Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 15)

05/06/201312:00 SA(Xem: 14956)
Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 15)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 15)


Pháp Sư Tịnh Không

 

Thứ tư, nếu chúng ta tạo tội nghiệp từ thân khẩu ý đồng nghĩa tạo mười ác nghiệp, thân tạo sát đạo dâm; miệng thì vọng ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, thêu dệt, tâm thì tham sân si mạn. Vậy bạn phải nỗ lực cầu sám hối, việc sám hối này là phát lồ sám hối. Chúng ta không có dũng khí phát lồ sám hối trong đại chúng thì chí ít cũng phải ở trước mặt Phật Bồ Tát phát lồ sám hối. Một số người đến trước mặt Phật Bồ Tát thầm lặng sám hối, thấy miệng của họ động đậy, người ngoài không thể nghe được câu nào, e rằng Phật Bồ Tát cũng không nghe thấy. Phật dạy chúng ta phát lồ sám hối là phải nói ra, không nên che giấu. Do đây có thể biết loại sám hối này là rất muốn sám hối, còn ngượng ngùng, xấu hổ thì nghiệp chướng không thể sám trừ. Trước mặt Phật Bồ Tát, bạn còn không chịu phát lồ, không chịu lớn tiếng nói ra thì có thể thấy được ý nguyện của bạn không chân thành. Chân thật sám hối thì không những trước mặt Phật Bồ Tát mà còn phát lồ sám hối trước mặt thiện tri thức thông thường.

Thứ năm, Phật nói, tuy bạn không làm nhiều việc ác, nhưng tâm của bạn ác. Ác tâm đó đã trùm khắp, bạn không thể làm ác vì duyên chưa chín muồi. Nếu duyên chín muồi thì việc ác của bạn cũng trùm khắp. Thực tế tạo ác cũng phải có phước báu, không có phước báu thì chỉ có thể làm ác nhỏ, không thể làm được việc ác lớn. Người phước báu lớn mới có thể làm được đại ác. Họ có thể tùy tâm muốn làm gì thì làm, còn người không có phước báu, muốn làm đại ác cũng không làm được, chỉ có thể làm chút ác nhỏ. Tuy là ác nhỏ nhưng tâm ác của họ có thể không nhỏ, việc này cần phải ghi nhớ.

Thứ sáu, “ý niệm làm ác tiếp nối không ngừng”. Ban ngày tạo ác, buổi tối nằm mộng vẫn là đang tạo ác, nên gọi “Ngày nghĩ việc gì, đêm mộng việc đó”, vô cùng đáng sợ. Kinh Phật nói những sự việc này đều là hiện tượng ác hạnh thông thường của chúng ta hiện tại.

Thứ bảy, “che giấu, tránh né lỗi lầm của chính mình”. Chính mình tạo tác tất cả lỗi lầm nhưng lại đẩy trách nhiệm cho người khác, việc ác này khá nặng. Mình tạo tác thì mình phải dũng cảm gánh vác, mạnh dạn nhận lỗi, như vậy cái lỗi của bạn mới có thể sám trừ. Nếu che giấu, ngụy trang thì tội sẽ càng thêm nặng. Phật dạy chúng ta phải tích âm đức, nghĩa là làm việc tốt không nên để người biết. Phải che giấu thì phước đức của bạn càng tích càng dầy, quả báo tương lai sẽ thù thắng. Còn tội nghiệp thì không nên che giấu, cho dù tạo nhiều hay ít đều phải để người khác biết, biết để làm gì? Người này mắng bạn một câu, người kia trách bạn một tiếng, quả báo của bạn liền được trả hết. Mình tạo vô số ác nghiệp phải mau báo hết, còn tích những thiện thì không nên để người biết. Hiện tại người thông thường thật điên đảo, họ tạo ra việc ác nhưng không muốn người khác biết, còn chỉ làm một chút thiện là đã muốn đem nó tuyên dương thành đại thiện để mọi người xem trọng, tán thán. Như vậy, thiện đã sài hết mà ác vẫn ém để đó chưa động, đợi đến khi Diêm La Vương tính sổ một lần. Đó là người ngu si. Cho nên Phật dạy chúng ta chân thậtđạo lý.

