05

15/11/201012:00 SA(Xem: 15201)
05


TRUNG PHONG TAM THỜI HỆ NIỆM

Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký
Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Chư vị đồng học! 
Trong phần Y Báo giảng đến: 

 “Kỳ quốc chúng sanh vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc. Cố danh Cực Lạc”. 

Loại thứ nhất trong “chúng khổ” (các khổ) là Khổ Khổ. Trong Khổ Khổ có tám thứ: Sanh, lão, bệnh, tử, cầu bất đắc, ái biệt ly, oán tắng hội – bảy thứ này là quả báo của Khổ; mối khổ cuối cùng là nói tổng quát, khổ rốt cuộc từ đâu có? Đức Phật dạy: Ngũ Ấm Xí Thạnh Khổ. Ngũ Ấm là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc là vật chất, thân thể của chúng ta là một bộ phận vật chất thuộc về Sắc, Sắc pháp. Tưởng, Thọ, Hành, Thức, nay ta gọi là “tinh thần”. Tất cả hết thảy động vật, chúng ta gọi là “hữu tình chúng sanh”, đều là thân Ngũ Ấm. Nói cách khác, sanh mạng là do tinh thầnvật chất tổ hợp thành. Vật chất là nhục thể; vì thế phải gánh chịu sanh - lão - bệnh - tử; nơi tinh thần thì những nỗi khổ cầu chẳng được, thương yêu chia lìa, chán ghét gặp gỡ đều phải hứng chịu. 

Thọ - Tưởng - Hành - Thức, Thức là thân nhân duyên (nhân duyên gần) của hết thảy khổ. Phật pháp nói trong A Lại Da Thức hàm tàng các chủng tử tập khí, những chủng tử ấy là thân nhân duyên của hết thảy khổ, vui. Tưởng, Hành là Sở Duyên Duyên, là Vô Gián Duyên (1). Thọ là quả báo, Thọ là gì? Quý vị cảm thọ, thọ khổ, thọ vui. Quý vị gây tạo nhân duyên thiện hay ác, bèn khổ hay vui. Nếu tạo tác ác nhân, ác duyên, những gì quý vị cảm nhận là “khổ thọ”. Toàn bộ tam giới chẳng ra khỏi định luật này. Nói thật ra, bọn phàm phu chúng ta chẳng biết đến đạo lý này, nào hiểu được trong thế giansự tình ấy; đức Phật xuất hiện trong thế gianchúng ta nói ra chân tướng nhân sanh. 

Thật sự hiểu rõ chân tướng sự thật này, chúng ta mới hòng được cứu, mới biết mình phải nên làm gì. Hết thảy chúng sanh dù thọ sanh trong đường nào cũng đều có nhân duyên. Cái dẫn ta đi đầu thai trong một đường nào, Phật pháp gọi là “dẫn nghiệp”. Nghiệp lực làm chủ tể, tự mình chẳng làm chủ được, nghiệp lực lôi ta đi. Nhất định phải hiểu sự việc này. Phật, Bồ Tát chẳng thể làm chủ cho chúng ta; Thượng Đế, vua Diêm La cũng chẳng thể làm chủ cho ta. Ai làm chủ tể? Nghiệp lực làm chủ tể, nghiệp chướng lôi ta đi! 

Quý vị sanh vào nhân đạo, rốt cuộc là do nghiệp lực gì? Phật dạy chúng ta: Trong đời trước ta đã từng tu Ngũ Giới, Thập Thiện. Nghiệp lực Ngũ Giới, Thập Thiện dẫn ta đầu thai vào nhân đạo. Sanh vào thiên đạothượng phẩm Thập Thiện, lại còn phải có Tứ Vô Lượng Tâm: Từ - Bi - Hỷ - Xả; tu thượng phẩm Thập Thiện, nghiệp lực ấy lôi kéo sanh vào Dục Giới thiên. Dưới đó là ba ác đạo. Tâm tham không chán, nghiệp lực ấy dẫn sanh vào đường ngạ quỷ, quỷ tham lam! Tâm sân khuể dẫn vào đường địa ngục, ngu si dẫn vào đường súc sanh. Đó là dẫn nghiệp, dẫn quý vị sanh vào một đường nào đó. 

Sanh vào một đường nào đó xong, hiện nay trên thế giới này có gần bảy mươi ức người, những người ấy sanh vào địa cầu này đều được mang thân người. Nói cách khác, trong đời quá khứ họ từng đã tu Ngũ Giới, Thập Thiện, đời này được thân người. Nhưng được thân người rồi, ngay trong một đời này, có người hưởng thọ vinh hoa phú quý, có người cả đời chịu khổ thọ nạn, bần cùng hèn hạ, là do nguyên nhân gì? Phật gọi đó là “mãn nghiệp”. Nghiệp có hai thứ: 

1) Một là dẫn nghiệp, dẫn quý vị sanh vào một con đường nào đó. 

2) Mãn nghiệptình trạng cuộc sống của một đời trong đường đó, tức cuộc sống tinh thần và cuộc sống vật chất của quý vị. Đó là gì? Phật pháp bảo là do quý vị tu phước tạo nghiệp trong quá khứ

Điều trọng yếu nhất trong việc tu phướcBố Thí; bởi thế, bố thí chẳng bị thiệt thòi. Trong đời quá khứ, quý vị thường thích tu Tài Bố Thí, trong một đời này sẽ được giàu có. Nói cách khác, cuộc sống vật chất nhất định được hưởng rất tốt, nhưng chưa chắc quý vị thông minh, trí huệ. Thật đấy! Chúng ta thấy trong thế gian này có rất nhiều chủ xí nghiệp rất giàu có, thậm chí còn chưa học đến trung học, chỉ học xong Tiểu Học, tốt nghiệp Sơ Trung, nắm giữ gia tài ức vạn. Trong kinh, Phật giảng đó là do trong quá khứ tu phước nhưng không tu huệ, tức là tu Tài Bố Thí, chẳng biết tu Pháp Bố Thí. Có của cải, nhưng không thông minh, trí huệ

Loại người thứ hai thông minh, trí huệ tót vời, chẳng có của cải gì, đời sống vật chất khá gian nan. Tôi thấy rất nhiều, các giáo sư đấy! Tiên sinh Phương Đông Mỹ, tiên sinh Hồ Thu Vân đúng là thông minh tuyệt đỉnh, có đại trí huệ, nhưng chẳng có của cải gì. Phần lớn, một bộ sách họ không có tiền mua, phải sống nhờ dạy học, suốt đời phải dạy học, mỗi tháng lãnh chút lương quèn, lãnh lương giờ. Trong kinh Phật nói những vị ấy trong quá khứ chỉ chú trọng Pháp Bố Thí, coi thường Tài Bố Thí. Bởi thế, đức Phật dạy chúng ta phải nỗ lực tu tập cả hai thứ bố thí, tu phướctu huệ thì quả báo mới viên mãn

Phước huệ song tu, phước là Tài Bố Thí, huệ là Pháp Bố Thí; đương nhiên trong ấy cũng bao gồm Vô Úy bố thí. Thương xót chúng sanh khổ nạn, tùy thời giúp đỡ chúng sanh khổ nạn, được quả báo mạnh khỏe sống lâu. Nếu từ kinh điển quý vị tham thấu được đạo lý này, sau đó lắng lòng quan sát những người chung quanh ta, quý vị sẽ thấy rất rành rẽ, sẽ tự biết một đời này mình phải nên làm gì. Học Phật, quý vị noi theo Phật, lúc chúng ta niệm Tam Quy Y: “Quy y Phật, nhị túc tôn”. Nhị là hai sự việc, hai sự gì? Phước và Huệ. Túc là trọn đủ, là viên mãn. Phật viên mãn cả Phước lẫn Huệ. Tôn là tôn kính, tôn trọng, tôn quý. So với hết thảy người xuất thế gianthế gian, Phật phước huệ bậc nhất, không ai hơn được Phật. Vì thế, Phật là “phước huệ nhị túc tôn”. Từ vô lượng kiếp, Phật tu phước, tu huệ. Thích Ca Mâu Ni Phật một đời dạy học suốt bốn mươi chín năm. Dường như chúng ta chẳng thấy trong kinh nói đức Phật Thích Ca Mâu Ni Phật bố thí tài vật lớn lao chi cả! Thích Ca Mâu Ni Phật đã xuất gia, toàn bộ tài sản chỉ là ba y một bát, tay chẳng cầm đến tiền, mỗi ngày khất thực, người ta cúng dường chỉ một bát cơm, chẳng cúng dường tài vật. “Phật không tu Tài Bố Thí”, nếu quý vị thấy như vậy là thấy trật rồi! 

Tài có nội tài, có ngoại tài. Ngoại tài là vật ngoài thân, tiền tài là vật ngoài thân, ngoại tài! Nay chúng tôi nói đến Tài Bố Thí, mọi người đều nghĩ đến ngoại tài, chẳng nghĩ đến nội tài. Nội tài là gì? Thân thể! Thân thể là nội tài, nay chúng ta gọi là “nghĩa công” (làm việc thiện nguyện - volunteer). Chúng ta phục vụ người khác chẳng cần báo đáp, hoàn toàn là nghĩa vụ. Dùng gì? Dùng chính thân ta để bố thí, dùng sức lực của mình, dùng thời gian của mình, đó gọi là “nội tài”. So với ngoại tài, bố thí nội tài còn lớn hơn nhiều. Ngoại tài: Quý vị có tiền bố thí một chút, đúng là không đáng kể gì, không phải nhọc lòng, chẳng phải tốn sức. Bởi thế lao tâm lao lực thuộc về Nội Tài bố thí, Tài Bố Thí đấy! 

Quý vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật ngày ngày dạy học, dạy dỗ, giảng kinh, thuyết pháp, nội dung là pháp, dùng thân thể biểu diễn cho đại chúng xem, miệng vì đại chúng giải thích, thuyết minh tường tận. Trong khi dạy học bố thí đủ cả ba thứ. Tài bố thí (nội tài bố thí), nhất cử nhất động Phật biểu diễn đều nhằm khải phát giác ngộ cho chúng sanh, mỗi câu mỗi chữ trong ngôn ngữ hoàn toànPháp Bố Thí, khuyên mọi người đoạn ác tu thiện, khuyên mọi người phá mê khai ngộ; đấy chính là vô úy bố thí

Phật suốt đời giáo hóa chúng sanh, chẳng lấy học phí của người đời, chẳng yêu cầu người khác cúng dường, Ngài là tấm gương tốt nhất cho chúng ta. Bởi vậy, tu phước, tu huệ, tu trường thọ như thế đều trọn vẹn. Phàm phu chẳng biết xả kỷ vì người khác, chẳng biết tu ba thứ bố thí. Vì vậy, mạng vận khuyết tài, khuyết trí huệ, lại còn bị quả báo đoản mạng. Quả báo đoản mạng là do đâu? Trong kinh, đức Phật thường nói là do sát sanh hại mạng. Vì thế, Ngũ Giới dạy rất rõ rệt: Chẳng sát sanh! Chẳng giết sẽ được khỏe mạnh, sống lâu; quả báotrường thọ, khỏe mạnh; chẳng trộm được giàu có lớn; chẳng dâm được đoan nghiêm, tướng mạo trang nghiêm; chẳng uống rượu được trí huệ, không mê hoặc, không điên đảo; chẳng vọng ngữ được tin cậy, lời nói được nhiều người tin tưởng, học theo. 

