
hết lậu mà chứng được thiền định nầy, chẳng phải do từ bên ngoài đến, phải do
tự tính tự nhập, tự tính tự độ, tự tu tự liễu, cho nên chẳng cần truy cầu bên
ngoài. Bổn địa phong quang của chúng ta, trí huệ vốn có, đều ở trong tự tính
của mỗi người, do đó thiền định tức là đắc được sự tĩnh lự, tiếng Phạn gọi là
thiền na, dịch là "tư duy tu", ai đắc được thiền định, thì sẽ đắc
được ba minh : Thiên nhãn minh, túc mạng minh, lậu tận minh (tất cả tập khí mao
bệnh đều chẳng còn nữa, cho nên đoạn tận ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc
sinh).
Bấy giờ, mười sáu vị vương tử, đều là đồng tử xuất gia làm Sa di, các căn lanh
lợi, trí huệ sáng suốt, đã từng cúng dường trăm ngàn vạn ức các đức Phật, tu
phạm hạnh thanh tịnh, cầu quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lúc đó, mười sáu vị vương tử, đều còn là đồng tử mà xuất gia làm Sa di. Sáu căn
của các Ngài đều lanh lợi, trí huệ rất sáng suốt, ở trong quá khứ đã từng cúng
dường trăm ngàn vạn ức các Đức Phật, đều tu phạm hạnh thanh tịnh, một lòng cầu
quả vị vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đều bạch đức Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Vô lượng ngàn vạn ức các đại đức
Thanh Văn đó, đều đã thành tựu, đức Thế Tôn cũng nên vì chúng con nói pháp Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, chúng con nghe rồi đều cùng tu học.
Đức Thế Tôn ! Chúng con chí nguyện đắc được tri kiến của Như Lai, trong thâm
tâm nghĩ gì, đức Phật tự chứng biết. Lúc đó, tám vạn ức người trong chúng của
vua Chuyển luân thánh vương dẫn đến, thấy mười sáu vị vương tử xuất gia, cũng
xin xuất gia, vua bèn chấp nhận.
Mười sáu vị Sa di đó, tức là mười sáu người con của đức Đại Thông Trí Thắng Như
Lai, đều cùng nhau theo Phật xuất gia tu đạo. Các Ngài và năm trăm vạn ức Đại
Phạm Thiên Vương và trăm ngàn vạn ức trời người hết thảy đại chúng đồng thanh
nói : ‘’Đức Thế Tôn ! Hiện tại, có vô lượng ngàn vạn ức chúng đại Thanh Văn ở
trong đạo tràng nầy, ở trong quá khứ các Ngài đều đã từng làm rất nhiều công
đức và việc lành, cho nên đầy đủ vô lượng phước đức. Song, hiện tại còn sinh
tâm hoài nghi, mình đã chứng được quả vị Niết Bàn chưa ? Đức Thế Tôn ! Ngài hãy
vì chúng con, tất cả hàng Thanh Văn nói pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
của Phật, để chúng con cũng cùng nhau hướng về đại đạo Niết bàn. Chúng con nghe
pháp của Phật nói rồi, sẽ cùng nhau y theo pháp tu hành.
Đức Thế Tôn ! Hết thảy hàng Thanh Văn chúng con, có một chí nguyện là nguyện được
chánh tri chánh kiến của Phật. Phật sớm đã biết, cho nên mong rằng Phật phát
tâm đại từ bi thương xót chúng con, tất cả chúng sinh, mà nói pháp vi diệu vô
thượng nầy.’’
Lúc đó, tám vạn ức người do vua Chuyển Luân Thánh Vương (cha của Phật Đại Thông Trí Thắng) thống lãnh đến chỗ Đức Phật, thấy mười sáu vị vương tử phát tâm xả bỏ đất nước của cải, để xuất gia tu đạo cũng phát tâm muốn xuất gia tu đạo.
Lúc đó, vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng rất vui mừng đáp
ứng yêu cầu của họ. Vua Chuyển Luân Thánh Vương thấy họ thành tâm tu đạo, cũng phát
tâm làm hộ pháp cho họ, cúng dường cho họ, nào là các đồ ăn uống, quần áo, thuốc
thang, mền chiếu .v.v.
Bấy giờ ! Đức Phật đó nhận lời thỉnh cầu của các vị Sa di, trải qua hai vạn kiếp
sau, mới ở trong bốn chúng nói Kinh Đại Thừa nầy, tên là Diệu Pháp Liên Hoa,
pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm. nói kinh nầy rồi, mười sáu vị Sa di
đều vì quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà cùng nhau thọ trì đọc tụng
thông thuộc.
Lúc đó, đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, thọ nhận lời thỉnh pháp của mười sáu
vị Sa di, trải qua hai vạn kiếp sau, Ngài mới ở trước bốn chúng : Tỳ kheo, Tỳ
kheo ni, Sa di, Sa di ni, nói bộ kinh đại thừa nầy tên là Diệu Pháp Liên Hoa.
Pháp nầy giáo hoá Bồ Tát tu học pháp đại thừa, được Phật hộ niệm. Khi Phật nói
ra bộ kinh nầy rồi, thì mười sáu vị Sa di lập tức tu đến quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác. Các Ngài đều một lòng thọ trì Kinh Pháp Hoa, và còn đọc tụng
thuộc làu thông suốt, vì người giảng nói.
Lúc nói kinh đó, thì mười sáu vị Bồ Tát Sa di đều tin nhận thọ trì, trong
chúng hàng Thanh Văn cũng có người tin hiểu. Ngoài ra, ngàn vạn ức loại chúng
sinh đều sinh tâm nghi hoặc.
Đức Phật nói kinh đó, suốt tám ngàn kiếp chưa từng ngừng nghỉ,
nói kinh đó rồi, bèn vào tịnh thất, trụ trong thiền định tám vạn bốn ngàn kiếp.
Lúc Đức Phật Đại Thông Trí Thắng nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy, thì mười sáu vị Sa
di đều vui mừng tin nhận thọ trì. Ở trong chúng hàng Thanh Văn, có những người
nghe được pháp của Phật nói, đều khoát nhiên đại ngộ, song cũng có ngàn vạn ức
loại chúng sinh tâm còn nghi hoặc.
Phật Đại Thông Trí Thắng nói bộ kinh nầy, trải qua tám ngàn
đại kiếp thời gian lâu dài như thế, mà chưa từng ngừng nghỉ. Chắc chắn một số người
sẽ nghĩ : Tại sao Phật Đại Thông Trí Thắng, phải trải qua tám ngàn kiếp mới nói
xong Kinh Pháp Hoa nầy, mà Phật Thích Ca Mâu Ni bất quá chỉ tốn tám năm, thì
nói xong bộ Kinh Pháp Hoa nầy ? Đây bất quá chỉ là tri kiến của chúng sinh,
phân biệt ra thời gian dài ngắn. Trên thật tế, thì Bồ Tát vì hay dùng sức trí
huệ, cho nên nhỏ làm lớn được, lớn làm nhỏ được, dùng ngàn vạn kiếp làm một ngày,
và dùng một ngày làm vô lượng kiếp, hà huống là Phật ? Vốn chẳng có dài cũng
chẳng có ngắn, hay dài cũng hay ngắn, mà là chúng sinh dùng tâm thức để phân
biệt tất cả các pháp. Cho nên nói, Phật Đại Thông Trí Thắng và Phật Thích Ca
Mâu Ni đồng nói một bộ Kinh Pháp Hoa.