Thứ tám, hiện tại thông thường chúng ta nói “ngoan cố, cố chấp, ngang ngược, tàn ác” là những người không thể nghe khuyên răn của người khác, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm đều xung đột với người, ưa thích đối kháng, hiếu thắng bồng bột, không chịu thiệt, tranh hơn thua, tất cả đó cũng là tập khí, là tâm bệnh lớn. Phật có giảng cho họ nghe những đạo lý nhân quả báo ứng, họ cũng không tin tưởng. Khi tôi ba mươi tuổi bắt đầu học Phật, lúc đó vừa mới xuất gia không bao lâu, một hôm tôi nghe một số lão pháp sư lớn tuổi hơn tôi đang nói chuyện, tôi cũng đến ngồi bên cạnh, nghe xong tôi toát mồ hôi lạnh. Họ đã hỏi nhau: “Nhân quả mà kinh Phật nói, ông có tin không?” Tôi nghe bàng hoàng, họ là người xuất gia, bình thường cũng giảng nhân quả báo ứng cho cư sĩ nghe, thế nhưng chính họ lại không tin, chẳng trách lão sư Lý ngày trước đã nói một câu ngạn ngữ: “Hòa thượng sợ cư sĩ, cư sĩ sợ nhân quả, nhân quả sợ hòa thượng”, tuy là lời nói đùa nhưng đạo lý rất sâu rộng.

Cho nên vào thời kỳ mạt pháp, bạn thấy học Phật thành tựu, chẳng hạn trong Vãng Sanh truyện cho thấy người xuất gia vãng sanh ít, người tại gia vãng sanh nhiều. Người tại gia vãng sanh tướng lạ, rất hi hữu. Khoảng ba mươi năm gần đây, Đài Loan đã có người đứng vãng sanh, đó là nữ cư sĩ tại gia. Còn trường hợp ngồi vãng sanh thì càng nhiều. Họ dự biết giờ đi, không có bệnh khổ. Thế nhưng mấy mươi năm qua tại Đài Loan không thấy có một người xuất gia nào vãng sanh tướng lạ như trên, ngồi cũng không có người nào huống hồ đứng vãng sanh. Lời của Lý lão sư nói thật không sai. Chúng ta tỉ mỉ quan sát, người xuất gia, thân xuất nhưng tâm không xuất, trong lòng còn chấp trước hơn so với người tại gia. Họ chỉ xuất ra từ căn nhà nhỏ của họ nhưng tìm đến một ngôi chùa lớn, lớn hơn nhiều so với căn nhà xưa cũ. Quyến thuộc nhiều hơn, tiền của cũng nhiều hơn, dẫn đến tăng thêm tham sân si mạn, tạo vô lượng tội nghiệp. Đối với những sự việc này, chúng ta đều phải cảnh giác cao độ, đó không phải việc tốt, rất đáng sợ, sợ chính mình ngay một đời này đọa lạc vào ba đường.

Thứ chín, “Vô Tàm vô Quý, Bất Cụ Phạm Thánh”. “Tàm” là lương tâm bị dày dò, bản thân làm sai việc gì trong lòng không an gọi là tàm. “Quý” là phê bình của người khác. Không sợ phê bình của người khác chính là không sợ dư luận. Con người như thế không nể trọng Phật Bồ tát. Nếu chúng ta đọc kinh Vô Lượng Thọ nhiều lần sẽ thấy kinh nói, nhân số của thế giới Tây Phương Cực Lạcvô lượng vô biên, không ai có thể tính đếm được. Kinh Phật nêu ra một thí dụ, ngay trong hàng đệ tử Thích Ca Mâu Ni Phật, năng lực thần thông mạnh nhất như tôn giả Mục Kiền Liên có thể dùng trí tuệ thông minh trong một ngày đêm tính đếm số lượng tinh cầuđại thiên thế giới, trong mỗi tinh cầu có bao nhiêu chúng sanh, ngài có thể tính ra được, nhưng Phật nói “Giả như tất cả chúng sanh đều chứng được quả vị Bích Chi Phật, thần thông đạo lực như ngài Mục Kiền Liên cùng nhau để tính số người của thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng không thể tính được”. Thế giới Tây Phương Cực Lạc phồn hoa, náo nhiệt, tốt hơn nhiều so với chúng ta nơi đây. Phật lại nói, người ở cõi đó cho dù là hạ hạ phẩm vãng sanh cõi phàm thánh đồng cư thì trí tuệ năng lực của họ thảy đều hồi phục gần giống như Phật. Họ có thể thấy được mười phương thế giới tất cả chúng sanh. Chúng ta không thể thấy họ nhưng họ có thể thấy chúng ta. Chúng ta ở đây nói nhỏ, đối phương còn nghe chưa rõ ràng, nhưng ở thế giới Tây Phương Cực Lạc thảy đều nghe được chúng ta, bạn làm sao có thể giấu được? Ở nơi đây chúng ta khởi tâm động niệm, họ thảy đều biết vì họ có tha tâm thông. Chúng ta thường cho rằng, làm một số việc xấu sẽ không ai biết, có thể giấu được người. Đúng! Bạn có thể giấu được năm mươi ức người của thế giới này nhưng với thế giới Tây Phương, vô lượng vô biên hàng Bồ tát, bạn không thể giấu một vị nào.