Mỗi một khoa mục tu học đều có quả báo thù thắng. Phàm phu chẳng hiểu đạo lý này, chẳng hiểu chân tướng sự thật, cứ mê hoặc, điên đảo. Những chủng tử trong A Lại Da Thức, chủng tử thiện chẳng hiện hành, chủng tử ác khởi hiện. Vì sao? Do gặp duyên, nghĩ đến ý niệm chẳng thiện! Hành vi chẳng lành, dễ hòng hưởng được vui ư? Tư tưởng chẳng lành, hành vi chẳng lành, nhất định phải chịu khổ, chẳng được vui. “Ngũ Ấm Xí Thạnh Khổ”: Phiền não nơi thân tâm bức bách quý vị, hiện thời gọi là “bị áp lực”, đó là Khổ Khổ

Loại lớn thứ hai là Hoại Khổ. Dùng sự kiện này đức Phật cảnh cáo chúng ta: Dẫu cho mãn nghiệp của quý vị chẳng tệ, trong đời quá khứ tu được chút thiện nghiệp, trong một đời hiện tại này có địa vị, có quyền lực, có quyền thế, có của cải, mãn nghiệp tốt, sung sướng nhỉ! Nhưng quý vị có nghĩ cổ nhân nói: “Lạc cực sanh bi” hay chăng? Vui cực khó gìn giữ, “chẳng tồn tại lâu”, “Lạc là hoại khổ”. Sao thế? Vui đến mức cùng cực, bèn có biến hóa, khổ bèn xảy ra. Chúng ta thường nói là “lạc cực sanh bi”. Cổ nhân nói rất hay, nói cũng nhiều, nhưng mọi người nghe qua rồi thôi, chẳng lưu tâm, thường hay không chú ý, coi thường, lúc hưởng lạc bèn tạo ác nghiệp

Đừng nói gì khác, người đời coi những gì là vui? Nói chung, chẳng ngoài tài, sắc, danh, ăn, ngủ; những điều này dễ khiến tâm tham phát khởi nhất. Nhất là sắc dụcthực dục, ham ăn ngon! Thích ăn ngon chẳng tránh khỏi sát sanh. Quý vị sát hại chúng sanh, ăn thịt chúng, lúc đó cảm thấy rất sướng, có nghĩ tương lai phải đền nợ hay không? Những lời Phật nói trong kinh điển đều là sự thật. Người chết thành dê, dê chết thành người, ăn nuốt lẫn nhau, oan oan tương báo. Mang thân dê là do nghiệp chẳng lành, gặp phải duyên không lành, đọa làm thân súc sanh. Hôm nay gặp phải quý vị, nó chẳng cam tâm tình nguyện cho quý vị ăn thịt. Hiện tại, chúng tôi thường nghe có kẻ nói: “Mạnh ăn thịt yếu là lẽ sanh tồn”. Hai câu này khiến hết thảy chúng sanh lầm lạc. Ai thốt ra câu ấy phải chịu trách nhiệm nhân quả. Hai câu ấy sai lầm. Nếu làm theo hai câu ấy, quý vị phải hiểu là còn hai câu tiếp theo nữa, nhưng quý vị không biết. Hai câu sau đó là gì? “Oan oan tương báo, chẳng lúc nào xong”. Quý vị niệm cả bốn câu ấy, tâm tỉnh giác sẽ được nâng cao; chứ lúc quả báo hiện tiền mới hối thì chẳng kịp nữa. 

Ấn Quang đại sư lão nhân gia suốt đời giáo hóa chúng sanh, Ngài hết sức coi trọng nhân quả báo ứng. Nói đến nhân quả báo ứng, Ngài luôn nhắc đến An Sĩ Toàn Thư, [khen sách đó] giảng nhân quả báo ứng rất thấu triệt, giảng rõ ràng nhất. Kế tiếp, Ngài còn giới thiệu, khuyên người ta nhất định phải đọc Cảm Ứng Thiên Vựng Biên. Đại sư khuyên người đời đọc hai cuốn sách ấy. Sự tình nhân quả báo ứng thiên chân vạn xác (ngàn phần đúng, vạn phần chính xác), quý vị phải lắng lòng quan sát sẽ thấy nhân quả báo ứng luôn hiển hiện sống động quanh chúng ta. Những kẻ mê hoặc, điên đảo không nhận thấy, hết sức đáng sợ, hết sức kinh hãi. Vì thế, người giác ngộ, người hiểu rõ ràng, có đại phước báo, có đại quyền thế thì có chịu hưởng chăng? Không hưởng gì! 

 Tiên sinh Phạm Trọng Yêm là người được Ấn Quang đại sư bội phục nhất. Ông là người đời Tống, làm Tể Tướng, từng làm Nguyên Soái, đúng là xuất tướng, nhập tướng, đại phú, đại quý. Cuộc sống thường ngày trong nhà ông hết sức đơn giản, chất phác. Ông đem tiền tài nuôi sống những gia đình bần cùng khốn khổ, hơn ba trăm gia đình! Nói như bây giờ là “sự nghiệp từ thiện”, ông làm việc đó. Chúng ta thấy trong sách Liễu Phàm Tứ Huấn, tiên sinh Liễu Phàm làm tri huyện Bảo Chi, thâu nhập khá dư giả, nhưng cuộc sống cũng rất đơn giản, tiết kiệm, dùng tiền của dư giúp người nghèo cùng. 

 Qua sách ấy, chúng ta thấy một điều: Trời mùa Đông, vợ ông cho con mặc áo bông do chính tay bà may, chứ không thuê người ngoài làm để đỡ tốn một chút. Thấy vợ dùng bông vải (2) để may áo bông, tiên sinh Liễu Phàm hỏi: “Nhà mình có bông sợi rất nhiều, sao không dùng bông sợi lại dùng bông vải?” Bà vợ đáp: “Sợi bông bán hết rồi, sợi bông quý, bông vải rẻ hơn. Tôi bán bông sợi, mua thêm được mấy kiện bông vải nữa, con có áo mặc, lại còn có thể may áo cho người nghèo mặc”. Quý vị thấy bà ta ôm tấm lòng gì? Niệm niệm nghĩ đến người khổ trong thế gian rất nhiều, niệm niệm nghĩ giúp đỡ những người đó. Tâm ấy chẳng tầm thường. Giúp người khác chẳng cầu hồi báo; quý vị giúp những người nghèo cùng, họ có báo đáp được chăng? Không thể được! Chẳng cầu báo đáp, tích phước đức lớn lao! 

 Thời thời khắc khắc, niệm niệm đều nghĩ đến người khổ sở trong thế gian, xưa nay những ai đọc sách hiểu lý giác ngộ không ai chẳng vậy. Bởi thế nhà họ Phạm, tiên sinh Phạm Trọng Yêm một đời tích được phước đức lớn lao, mãi cho đến hiện tại, con cháu gia đình ở Tô Châu đều tốt lành. Suốt đời Ấn Quang đại sư tôn kính Khổng lão phu tử nhất, kế đó là Phạm Trọng Yêm; khi giảng kinh, thuyết pháp, Sư thường nhắc đến. Họ đều là những tấm gương, là khuôn thước cho chúng ta

 Nay chúng ta hiểu rõ: Hưởng thụ lớn nhất trong đời người là gì? Đọc sách. Thiện sự lớn nhất là giảng học. Đọc sách thánh hiền, truyền cái đạo của thánh hiền, đấy là sự nghiệp thế gian bậc nhất, không gì thù thắng hơn. Nhưng không phải ai cũng có duyên ấy, chúng ta phải hiểu, phải nhận thức rõ ràng. Thật sự hiểu biết rõ ràng, quý vị sẽ nỗ lực tích cực giống như cổ nhân, dũng mãnh tinh tấn, chẳng buông lung

 Nghiêm túc đọc sách thì phải ghi bút ký, đó là gì? Là thành tích mỗi ngày. Nội dung bút ký có thể chia thành hai bộ phận lớn: Một bộ phận là trích yếu những câu kinh điển trọng yếu. Kinh điển quá dài chẳng dễ gì nhớ, nhưng những câu tối trọng yếu phải ghi vào bút ký để đọc cho nhuần. Phần thứ hai là tâm đắc, cảm tưởng. Mỗi ngày quý vị chỉ cần ghi hai loại này. Lâu ngày chầy tháng nghiêm túc nỗ lực làm vậy, năm ba năm sẽ đổi khác, không giống như cũ nữa. Giống như đi học trong trường, phải ghi bút ký, phải viết báo cáo; trên đại học phải viết luận văn, quý vị phải làm thật sự! Nếu chẳng làm theo cách này, cứ hằng ngày nghe, nghe bao nhiêu năm nhưng cái gì cũng không biết. Nghe tai này lọt qua tai khác; bởi thế lâu ngày chầy tháng chẳng thâu thập được gì, chẳng bằng chất phác niệm Phật! Quý vị nghĩ xem có đúng vậy không? Chẳng thật sự đổ công học tập, nhưng quý vị chắc thật niệm Phật, chuyên tu Tịnh nghiệp thì cũng thành tựu chẳng thể nghĩ bàn. 

 Thế Tôn nêu lên Hoại Khổ, nhằm khiến chúng ta tỉnh giác cao độ; đấy là chuyện kinh điển thường nói đến: “Thế gian vô thường, cõi nước mong manh”, thường nghĩ đến Thành - Trụ - Hoại - Không, người hiện thời gọi là “định luật tự nhiên”. 

 Loại thứ ba là Hành Khổ. Hành là gì? Không khổ, không vui. Không khổ không vui là chuyện tốt, sao lại bảo là Khổ? Vì chẳng thể giữ được lâu, vì tánh nó đổi dời, chẳng thể giữ được vĩnh viễn; đó là khổ! Dục Giới khổ nào cũng có đủ. Nếu quý vị tu Thiền Định, tu Tứ Vô Lượng Tâm, sanh vào Tứ Thiền Thiên của Sắc Giới. Tứ Thiền Thiên không có Khổ Khổ, tức Sanh, Lão, Bệnh, Tử, Cầu Bất Đắc, Ái Biệt Ly, Oán Tắng Hội, Ngũ Ấm Xí Thạnh đều không có; họ đã đoạn dục chưa? Thưa cùng quý vị: Họ chưa đoạn! Dục chưa đoạn, làm sao ly dục được? Công năng Thiền Định của họ đã khuất phục được dục khiến nó không còn khởi tác dụng nữa, công phu Thiền Định sâu! Chư thiên Sắc Giớisắc tướng, có thân thể, nhưng không cần ăn uống. Vì thế, Sắc, Danh, Ăn Uống, Ngủ Nghỉ đều chẳng có. Họ chẳng cần ngủ nghỉ, chẳng cần ăn uống, phước báo rất lớn. Họ có cung điện, không có Khổ Khổ, nhưng sao? Có Hoại Khổ! 