Khi Phật Đại Thông Trí Thắng nói xong bộ kinh nầy, thì Ngài vào thiền định, trụ
ở trong thiền định tám vạn bốn ngàn đại kiếp.
Lúc đó, mười sáu vị Bồ Tát Sa di, biết đức Phật nhập thất vắng lặng ở trong thiền
định, ai nấy đều lên pháp tòa, cũng trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp, vì bốn
chúng rộng nói phân biệt Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Mỗi vị đều độ sáu trăm vạn ức
Na do tha Hằng hà sa chúng sinh, mở bày giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho
họ được lợi ích và vui mừng phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lúc đó, mười sáu vị Bồ Tát Sa Di biết Phật đã nhập cảnh giới như như bất động, liễu
liễu thường minh, mới phát tâm vì Phật hoằng dương bộ Kinh Pháp Hoa nầy, bắt
đầu đăng lên pháp tòa diễn nói kinh nầy. Các Ngài trải qua tám vạn bốn ngàn
kiếp, vì hết thảy hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, phân biệt rộng
nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, độ thoát sáu trăm vạn ức Na do tha Hằng hà sa
chúng sinh, mở bày giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ được lợi ích vui mừng,
phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Đức Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp, rồi từ tam muội
dậy, đi đến pháp tòa, ngồi ngay thẳng bảo khắp đại chúng : Mười sáu vị Bồ Tát
Sa di nầy, rất là hy hữu, các căn lanh lợi, trí huệ sáng suốt, đã từng cúng
dường vô lượng ngàn vạn ức các đức Phật. Ở chỗ chư Phật thường tu phạm hạnh, thọ
trí huệ của Phật, mở bày cho chúng sinh, cũng khiến cho họ được như thế.
Trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp sau, Phật Đại Thông Trí Thắng từ tam muội xuất định,
đi đến pháp tòa của Ngài ngồi ngay thẳng, bảo các đại chúng: ‘’Mười sáu vị Bồ
Tát Sa di nầy, rất là hy hữu, sáu căn đều dụng với nhau, sáng suốt thông đạt
tất cả các pháp, ở trong quá khứ, đã từng cúng dường vô lượng ngàn vạn ức các
Đức Phật, trồng gốc công đức. Ở tại đạo tràng của mỗi vị Phật, thường tu tập
phạm hạnh thanh tịnh, thường thọ trì trí huệ của chư Phật, nguyện mở bày giáo hóa
tất cả chúng sinh, cùng đắc được trí huệ quang minh viên dung vô ngại.’’
Các ông đều phải gần gũi cúng dường các vị ấy. Tại sao ? Vì nếu hàng Thanh
Văn, Bích Chi Phật, và các Bồ Tát đó, tin kinh pháp của mười sáu vị Bồ Tát nầy
nói, thọ trì chẳng sinh tâm hủy báng, thì người đó, sẽ được trí huệ Vô thượng
chánh đẳng chánh giác của Như Lai.
Phật bảo đại chúng: ‘’Sở dĩ các ông nên thường gần gũi cúng dường mười sáu vị
Bồ Tát Sa Di, là vì, nếu như có hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, hoặc các đại Bồ
Tát, tin thọ pháp của mười sáu vị Bồ Tát Sa di nầy nói, y theo pháp tu hành,
chẳng sinh tâm hủy báng, thì những người như thế, đều sẽ thành Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, khai mở đại trí huệ của Phật.’’
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo : Mười sáu vị Bồ Tát nầy, thường ưa thích diễn nói Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa nầy. Mỗi vị Bồ Tát, giáo hóa sáu trăm vạn ức Na do tha Hằng
hà sa chúng sinh. Đời đời sinh ra đều gặp các vị Bồ Tát nầy, theo các Ngài nghe
pháp, thảy đều tin hiểu. Nhờ nhân duyên đó, được gặp bốn vạn ức các đức Phật
Thế Tôn, đến nay vẫn chưa hết.
Phật lại bảo các chúng Tỳ Kheo: ‘’Mười sáu vị Bồ Tát Sa Di nầy, rất thích nói
Kinh Pháp Hoa nầy, các Ngài mỗi vị đều giáo hóa sáu trăm vạn ức Na do tha Hằng
hà sa chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều phát hoằng nguyện, đời đời
kiếp kiếp muốn theo các Ngài tu đạo, và đích thân nghe Phật vì họ giải nói bộ
kinh nầy, nhờ nhân duyên đó, mà được gặp bốn vạn ức các Đức Phật Thế Tôn đồng
tu một chỗ.
Như hôm nay các Ngài còn dùng diệu pháp đại thừa lợi ích chúng sinh, viên mãn thệ
nguyện của các Ngài.’’
Các Tỳ Kheo ! Nay ta nói với các ông : Mười sáu vị Sa di đệ tử của đức Phật đó,
đều đã được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiện đang nói pháp ở trong
cõi nước mười phương. Có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng Bồ Tát, và Thanh Văn
làm quyến thuộc.
Hai vị làm Phật ở phương đông, vị thứ nhất hiệu là A Súc, ở nước Hoan Hỉ. Vị thứ
hai hiệu là Tu Di Đỉnh. Hai vị Phật ở phương đông nam, một vị hiệu là Sư Tử Âm,
vị thứ hai hiệu là Sư Tử Tướng.
Này các Tỳ Kheo ! Nay tôi phải nói với các vị, mười sáu vị Sa di của Phật Đại
Thông Trí Thắng, sớm đã chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện
nay đều đang thuyết pháp ở trong cõi nước mười phương, có vô lượng trăm ngàn
vạn ức Bồ Tát và Thanh Văn làm quyến thuộc của các Ngài. Có hai vị Sa Di thành
Phật, ở phương đông, vị thứ nhất hiệu là A Súc. A Súc là tiếng Phạn, dịch là "Bất
động tôn", tức là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Đức Phật nầy thành tựu
Phật đạo ở nước Hoan Hỉ. Vị Sa Di thứ hai hiệu là Tu Di Đỉnh. Lại có hai vị Sa
Di thành Phật ở phương đông nam, vị thứ nhất hiệu là Sư Tử Âm Phật, vị thứ hai
hiệu là Sư Tử Tướng Phật.
Hai vị Phật ở phương nam, vị thứ nhất hiệu là Hư Không Trụ, vị thứ hai hiệu
là Thường Diệt. Hai vị Phật ở phương tây nam, vị thứ nhất hiệu là Đế Tướng, vị
thứ hai hiệu là Phạm Tướng. Hai vị Phật ở phương tây, vị thứ nhất hiệu là A Di
Đà, vị thứ hai hiệu là Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não. Hai vị Phật ở phương tây
bắc, vị thứ nhất hiệu là Đa Ma
Hai vị Sa Di thành Phật ở phương nam, một vị hiệu là Hư Không Trụ, một vị hiệu
là Thường Diệt. Hai vị thành Phật ở phương tây nam, một vị hiệu là Đế Tướng
Phật, một vị hiệu là Phạm Tướng Phật. Phương tây cũng có hai vị Phật, một vị
hiệu là A Di Đà Phật. A Di Đà là tiếng Phạn, dịch là "Vô Lượng Thọ, Vô Lượng
Quang", tức là trí huệ và phước đức của Ngài vô lượng vô biên, một vị hiệu
là Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não Phật. Lại có hai vị Sa Di thành Phật ở phương
tây bắc, một vị hiệu là Đa Ma
Các Tỳ Kheo ! Lúc chúng ta làm Sa di, thì mỗi người giáo hóa vô lượng trăm ngàn
vạn ức Hằng hà sa chúng sinh, theo ta nghe pháp, vì đạo Vô thượng chánh đẳng
chánh giác. Những chúng sinh đó, nay có người trụ ở bậc Thanh Văn. Ta thường
giáo hóa đạo Vô thượng chánh giác, những người đó nhờ pháp nầy, mà dần dần vào
Phật đạo. Tại sao ? Vì trí huệ của Như Lai khó tin khó hiểu.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại nói với các Tỳ Kheo, khi chúng ta làm Sa Di, thì mỗi
người đã giáo hóa vô lượng trăm ngàn vạn ức Hằng hà sa số chúng sinh. Những
chúng sinh đó, theo chúng ta nghe pháp, bèn hướng về đạo Vô thượng chánh đẳng
chánh giác. Theo căn tính khác nhau của họ, hoặc chậm hoặc mau, song sẽ đều đạt
đến đại giác viên mãn cứu kính.