Nếu bạn chân thật tin tưởng, chân thật thấu hiểu, thì bạn sẽ không dám khởi một niệm ác vì khởi một niệm ác, Phật Bồ tát đều biết, thế giới Tây Phương Cực Lạc người người đều biết. Nếu bạn muốn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, Phật A Di Đà đại từ đại bi có kéo bạn lên đó thì người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng mỗi mỗi đều trợn mắt nhìn: “Làm sao ông có thể đến đây? Là một người ác, ông đến đây chẳng phải phá hoại hoàn cảnh của chúng tôi sao?”. Điều kiện của thế giới Tây Phương Cực Lạc là “Các bậc thượng thiện đều ở một nơi”. Chúng ta phải tu thượng thiện, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm không nên tạo ác, nhất định phải biết, không luận chúng ta ở lúc nào, nơi nào, Phật Bồ tát của thế giới Cực Lạc thảy đều xem thấy. Đây là thật, không phải giả. Không những không dám làm việc xấu, không ác khẩu, không vọng ngữ mà ngay cả trong ý niệm cũng không có dù chỉ một niệm ác, lúc đó chúng ta mới có thể vỗ ngực nhất định vãng sanh.

Hai hôm trước, có một vị cư sĩ ở Hoa Kỳ cũng là một lão đồng tu chúng ta, ông bị bệnh gọi điện thoại cho tôi. Câu thứ nhất ông hỏi: “Tôi liệu có bị đọa địa ngục không?” Tôi liền thành thật trả lời: “Ông có bị đọa địa ngục hay không tôi không biết, việc này ông phải hỏi chính mình”. Chính bạn niệm Phật tu thiện thì làm sao có thể đọa địa ngục. Nếu niệm Phật mà còn tạo nghiệp mới không thể tránh khỏi. Tôi liền khuyên ông đọc nhiều lần Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo kinh, vừa đọc vừa nghĩ lại xem mình đã tạo ra những nghiệp gì. Nếu bạn tạo tội nghiệp cực trọng địa ngục thì chỉ cần hơi thở của bạn chưa dứt là vẫn có thể cứu, bằng cách nào? Sám hối. Cầu vãng sanh phải chân thật sám hối, phải từ nội tâmsám hối, về sau không tái tạo. Khi đó bạn có thể không đọa ba đường, có thể mang nghiệp vãng sanh. Những thí dụ như vậy đều có trong kinh.

Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Vãng sanh truyện có nêu, người tạo tội nghiệp cực trọng khi chân thật hồi đầu, chân thật sám hối đều có thể vãng sanh. Nếu bạn không tin tưởng, tiếp tục tạo tác, vậy không còn cách nào, còn chân thật hồi đầu giác ngộ, sau không tái tạo thì đều được cứu. Phật Bồ tát đại từ đại bi không hề nhớ lỗi lầm của chúng sanh, ngay Đại sư Huệ Năng cũng nói “Người chân chính tu hành không thấy lỗi người khác”, Phật Bồ Tát làm sao nhớ lấy lỗi lầm của chúng sanh được. Vấn đề là chính mình tạo ra tội nghiệp lại sợ tánh tội, cho nên nhất định phải tự nỗ lực sám hối.