 Lúc nào chịu Hoại Khổ? Đến khi thọ mạng quyết định phải chấm dứt, thân thể bị biến đổi, lúc ấy họ cảm thấy rất khổ. Thông thường, họ chẳng biết đến khổ, thật sự vui. Người Sắc Giới hóa sanh, không bị Ái Biệt Ly, không bị chán ghét phải gặp gỡ, vì sao vậy? Người trong cảnh giới ấy đều tu định, đều có công phu Thiền Định, đều có thiện hạnh, tu Từ - Bi - Hỷ - Xả. Chẳng đủ những điều kiện ấy, chẳng thể sanh vào cảnh giới ấy được. Vì vậy, đức Phật đã từng nói đến ba thứ Thiền, đệ tam Thiền chính là thế giới Cực Lạc của thế giới Sa Bà này, sung sướng lắm! Sướng như thế nào? Không khổ, nhưng phải nhớ rõ, đến lúc hết thọ mạng, Hoại Khổ bèn hiện tiền. Bởi vậy, họ có Hoại Khổ, có Hành Khổ; trời Sắc Giới có hai mối Khổ sau, không có mối khổ đầu tiên (Khổ Khổ). 

 Lên đến trời Vô Sắc Giới, Vô Sắc Giới thiên khôngthân thể. Không có thân thể, đương nhiên chẳng cần cung điện lầu gác, không cần thiết! Vì thế, Hoại Khổ cũng không có. Họ không có Khổ Khổ, Hoại Khổ cũng không, thì có khổ gì? Có Hành Khổ. Hành Khổ tức là cảnh giới của họ chẳng thể giữ vĩnh viễn, nó có thời gian tánh. Lên tầng trời cao nhất là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thiên, đức Phật nói thọ mạng của họ là tám vạn đại kiếp. Đến khi thọ mạng hết, vẫn phải đọa lạc. Hết lối đi lên chỉ còn cách đọa xuống. Bởi đạt đến cảnh giới ấy, họ đều lầm tưởng mình đã thành Phật, tưởng mình đã chứng đắc Đại Bát Niết Bàn. Thọ mạng còn có lúc hết là không được rồi! Cổ thánh tiên hiền, chư Phật, Bồ Tát dạy “bát Niết Bàn là giả”, các Ngài nói bất sanh bất diệt, vì sao mình còn có sanh diệt? Nguyên do như sau: Vừa khởi lên ý niệm báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, hủy báng Tam Bảo; do tội nghiệp ấy đọa A Tỳ địa ngục, đó gọi là “trèo cao ngã đau”. Bò lên tới đỉnh điểm, ngã lăn xuống, rớt tõm vào A Tỳ địa ngục. Vì thế, đức Phật ba cõi đều khổ. Kinh Pháp Hoa dùng tỷ dụ: “Tam giới hỏa trạch” (ba cõi như nhà bốc lửa). 

 Trái lại, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới những khổ ấy đều chẳng có. Chúng ta phải hiểu như vậy. Từ Vân đại sư từng nói (Ngài là người sống vào thời Càn Long nhà Thanh): “Cõi này (tức thế giới Sa Bà) so với thế giới Cực Lạc có mười thứ khó - dễ. Nơi thế giới chúng ta có mười điều khó, Cực Lạc thế giới có mười điều dễ”. Bọn họ chẳng có khổ, tức là “hưởng các sự vui”. 

 Thứ nhất, không có nỗi khổ tội báo. Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới không có ác báo, vì sao không có ác báo? Không có cơ hội hưởng thọ để tạo ác nghiệp; cũng như nói người ở Tây Phương Cực Lạc thế giới nhất định không có ác niệm, nhất định chẳng nói lời ác, nhất định chẳng tạo ác nghiệp. Ba nghiệp thân - ngữ - ý thuần tịnh thuần thiện, làm sao có khổ báo? Dẫu là đới nghiệp vãng sanh, nhưng đó là mang theo chủng tử của ác nghiệp đời quá khứ. Chúng ta biết chủng tử nếu chẳng gặp duyên sẽ chẳng thể khởi hiện. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có ác duyên, cho nên những chủng tử mang theo ấy vĩnh viễn chẳng thể hiện hành được. Tức là trong hoàn cảnh Tây Phương Cực Lạc thế giới, hết thảy người, sự, vật đều thuần thiện thuần tịnh. Chúng ta mong mỏi vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, không thể không hiểu sự tình này. Phải tu thuần thiện thuần tịnh ngay từ bây giờ, há còn đợi đến lúc nào nữa đây? 

 Tâm thuần tịnh, tu tâm thanh tịnh, chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi, chẳng để mảy may bất tịnh xen tạp, quyết định chẳng vướng ô nhiễm. Tu tâm thanh tịnh bằng cách nào? Phải buông xuống vạn duyên. Trong thế gian này tùy duyên cho qua ngày tháng, không tranh với người, không cầu nơi sự, tâm quý vị mới thanh tịnh được. Nếu quý vị phải tranh, phải cầu sẽ chẳng thể thanh tịnh. Có đồng học hỏi: “Tôi tranh đấu với chính mình là đúng hay sai?” Tranh đấu với chính mình tâm đã chẳng thanh tịnh, huống hồ tranh cùng người khác? Tất nhiên phải buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chính mình, hết thảy thuận theo sự dạy răn của đức Phật, tùy thuận những giáo huấn trong kinh luận thì mới có thể thật sự thoát ly biển khổ Sa Bà, chẳng tạo nghiệp nữa. Chẳng những không tạo ác nghiệp, ngay cả thiện nghiệp cũng không tạo. Vậy thì chúng ta có cần đoạn ác tu thiện không? Cần chứ! Đoạn ác tu thiện chẳng phải là vừa tạo thiện nghiệp vừa đoạn ác nghiệp hay sao? Đúng rồi, đó là Sự. Về mặt sự thì phải làm như vậy, nhưng trong tâm chẳng chấp trước

 Đoạn ác chẳng phải là đoạn ác về mặt hình tướng, tu thiện chẳng phải là tu thiện trên mặt hình tướng. Tâm quý vị thanh tịnh; tâm tịnh cõi Phật tịnh, đấy là điều kiện hết sức quan trọng để vãng sanh. Lục Tổ Đàn Kinh nói: “Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần?”, kinh Kim Cang nói: “Phàm những gì có tướng đều là hư vọng”. Đâu đâu cũng đều cảnh tỉnh chúng ta, khởi tâm động niệm là trật rồi. Chúng ta đoạn ác tu thiện, đoạn ác là tiêu nghiệp chướng, tu thiệnvun đắp phước huệ, chẳng để lại dấu tíchthù thắng. Để lại dấu tích thì sao? Chẳng thể ra khỏi lục đạo; quý vị đoạn ác chẳng đọa ba đường ác, tu thiện sanh vào ba thiện đạo, chẳng phải là chuyện dễ! Vì thế, phải thông thuộc kinh giáo, phải hiểu thấu tường tận thì chính mình mới là người hiểu rõ ràng, mới thật sự có thể liễu sanh tử xuất tam giới. A! Bây giờ đã đến giờ rồi. 
 
 

*
 
 

 Chư vị đồng học! 

 Chúng ta lại tiếp tục phần “thọ chư lạc” (hưởng các sự vui). Ở trên đã nói sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng những không tạo ác nghiệp mà ngay đến ác niệm cũng chẳng sanh. Đấy chính là hoàn cảnh tốt thuộc nơi ấy, thánh hiền đông đảo, đều là thượng thiện nhân cùng họp mặt một chỗ. “Thượng thiện” là Đẳng Giác Bồ Tát, bậc Địa Thượng Bồ Tát rất nhiều. Những gì lục căn quý vị tiếp xúc đều là thuần thiện thuần tịnh; vì thế nhất định chẳng có ác duyên, những chủng tử tập khí mang theo trong A Lại Da thức của quý vị không có gì để dẫn khởi phát xuất cả. Ở nơi ấy, định lực dần dần thành thục, mở mang trí huệ, phiền não tự nhiên chuyển thành Bồ Đề, chuyển phiền não thành Bồ Đề! 

 Thứ hai, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng thoái chuyển, dẫu người sanh trong Hạ Hạ phẩm thuộc Phàm Thánh Đồng Cư độ cũng đều viên chứng ba thứ Bất Thoái, “không thoái chuyển trong việc cầu Tịch Diệt, tu đạo không chướng ngại”. Cầu Tịch Diệt: Tịch DiệtĐại Bát Niết Bàn, thanh tịnh tịch diệt, đấy là mức độ tu hành cao nhất. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới là thấp hơn mức độ ấy một chút, vì sao? A Duy Việt Trí Bồ TátVô Sanh Pháp Nhẫn Bồ Tát. Trong bài kệ Hồi Hướng, ta thường niệm “hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh”, đấy chính là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Cao hơn nữa là quả địa Như Lai, tức Tịch Diệt Nhẫn. Bởi vậy, cầu Phật quả viên mãn rốt ráo, chỉ có tiến chứ không lùi sụt, chẳng giống như những thế giới khác, thế giới Sa Bà của chúng ta đây dĩ nhiên không cần phải nói nữa, tiến thì ít, lui thì nhiều, chẳng thể thành tựu dễ dàng! 

 Nói đến tu đạo, tu hành, chướng duyên rất nhiều. Bao nhiêu người tu hành chúng ta vừa phát tâm, giống như người chạy đua, nhớm chân từ mức xuất phát, có người vọt lên trước, có người tụt lại đằng sau, có người bị loại. Do nguyên nhân nào? Quá nhiều chướng duyên chướng ngại mình. Có người chướng ngại ta, có sự chướng ngại ta, có vật chướng ngại ta, lại còn oán thân trái chủ chướng ngại ta, hữu hình, vô hình rất nhiều. Đó là chướng duyên. Ai có thể vượt khỏi những chướng duyên ấy? Ai thành tựu được? Chẳng có gì khác cả! Một dạ hướng về đạo! Ngày ngày đọc kinh, ngày ngày nghiên cứu giáo pháp, không biếng nhác một ngày nào, tất cả chướng duyên chẳng cần quan tâm đến, cốt sao tâm ta nơi đạo, hạnh ta nơi đạo. Tự mình chú ý quán sát, tư duy, nếu tâm hạnh mình chẳng rời khỏi đạo, chẳng trái nghịch sự giáo huấn của Phật, tất cả hết thảy chướng duyên chẳng quan tâm đến là được! Ngàn vạn phần chẳng được dùng tinh thần, thời gian để nghiên cứu cách đối phó chướng ngại. Nếu làm vậy, chướng ngại càng lớn. 