Những chúng sinh đó, trong đó có những vị đã trụ ở bậc Thanh Văn, ta cũng
thường giáo hóa họ hướng về quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, khiến cho
họ dần dần đều vào Phật đạo.
Tại sao ? Vì trí huệ của Như Lai khó tin khó hiểu. Khó tin nên chẳng dễ gì tu, khó
hiểu nên chẳng dễ gì chứng quả.
Vô lượng Hằng hà sa chúng sinh được giáo hóa thuở đó, tức là hàng Tỳ Kheo
các ông. Sau khi ta diệt độ rồi, ở đời vị lai hàng đệ tử Thanh Văn cũng vậy. Ta
diệt độ rồi, lại có đệ tử chẳng nghe kinh nầy, chẳng biết chẳng hay sở hành của
Bồ Tát, tự ở nơi công đức của mình được, tưởng là diệt độ sẽ vào Niết bàn.
Ta thành Phật ở nước khác, bèn có tên khác, người đó tuy tưởng
là diệt độ vào Niết Bàn, mà ở cõi kia cầu trí huệ của Phật được nghe kinh nầy,
chỉ dùng Phật thừa mà được diệt độ, chẳng có thừa nào khác, trừ khi các đức Như
Lai phương tiện thuyết pháp.
Chúng ta giáo hóa vô lượng chúng sinh như số cát sông Hằng thuở đó, tức là hàng
Tỳ Kheo các ông, sau khi ta diệt độ rồi, hàng Tỳ Kheo Thanh Văn ở đời vị lai
cũng sẽ chứng được quả A
P
Đức Phật Thích Ca dùng tâm đại từ bi bình đẳng, nhiếp thọ chúng
sinh, pháp duyên của Ngài ngày càng tăng rộng, quả vị ngày càng cao lớn, cho
nên cuối cùng hôm nay công thành đức tựu, thành Phật đạo, đệ tử của Ngài với
Ngài túc duyên rất sâu. Họ đời đời kiếp kiếp đều theo Phật chuyển pháp luân,
ủng hộ Phật pháp. Khi Phật thành Phật, thì đệ tử của Ngài đều đến ủng hộ.
Vạn sự vạn vật đều nhờ duyên mới sinh. Cho nên trong Phật giáo có câu rằng :
‘’Chư pháp tùng duyên khởi,
Chư pháp tùng duyên diệt,
Ngã Phật đại sa môn,
Thường tác như thị thuyết‘’.
Nghĩa là :
‘’Các pháp do duyên sinh,
Các pháp do duyên diệt,
Phật của ta là Sa môn,
Thường hay nói như thế‘’.
Đức Phật tiếp tục nói : Sau khi ta diệt độ, vẫn có đệ tử chẳng nghe bộ Kinh
Pháp Hoa nầy, vì họ thích tiểu thừa, cho nên đối với pháp đại thừa Bồ Tát, họ
chẳng biết chẳng hay. Song, do công đức của họ làm được, hoặc công đức do sự
ngồi thiền họ tưởng là được diệt độ sẽ vào Niết Bàn, hoặc họ sẽ chứng được quả
vị quyền xảo phương tiện, tức hữu
Khi ta ở nước khác thành Phật, thì có danh hiệu khác. Những
hàng Thanh Văn nầy, tuy nghĩ là diệt độ, cho rằng mình đã nhập Niết Bàn (cảnh giới
không sinh không diệt), mà ở cõi kia cầu trí huệ của Phật, được nghe kinh nầy.
Song, nhờ họ ở cõi nước kia cầu trí huệ của Phật, cũng nghe được bộ kinh nầy. Chỉ
dùng một Phật thừa mà được diệt độ, chứ chẳng có thừa nào khác, chỉ một Phật
thừa mới là chân chánh Niết bàn, mà chẳng phải hàng Thanh Văn rơi vào một bên
lý không, trừ khi các Đức Như Lai phương tiện thuyết pháp, có khi Phật cũng
dùng pháp môn phương tiện để giác ngộ chúng sinh, song quy về nguồn gốc vẫn chỉ
là một Phật thừa, chẳng có thừa nào khác.
Các Tỳ Kheo ! Nếu đức Như Lai tự biết giờ Niết Bàn sắp đến, đại chúng lại thanh
tịnh, tâm tin hiểu vững chắc, thông đạt pháp không, vào sâu thiền định, bèn tụ
tập các chúng Bồ Tát, và Thanh Văn để nói kinh nầy, thế gian chẳng có hai thừa
mà được diệt độ, chỉ một Phật thừa được diệt độ thôi.
Các vị Tỳ Kheo ! Giả sử Phật biết mình sắp vào Niết Bàn, hết thảy đại chúng đều
được thanh tịnh, tâm tin hiểu vững chắc, thông đạt tất cả các pháp không tướng,
vào thiền định thâm sâu, bèn chiêu tập tất cả Bồ Tát và hàng Thanh Văn, để Phật
nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy. Vì trên thế gian hết thảy ai muốn tu Phật thừa, thì
không thể dùng pháp nhị thừa tu mà được diệt độ.
Diệt độ của hàng nhị thừa chảng phải chân chánh diệt độ, chỉ có tu Phật thừa mới
thật sự được diệt độ của Phật và quả vị.
Các Tỳ Kheo nên biết ! Đức Như Lai phương tiện sâu vào tánh của chúng sanh, biết
chí của họ thích pháp nhỏ, chấp sâu năm dục, vì những người đó nói Niết Bàn,
nếu họ nghe thì liền tin nhận thọ trì.
Phật lại nói : ‘’Hết thảy hàng Tỳ Kheo các ông hãy triệt để hiểu rõ, pháp của
Như Lai nói là pháp quyền xảo phương tiện, vì căn tính của tất cả chúng sinh
chẳng giống nhau, có kẻ lợi căn, có kể độn căn. Nếu một khi bắt đầu thuyết pháp
chân thật đối với người độn căn, thì họ chẳng thể nào tiếp thọ và tin được, cho
nên ta dùng pháp môn phương tiện để giáo hóa họ.
Vì pháp môn phương tiện của Phật, vốn hợp với tất cả chúng sinh mà làm một, cho
nên tất cả chúng sinh có cơ duyên phương tiện nầy, tâm chí của họ chỉ biết
phương pháp và đạo lý nhỏ nhỏ, nếu nói về đạo lý vũ trụ thâm áo cho họ nghe,
thì họ chẳng hiểu.
