Thuật ngữ an cư tiếng Pāli là Vassa, Phạn là Varṣā, tiếng Anh là Retreat season, nghĩa là ở an vào mùa mưa. Trung Hoa dịch ý là Vũ kỳ (
thời kỳ mưa), gọi tắt của
Vũ an cư (雨安居),
an cư mùa mưa), còn được gọi là Hạ hành (夏行),
Tọa hạ (坐夏),
Tọa lạp (坐臘), Hạ lung (夏籠),
Hạ thư (夏書),
Hạ kinh (夏經), Hạ đoạn (夏斷), Hạ (夏). Do đó mới có tên gọi
Nhất hạ cửu tuần (一夏九旬), Cửu tuần
cấm túc (九旬禁足), Kiết chế
an cư (結制安居), Kiết chế (結制), v.v… Bắt đầu kiết chế
an cư thì gọi là
Kiết hạ (結夏), khi
kết thúc an cư là
Giải hạ (解夏).
Tứ phần luật san bổ
tùy cơ yết-ma sớ (quyển 4),
giải thích nghĩa chữ
an cư như sau: “Thu nhiếp
thân tâm yên tĩnh là an,
thời kỳ phải ở lại là cư”. Luật Tư trì ký định nghĩa: “Lập tâm một chỗ gọi là kiết; bộ Nghiệp sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ
tịch tĩnh gọi là an”.
An cư cũng có nghĩa là “An kỳ tâm, cư kỳ thân”,
tức thân ở yên một chỗ và tâm được
an lạc,
thanh tịnh gọi là
an cư.
Trong
thời gian ba tháng mùa mưa ở
Ấn Độ thì
chư Tăng không được đi
hành hóa các nơi, hơn nữa do vì trong
thời gian này
các loại cây cỏ, côn trùng phát sanh, nên để đừng sát thương các vật đó, hàng
đệ tử Phật thường tập trung lại một nơi,
cấm túc, đặt ra
quy chế tọa thiền tu học trong suốt ba tháng
an cư.
Về
thời gian an cư, thông thường phần nhiều lấy một hạ chín tuần (tức ba tháng) làm kỳ hạn.
Tứ phần luật san phồn
bổ khuyết hành sự sao (quyển thượng, phần 4), lấy ngày 16 tháng 4 là ngày đầu
an cư, ngày 15 tháng 7 là ngày
cuối cùng, ngày hôm sau là ngày
Tự tứ; luật Ma-ha-tăng-kỳ (quyển 27), thì lấy ngày 15 tháng 7 làm ngày
Tự tứ. Về ngày tháng
quy định thì
tùy theo đất nước, khí hậu, để tiến hành
thời gian an cư cho
phù hợp.
Theo
Đại phẩm,
Đức Phật quy định có hai thời điểm vào
mùa an cư: Tiền
an cư và Hậu
an cư. “Tiền
an cư thì nên vào nhằm ngày kế của (ngày trăng tròn) tháng Āsāḷha, Hậu
an cư thì nên vào khi (ngày trăng tròn) tháng Āsāḷha đã
trôi qua một tháng. Này các Tỳ-kheo, đây là hai thời điểm vào mùa an cư”.
Truyền thống Phật giáo Nguyên thủy y cứ theo lịch này nên bắt đầu Vũ kỳ
an cư (Vassavāsa) từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsāḷha) và
kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina). Nếu
an cư được bắt đầu vào ngày 16 tháng 6 thì gọi là Tiền
an cư (Purimikavassà). Còn nếu như có
duyên sự không
thực hiện Tiền
an cư được mà phải
dời lại một tháng sau, tức bắt đầu từ ngày 16 tháng 7
âm lịch và
kết thúc vào ngày 16 tháng 10 thì gọi là Hậu
an cư (Pacchimikāvassā). Và số
mùa an cư mà một vị Tỳ-kheo đã
trải qua được dùng để tính
hạ lạp, tức
tuổi đạo.
Ngoài ra còn một số
quy định cụ thể về
pháp an cư (như cư trú
phù hợp, phòng xá,…) được ghi lại rõ trong
Luật tạng.
Ngày nay,
truyền thống Phật giáo Việt Nam thường gọi là
An cư kiết hạ, tức kiết túc
an cư trong ba tháng hạ theo
truyền thống Phật giáo Bắc tông. Sau rằm
tháng Tư âm lịch,
chư Tăng theo
truyền thống Phật giáo Đại thừa bắt đầu kiết túc
an cư,
cho đến hết ngày rằm
tháng Bảy âm lịch, làm
lễ tự tứ và
giải hạ kết thúc mùa an cư. Điều này
thể hiện tính
linh hoạt,
tùy duyên trong
Phật giáo.
Tùy theo thổ nhưỡng,
thời tiết, khí hậu và
điều kiện để tiến hành
an cư cho
phù hợp.
Thời gian có sự sai khác nhưng nội dung và
ý nghĩa an cư thì giống nhau.