 Chẳng hạn như người ta hủy báng mình, quý vị muốn tìm cách trả đũa, chẳng phải tự mình chuốc phiền ư? Như thế thì sao? Một khi có ý niệm ấy, tâm quý vị đã trái nghịch đạo nghĩa, Phật chẳng dạy chúng ta trả đũa! Phật dạy chúng ta phương pháp nào? Mặc Tẫn. Mặc Tẫn nghĩa là gì? Hoàn toàn không đếm xỉa đến, anh hủy báng cứ việc hủy báng, tôi đi đường tôi. Giống như anh đấm tôi, tôi không phản kháng, cái đấm đó như không. Người ta hủy báng, mình liền trả đũa. A! Vậy thì đôi bên đập lộn. Bị chửi không trả miếng, bị đánh không đập lại, để tâm nơi đạo, hạnh dốc nơi đạo, dũng mãnh tinh tấn, nói thật ra, việc đó khó lắm! Người tầm thường chẳng nhẫn được. Khó nhẫn mà nhẫn được, khó hành mà hành được thì mới đi trên đường Bồ Đề được! Càng đến cửa ải quan trọng, càng gặp nhiều chướng duyên nghiêm trọng, chúng ta phải dùng những chướng duyên ấy để khảo nghiệm chính mình. 

 Hiện tại, chúng ta đã đạt đến mức độ công phu ấy thì phải vượt được cuộc khảo thí ấy. Bởi vậy, chướng duyên chẳng có gì là xấu. Trong kinh giáo, đức Phật thường dạy chúng ta: Thế gian, xuất thế gian chẳng có gì là đúng hay sai tuyệt đối cả. Cát - hung - họa - phước do đâu? Nói thật ra, đều do một niệm của chính mình. Một niệm của chính mình “chánh” sẽ hóa hung thành cát, chuyển họa thành phước, có gì không tốt đâu? Công phu tu hành của quý vị hữu dụng, khởi tác dụng. Nếu quý vị chẳng nhẫn được, có một niệm sân hận, có một niệm báo thù, sẽ bị thoái chuyển một mức rất lớn, quý vị bị đào thải khỏi đường Bồ Đề. Người như vậy chẳng phải chỉ là 99% đâu nhé, không phải vậy! Chỉ sợ là trong một ngàn người, trong một vạn người, người thật sự có thể đột phá chỉ là một phần vạn; nói thật ra còn chưa được một phần vạn nữa cơ đấy! 

 Quý vị nghĩ xem: Người học Phật nếu thật sự là một phần vạn [đột phá được] mà người học Phật chẳng ít, có đến trăm vạn, ngàn vạn; nếu là một phần vạn, thì người thật sự có thành tựu cũng được vài trăm, cũng có thể cả ngàn người, đâu được như vậy đâu! Do đó, quý vị mới hiểu chuyện này rất khó, phải hàng phục phiền não tập khí của chính mình. Chúng tôi hết sức may mắn, nếu quý vị hỏi vì sao chúng tôi có thể hàng phục được phiền não tập khí? Chẳng có gì khác cả, ngày ngày đọc kinh, ngày ngày giảng kinh, ngày ngày nghiên cứu, toàn bộ tinh thần tâm lực đều đặt nơi kinh giáo. Do vậy không có tinh thần, không có thời gian để quan tâm đến gì khác, thật sự là vậy. Chẳng những không có thời gian quan tâm đến thứ gì khác mà cũng chẳng có tinh thần. Rất nhiều đồng tu viết thư cho tôi, tôi không có thời gian đọc. Bởi thế, tôi hay khuyên mọi người đừng gởi thư cho tôi, tôi thật sự chẳng muốn xem. 

 Vô tình giở sách cũ thấy thư kẹp trong đó, bì thư chưa xé, mở ra xem, đại khái là bảy tám năm trước, quên hết sạch cả! Bởi vậy, tôi hy vọng mọi người đọc kinh, niệm Phật. Nếu có vấn đề thì niệm Phật nhiều, đọc kinh nhiều sẽ tự nhiên hiểu ra. Việc tốt bậc nhất trong pháp thế gian lẫn xuất thế gianđọc kinh, niệm Phật, vì người khác diễn nói, trong kinh, đức Thế Tôn gọi là “đọc tụng thọ trì, vì người diễn nói”. Đấy chính là việc tốt lành bậc nhất, thiện hạnh bậc nhất trong các pháp thế gian, xuất thế gian, thuần tịnh thuần thiện. Thế pháp, xuất thế pháp đều chẳng nhiễm trước, đấy mới thật sự là đại tự tại. Dẫu chẳng đạt được tự tại, nhất định đạt được tiểu tự tại. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tu hành chẳng có chướng ngại, ở bên ấy không có chướng duyên. 

 Do vậy, đức Thế Tôn mới giới thiệu cho chúng ta biết “chúng sanh cõi ấy”, chúng sanh cõi ấy đều là những người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, họ chẳng có các sự khổ, “chỉ hưởng các sự vui”. Những niềm vui trong các sự vui ấy rất nhiều, chỉ nêu lên hai điều: Một là chẳng thoái chuyển, hai là không có chướng ngại, “nên gọi là Cực Lạc”. 
 
 

6.3.1.2.2. Địa lợi chi lạc (sự vui nơi hoàn cảnh cư trú)
 
 

 Xem tiếp đoạn thứ hai, đoạn thứ hai là “địa lợi chi lạc”. Bốn câu trên là nói tổng quát, phần tiếp theo cho biết: Rốt cuộc cõi ấy có những sự vui nào. “Địa lợi chi lạc” là sự vui về mặt cư trú, sự vui nơi hoàn cảnh cư trú. Chúng ta hãy đọc kinh văn: 

 

 “Hựu Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn, thất trùng la võng, thất trùng hàng thọ, giai thị tứ bảo, châu táp vi nhiễu. Thị cố bỉ quốc danh vi Cực Lạc” 

 (Lại này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc, bảy tầng lan can, bảy tầng lưới mành, bảy tầng hàng cây, đều bằng bốn báu, bao quanh trọn khắp. Vì thế, cõi ấy tên là Cực Lạc)
 
 

 Đoạn này nói đến địa lợi. “Chúng bảo lan thọ” (lan can, cây cối bằng các thứ báu), sự vui về mặt địa lợi. “Bảy tầng biểu thị bảy khoa đạo phẩm, còn biểu thị ý nghĩa viên mãn. Tứ bảo biểu thị bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh”. Ý nghĩa biểu pháp trong đoạn kinh văn này, ta nhất định phải hiểu. Đức Phậtchúng ta giảng kinh, thuyết pháp trọn chẳng ngoài những ý này. Bảy khoa Đạo Phẩm chính là ba mươi bảy Đạo Phẩm. Ba mươi bảy Đạo Phẩm chia thành bảy loại lớn, những môn này các đồng học đã biết rồi: Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Chánh Đạo. Khoa là loại, nghĩa là ba mươi bảy Đạo Phẩm xếp thành bảy loại. Những Đạo Phẩm này thông cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, Hiển lẫn Mật, cả Tông lẫn Giáo, dùng ba mươi bảy Đạo Phẩm này đại diện cho toàn bộ Phật pháp

Do đây biết rằng: Chẳng riêng mình đức Phật thuyết pháp, mà sáu trần cũng đều thuyết pháp, biểu thị pháp! Biểu thị ba mươi bảy Đạo Phẩm, có gì không thuyết pháp? Tình và vô tình thảy đều thuyết pháp. Quý vị nghĩ thử xem, trong hoàn cảnh ấy, quý vị có thoái chuyển được chăng? Chẳng thể được! Không có chướng duyên! Ở bên chúng ta đây, người, sự, hoàn cảnh vật chất thường xuyên gây chướng ngại, Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng vậy! Số Bảy biểu thị ý nghĩa viên mãn, bởi vậy, đọc kinh này nhất định phải hiểu ý nghĩa. Có rất nhiều người đọc đến đoạn kinh văn này, bảo tôi: 

- Thưa pháp sư! Thế giới Cực Lạc hay ở chỗ nào? Chỗ nào cũng giống hệt nhau. Đâu đâu cũng là bảy tầng lan thuẫn, bảy tầng lưới mành, chỗ nào cũng giống vậy, có đẹp mắt gì đâu? Chẳng như thế giới chúng ta. Tới đâu cũng giống hệt nhau, chẳng ra nghĩa lý gì! Xem một chỗ xong đâu còn muốn đi coi chỗ khác! 

Họ chẳng biết Bảy chẳng phải là con số, con số ấy biểu thị pháp, tượng trưng cho viên mãn. Viên mãn? Thế nào là viên mãn? Họ thích thấy như thế nào bèn biến hóa như thế đó thì mới gọi là “viên mãn”! Thật đó, hoàn cảnh cư trụ của Tây Phương Cực Lạc thế giới thuận theo lòng muốn, quý vị nghĩ đến điều gì liền biến ra hệt như vậy. Y phục cũng như vậy, thức ăn cũng như vậy, tuyệt đối chẳng cần đến sức người lo liệu. Hoàn cảnh cư trụ chẳng cần dùng đến sức người xây đắp, tạo dựng, mà được biến hóa ra, tùy thuận lòng muốn nên gọi là “viên mãn”. Quý vị thấy trong kinh có nói, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đều có nói, quý vị thích nhà cửa to, nhà cửa liền biến ra to. Quý vị thích nhà cửa hẹp, thích ở trong phòng nhỏ, phòng bèn rất nhỏ. Quý vị thích nhà ở trên mặt đất, liền ở trên mặt đất; thích nhà trên không, nhà cửa liền bay lên không trung. 

 Thuận theo lòng muốn, đúng là tự tại như ý, đấy mới là sung sướng thật sự, quyết định chẳng trở ngại người khác, chẳng xung đột quyền lợi người khác, không hề có! Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có lợi hại, chẳng có xung đột, chỉ có tôn trọng lẫn nhau, cùng nhau hợp tác. Chẳng có phiền não, chẳng có vọng tưởng, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, tốt như thế đó, hoàn cảnh sanh hoạt thù thắng như thế đó! Bởi vậy, con số Bảy ấy biểu thị viên mãn. Bảy có nghĩa là bốn phương, trên, dưới, chính giữa; Bảy có nghĩa là như vậy. Đấy chính là viên mãn, chẳng có chút nào khuyết hãm. 

 “Bốn báu” cũng là biểu pháp. Báu là gì? “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh” là báu. Thường: vĩnh hằng bất biến, chẳng giống như thế giới chúng ta vô thường. Đây là chuyện mọi người hiện tại đều biết. Lúc nhỏ, chúng tôi đọc sách thấy nói “thương hải tang điền” (biển xanh ruộng dâu), chẳng biết nghĩa là gì! Mấy năm gần đây thiên tai nhân họa quá nhiều, một trận đại địa chấn (động đất), không còn núi nữa, ruộng nương cũng không còn nữa, hồ ao cũng không còn nữa, đến lúc ấy mới thật sự hiểu thế nào là “thương hải tang điền”. 