Thứ mười, “không tin nhân quả báo ứng”. Người chân thật tin tưởng nhân quả báo ứng biết tự kiểm điểm khi khởi tâm động niệm, lời nói việc làm. Biết được quả báo đáng sợ nên quyết không dám thưởng thức. Chúng ta cả đời may mắn gặp được Phật pháp mới hiểu rõ đạo lý này. Khi chưa gặp Phật pháp, những tội nghiệp chúng ta thường tạo trong đời quá khứ tuy chúng ta không có túc mạng thông nhưng vẫn không thể tránh khỏi. Khi chưa gặp Phật pháp, Phật nói những tội nghiệp này tôi đều đã làm qua, đến sau khi học Phật mới hiểu rõ. Thời gian kháng chiến năm đó tôi mười mấy tuổi, đã tạo nghiệp sát rất nặng, ham thích săn bắn, cho nên nhiều tướng số đoán mạng cho tôi nói tôi đoản mạng, tôi tin tưởng, vì sao? Vì nghiệp sát quá nặng làm sao không đoản mạng. Ngay đời này đời sống rất khổ cực không thể đoàn tụ với người nhà, tôi cũng tin tưởng. Do nghiệp báo tôi sát sanh làm cho cả nhà chim thú không được đoàn viên thì tôi phải chịu quả báo này. Tạo nhân gì thì phải nhận lại quả đó, việc này không thể tránh được. Sau khi chân thật hiểu, Phật Bồ tát đã cứu chúng ta thấu hiểu chân tướng sự thật và thay đổi tự làm mới, không còn vì chính mình mà vì Phật pháp, vì chúng sanh. Lại gặp được pháp môn Tịnh Độ, một đời viên mãn, chúng ta xác định một con đường làm thế nào để báo ân Phật, báo ân chúng sanh, đền trả những lỗi lầm trước đây đã giết hại chúng sanh. Chỉ có hoằng dương Phật pháp, đem pháp môn thù thắng giới thiệu cho mọi người, mọi người niệm Phật tương lai đều vãng sanh Tịnh Độ, đều thành Phật, tội nghiệp này của chúng ta mới có thể được tiêu trừ.

Ngày nay, sám hối nghiệp chướng là mấu chốt vô cùng quan trọng. Mấy năm gần đây, rất nhiều đồng tu đón nhận thông tin từ báo chí truyền hình, nhiều nơi trên toàn thế giới tai nạn phổ biến, mỗi năm một phức tạp hơn, năm sau nghiêm trọng hơn năm trước. Singapore tuy là đất phước cũng không thể không bị ảnh hưởng, đó là việc mà mỗi người chúng ta đều quan tâm. Làm thế nào mới có thể tiêu tai giải nạn? Tôi tin tưởng không chỉ đồng tu học Phật đều đang quan tâm lo lắng, muốn tìm phương pháphiệu quả để tiêu tai giải nạn, đón kiết hoá hung, mà tín đồ các tôn giáo khác cũng đang lo lắng như vậy. Thậm chí những người nổi tiếng hoặc những người không tín ngưỡng tôn giáo khi thấy các tai biến, trong lòng đều không an ổn. Đây là vấn đề của ngày nay, hơn nữa còn là vấn đề trọng đại của xã hội. Vậy chúng taphương pháp gì không? Giúp chúng ta tiêu tai khỏi nạn chỉ có đáp án trên kinh Phật mới có thể khẳng định được. Nhất địnhphương pháp hơn nữa còn hiệu quả, nhưng chúng tatin tưởng hay không, có chịu tiếp nhận hay không?

Những tai biến này do đâu mà đến? Nguyên nhân rất phức tạp, kinh Đại Thừa Phật thường nói “vô lượng nhân duyên”, không phải nhân duyên nhỏ, không phải nhân duyên đơn giản mà là nhân duyên phức tạp tạo thành hiện tượng ngày nay của chúng ta. Hiện tượngquả báo, có nhân ắt có quả. Kinh Phật nói rõ cội gốc của vũ trụ nhân sinh. Trong thái không này có rất nhiều tinh cầu, nó làm thế nào sanh ra? làm thế nào những tinh cầu này vận hành trong thiên không một cách có qui tắc, không hề va chạm lẫn nhau? Còn sinh mạng từ nơi đâu mà đến? Vì sao có sinh mạng? Vì sao có những hoàn cảnh đời sống hiện tiền của chúng ta?. Không đọc kinh Phật thì không thể nào tường tận những chân tướng sự thật này. Có không ít chuyên gia học giả thế gian, nhà triết học, nhà khoa học, các nhà tôn giáo đều đang thăm dò, tìm kiếm đáp án chân thật chính xác. Thế nhưng từ mấy ngàn năm khi nhân loại bắt đầu nền văn minh lịch sự đến ngày nay cũng chưa tìm ra. Rất nhiều lý luận nhưng không có gì đúng. Chúng ta nghe nhưng lại không thể tâm phục khẩu phục. Khi quay đầu lại nghe Phật mới thấy đích thực có đạo lý.