Hàng nhị thừa thường đều chấp trước vào cảnh giới năm dục: Tài, sắc, danh,
thực, thùy.
1. Tiền tài mua sắm được mọi vật, cho nên ai ai cũng đều buông
xả chẳng đặng tiền tài. Nếu coi tiền tài như rắn độc, thì chẳng tham cầu nó,
con người không nên vì tiền tài mà phát sinh đấu tranh. Có một bài kệ hình dung
về tiền rất là hay :
‘’Nhị qua tranh kim sát khí cao,
Nhân nhân nhân tha phạm lao thao.
Nhược hội dụng giả xuất tam giới,
Bất hội dụng giả nghiệt nan đào‘’.
Chữ tiền (钱) có hai cái mác (戋), giống như hai người cầm mác giành giựt vàng, lại có thể
nói hai người động thủ bằng mác tranh vàng. Tiền có thể đưa đến cho con người
rất nhiều phiền não, thế mà một số người vẫn coi tiền như mạng sống, tham chẳng
biết chán, nếu người biết dùng tiền, thì có thể vượt khỏi ba cõi, người chẳng
biết dung, thì tạo ra rất nhiều tội nghiệp.
2. Sắc dục, tức là sắc đẹp.
3. Danh dục : Tức là tham danh, tham tiếng tốt, thích người khác ca tụng, nếu bị người hủy nhục, thì như trăm cây kim đâm vào tim, coi danh vọng trọng hơn bất cứ những gì.
4 Thực dục : Thích ăn vật ngon. Nhất là người tu đạo không coi trọng vật ăn, nên coi vật ăn như thuốc hay, để duy trì thân thể nầy khỏi bị khô gầy mà tu đạo nghiệp.
5 Thùy dục : Có người thích ngủ, cảm thấy ngủ càng nhiều càng
tốt, song càng ngủ càng mê, biến thành ngu muội tối tăm, do đó :
"Tài sắc danh thực thùy,
Như địa ngục năm căn",
Một khi ngủ thì ngàn năm chẳng nghe danh hiệu Phật.
Hàng nhị thừa bị năm thứ dục niệm nầy chi phối, cho nên vẫn chưa đến bậc bất sinh
bất diệt, ta vì họ nói pháp nhị thừa (bốn diệu đế) và mười hai nhân duyên, chỉ
bất quá khiến cho họ tâm tính vui mừng, mà tinh tấn tu hành. Thật tế thì chứng
được quả vị nhị thừa, vẫn chưa đắc được cảnh giới chân chánh Niết Bàn, có khác
nào ở xa trông quả mơ mà hết khác, phải biết bánh vẽ không thể no được.
Ví như đường dữ hiểm nạn, dài năm trăm do tuần, chốn ghê sợ hoang vắng không
người. Nếu có đông người muốn đi qua đường hiểm đó, đến chỗ châu báu. Có một vị
Đạo sư trí huệ sáng suốt, khéo biết rõ tướng thông bít của con đường, dắt mọi
người muốn vượt qua hiểm nạn nầy. Mọi người được dắt đi giữa đường lười mỏi,
bèn bạch với Đạo sư rằng : Chúng con rất mệt nhọc, lại thêm sợ sệt không thể đi
thêm được nữa, đường ở trước còn dài, nay chúng con muốn lui về.
Ví như có một đoạn đường dài năm trăm do tuần (bốn vạn dặm), phàm ai muốn đi
qua con đường nầy, sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm hoạn nạn, như gặp trộm cướp, rắn
sói hổ báo. Cho nên, ai muốn đi qua con đường nầy, tâm đều sợ hãi, song chỉ có
con đường nầy, mới đến được chỗ cất giữ châu báu.
Do đó, chỉ có cách mạo hiểm tiến về trước, thì lúc ấy, ở trong
đó có một vị Đạo sư rất thông minh tài giỏi, đầy đủ trí huệ viên mãn, biết lối
đi của đường hiểm đó như thế nào, mới không bị đủ thứ điều nguy hiểm, do đó bậc
Đạo sư phát tâm, dẫn dắt tất cả mọi người vượt qua con đường nầy, song những
người nầy đi được nữa đường, thì sinh tâm lười mỏi, chẳng muốn đi nữa. Do đó,
họ nói với bậc đạo sư : ‘’Bây giờ chúng con đã mệt mỏi quá rồi, đường nầy rất
nguy hiểm và sợ hãi, chúng con chẳng muốn đi nữa, đường ở trước rất dài, cho
nên chúng con muốn lui về‘’.
Vị Đạo sư nhiều phương tiện bèn nghĩ thế nầy : Những người nầy rất đáng
thương, sao lại bỏ châu báu mà muốn lui về. Nghĩ như thế rồi, dùng sức phương
tiện, ở giữa đường hiểm hơn ba trăm do tuần, hóa làm một cái thành, bảo mọi
người rằng : Các ngươi đừng sợ, đừng lui về, nay thành lớn nầy có thể ở trong
đó, làm gì tùy ý. Nếu vào thành đó rất được an ổn, nếu có thể đi thẳng đến chỗ
châu báu cũng được.
Vị Đạo sư nầy có rất nhiều phương tiện, bèn nghĩ rằng : ‘’Những người nầy thật
đáng thương ! Sao lại bỏ chí nguyện muốn đi đến nước Phật bảo mà muốn lui về ? ‘’Nghĩ
đến đây, Ngài chỉ có cách dùng thần lực quyền xảo phương tiện, ở giữa đường
hiểm hơn ba trăm do tuần, hóa ra một cái thành; rồi bảo mọi người : ‘’Các người
đừng sợ, đừng sinh tâm lười mỏi, bây giờ các vị hãy đi vào trong thành lớn nầy
dừng nghỉ, ở trong thành nầy, làm gì tùy ý, nếu như vào trong thành nầy thì rất
là an ổn, các người muốn tiếp tục đi đến chỗ châu báu, thì có thể đến bảo sở
nước Phật‘’.
Lúc đó, chúng mỏi mệt tâm rất vui mừng, khen chưa từng có. Nay chúng ta khỏi
đường hiểm đó, rất được an ổn. Do đó, mọi người đều vào hóa thành, sinh lòng
tưởng rằng đã được độ rất an ổn.
Lúc đó, mọi người đều rất mệt mỏi vô cùng, hốt nhiên thấy một tòa hóa thành, có
thể vào dừng nghỉ tạm thời, cho nên sinh tâm vui mừng chưa từng có, nói : ‘’Hôm
nay chúng con khỏi lạc vào nẻo trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, thoát
khỏi nhà lửa tam giới, được an ổn sung sướng‘’. Do đó, cùng nhau đi vào hóa
thành nầy, cho rằng họ đã được giải thoát và an ổn cứu kính.
Bấy giờ, vị Đạo sư biết những người đó đã nghỉ ngơi xong, chẳng còn mệt
nhọc, bèn diệt hóa thành, bảo với mọi người rằng : Các ngươi hãy đi tới chỗ
châu báu ở gần đây, thành lớn đó do ta hóa làm ra, để dùng nghỉ thôi.
Lúc đó, vị Đạo Sư Thích Ca Mâu Ni Phật biết họ đã nghỉ xong, lấy lại sức lực, hết
mệt mỏi.