Thuở bé, tôi sống ở nông thôn, thôn trang không lớn, thôn trang nhỏ thôi, chỉ có mười mấy gia đình. Trước mặt thôn trang là một cái hồ, lúc nhỏ chúng tôi thường chơi bên hồ, nhặt vỏ ốc, bắt cá. Chúng tôi xa quê nhà năm mươi năm, lúc trở về lần thứ nhất, vừa đúng năm mươi năm. Lúc trở về, hồ không còn nữa, cạn khô rồi. Nay hồ đã biến thành đất canh tác, biến đổi quá nhiều! Tôi ra đi năm hai mươi tuổi, trong năm đó có trở về một lần, ở lại hai tháng, không thấy thay đổi gì nhiều. Trở về lần này, hoàn toàn khác hẳn, rất khác với những gì trong ký ức. Đấy là vô thường! Thân thích, bè bạn chơi chung lúc nhỏ không còn ai nữa. Thấy rồi vô hạn cảm khái, hơn bảy mươi năm chỉ là một cái khảy ngón tay. Nghĩ đến chuyện thuở xưa tợ hồ mới vừa hôm qua! Đời người há còn có bảy mươi năm nữa ư? Chẳng thể! Vì vậy, trong kinh đức Phật dạy chúng ta chân tướng sự thật: “Thế gian vô thường, cõi nước mong manh”. Cõi nước còn mong manh, cái thân này thấm vào đâu? 

Quý vị sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng giống như vậy, Tây Phương Cực Lạc thế giớichân thường, bất biến! Nếu chúng ta hỏi vì sao cõi ấy bất biến, còn tại sao cõi chúng ta lại biến ư? Nơi này bị biến đổi là do ta có vọng niệm, ý niệm sanh diệt trong từng sát-na, niệm niệm chẳng trụ. Hoàn cảnh biến đổi theo ý niệm; gần đây chúng tôi càng thể hội ý niệm này sâu hơn qua thí nghiệm kết tinh nước của một khoa học gia Nhật Bản. Nước là một loại vật chất thuộc hoàn cảnh, biến hóa theo ý tưởng của chúng ta, trong từng sát-na chẳng trụ. Nếu quý vị hỏi vì sao hoàn cảnh của Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng biến đổi ư? Tất cả cư dân trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, trên từ A Di Đà Phật, dưới đến những ai vãng sanh trong Hạ Hạ Phẩm thuộc Phàm Thánh Đồng Cư độ, đều chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Lìa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nên bất biến

 Vì vậy, kinh Hoa Nghiêm nói “duy tâm sở hiện”: Chỉ biến hiện bởi tâm. Chín pháp giới chỉ do thức biến, Cực Lạc do tâm hiện, chẳng phải do thức biến. Bởi thế, cõi ấy thường hằng là hợp lý! Do đây biết rằng: Chỉ cần chúng taý niệm, khởi tâm động niệm sẽ chắc chắn phải biến. Lúc biến chính là vô thường. Lúc nào không có vọng niệm, không có vọng tưởng, hoàn cảnh bên ngoài sẽ chẳng biến đổi. Đạo lý này chúng ta có thể hiểu được. Chúng ta thấy Tây Phương Cực Lạc thế giớiý niệm hay không? Nói thật ra, do oai thần bổn nguyện của Phật A Di Đà gia trì, chư thượng thiện nhân làm bạn đạo đồng tham của chúng ta, chúng ta có muốn khởi tâm động niệm cũng không được. Nhất Chân pháp giới mà! 

 “Ngã” có nghĩa là gì? Ngã nghĩa là chủ tể, tự mình làm chủ được. Ngã có nghĩa là tự tại, tự mình được đại tự tại, tự mình làm chủ. Chúng ta ở đây chẳng thể làm chủ. Chẳng hạn như: Ta không muốn già, nhưng cứ già dần đi, chẳng làm chủ được! Mình không muốn sanh bệnh, cứ bệnh hoài, việc trái nghịch với tâm. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, mình làm chủ được. Thân thể muốn to liền biến thành cao to, muốn nhỏ một chút liền nhỏ đi, làm chủ được! Nhà cửa mình ở như tôi vừa mới nói, muốn to bèn to, mong nhỏ bèn nhỏ, nghĩ thế nào biến ra thế nấy, thuận theo lòng muốn, chính mình làm chủ được. Qua thế giới khác lễ Phật, nhà cửa mình ở cũng tùy thân, chẳng cần ra khỏi nhà, nhà cửa bay đi được, nhà cửa cũng là công cụ giao thông. Đấy chỉ là nói về Phàm Thánh Đồng Cư độ! Đức Thế Tôn giới thiệu cõi Tây Phương Cực Lạc thế giới cho chúng ta, hầu như toàn là cảnh giới của Phàm Thánh Đồng Cư độ, khiến cho quý vị thấy nó tốt đẹp đến thế đó. 

 Nếu sanh về Thật Báo độ, Thật Báo độ mỗi ngày đều tham phỏng mười phương hết thảy chư Phật Như Lai, có cần phải đi qua đó tham phỏng, đi qua rồi trở về hay không? Chẳng cần. Vì sao? Đạt đến cảnh giới ấy, thời gian, không gian không còn nữa. Chỉ cần muốn thấy một đức Phật nào, đức Phật ấy liền ở ngay trước mặt. Ngài giảng kinh, thuyết pháp trong thế giới kia, dường như ta đến trong đạo tràng của Ngài, chứ thật ra, ta bất động! Không có trước - sau, không xa - gần. Không trước - sau là thời gian không có, quý vị có thể thưa hỏi quá khứ Phật, cũng có thể thưa hỏi vị lai Phật. Tam thế chư Phật đều ở ngay trước mặt, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Đó là Ngã! 

 Tam Học Giới - Định - Huệ tăng thượng, mỗi ngày trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sanh, khoái lạc khôn sánh! Đó là Lạc. Người thế gian có lạc, nhưng chẳng thanh tịnh; người trong Cực Lạc thế giới có lạc, đại lạc thanh tịnh. Thanh tịnh như thế nào? Cõi lòng chẳng tơ hào nhiễm trước, chân tịnh! Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có vào trong lục đạo hay chăng? Vào chứ, thường vào để giúp đỡ lục đạo chúng sanh, chiếu cố lục đạo chúng sanh, giáo hóa lục đạo chúng sanh. Tâm địa thanh tịnh, quyết định chẳng tiêm nhiễm. Trong thiên đường tuyệt đối chẳng tham luyến, trong địa ngục quyết định chẳng phiền não. Trong tâm họ, mười pháp giới bình đẳng. Người trong lục đạo mười pháp giới có khổ vui, có thọ; Phật, Bồ Tát đến giáo hóa chúng sanh không có khổ vui. Tuy không khổ vui, nhưng có lúc làm bộ tợ hồ có khổ vui. Vì sao? Để an ủi chúng sanh; chẳng muốn chúng sanh lấy làm lạ: “Sao Ngài khác với mình?” Nếu vậy là chưa khéo dạy rồi! 

 Bởi Phật, Bồ Tát hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, nói chung là khiến cho hết thảy chúng sanh cảm thấy Phật, Bồ Tát chẳng khác mình lắm, có vậy mới hòng kích phát chí hướng của họ: “Họ thành tựu được, sao mình không thể?” Kích phát đạo tâm kẻ đó. Do đây biết rằng: Không gì chẳng nhằm giáo hóa chúng sanh, không gì chẳng nhằm giúp đỡ chúng sanh. Thật ra, chẳng những mảy trần chẳng nhiễm, mà còn chẳng đến, chẳng đi, cùng một lúc có thể phân thân vô lượng vô biên, cùng một lúc có thể trụ trong vô lượng vô biên pháp giới, chân lạc, chân tịnh. Bốn tịnh đức Thường - Lạc - Ngã - Tịnh thế gian không có, thế gian vô thường, ba cõi thế gian đều khổ, nào có vui chi? Khổ Khổ, Hoại Khổ, Hành Khổ. Thế gian vô ngã, chỉ có giả ngã, chẳng làm chủ, chẳng tự tại. Thế gian chẳng thanh tịnh, khởi tâm động niệm đều nhiễm ô, tự tư tự lợi, tham, sân, si, mạn. Đấy là chân tướng sự thật. Tiếp đó là: 

 “Tự đức thâm, tha hiền biến”: đức của chính mình càng ngày càng sâu, càng ngày càng rộng, đức sâu, trí rộng; đồng học với mình đều là thánh hiền. “Thánh” là địa thượng Bồ Tát. “Hiền” là Tam Hiền. Tất cả những ai quý vị tiếp xúc đều là Tam Hiền Thập Thánh Bồ Tát. Tam Hiền Thập Thánh? Thập Thánh chẳng cần phải nói nữa, ở Tây Phương Cực Lạc thế giới, địa vị Tam Hiền đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, đấy là oai thần bổn nguyện của Phật A Di Đà gia trì, chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta nghĩ coi: Tìm đâu ra hoàn cảnh sanh hoạt tu học như thế? Mười phương thế giới, trong các thế giới của chư Phật có chứ không phải là không có; nhưng vấn đề là quá nhiều điều kiện, quý vị không đến đó được nổi! 

Muốn về Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng khó, các thế giới khác quý vị phải đoạn Hoặc mới đến được. Nói cách khác, Kiến Tư phiền não đoạn rồi mới có thể sanh về Phương Tiện Hữu Dư độ của các đức Phật khác. Phương Tiện Hữu Dư Độ là gì? Chúng ta thường nói đến Tứ Thánh Lục Phàm, lục đạoPhàm Thánh Đồng Cư độ, bốn thánh pháp giới là Phương Tiện Hữu Dư độ, vượt khỏi mười pháp giới. Vượt khỏi mười pháp giớiNhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới là Thật Báo Trang Nghiêm độ, phải làm sao mới đến được? Phải đoạn Kiến Tư, phải đoạn Trần Sa, Vô Minh, tối thiểu là phá được một phẩm vô minh. Quý vị có đủ điều kiện ấy thì mới có thể sanh vào Thật Báo độ của chư Phật trong các thế giới khác. 