Trong
Trường A-hàm (quyển 2, kinh
Du hành), kinh
Phật bản hạnh tập (quyển 39), có ghi chép
sự tích Đức Phật và các
đệ tử an cư tu hành. Kinh Tăng-già-la-sát sở tập (quyển hạ), thì
liệt kê tên các nơi mà
Đức Phật đã ngồi hạ
trong khoảng 45 năm. Về địa điểm mà
Đức Phật sau khi
thành đạo, và các
đệ tử đã
cử hành an cư lần đầu tiên, thì các
kinh điển nói khác nhau,
tuy nhiên, thông thường phần nhiều lấy
vườn Lộc Dã làm nơi
an cư lần đầu tiên. Lại theo
Thiện kiến luật Tỳ-bà-sa (quyển 3) chép, con trai của vua A-dục là Ma-hin-đà và các Tỳ-kheo ở
Tích Lan (nay là Sri Lanka) đã ngồi hạ ba tháng tại Ca-na-ca-thất (Pāli: Kaịraka) trên núi Chi-đế-da (Pāli: Cetiyagiri).
Đến nay,
Tích Lan và các nước
Phật giáo phương Nam vẫn chiếu theo luật đã
quy định mà
cử hành an cư.
Cứ theo luật Thập tụng (quyển 24), thì năm
chúng xuất gia là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni phải
cử hành an cư, còn hai
chúng tại gia Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di thì không được
an cư. Lại trong năm
chúng xuất gia thì Tỳ-kheo và Sa-di cùng ở một chỗ
an cư tu hành; Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni cùng ở một chỗ
an cư tu hành. Theo
Đại phẩm, Nhập
vũ an cư kiền độ (Pāli: Vassupanàyika - kkhandhaka) văn Pāli
quy định, nếu Tỳ-kheo không
an cư thì sẽ mắc
tội ác tác (Pāli: Dukkara, Đột-cát-la).
Phật giáo, không giống như các
tôn giáo khác như Kỳ-na hay Ấn giáo, không rơi vào
hình thức chủ nghĩa cực đoan của các nguyên tắc
bất bạo động. Mà chế
pháp an cư thứ nhất cũng để chư vị Tỳ-kheo tránh giẫm đạp lên cây cối và côn trùng trong ba tháng mùa mưa, nhằm
thực hiện sự
tôn trọng và
bảo vệ sinh mạng các loài
động vật; thứ hai, tránh sự cơ hiềm của
thế gian và
ngoại đạo.
Tuy nhiên,
Đức Phật đã
quan tâm nhiều hơn với những
thái độ sống, chứ không
câu nệ vào
hình thức. Tức
quy chế an cư nhằm tạo ra cơ hội tốt để chư vị Tỳ-kheo tập trung vào sự
tu tập trau dồi
giới định tuệ, làm tấn
tu đạo nghiệp hướng tới sự
giác ngộ giải thoát. Do đó,
thiết lập pháp an cư không chỉ mang lại
lợi ích cho
cá nhân Tăng mà còn làm
tăng trưởng niềm tin vào
Tam bảo của chúng
Phật tử. Và
ban hành an cư là nhằm
mục đích duy trì truyền thống chư Phật trong
quá khứ. Thành ra,
mùa an cư đã trở nên quan trọng và
ý nghĩa đối với
tứ chúng đệ tử Phật.
Như vậy, dù
kiết hạ hay
kiết đông an cư thì
mục đích chính vẫn là thúc liễm
thân tâm, trau dồi
giới đức. Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni nào không
quan tâm đến việc
tu tập thiền định để
bồi dưỡng trí tuệ thì
thật không xứng đáng là bậc
mô phạm tỉnh thức. Sự khắt khe này cũng chỉ vì
Đức Phật muốn
bảo hộ sức sống của Tăng-già bằng việc
triển khai năng lực tu tập của mỗi
cá nhân. Nếu ai trong hàng
xuất gia đệ tử Phật không
tôn kính vâng giữ lời huấn thị của
Đức Phật, xem
an cư là một điều
bó buộc, một
phương tiện nhỏ nhặt thì
quả thật người ấy không những tự chối bỏ phần
tự lợi mà gây
ảnh hưởng không tốt cho
Tăng đoàn. Cũng như người nông phu mỗi năm phải làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng thì người nông phu sẽ bị
nghèo nàn đói thiếu. Hàng
xuất gia nếu không có những ngày tháng cùng
sinh hoạt cộng trú để sách tấn lẫn nhau thì làm sao có
điều kiện để tạo thành
năng lực hòa hợp và kiểm chứng
giá trị thanh tịnh?
Kết thúc khóa
an cư là
Tự tứ, một
hình thức tối quan trọng để
tổng kết quá trình
tu tập tiến triển hay lui sụt của từng
cá nhân qua
ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi
phạm vi giới luật,
buông lung theo
ba nghiệp, hành động
theo bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa
đại chúng để
bổ khuyết sửa chữa.
Pháp chế an cư tu học, nếu được
đại chúng thực hành chí thành, đúng mức, thì đó thật là nguồn
năng lực lớn lao để
củng cố tinh thần hòa hợp thanh tịnh của Tăng-già;
trưởng dưỡng tâm Bồ-đề ngày càng lớn mạnh, bền chắc; giúp cho
sự nghiệp nhiếp hóa
chúng sinh thành tựu viên mãn. Chư vị
thiện nam tín nữ cũng
nương nhờ uy đức rộng lớn như biển của
Đại Tăng mà
tâm linh thăng tiến; nhờ
tu học Phật pháp mà
trí tuệ phát triển; nhờ
thành tâm tu hạnh
bố thí cúng dường mà
phước đức sâu dày, duyên lành đối với
Phật pháp sẽ kết chặt
vững bền mãi mãi về sau.