Do đó, Phật bèn hủy diệt hóa thành đó, nói với mọi người rằng : ‘’Các ngươi hãy
đi tới, chỗ châu báu ở gần đây. Hóa thành đó là do ta biến hóa ra, để các ngươi
nghỉ ngơi tạm thời.’’ Tức cũng có thể nói, phàm là Thánh nhân chứng được tứ quả
A
Các Tỳ Kheo ! Đức Như Lai cũng lại như thế, nay vì các ông làm đại Đạo sư, biết
các đường hiểm sinh tử phiền não dài xa, nên bỏ, nên vượt qua.
Các Tỳ Kheo ! Pháp của Phật Đại Thông Trí Thắng cũng như pháp của ta nói, như
nay vì các ông làm bậc đại Đạo sư, biết rõ tất cả đường dữ sinh tử phiền não,
nhiều hiểm nạn và xa dài. Do đó, nên lìa tất cả phiền não, vượt qua biển khổ
sinh tử, đến được nhà Như Lai.
Nếu chúng sinh chỉ nghe một Phật thừa, thì chẳng muốn thấy Phật, chẳng muốn gần
gũi, bèn nghĩ như vầy : Phật đạo dài xa, chịu khổ siêng cần lâu mới có thể
thành tựu. Phật biết tâm của họ khiếp nhược hạ liệt, bèn dùng sức phương tiện
nghỉ ngơi ở giữa đường, nên nói hai Niết Bàn.
Nếu chúng sinh trụ ở hai bậc, thì bấy giờ đức Như Lai bèn nói : Chỗ tu của các
ông chưa xong, bậc của các ông gần với trí huệ của Phật. Nên quán sát suy lường
Niết Bàn đã được đó, chẳng chân thật vậy, chỉ là sức phương tiện của Như Lai,
nơi một Phật thừa mà phân biệt nói thành ba.
Nếu có chúng sinh nghe được Phật nói pháp, chỉ có một Phật thừa, thì nhất định rất
nhiều chúng sinh phất tay áo mà đi, chẳng nghĩ muốn gặp Phật, hoặc gần gũi Phật.
Vì Phật pháp là pháp khó tin, cho nên chúng sinh đều chẳng chịu tiếp thọ. Vì họ
nghĩ : ‘’Tu hành thành Phật thì phải mất thời gian rất lâu, ở trong ba đại A
tăng kỳ kiếp, siêng tu lục độ khổ hạnh, mới có cơ hội thành Phật‘’. Do đó, họ
đều cố ý có tai chẳng nghe giáo lý viên đốn, có mắt chẳng nhận thức đại Đạo sư
(Phật), càng vô dụng nói dạy họ xả bỏ thất tình lục dục, một lòng tu đạo.
Đức Phật Thích Ca và mười phương chư Phật, đều biết rõ tâm niệm của tất cả
chúng sinh trong sáu nẻo, rất khiếp nhược và hạ liệt. Phật bèn dùng sức phương
tiện mà nói hữu
Lúc đó, Phật lại nói với họ : Các ông chưa đạt đến Phật đạo cứu kính, bậc của
các ông trụ, gần với trí huệ của Phật, các ông nên quán sát và suy lường, bất
cứ các ông đắc được cảnh giới Niết Bàn hữu dư, hoặc vô dư, đều chẳng phải chân
thật. Kỳ thật, là sức phương tiện của Như Lai, nơi một Phật thừa, mà phân biệt
nói ra Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát ba thừa.’’
Như vị Đạo sư kia, vì dừng lại nghỉ mà hóa làm thành lớn. Biết đã nghỉ rồi, bèn
bảo họ rằng : Chỗ châu báu gần đây, thành nầy chẳng thật, do ta hóa làm ra
thôi.
Phật giống như bậc Đạo sư, biết dùng pháp gì để vượt qua giữa con đường hiểm nầy,
và còn bảo họ vào trong đó nghỉ ngơi, chỗ châu báu ở gần đây chẳng xa, song cái
thành nầy chẳng phải thật, nó chỉ bất quá do Phật biến hóa ra, để cho các ông
nghỉ ngơi thôi, khi các ông khôi phục lại sức lực, thì nên bỏ thành mà đi tiến
về trước. Ví như bạn muốn từ nhà của bạn đến nước khác, phải vượt qua lộ trình
rất xa, mới đến được nơi đó, ở nơi giữa đường đó, chắc chắn cảm thấy thân thể mỏi
mệt, lúc đó bạn muốn một quán trọ để nghỉ lại một đêm, sáng ngày thứ hai lại
tiếp tục lên đường, như thế mới đạt được nơi bạn muốn đến.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng :
Phật Đại Thông Trí Thắng
Mười kiếp ngồi đạo tràng
Phật pháp chẳng hiện tiền
Không được thành Phật đạo.
Các trời thần Long
Chúng A
Thường mưa các hoa trời
Để cúng dường Phật đó.
Chư Thiên đánh trống trời
Và tấu các âm nhạc
Gió thơm thổi hoa héo
Lại mưa hoa tươi tốt.
Trải qua mười tiểu kiếp
Mới được thành Phật đạo
Chư thiên và người đời
Tâm đều mừng hớn hở.
Mười sáu người con Phật
Đều cùng với quyến thuộc
Ngàn vạn ức vây quanh
Đều đi đến chốn Phật.
Đầu mặt lễ chân Phật
Mà thỉnh chuyển pháp luân
Thánh sư tử mưa pháp
Lợi con và tất cả.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa kinh trường hàng ở trên, nên dùng
kệ để nói. Phật Đại Thông Trí Thắng ở tại đạo tràng ngồi trên tòa hoa sen nhập định
trải qua mười kiếp, song vẫn chưa thành chánh giác.
Lúc đó, Phật pháp chưa hiện ra đời, cho nên Ngài chưa thể thành Phật đạo. Tất
cả trời, thần, Long vương, A tu la .v.v., thường mưa hoa trời để cúng dường vị
Phật đó, các vị trời đánh trống trời, tấu lên đủ thứ âm nhạc, một trận gió thơm
thổi đến, thổi các hoa héo đi, đồng thời lại mưa xuống hoa tươi tốt.
Trải qua mười tiểu kiếp, Phật mới thành đạo, tất cả chư Thiên và nhân loại, tâm
đều vui mừng hớn hở vô cùng. Mười sáu vị vương tử của Phật, với trăm ngàn ức
quyến thuộc cùng nhau đến chốn Phật, cung kính đầu mặt lễ dưới chân Đức Phật,
mà thỉnh cầu Phật chuyển đại pháp luân, hy vọng tiếng sư tử hống của Phật, đượm
nhuần mưa pháp lợi lạc chúng con, và tất cả chúng sinh.
Thế Tôn rất khó gặp
Lâu xa hiện một lần
Vì giác ngộ quần sinh
Chấn động hết tất cả.
Các thế giới phương đông
Năm trăm vạn ức cõi
Ánh sáng chiếu Phạm cung
Từ xưa chưa từng có.
Phạm chúng thấy tướng nầy
Tìm đến chỗ đức Phật
Rải hoa để cúng dường
Và dâng cung điện lên.
Thỉnh Phật chuyển pháp luân
Dùng kệ khen ngợi Phật
Phật biết chưa đến thời
Nhận lời ngồi yên lặng.
Ba phương và bốn hướng
Trên dưới cũng như thế
Rải hoa dâng cung điện
Thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Thế Tôn rất khó gặp
Xin vì gốc từ bi
Rộng mở cửa cam lồ
Chuyển pháp luân vô thượng.