Tây Phương Cực Lạc thế giới thù thắng ở chỗ nào? Phàm Thánh Đồng Cư độ và Thật Báo Trang Nghiêm độ không hai không khác, đức Thế Tôn nói mười phương thế giới chưa từng nghe nói qua [điều ấy]. Trong hết thảy các cõi Phật, chỉ có cõi Phật A Di Đàđặc biệt, bốn cõi cùng hợp lại. Các cõi Phật khác, bốn cõi đều phân biệt, chẳng hợp lại. Thế giới Sa Bà này của Thích Ca Mâu Ni Phật có bốn cõi: Phàm Thánh Đồng Cư độ, Phương Tiện Hữu Dư độ, Thật Báo Trang Nghiêm độ, Thường Tịch Quang độ, có hết, nhưng không ở cùng một chỗ! Cực Lạc thế giới chỉ ở cùng một chỗ, chúng ta phải biết như vậy. Chúng ta lại xem tiếp đoạn kế: 

“Là nhân duyên chân thật của Cực Lạc”. Câu này rất quan trọng, đây là tổng kết. Nhân duyên thật sự của cõi Cực Lạc được câu này nêu lên rất chánh xác, hiển thị điều gì? Y báo chuyển theo chánh báo. Tự quý vị không có phiền não, lại có đạo đức, có trí huệ, những người khác đều là hiền thánh, thì nói cách khác, chính quý vị cũng là hiền thánh. Đối với hoàn cảnh cư trú của hiền thánh, ắt quý vị biết hoàn cảnh ấy sẽ biến thành như thế nào? Thành cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta xem tiếp đoạn dưới: 

“Những trang nghiêm như vậy, cõi Đồng Cư là do thiện nghiệp tăng thượng cảm ứng” - thiện nghiệp tăng thượng ở đây là niệm Phật, “cũng do Viên Ngũ Phẩm Quán cảm thành”. Viên là Viên Giáo, Viên Ngũ Phẩm Quán là Ngũ Phẩm Quán của Viên Giáo. Ngũ Phẩm Quán sẽ giảng ở phần dưới, bao gồm “tùy hỷ, đọc tụng, giải nói, kiêm hành lục độ, chánh hành lục độ”, đều là tu hành cả. Nếu chúng ta thắc mắc: Kẻ Hạ Hạ Căn vãng sanh, những trường hợp như vậy rất nhiều, thời cổ cũng có, hiện tại cũng có, họ không biết chữ, chưa từng đọc sách, cũng chưa từng nghe kinh, làm sao có thể hiểu được những điều trên? Thế nhưng, bản thân người ấy biết được nhân sanh rất khổ, có người dạy họ niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ lìa khổ được vui, họ tin là thật, như được của báu, chết lòng trọn ý niệm một câu A Di Đà Phật. Họ thành công, thật sự vãng sanh. Vì sao vậy? Đó là như phần trên đã nói: “Do thiện nghiệp tăng thượng cảm thành”. 

Quý vị phải hiểu thế nào là thiện nghiệp tăng thượng? Niệm A Di Đà Phậtthiện nghiệp tăng thượng. Quý vị nghĩ xem: Người nhất tâm niệm A Di Đà Phật, Thập Thiện, Ngũ Giới đều trọn đủ, họ có còn ý niệm hại người hay chăng? Chẳng có ý niệm hại người, há còn sát sanh ư? Chẳng thể nào! Họ cũng chẳng trộm cắp, cũng chẳng dâm dục, cũng chẳng nói dối, họ giữ được hết những giới ấy. Họ hoàn toàn buông thế giới này xuống, không tham, không sân, không si. Không si là niệm một câu Phật hiệu suốt ngày từ sáng đến tối, họ chẳng ngu si đâu, thiện nghiệp tăng thượng đấy! 

Người căn tánh trung thượng như Trí Giả đại sư đã thị hiện cho chúng ta thấy, Ngài là tổ sư tông Thiên Thai, thị hiện cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Ngài là pháp sư vừa giảng kinh thuyết pháp, lại còn lãnh đạo đồ chúng, lúc mất đồ đệ hỏi: “Sư phụ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đạt phẩm vị nào nơi đó?” Ngài bảo cùng đại chúng: “Vì ta lãnh chúng, lãnh chúng phải quản sự, bận tâm, chẳng thể chuyên tinh; vì thế chỉ vãng sanh trong Ngũ Phẩm Vị”. Ngài thị hiện vãng sanh trong Ngũ Phẩm Vị. Ngũ Phẩm Vị là địa vị gì? Là Phàm Thánh Đồng Cư độ. Chúng ta biết Trí Giả đại sưThích Ca Mâu Ni Phật tái lai, chẳng phải là phàm nhân! Ở Nhật Bản cũng nói như vậy. Năm ngoái, tôi sang thăm Nhật Bản, thấy người Nhật vẫn thờ tượng Trí Giả đại sư. Lúc tôi tham bái, tôi bảo những pháp sư Nhật: “Theo truyền thuyết Trung Quốc, Trí Giả đại sưThích Ca Mâu Ni Phật hóa thân”. Họ bảo người Nhật cũng nói như thế. Thị hiện cho chúng ta xem! Vì sao? Phương pháp tu hành cao không làm được, cũng không sao! Tùy hỷ quý vị có làm được chăng? Chẳng khó đâu, tùy hỷ công đức!

Thông thường, “tùy hỷ” để đối trị một món phiền não rất nghiêm trọng của chúng ta, món gì vậy? Ganh ghét. Nếu quý vị ganh ghét sẽ không tùy hỷ được. Lúc tùy hỷ tâm ganh ghét không có. Ganh ghét phát xuất từ sân khuể. Ai không có tâm ganh ghét, chắc chắn tâm sân khuể rất mỏng yếu dù chưa đoạn hết, tâm ấy rất yếu ớt. “Đọc tụng” là ngày ngày chẳng lìa Phật. Vậy thì người ấy có thể tùy hỷ, có thể đọc tụng. “Giải nói” là vì người khác diễn nói. “Kiêm hành lục độ” là tùy hỷ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, Bát Nhã. “Chánh hành lục độ” là kiêm hạnh lẫn chánh hạnh đều có. “Chánh hạnh” là nhất tâm nhất ý vì chúng sanh, “kiêm hạnh” là tùy duyên, gặp việc gì bèn tùy hỷ làm, tùy duyên làm, chánh hạnh là chủ động làm. 

Chẳng hạn như tu Bố Thí, trông thấy người ta làm những việc bố thí gì, chúng ta cũng tùy hỷ một chút, đó là Kiêm Hành. Nếu tự mình phát khởi làm chuyện gì tốt cho xã hội, chủ động làm, đấy là Chánh Hành. Kiêm tu, chánh hành đều phải làm. Chẳng hạn như chính quyền thành phố Đồ Văn Ba (Toowoomba), ông thị trưởng muốn xướng xuất lập trung tâm chống nghiện ngập cho thanh thiếu niên, đó là chuyện tốt, chúng ta tùy hỷ bố thí. Đấy là kiêm tu Lục Độ. Nếu chúng ta thấy trong xã hội có nhiều thanh thiếu niên lầm lạc như thế, chúng ta phải phát động xây dựng một trung tâm cai nghiện, thì là chánh tu. Kiêm và Chánh có nghĩa là như vậy. Bây giờ hết giờ rồi! 
 
 

*
 
 

Chư vị đồng học! 

“Nhân dân biểu thị nhân duyên sanh pháp, Thanh Văn tức là Không, Bồ Tát tức là Giả, Phật tức là Trung; viên dung vô ngại vậy!” Đoạn này rất trọng yếu. Trong cảnh giới Như Lai, chẳng những chúng sanh bình đẳng, không những hữu tình chúng sanh mà vô tình báo độ cũng là bình đẳng. Vì thế, gọi chung là “Nhất Chân pháp giới”. Trong Nhất Chân pháp giới không có Phật, có Bồ Tát, có chúng sanh hay chăng? Không có! Nếu vẫn còn phân biệt, chấp trước như vậy thì đâu phải là Nhất Chân! Trong Nhất Chântịnh độ, uế độ hay chăng? Có bốn cõi, ba bậc, chín phẩm hay chăng? Thảy đều chẳng có thì mới gọi là Nhất Chân! Đấy mới là chân tướng sự thật. Tâm hiện, thức biến, phải chú tâm thể hội, quán sát lý này thì quý vị mới hiểu được chân tướng.

Hoa Tạng thế giới, Cực Lạc thế giới, trong kinh đức Phật thường nói “chỉ mình đức Phật ở Tịnh Độ”. “Chỉ một mình đức Phật” không có nghĩa là chỉ có một người, đừng hiểu lầm như vậy. Người đạt đến Phật quả viên mãn rốt ráo rất nhiều, chỗ của những vị Phật quả viên mãn rốt ráo ở gọi là Nhất Chân pháp giới. Chỗ Đẳng Giác Bồ Tát ở là Tương Tự Nhất Chân pháp giới, không phải là chân thật. Vì sao? Họ vẫn còn một phẩm sanh tướng vô minh chưa đoạn sạch, đạo lý là đây. Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong Hoa Tạng thế giới, bốn mươi mốt đẳng cấp ấy do đâu mà có? Quý vị nghĩ đi: Vô minh phiền não chưa đoạn hết. Bốn mươi mốt phẩm vô minh, cứ phá một phẩm liền thăng lên một cấp, duyên do là vậy! Nhưng quý vị phải hiểu, Vô Minh, Trần Sa, Kiến Tư phiền não tánh không, trong Chân Như tự tánh vốn không có!

Khởi Tín Luận nói rất hay: “Bổn giác vốn có, bất giác vốn không”. Vô minhbất giác, phân biệt, chấp trước đều là bất giác, bất giác vốn không! Trong ấy há có giai cấp? Trong ấy nào có Phật, nào có chúng sanh? Trong cảnh giới ấy, không có Phật, không có chúng sanh, đó là Đệ Nhất Nghĩa. Phải rơi vào Đệ Nhị Nghĩa mới có Phật, có chúng sanh; trong Đệ Nhất Nghĩa không có. Trong Đệ Nhị NghĩaThường Tịch Quang, có Thật Báo Độ, có Đồng Cư độ; trong Đệ Nhất Nghĩa không có. Đấy mới là chân tướng, thật tướng của các pháp. Nếu có những vọng tưởng, phân biệt, chấp trước như vậy thì đều là tướng vọng tưởng, kinh Kim Cang dạy: “Phàm những gì có tướng đều là hư vọng”. Nghĩa là sao? Chín pháp giới chúng sanh kể cả Đẳng Giác Bồ Tát, trong những cảnh giới của họ hễ có tướng thì đều là hư vọng

Nơi Thật Tế Lý địa của Như Lai, phàm những gì có tướng đều là thật tướng, diệu thay! Diệu ở chỗ thật tướng và vọng tướng dung hợp thành một, chẳng thể phân ra. Vọng tướng không còn, thật tướng cũng không còn. Thật tướng giống như thân người, vọng tướng giống như bóng người khi ánh nắng chiếu vào thân. Quý vị nghĩ xem bóng và thân có tách rời nhau được chăng? Không tách rời được! Có trở ngại nhau chăng? Không trở ngại. Thân ta chẳng trở ngại bóng, bóng chẳng trở ngại thân, lý sự vô ngại, sự sự vô ngại. Quý vị phải giác! Nếu bất giác thì bất giác là bậy rồi, là coi cái bóng như chính mình, đánh mất chính mình. Đó là gì? Chúng sanh trong chín pháp giới cùng mắc căn bệnh này. Chân thân của chúng tathanh tịnh pháp thân, tứ thánh, lục phàm, y báo, chánh báo trang nghiêm đều là bóng; kinh Kim Cang đã chẳng nói rất hay đó ư? Như mộng, huyễn, bọt, bóng. 