Tường tận nhất, thấu triệt nhất chính là trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh. Bộ kinh này rất dài, sau khi đọc dù không hiểu triệt để chúng ta cũng có thể biết đại khái, liền biết được phải làm người như thế nào, phải tu hành ra sao, làm thế nào đón kiết hoá hung tiêu tai khỏi nạn, trải qua đời sống hạnh phúc chân thật mỹ mãn. Mong cầu của chúng ta nơi cửa Phật đích thực có thể đạt được đầy đủ. Phật nói, lý do của mười pháp giới y chánh trang nghiêm chính là khởi nguồn của vũ trụ. Vũ trụ cùng sinh mạng đồng thời mà có, không trước không sau. Có sinh mạng thì có vũ trụ, có vũ trụ thì có sinh mạng. Sinh mạng cùng vũ trụ không thể phân hai. Phật nói rõ nguyên lý căn bản trong kinh Hoa Nghiêm: “Tất cả pháp duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, tâm là gì? Không người nào biết.

Chúng ta vừa nhắc đến tâm, mọi người lập tức liền nghĩ, chỗ này là tâm, chỗ kia là tâm, cái tâm này không dùng được, cái tâm kia không thể biến đổi, hoặc tâm chỉ có thể sanh ra chướng ngại, không có gì tốt cả. Đại đức xưa của thiền tông nói rất hay “Nhược nhân thức đắc tâm, đại địa vô thốn thổ”, người nào chân thật nhận được cái tâm thì “đại địa vô thốn thổ” thảy đều được giải quyết. Do đây có thể biết mong cầu của cả Phật pháp chính là cầu được “Minh tâm kiến tánh”. Minh có nghĩa minh bạch. Ngày nay chúng ta không minh bạch, nếu tâm minh bạch, tánh liền thấy được. Tánh là thể của tâm, tâm là dụng của tánh. Chân tâm có thể, có dụng. Từ trên thể, chúng ta gọi nó là tánh, bổn tánh. Từ trên dụng, chúng ta gọi nó là tâm. Tác dụng nếu cùng với thể tương ưng thì cái tác dụng này gọi là chân tâm, trái ngược với thể thì chúng ta gọi là vọng tâm. Chân tâm khởi tác dụng, cảnh giới đó liền thù thắng, cho nên mới nói chư Phật Bồ Tátpháp giới nhất chân.

Kinh Hoa Nghiêm nói “thế giới Hoa Tạng của Phật Tỳ Lô Giá Na”, kinh Vô Lượng Thọ nói “thế giới Tây Phương Cực Lạc”, đó là tác dụng cùng thể tánh hoàn toàn tương ưng. Chân tâm khởi tác dụng, duy tâm sở hiện, cái tâm đó là chân tâm. Hiện tại chúng ta đọa lạc thành phàm phu, phàm phu có tâm hay không? Đương nhiên có tâm, tuy có tâm nhưng bạn không biết, thế là hiện tại cái tâm này của chúng ta khởi tác dụng. Trái ngược với chân tánh, không tương ưng, nó vẫn khởi tác dụng. Thế nhưng ở trong tác dụng liền sanh ra biến hoá. Hoặc giả chúng ta nói biến chất, chất biến tánh không biến, nếu tánh biến thì tánh không phải thật. Cho nên Phật ở trên kinh mới nói “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, đã có Phật tánh thì đương nhiên có thể làm Phật, đây là đạo lý nhất định. Chất đổi tánh không đổi. Chất đổi là gì? Là biến thành mười pháp giới y chánh trang nghiêm. Thân thể của chúng ta, nguồn gốc của sinh mạng, chất thay đổi, hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta ngày nay cũng thay đổi, chất vì sao có thể thay đổi? Phật nói rồi, trong mười pháp giới bao gồm sáu cõi của chúng ta, ngày nay chúng ta bao gồm tất cả hình hình sắc sắc những hiện tượng này, “duy thức sở biến”, thức liền sanh ra biến chất.