Đức Thế Tôn trăm ngàn vạn kiếp rất khó gặp được, không biết phải trải qua thời
gian bao lâu, mới có thể gặp được Đức Phật ra đời, Phật vì giác ngộ tất cả quần
sinh, sức trí lực oai thần của Ngài không thể nghĩ bàn, có thể chấn động đến
tất cả tâm tính chúng sinh.
Các thế giới ở phương đông, có năm trăm vạn ức cõi nước cung điện của Phạm Vương,
được vô lượng ánh sáng chiếu sáng, đó là tướng quá khứ chưa từng có. Khi các vị
Phạm Vương thấy tướng nầy, thì đều đến chỗ Đức Phật, để tìm nguồn gốc tướng ánh
sáng đó, và còn rải hoa trời để cúng dường Đức Phật, sau đó lại dâng cung điện
quý báu nhất lên cúng dường Đức Phật. Sau đó lại cung kính thỉnh Phật chuyển
bánh xe pháp, và dùng kệ để khen ngợi Phật.
Phật biết cơ duyên thuyết pháp chưa thành thục, cho nên nhận
lời thỉnh cầu của họ, mà ngồi im lặng. Lúc đó, từ phương nam, tây, bắc, và bốn hướng
trên dưới, các vị Phạm Thiên Vương, đều rải hoa trời và dâng cung điện lên, thỉnh
Đức Phật chuyển bánh xe pháp. Trăm ngàn vạn ức kiếp khó gặp được Đức Phật, mà chúng
ta nguyện đắc được tâm đại từ bi thương xót chúng sinh của Phật, có thể khai mở
cửa cam lồ. Vì giáo hóa chúng ta lục đạo chúng sinh, mà chuyển bánh xe pháp
thâm sâu vô thượng.
Thế Tôn tuệ vô thượng
Nhận những người kia thỉnh
Vì nói các thứ pháp
Bốn đế mười hai duyên.
Vô minh đến lão tử
Đều từ sinh duyên có
Những hoạ hoạn như thế
Các ông phải nên biết.
Lúc diễn nói pháp đó
Sáu trăm vạn ức chúng
Được hết sạch các khổ
Đều thành A la hán.
Nói pháp lần thứ hai
Ngàn vạn Hằng sa chúng
Chẳng thọ nơi các pháp
Cũng đắc A la hán.
Từ đó sau đắc đạo
Số đông không thể lường
Vạn ức kiếp tính đếm
Không biết được ngằn mé.
Đức Thế Tôn đầy đủ vô lượng trí huệ, thọ nhận tất cả chúng sinh thỉnh cầu thuyết
pháp. Phật có thể diễn nói đủ thứ pháp, cho nên trước hết nói pháp bốn Diệu đế
và mười hai nhân duyên, tức là từ vô minh đến lão tử, đều do mười hai nhân
duyên sinh ra.
Do đó, mà chiêu lại rất nhiều hoạ hoạn, các ông nên biết pháp
như thế. Khi Phật Đại Thông Trí Thắng diễn nói pháp nầy rồi, thì có sáu trăm
vạn ức chúng Phạm Thiên Vương, lìa được tất cả khổ, đều chứng được quả vị A
Khi Ph
Lúc đó mười sáu vị
Xuất gia làm Sa di
Đều cùng thỉnh Phật đó
Diễn nói pháp đại thừa.
Chúng con và quyến thuộc
Đều sẽ thành Phật đạo
Nguyện được như Thế
M
Lúc đó, mười sáu vị vương tử đều phát tâm xuất gia tu đạo, làm Sa Di. Các vị Sa
Di đều cùng thỉnh Phật Đại Thông Trí Thắng, vì tất cả chúng sinh diễn nói pháp
đại thừa, nên hỏi Phật : ‘’Chúng con và tất cả quyến thuộc, đều sẽ thành Phật
đạo, vì chúng con nguyện được giống như đức Thế Tôn, đầy đủ mắt trí huệ thanh
tịnh bậc nhất.
Phật biết tâm đồng tử
Tu hành trong đời trước
Dùng vô lượng nhân duyên
Đủ thứ các ví dụ.
Nói sáu Ba la mật
Và các việc thần thông
Phân biệt pháp chân thật
Đạo Bồ Tát tu hành.
Nói Kinh Pháp Hoa nầy
Kệ như cát sông Hằng.
Phật biết tâm của những vị đồng tử nầy nghĩ tưởng những gì, sự tu hành trong
đời trước của những vị nầy đến đâu, từng dùng vô lượng nhân duyên, đã từng nghe
Phật nói đủ thứ diệu lý thật tướng của các pháp, bổn sinh, nhân duyên, ví dụ,
và sáu pháp Ba
Ba
Phật đó nói kinh rồi
Vào tịnh thất nhập định.
Nhất tâm ngồi một chỗ
Tám vạn bốn ngàn kiếp
Các vị Sa Di đó
Biết Phật chưa xuất định.
Vì vô lượng ức chúng
Nói Phật huệ vô thượng
Ai nấy lên pháp tòa
Nói kinh đại thừa nầy.
Lúc đức Phật tĩnh lặng
Giúp tuyên dương giáo hóa.
Khi Phật Đại Thông Trí Thắng nói xong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa rồi, thì Đức Phật
vào tịnh thất nhập vào thiền định thâm sâu, ở trong cảnh giới như như bất động,
liễu liễu thường minh, trải qua tám vạn bốn ngàn đại kiếp.
Lúc đó, mười sáu vị Sa Di biết Phật chưa xuất định, do đó, các Ngài phát tâm vì
vô lượng ức chúng sinh, nói trí huệ vô thượng của Phật. Mỗi vị Sa Di đều lên
pháp tòa diễn nói Kinh Pháp Hoa, lúc Phật tĩnh lặng không động, thì giúp Phật
tuyên
Mỗi mỗi vị Sa Di
Độ được các chúng sinh.
Khoảng sáu trăm vạn ức
Hằng hà sa chúng sinh
Phật đó diệt độ rồi
Những người nghe pháp đó.
Ở tại các cõi Phật
Thường sinh chung với thầy.
Mười sáu vị Sa Di đó, mỗi vị giáo hóa chúng sinh khoảng sáu trăm vạn ức Hằng hà
sa số chúng sinh.
Khi Phật Đại Thông Trí Thắng diệt độ rồi, những người nghe mười sáu vị Sa Di thuyết
pháp, đều cùng sinh vào một nước với đấng Đạo Sư của họ.
Mười sáu Sa Di đó
Đầy đủ hạnh Phật đạo.
Nay hiện trong mười phương
Thảy đều thành Chánh giác
Người nghe pháp thuở đó
Đều ở chỗ chư Phật.
Có người trụ Thanh Văn
Dần dần vào Phật đạo.
Mười sáu vị Sa Di đó, vì tu hành đầy đủ Phật đạo, nên các Ngài xuất hiện ở trong
cõi nước mười phương, ai nấy đều thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Những
chúng sinh nghe được Phật pháp vào thuở đó, đều là quá khứ đã từng nghe qua
Phật pháp, của mười sáu vị Sa Di đó nói, cho nên hiện nay lại hiện ở trong mỗi
cõi nước, để gần gũi nghe Phật thuyết pháp, trong đó có rất nhiều chúng hàng
Thanh Văn, dần dần được Phật giáo hóa mà vào được Phật đạo.
Ta là thứ mười sáu
Cũng từng vì ông nói.