Y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là mộng, huyễn, bọt, bóng, là tương tự thật tướng trong Nhất Chân pháp giới, phải trên quả vị Như Lai mới là chân tướng thật sự. Phải hiểu đạo lý này. Nếu quý vị chẳng hiểu, học tập tu hành sẽ không có phương hướng, chẳng có mục tiêu, rốt cuộc chẳng có kết quả. Nếu quý vị hiểu được, thấy rõ thì ta có phương hướng, ta có mục tiêu, tương lai ta sẽ chứng nhập cảnh giới ấy, đó là cảnh giới Phật. Chẳng cần biết quý vị chứng đắc cảnh giới ấy sâu hay cạn, chứng đắc rộng, chứng đắc hẹp, tương lai cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ giúp ích rất lớn trong việc nâng cao phẩm vị. Bởi thế, nhất định phải hiểu y báo, chánh báo trang nghiêm là mộng, huyễn, bọt, bóng, do đâu mà có? Do vọng tưởng của chúng ta biến hiện ra! Ở đây, nói chúng sanh là pháp nhân duyên sanh, pháp nhân duyên sanh là gì? Nói cách khác mọi người sẽ dễ hiểu hơn: Chúng sanhnhân quả báo ứng, điều này mọi người hiểu được. Pháp nhân duyên sanhnhân quả báo ứng, không gì chẳng từ tâm tưởng sanh. Tâm quý vị nghĩ điều lành, được quả báo lành, y báo, chánh báo trang nghiêm đều lành. Tâm quý vị nghĩ chuyện chẳng lành, y báo, chánh báo đều bất thiện. Chẳng phải ai khác tạo ra cho mình gánh chịu, tự mình tạo tự mình chịu. Không hiểu lẽ “tự làm tự chịu”, đổ thừa người khác, oán trời trách người: “Lão trời già không công bằng, khiến tôi phải khổ đến thế này, đối đãi tốt với người khác, xử tệ với tôi!” Chẳng hiểu người khác tốt lành là do thiện tâm, thiện nghiệp của người ấy biến ra, những điều xấu của mình do tâm bất thiện, nghiệp bất thiện của mình biến ra, chẳng liên can đến ai cả! Bởi thế, người thật sự giác ngộ, thấu hiểu, sẽ sửa đổi quan niệm lầm lạc ấy, chẳng oán trời, chẳng trách người, biết chuyện đó chẳng ăn nhập đến ai, đúng là tự làm tự chịu. Đó là chân tướng sự thật

Thế giới Cực Lạcnhân dân, nhân dân là những người đới nghiệp vãng sanh trong Phàm Thánh Đồng Cư độ, sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới. Thật ra, họ vẫn thuộc trong cảnh giới nhân thiên, thù thắng ở chỗ nào? Thật sự thù thắng chẳng thể nghĩ bàn là được bổn nguyện oai thần của Phật A Di Đà gia trì. Được trí huệ phước báo của Phật A Di Đà gia trì, nâng cao lên, chẳng do chính họ tu chứng. Cái tối thù thắng của Tây Phương Cực Lạc thế giới chính là đây. 

“Thanh Văn tức là Không”: Thanh VănPhương Tiện Hữu Dư độ, cảnh giới cao, biết vạn pháp đều không: “Hết thảy pháp vô sở hữu, rốt ráo không, bất khả đắc”. Bởi thế, tâm họ định. Dẫu có định, công phu định vẫn chưa đủ, vì sao? Chưa khai trí huệ. Vì thế, đức Phật bảo họ trụ vào Thiên Chân Niết Bàn, Chân là Chân Không. Trụ Thiên Chân Niết Bàn chỉ có tự thọ dụng, không có tha thọ dụng. Tự thọ dụng là chẳng được tự tại, chẳng viên mãn nơi thanh tịnh tịch diệt. Trong kinh, đức Phật dạy: A La Hán trụ Thiên Chân Niết Bàn lâu nhất là hai vạn đại kiếp, nghĩa là họ ở trong cảnh giới ấy lâu đến như thế bèn hồi đầu, bèn giác ngộ, giác ngộ hồi đầu. Bích Chi Phật thông minh hơn họ, Bích Chi Phật cũng trụ Thiên Chân Niết Bàn, thời hạn dài nhất là một vạn đại kiếp, một vạn kiếp bèn hồi đầu, Thanh Văn tối đa hai vạn kiếp mới hồi đầu. Chúng ta thường gọi “hồi đầu” là “hồi Tiểu hướng Đại”; họ không còn mong nghỉ ngơi nữa, thời gian nghỉ ngơi đã đủ rồi, lại phải nỗ lực cầu học. Thiên Chân Niết Bàn của Thanh Văn giống như lúc ta tạm nghỉ học. Ví như đi học đến lúc tốt nghiệp Trung Học, tốt nghiệp rồi không học nữa, tạm ngừng học. Ngừng học độ mấy năm, biết là chưa được, vẫn phải học, lại thi vào Đại Học. Đại Học giống như Đại Thừa

“Bồ Tát tức là Giả”, chữ “tức” ở đây có nghĩa là “hết thảy”, một thứ không hết thảy không, một thứ giả thì hết thảy đều giả. Bồ Tát biết y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là giả tướng; giả tướng ấy chẳng trở ngại chân không. Vì thế, tâm trụ vào chân không, trong giả tướng, Bồ Tát có thể giáo hóa chúng sanh, giáo hóa không chướng ngại. Chúng ta hiện đang là phàm phu, nếu chúng ta giáo hóa chúng sanh sẽ gây ra chướng ngại cho tâm thanh tịnh của chính mình, tâm chẳng được thanh tịnh. Nếu là Bồ Tát thì chẳng có chướng ngại; suốt ngày từ sáng đến tối bận bịu phục vụ chúng sanh, nhưng quyết định chẳng chướng ngại cái tâm thanh tịnh của chính mình, quyết định chẳng chướng ngại công phu tu hành. Bồ Tát tu lục độ vạn hạnh. Người niệm Phật chúng ta tu nhất tâm bất loạn, tâm chẳng điên đảo, đó là Niệm Phật tam-muội, bất luận làm việc gì, bất luận bận bịu đến thế nào, tâm chẳng điên đảo, nhất tâm bất loạn. Bồ Tát tâm vĩnh viễn định, chẳng bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển. “Bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển” là gặp phải cảnh giới bèn lập tức sanh khởi phản ứng, chẳng có công năng Thiền Định. Vì thế, có thể nói là từ lúc sanh ra cho đến hiện tại, ý niệm ngày đêm không hề gián đoạn, niệm trước vừa diệt, niệm sau liền sanh, tốc độ rất nhanh, quyết định chẳng có hai niệm nào giống nhau. Ý niệm nhanh hơn thời gian, thời gian tính bằng phút bằng giây; theo như kinh Phật nói, ý niệm của chúng ta khởi lên, diệt mất trong một phần vạn giây. Nói cách khác, trong khoảng thời gian chừng một giây, ý niệm của chúng ta đã một vạn lần sanh diệt

Những điều như trong kinh Nhân Vương giảng, tôi đã thưa cùng các vị đồng học rồi, đấy chưa phải là chân thật, chỉ là Phật phương tiện nói. Phương tiện nói mà đã phi thường lắm rồi! Vì sao? Theo kinh Nhân Vương, có bao nhiêu ý niệm sanh diệt trong một giây? Hai mươi mốt vạn sáu ngàn niệm, hai mươi mốt vạn sáu ngàn niệm sanh diệt đấy nhé, chính ta không tự biết, điều không biết đó được gọi là “thô tâm đại ý”. Một niệm sanh khởi chính là hiện ra tướng trạng giống như chúng ta xem phim: Tấm ảnh vừa lọt vào ống kính của máy chiếu phim thì tấm ảnh đó bèn được rọi lên màn bạc. Màn bạc là hư không, thế mà thế giới, chúng sanh sanh trong đó thoáng một cái rồi diệt mất. Diệt rồi lại lập tức sanh: Tấm ảnh thứ hai hiện ra, tốc độ rất nhanh, chúng ta thấy tợ hồ là thật, chứ thật ra là từng tấm từng tấm riêng rẽ, hình ảnh trong mỗi tấm lại khác nhau, tuyệt đối chẳng có hai tấm ảnh nào giống nhau, đó là tướng “tương tục” (tiếp nối). 

Kinh Kim Cang nói: “Như lộ diệc như điển”, Lộ là sương móc. Lộ ví như tướng tương tục, Điển (chớp) ví cho chân tướng. Mỗi một tấm hình được chiếu lên là chân tướng, bao nhiêu tấm tiếp nối nhau là tướng tương tục. Vì sao hình ảnh trong mỗi tấm không giống nhau? Các niệm của chúng ta không giống nhau. Kinh Phật giảng ý niệm là “thức”, chỉ là do thức biến hiện. Mỗi niệm khác nhau biến hiện tướng trạng cảnh giới khác nhau. Bồ Tát giác ngộ! Ngài có thể hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Công đức là gì? Công đứcbất biến, chẳng chuyển theo cảnh giới bên ngoài. Đó là công đức. Chuyển theo cảnh giới bên ngoài chẳng có công đức, mà là phiền não, vì quý vị lệ thuộc vào cảnh giới bên ngoài. Người học Phật nói đến “công phu”, vậy công phu là gì? Là chẳng chuyển theo cảnh giới bên ngoài, ấy là Định; hiểu rõ rệt rành rẽ cảnh giới bên ngoài, hiểu thấu suốt thì là Huệ. Định Huệ cùng học, Định Huệ cân bằng, chẳng thể nghĩ bàn. Cảnh giới ấy sâu lắm. 

Vì sao Bồ Tát luôn độ chúng sanh, Tiểu Thừa trụ Niết Bàn rất tự tại, sao Bồ Tát chẳng trụ Niết Bàn? Bồ Tát trụ trong Niết Bàn, nhưng Niết Bàn ấy chẳng trở ngại việc độ chúng sanh, tuyệt diệu! Niết Bànnhư như bất động, thanh tịnh tịch diệt. Bởi vậy, Niết Bàn chứng bởi Đại Thừa Bồ Tát gọi là Vô Trụ Niết Bàn, nơi quả địa Như Lai cũng như vậy. Thế nào là Vô Trụ Niết Bàn? Chẳng trụ vào sanh tử, chẳng trụ vào hai bên. Nói cách khác, chẳng trụ vào Niết Bàn bèn có sanh tử, chẳng trụ sanh tử chính là Niết Bàn. Nếu nói cả Niết Bàn lẫn sanh tử hai bên đều trụ cả, đều chiếu cố cả hai thì hai bên không xung đột, hai bên không mâu thuẫn, hai bên viên dung, hai bên tự tại, viên dung vô ngại! Bởi thế, đạt đến địa vị Bồ Tát thì thực hiện được điều đó, bởi Không - Giả - Trung hoàn toàn hợp nhất, tức Không, tức Giả, tức Trung. Nhân vì trong cảnh giới phàm phu, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước hết sức nghiêm trọng, Không - Giả - Trung chẳng thể viên dung, Không chẳng phải là Giả, Giả chẳng phải là Trung. Trí huệ chân chánh hiện tiền, biết chúng là một, một mà ba, ba nhưng một; giống như cái nắp của chén trà, chúng ta hãy quan sát như sau: Nếu lật ngửa lên nó bị lõm xuống; lật ngược lại, nó bèn lồi lên. Chẳng liễu giải chân tướng sự thật, chỉ đứng tại một bên ắt sẽ đôi co. Kẻ nói: “Tôi thấy nó lõm xuống”, người bảo: “Tôi thấy nó lồi lên”. Hai người cãi cọ, tri kiến khác nhau, chẳng thấy chân tướng sự thật. Nếu lật nó lại thì mới hoảng nhiên đại ngộ: Lõm vốn là lồi, lồi vốn là lõm, là một, chứ không phải hai. 