Thức là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chúng ta thử nghĩ xem trong chúng ta có người nào không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Mỗi mỗi đều có, vậy phiền não không nhỏ. Cho nên thế giới này, mỗi người cộng nghiệp biến ra. Thân thể, dung mạo của chúng ta, tình trạng sinh hoạt của mỗi cá nhânbiệt nghiệp. Những đạo lý, những chân tướng sự thật, kinh Đại thừa Phật đã nói rất tường tận, thấu triệt, do đó “Tất cả pháp do tâm tưởng sanh”. Tâm tưởng này chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Mọi người đều hãy hướng đến phương diện thiện mà nghĩ thì thế giới liền hòa thiện, còn mọi người hướng đến mặt ác mà nghĩ thì thế giới liền đổi xấu. Chúng ta tỉ mỉ quan sát thử xem những người ở thế gian này đang nghĩ cái gì?

Chúng ta là người học Phật so với người thế gian thông thường thì dụng tâm không như nhau, nhất là phát tâm từ công việc hoằng pháp lợi sanh. Bạn lên giảng đài giảng kinh nói pháp, bình thường bạn sinh hoạt tu trì đều phải làm mô phạm cho chúng sanh. Do đó nói pháp phải khế cơ, hình thức sinh hoạt của chúng ta càng phải khế cơ. Hiện nay nghiêm trọng chính ở hiện tượng xã hội không tốt. Phương pháp chẩn đoán hiệu quả nhất là phải đem những mê hoặc của chúng sanh cụ thểvọng tưởng, phân biệt, chấp trước làm cho họ thức tỉnh. Chúng ta nghĩ sai, làm sai, nói sai, kết quả sai lầm chính là hiện tượng xã hội ngày nay. Nếu bạn hỏi xã hội này động loạn, có tai biến từ nguyên nhân nào? Tôi nghĩ mỗi người đều cảm xúc riêng. Ngay trong tin tức cũng thường hiển thị, khí hậu toàn thế giới khác thường, mấy năm gần đây, nhiệt độ trên địa cầu không ngừng nâng cao, núi băng ở nam bắc hai cực đang bắt đầu tan rã. Đương nhiên nó tan rã không quá nhanh nhưng nếu nhiệt độ không ngừng tăng lên, hoặc giả sử dừng lại không nâng lên cao nữa thì theo tính toán của khoa học gia, núi băng ở nam bắc cực sẽ tan chảy hoàn toàn sau năm mươi năm nữa. Tuy nhiên căn cứ thống kê của mấy năm gần đây, nhiệt độ mỗi năm nâng lên cao nhiều hơn, như vậy, tôi e núi băng của nam bắc cầu sẽ tan chảy hoàn toàn sau hai mươi năm nữa. Khi núi băng tan rã, mực nước biển liền dâng cao, khu vực Duyên Hải thảy đều chìm vào đáy biển, tai nạn này quá lớn, khoa học có tiến bộ thế nào cũng không cách gì ứng phó. Hiện tại mọi người quy việc này cho đại tự nhiên, không phải sức con người. Phần lớn đùn đẩy trách nhiệm, đó là vì không hiểu chân tướng sự thật.

Nhiệt độ lên cao, nguyên nhân chân thật do đâu? Phật đã nói rồi, đáng tiếc mọi người không tin. Phật nói với chúng ta nhiệt độ do lửa sân hận, nguyên nhân căn bản của tai biến ngày nay, chính là tham sân si mạn của chúng sanh. Cái vọng tâm mỗi ngày thêm lớn không ngừng nên ảnh hưởng đến hoàn cảnh. Khi vừa mở đầu tôi đã nói với các vị, khởi nguồn vũ trụ cùng sinh mạng là đồng thời, không thể phân ra. Sinh mạng nhà Phật gọi là chánh báo, hoàn cảnhy báo. “Y Chánh” có cùng một cội gốc, cho nên y báo chánh báo là một không hai. Kinh Phật lại nói với chúng ta rất nhiều lần “Y báo tuỳ theo chánh báo chuyển”. Kinh Lăng Nghiêm nói rõ ràng hơn “Nếu có thể chuyển cảnh thì đồng Như Lai”, Như Lai là gì? Là người giác ngộ có thể thay đổi hoàn cảnh tự nhiên. Họ không cần phải dùng những công cụ khoa học. Tâm chuyển rồi, hoàn cảnh tự nhiên liền đổi. Chúng ta muốn đại tự nhiên này hạ nhiệt độ địa cầu xuống thì mọi người phải dập tắt tham sân si. Nhiệt độ sẽ hạ rất nhanh. Ngày ngày chúng ta vẫn đang tham sân si thì nhiệt độ đó vẫn cứ hướng lên cao. Đó là hiện tượng chúng ta đã xem thấy ở rất nhiều quốc gia khu vực, mỗi năm đi qua, mọi người tăng thâm tham sân si mạn, không những không hạ thấp mà ngay đến tạm dừng cũng không có. Thật là tham không chán, tham không được thì sân hận. Do đây có thể biết “Sám trừ nghiệp chướngvô cùng quan trọng.