Cho nên dùng phương tiện
Dẫn ông đến Phật huệ
Do gốc nhân duyên đó
Nay nói Kinh Pháp Hoa.
Khiến
Cẩn thận chớ kinh sợ.
Ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, tức là Sa Di thứ mười sáu. Ở trong quá khứ, các ông đã
từng nghe pháp của ta nói, cho nên ta dùng pháp phương tiện, dẫn dắt các ông tu
học trí huệ của Phật, đến được trí huệ của Phật. Do nhân duyên đó, mà nay ta
diễn nói Kinh Pháp Hoa, khiến cho các ông đi vào tạng trí huệ của Phật, đều
thành chánh giác. Các ông đừng bao giờ sinh tâm hoài nghi và sợ sệt, ta sẽ vì các
ông giải thích phân biệt rõ ràng thật tướng chân lý Phật pháp.
Ví như đường hiểm dữ
Xa vắng nhiều thú độc.
Lại không có cỏ nước
Chỗ mọi người sợ hãi
Vô số ngàn vạn chúng
Muốn qua đường hiểm này.
Đường đó rất xa xôi
Dài năm trăm do tuần
Thời có một Đạo sư
Thông minh có trí tuệ.
Sáng suốt tâm quyết định
Cứu nguy các hoạn nạn.
Ví như một đoạn đường dài nguy hiểm, con đường nào nguy hiểm nhất ? Tức là đường
địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Ở trong con đường này, giống như hoang dã, có rất nhiều
rắn độc ác thú, cho đến một giọt nước, cộng cỏ, cũng chẳng có, là nơi mọi người
đều sợ. Lúc đó, có vô lượng trăm ngàn vạn chúng sinh, muốn đi qua con đường
nguy hiểm nầy, vượt ra khỏi sáu nẻo luân hồi, được chân chánh giải thoát, song
phải đi ngang qua năm trăm do tuần, mới đến nơi cứu kính, cho nên còn cách xa
đạo tám vạn bốn ngàn dặm.
Lúc đó, có một vị thiện tri thức, đầy đủ sự học rộng hiểu nhiều, thông minh trí
huệ, thấu suốt tất cả mọi việc thị phi trắng đen, và còn biết con đường nào là
chánh, con đường nào là tà. Do đó, Ngài thường ở trong đường hiểm, cứu tất cả
chúng sinh gặp nạn.
Mọi người đều mỏi mệt
Bèn bạch Đạo sư rằng:
Chúng con nay mệt mỏi
Nơi đây muốn trở về
Đạo sư nghĩ thế nầy:
Bọn nầy rất đáng thương.
Sao lại muốn lui về
Để mất châu báu lớn.
Đi trên con đường hiểm nầy thật chẳng dễ dàng, trợ duyên rất ít, nghịch duyên
thì nhiều, ví như một người tu đạo, cần nhờ sự giúp đỡ của Bồ Tát và thần hộ
pháp, khiến cho họ tu đạo được viên mãn, hoặc có người dùng phương pháp tu đạo
sai lầm, có thiện tri thức dẫn dắt họ đi trên con đường chánh, đó đều là trợ
duyên. Nghịch duyên là gì? Ví như bạn muốn phát tâm bồ đề chân chánh, song lại
có người khiến cho bạn thối bồ đề tâm, sinh ra đủ thứ dục niệm, nên đạo tâm chẳng
vững chắc, cho nên gọi là nghịch duyên. Trên con đường đạo chẳng dễ gì tu, rất
dễ sinh mệt mỏi, cảm thấy thời gian tu rất là lâu, mà một chút thu hoạch cũng
chẳng có, do đó bèn bạch với Đạo sư rằng: ‘’Hiện nay chúng con đều mỏi mệt,
chúng con muốn trở về, chẳng muốn tu hành nữa‘’.
Lúc đó, vị Thiện tri thức nghĩ như vầy: Những chúng sinh nầy thật là đáng
thương ! Sao lại muốn sinh tâm thối chuyển, mà chẳng muốn tu đạo ? Vốn sẽ được
trân bảo mà nay đều bỏ mất.
Bèn nghĩ tìm phương tiện
Nên bày sức thần thông.
Hóa làm thành quách lớn
Trang nghiêm các phòng nhà.
Chung quanh có vườn rừng
Suối chảy và ao tắm.
Cửa lớn lầu gác
Nam
Hóa làm thành đó rồi
An ủi họ chớ sợ.
Các ông vào thành nầy
Đều được tùy sở thích.
Tức thời, vị Thiện tri thức nghĩ ra pháp môn phương tiện, bèn dùng thần thông
trí lực của Ngài, ở giữa đường hóa ra thành quách lớn, trong đó có rất nhiều
phòng nhà rất trang nghiêm, xung quanh có vườn hoa và rừng cây, có suối nước
trong sạch, ao tám bảy báu, lầu gác cao trùng trùng, nam nữ đều rất vui mừng hớn
hở, những cảnh giới nầy đều biến hóa ra.
Lúc đó, vị Thiện tri thức nói với đại chúng rằng : ‘’Các ngươi đừng sinh tâm sợ
sệt, bây giờ có thể vào trong thành nầy, mong cầu gì cũng được toại tâm như
ý‘’. Kì thật, hóa thành nầy, tức là hữu
Mọi người đều vào thành
Tâm đều rất vui mừng.
Đều sinh tưởng an ổn
Tự cho đã được độ
Đạo sư biết nghỉ rồi
Nhóm chúng mà bảo rằng:
Các ngươi nên đi nữa
Đây là hóa thành thôi
Thấy các ngươi mỏi mệt
Giữa đường muốn lui về.
Nên dùng sức phương tiện
Ta hóa làm thành nầy
Các ngươi gắng tinh tấn
Nên cùng đến bảo sở.
Ta cũng lại như thế
Đạo sư của tất cả.
Tất cả hàng tiểu thừa, đều vui mừng lìa khổ được vui, chẳng phát tâm lớn, tu pháp
tiểu thừa, cho nên các ngươi đến được hóa thành nầy, thì cảm thấy đã mãn
nguyện, đều sinh tâm vui mừng, tự cho rằng đã được an ổn cứu kính thoát khỏi
biển khổ sinh tử.
Phật sớm đã biết đại chúng sẽ sinh tư tưởng như thế, do đó lại
triệu tập tất cả đại chúng mà bảo rằng : ‘’Các ngươi bây giờ đã hết mệt mỏi, nên
cố gắng tiến về trước, vì chỗ các ông ở bây giờ, bất quá chỉ là một tòa hóa
thành mà thôi, chẳng phải là chỗ trân bửu chân chánh. Vì ta thấy các ngươi quá
mệt mỏi, sinh tâm thối chuyển, chẳng muốn tu đạo nữa, cho nên ta dùng pháp
phương tiện, sức thần thông, biến hóa ra thành quách, tức là pháp của hàng nhị thừa.
Bây giờ, các ngươi hãy dũng mãnh tinh tấn, thì sẽ đạt đến chỗ bảo tàng của Phật.
Ta cũng như thế, là thiện tri thức của tất cả chúng sinh, giáo hóa họ sớm lên bờ
giác, cùng thành Phật đạo.
Thấy những người cầu đạo
Giữa đường mà lười bỏ.
Không thể vượt sinh tử
Phiền não các đường hiểm
Nên ta dùng phương tiện
Vì nghỉ nói Niết Bàn.
Bảo các ông khổ diệt
Việc làm đều đã xong
Tức biết đến Niết Bàn
Đều được A la hán.
Nên mới nhóm đại chúng
Vì nói pháp chân thật.
Ta thấy một số người cầu đạo, tu hành đến nửa đường, thì cảm thấy quá khổ nhọc,
mà sinh tâm lười bỏ, chẳng nghĩ tu đạo nữa. Do đó có câu:
‘’Tu đạo nhất niên,
Phật tại nhãn tiền,
Tu đạo tam niên,
Nhất vạn bát thiên,
Tu đạo thập niên,
Phật tại thiên biên.’’
Nghĩa rằng:
Tu đạo một năm,
Phật ở trước mặt,
Tu đạo ba năm,
Xa Phật ngàn dặm,
Tu đạo mười năm,
Phật ở trên trời.
Cho nên nói, nếu chúng ta từ đầu đến cuối, giữ được tâm tinh tấn như lúc ban đầu,
dũng mãnh tinh tấn thẳng một lèo, thì sớm sẽ thành Phật đạo. Nếu bỏ giữa đường thì
chẳng thành tựu, không thể vượt qua biển khổ sinh tử, đường hiểm phiền não. Cho
nên, Phật bày pháp môn phương tiện, chẳng phải thật pháp, mới nói với hàng nhị
thừa : ‘’Các ngươi cũng có thể chứng được Niết Bàn, xa lìa các sự khổ, chẳng
còn sinh tử, những việc làm của các ngươi đã xong, đắc được Niết Bàn chứng đắc
A
Chư Phật dùng phương tiện
Phân biệt nói ba thừa.
Chỉ có một Phật thừa
Chỗ nghỉ nên nói hai
Nay vì ngươi nói thật
Chỗ ngươi được chẳng diệt.
Vì Phật Nhất thiết trí
Hãy phát đại tinh tấn.
Mười phương ba đời tất cả chư Phật, dùng hết pháp phương tiện, để giáo hóa
chúng sinh, mà Phật pháp vốn chỉ có Phật thừa, chẳng có Duyên Giác thừa, Thanh
Văn thừa. Vì căn cơ của chúng sinh, không thể một khi bắt đầu thì minh bạch, và
tiếp thọ Phật pháp, cho nên Phật vì chúng sinh phương tiện nói ra Thanh Văn
thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa, đó đều là Phật dùng sức đại oai thần, hóa
ra pháp môn nhị thừa, nên gọi là hóa thành. Cho nên nói, chỉ có Phật thừa mới
là thật thừa, tất cả chúng sinh tu hành quá lâu, đều sinh ra tâm nhàm mỏi, do
đó Phật dùng pháp môn phương tiện, để tạo ra hóa thành, vì chúng sinh nói hữu
Bây giờ, Phật muốn khai quyền hiển thật, nói ra chân thật Niết
Bàn, vì trước khi Phật nói với hàng nhị thừa chỉ là hữu
Ngươi chứng Nhất thiết trí
Mười lực các Phật pháp.
Đủ ba mươi hai tướng
Mới là chân thật diệt
Chư Phật là Đạo sư
Vì nghỉ nói Niết Bàn.
Đã biết nghỉ ngơi rồi
Dẫn vào nơi Phật huệ.
Khi nào các ngươi chứng được Nhất thiết trí, mười lực của Phật. Mười lực là gì
? Mười lực là mười thứ lực mà Phật có đủ.
1. Phật có trí lực biết xứ phi xứ. Biết xứ là tất cả đều hợp với Phật pháp, phi xứ là tất cả đều trái ngược với Phật pháp, mà Phật thì có trí huệ và lực nầy, phân rõ thị phi.
2. Trí lực biết nghiệp báo ba đời. Tất cả chúng sinh trong đời quá khứ tạo ra tội nghiệp gì, bây giờ trồng nhân gì, tương lai kết quả gì, đời sau thọ quả báo gì ? Phật có sức trí huệ nầy, biết nghiệp báo ba đời.
3. Trí lực biết các thiền giải thoát tam muội. Bao quát sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, gọi là ‘’Tứ không xứ’’, còn tất cả các thiền định và tám thứ giải thoát.
4. Trí lực biết các căn thắng liệt.
5. Trí lực biết chủng chủng giải.
6. Trí lực biết chủng chủng giới. Phật biết rõ đủ thứ cảnh giới của tất cả chúng sinh, cho nên mới có thể giáo hóa họ. Ví như mỗi người đều có tôn giáo tín ngưỡng của mình, có người tin Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo .v.v., kì thật, mỗi tôn giáo đều quy vào Phật giáo, mà mỗi căn tính của chúng sinh khác nhau, cho nên cũng tiếp thọ đủ thứ pháp khác nhau.
7. Trí lực biết tất cả chí xứ đạo. Giống như tu ngũ giới thập thiện, thì sẽ sinh về cõi trời, tu thiền định thì chứng quả, tu lục độ vạn hạnh thì thành Phật. Tạo nghiệp ác thì đọa vào địa ngục, làm ngạ quỷ, trồng nhân gì được quả đó.
8. Trí lực biết thiên nhãn vô ngại.
9. Trí lực biết túc mạng vô lậu.
10. Trí lực biết vĩnh đoạn tập khí.
Đây chỉ là nói tóm tắc, nếu nói tỉ mỉ thì trăm ngàn trí lực đều từ đây sinh ra,
chẳng có tận cùng.
Nếu người tu đạo, chứng được ba mươi hai tướng, thì đắc được tịch diệt và khoái
lạc chân thật. Chư Phật là Đạo sư của tất cả chúng sinh, thấy tất cả chúng sinh
tu đạo giữa đường, sinh tâm lười mỏi mà nói ra Bồ Tát thừa, Thanh Văn thừa,
Duyên Giác thừa và hữu
Tuy nhiên biết đây là hóa thành, là nơi nghỉ trọ của chúng sinh, chứ chẳng phải
ngôi nhà thật sự, cho nên dẫn dắt mọi người nhập vào Phật đạo, được trí huệ
viên mãn.
Hết Tập 2
Hồi hướng công đức
Trong các sự bố thí, thì bố thí pháp là cao thượng nhất. Vì
ấn tống kinh điển bố thí cho mọi người đọc, khiến cho họ hiểu rõ những lời đức Phật
dạy, phát tâm tu học, thực hành hạnh Bồ Tát, tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, tự
giác giác ta, tích tụ căn lành công đức, hồi hướng về quả Vô thượng bồ đề, cuối
cùng sẽ chứng ngộ quả vị Phật. Nhờ giáo lý Pháp bảo mà chúng ta tin, hiểu, thực
hành, và chứng ngộ.
Xin hồi hướng công đức pháp thí cao thượng nầy, đến các bậc Thầy Tổ, và toàn thể
tất cả Phật tử đã phát tâm hùn phước ấn tống, hữu danh hoặc vô danh, và thân
bằng quyến thuộc của tất cả quý vị còn sống hoặc đã quá vãng, cùng pháp giới
chúng sinh, thảy đều được lợi lạc, căn lành tăng trưởng, tâm bồ đề kiên cố, luôn
luôn an trụ ở trong chánh pháp, tu hành chánh pháp, rốt ráo được thoát khỏi sinh
tử luân hồi, đến được bờ giác ngộ bên kia.
Kệ hồi hướng công đức
Nguyện đem công đức nầy
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Khi bỏ báo thân nầy
Sinh về cõi Cực Lạc.