Nghiệp chướng là tạo tác ra những ác nghiệp. Tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi, nhất định phải sám trừ, kinh Phật cho biết có mười loại “tâm nghịch thuận”. Mười loại tâm tùy thuận sanh tử sáu cõi luân hồi, phía trước chúng ta đã nói qua, nay chúng ta tiếp tục giảng mười tâm nghịch sanh tử, cái nghịch này trái ngược với nó, có nghĩa là khuyên chúng ta tu mười loại tâm này để siêu việt sáu cõi luân hồi, tiêu tai giải nạn, hoá giải vô số tai biến thế gian hiện tại. Phật nói cho chúng ta nghe mười điều, người khác không tin tưởng, chúng ta cũng không nên để ý. Chính mình phải tin tưởng, phải từ chính bản thân nỗ lực mà làm. Hay nói cách khác, việc này trên kinh Phật nói rất tường tận, ngày nay chúng ta sống trên thế gian là cộng nghiệp. Trong cộng nghiệp còn có biệt nghiệp, cho dù địa cầu gặp phải tai biến to lớn như rất nhiều người nói, khi đại nạn đến, người trên địa cầu này có thể chết phân nửa, có thể chết 2/3, vậy vẫn còn 1/3 không chết, họ vẫn có thể vượt qua.

Trong cộng nghiệp vẫn còn có biệt nghiệp, người ngoại quốc nói “Ai tin tưởng thượng đế thì được cứu”, không tin thượng đế e rằng không có cách gì tránh khỏi tai nạn. Chúng ta rất khó tán thành cách nói này, người không từ bất cứ một việc ác nào nhưng chỉ cần tin vào thượng đế thì thượng đế cũng có thể cứu giúp họ. Còn cả đời làm người tốt nhưng không tin thượng đế thì thượng đế không cứu, như vậy thượng đế quá bất công. Chỉ Phật nói có đạo lý giúp bạn hồi tâm chuyển ý, diệt trừ tham sân si, tu phước, tu thiện, tích công bồi đức, khi đó bạn liền được cứu, được tiêu tai khỏi nạn. Nếu tiếp tục tham sân si mạn, tiếp tục tạo ác thì khi đại tai nạn đến e rằng sẽ không thể tránh khỏi. Phật nói như vậy, chúng ta nghe rồi vẫn cảm thấy tràn đầy đạo lý, có thể tiếp nhận. Cho nên nếu thượng đế không nói đạo lý thì chúng ta cũng không bằng lòng theo.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

 





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
15/05/2010(Xem: 110575)
23/09/2010(Xem: 71253)
Ăn thịt chó lâu lâu lại nổi lên như một vấn đề trọng đại của đất nước, kéo theo những cuộc biểu tình, phản đối làm đau đầu chính phủ. Và người ta đã xót xa, lên án những người hành hạ chó hay ăn thịt chó. Đặc biệt trong thế giới Tây Phương và Hoa Kỳ. Mới đây trong cuộc tranh luận với Bà Harris trên đài truyền hình ABC, Ô. Trump nói rằng di dân Haiti ở Tiểu Bang Ohio đã ăn thịt thú cưng (chó mèo) khiến gây phản ứng phẫn nộ, thậm chí dọa giết khiến cộng đồng ở đây vô cùng lo sợ. Thế nhưng theo sở cảnh sát Springfield, nguồn tin trên không có gì đáng tin cậy và không có chuyện thú cưng bị hại hay làm bị thương hay hành hạ bới người dân ở đây. Đấy người ta yêu thú vật như thế đó và sẵn sàng giết người, bạo động để bảo vệ thú vật.
Mới đây, 250 nhà hàng và quán ăn ở phố cổ Hà Nội đã ủng hộ việc không tiêu thụ thịt chó, mèo bằng cách dán các poster tại nhà hàng với thông điệp “Chó mèo là bạn, không phải là thức ăn. Chúng tôi không phục vụ thịt chó mèo tại đây”.
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.