Phật, Bồ Tát thông minh ở chỗ nào? Mặt nào cũng thấy cả. Phàm phuTiểu Thừa chỉ thấy được một bên, vì thế có chấp trước. Vì chỉ thấy một bên nên nếu quý vị nói cái này lõm xuống, họ chẳng tin: “Rõ ràng là nó lồi lên, sao anh lại nói lõm xuống?” Tranh luận chẳng thôi. Họ không thấy mọi mặt, thấy mọi mặt là trí huệ viên mãn. Phật dạy chúng ta đối với pháp giới, hư không, thế giới, chúng sanh, vi trần phải nhìn mọi mặt, có thế mới viên dung vô ngại
 
 

6.3.1.2.3. Bảo trì đức thủy (nước tám công đức trong ao báu) 
 
 

 Lại xem tiếp đoạn kế là “bảo trì đức thủy” (nước tám công đức trong ao báu), chúng ta đọc kinh văn một lượt. Trong đoạn này không trích đoạn sách Yếu Giải. 

 

 “Hựu Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, hữu thất bảo trì, bát công đức thủy sung mãn kỳ trung. Trì để thuần dĩ kim sa bố địa, tứ biên giai đạo, kim, ngân, lưu ly, pha lê hiệp thành”. 

 (Lại này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạcao bảy báu, nước tám công đức đầy ắp trong ấy. Đáy ao thuần cát vàng trải đất. Bốn phía là bậc lên, lối đi, dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành) 
 
 

 Trong đoạn này, vàng là một thứ, bạc là một thứ, lưu ly là một thứ, pha lê là một thứ, ở đây nói đến bốn thứ. Nay chúng ta gọi Lưu Ly là Phỉ Thúy, tức một thứ ngọc màu xanh lá cây; Pha Lê nay gọi là thủy tinh. Trước kia, chưa chế ra pha lê (crystal), pha lê được cổ nhân nói đến cũng như pha lê trong kinh Phật, đều là thủy tinh, là một chất tìm thấy trong thiên nhiên, hoàn toàn trong suốt. Hiện tại, chúng ta biết thủy tinh được chế thành rất nhiều thứ, thường thấy nhất là tròng mắt kiếng. Mắt kiếng thủy tinh bảo vệ tròng mắt. Lại xem tiếp đoạn dưới: 
 
 

 “Thượng hữu lâu các” 

 (Phía trên có lầu gác) 
 
 

 Ý nói phía trên bờ ao bảy báu, “lại có lầu gác”, những lầu gác ấy… 

 

 “Diệc dĩ kim, ngân, lưu ly, pha lê” 

 (Cũng dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê
 
 

 Lại còn thêm: 
 
 

 “Xa cừ, xích châu, mã não nhi nghiêm sức chi” 

 (Xa cừ, xích châu, mã não để trang hoàng). 

 

 Đấy là bảy báu, nói đến bảy báu là chỉ những thứ đó. 
 
 

 “Trì trung liên hoa” 

 (hoa sen trong ao) 
 
 

 Trong ao sen báu ấy lại có hoa sen
 
 

 “Đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, hoàng sắc hoàng quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết” 

 (To như bánh xe, màu xanh ánh sáng xanh, màu vành ánh sáng vàng, màu đỏ ánh sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng, vi diệu thơm sạch)
 
 

 Đến đây là một đoạn. Chúng ta nói đến nước tám công đức trong ao báu, đã đọc qua kinh văn rồi. Nghĩa thú trọng yếu trong đoạn này là “không có cái khổ lão - tử”. Dưới đây, chúng tôi chia thành hai tiểu đoạn “đoạn trên nói về trụ xứ, tiết này nói về sanh xứ”. Các cây báu, lan can báu được nói trong phần trên chính là “địa lợi chi lạc”, tức là hoàn cảnh cư trú, hàng cây bảy báu. Còn ao báu, nước tám công đức là nói đến “sanh xứ” (chỗ hóa sanh) của chúng ta khi vãng sanh thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc chẳng giống với thế gian chúng ta. Trong thế giới chúng tathai sanh, thai sanh rất khổ. Tây Phương Cực Lạc thế giớihóa sanh, hóa sanhbiến hóa

 “Đồng Cư trong cõi này là do Hoặc nghiệp hữu lậu cảm vời”. “Cõi này” tức là thế gian, là quả địa cầu của chúng ta, địa cầu này là Phàm Thánh Đồng Cư độ. Cõi này do đâu mà có? Trong kinh, đức Phật dạy “do Hoặc nghiệp hữu lậu”. Lậu là tên khác của phiền não. Hữu Lậu là có phiền não, có tập khí. Chỉ cần quý vị có phiền não tập khí, quý vị không cách chi thoát khỏi luân hồi lục đạo được. Lục đạo luân hồi do Hoặc nghiệp hữu lậu cảm thành. Chúng ta thấy trong kinh luận, Phật giảng như thế rất nhiều lần, đúng là vô số lần, ngàn kinh muôn luận đều giảng cho chúng ta chân tướng sự thật này.

Lục đạo do Kiến Tư phiền não biến hiện. Bởi thế, đức Phật nói chỉ cần buông Kiến Tư phiền não xuống được thì lục đạo luân hồi chẳng còn nữa. Trong Chứng Đạo Ca, Vĩnh Gia đại sư có viết một câu rất hay: “Mộng lý minh minh hữu lục thú” (Trong mộng rành rành phân sáu nẻo), lục thú chính là lục đạo. “Giác hậu không không vô đại thiên” (tỉnh rồi, ba cõi rỗng toang hoang). Lục đạo luân hồi chẳng thật, nó là mộng cảnh giới do mê hoặc điên đảo biến hiện, nhưng quý vị chẳng biết đấy là mộng, nên phải chịu đựng trong giấc mộng đó. Bởi thế, quý vị tạo thiện nghiệp sẽ hưởng phước trong mộng, có lạc thọ; tạo ác nghiệp thì thọ tội trong mộng, có khổ thọ. Quý vị chẳng tỉnh giấc mộng ấy. Đến lúc nào mới tỉnh? Khi nào đoạn được nghiệp nhân lục đạo, sẽ không còn quả nữa. Nghiệp nhân chính là Kiến Tư phiền não

Trong Kiến Tư phiền não có một thứ là Thân Kiến: Chấp trước thân này là Ta. Quý vị suy nghĩ xem: Lục đạo chúng sanh có ai không vì chính thân mình hay không? Hành thiện cũng vì cái thân này, tạo ác cũng vì cái thân này, tưởng thân này là Ta, đó là sự lầm lạc thứ nhất. Bởi vậy, tôi thường khuyên lơn các đồng học: Chúng ta mong được thật sự giác ngộ, mong được thấu hiểu, thấu suốt, thì phải dụng công nơi đâu? Đầu tiên là phải bỏ được ý niệm tự tư tự lợi mới hòng vào được cửa. Quan niệm tự tư tự lợi sai lầm, hành vi sai lầm ấy nếu chẳng thể triệt để buông xuống được, dù quý vị có duyên phận tốt, quý vị cũng chẳng thể vào được cửa nhà Phật. “Cửa nhà Phật” nghĩa là gì? Chẳng thể tiến nhập cảnh giới Phật được! 

Lục đạo phàm phu đáng thương! Từ vô lượng kiếp đến nay lăn lóc trong luân hồi, thời gian trong ba đường thiện ngắn ngủi, thời gian trong ba đường ác dài lâu. Quý vị nói xem vì duyên cớ nào vậy? Vì tự tư tự lợi. Tự tư tự lợi làm hại quý vị khiến đời đời kiếp kiếp phải chịu khổ trong ba đường ác. Phật đúng là từ bi đến cùng cực, đem toàn bộ chân tướng sự thật, nhân quả trước sau giảng rõ ràng, minh bạch cho chúng ta, cớ sao chẳng ngộ? Thế nào là ngộ? Buông tự tư tự lợi xuống thì người ấy liền giác ngộ! Buông tự tư tự lợi xuống không được, không thể giác ngộ. Nghiêm trang như tượng, nói đến nỗi hoa trời rơi lả tả, nhưng không buông tự tư tự lợi xuống được, vẫn chưa thật sự giác ngộ! Kinh giáo gọi kẻ đó là “thế trí biện thông”, chẳng phải chân trí huệ. Kẻ chân trí huệ thay đổi quan niệm, đó là tu hành! Sửa đổi quan niệm lầm lạc, khởi tâm động niệm là tâm gì? Tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi; khởi tâm động niệm trong cuộc sống thường nhật toàn là những tâm ấy. 

Trong những tâm ấy không có tự tư tự lợi, trông thấy chúng sanh khổ bèn muốn giúp họ, toàn tâm toàn lực xả kỷ vì người. Quý vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng phải giống như thế hay sao? Vứt bỏ cuộc sống an vui, giàu có của chính mình, vứt bỏ địa vị xã hội, vứt bỏ hết thảy quyền thế, dùng thân thể này, dùng trí huệ để giúp hết thảy chúng sanh giác ngộ, giúp hết thảy chúng sanh đoạn ác tu thiện, giúp hết thảy chúng sanh lìa khổ được vui, giúp hết thảy chúng sanh chuyển phàm thành thánh. Những việc Ngài thị hiện suốt ngày từ sáng đến tối là vì người khác diễn nói, hy sinh, phụng hiến, không có chút nào tự tư tự lợi. Hành vi đều lợi ích xã hội, lợi ích hết thảy chúng sanh. Có vậy Phật mới có thể nhập cảnh giới Phật. Cảnh giới Phật chính là cảnh giới của tánh đức chính mình, minh tâm kiến tánh

Sở dĩ phàm phu, Quyền Tiểu tu hành bao kiếp chẳng thể khế nhập, nguyên nhân vì đâu? Chưa buông tự tư tự lợi xuống được. Đấy chẳng phải chuyện dễ! Nói chung, chúng ta căn tánh hạ liệt rất sâu, phiền não tập khí quá nặng, há dễ dàng buông xuống được! Phật gặp những chúng sanh như vậy thì làm sao? Không khuyên kẻ ấy buông xuống, vì sao? Không có cách chi hết, không thực hiện được! Khuyên họ làm gì? Khuyên họ tạo thiện nghiệp, chớ tạo ác nghiệp, Phật giáo hóa chúng sanh tu Ngũ Giới, Thập Thiện, mục đích chẳng nhằm dạy họ thoát luân hồi, mục đíchngăn ngừa khỏi bị đọa ba ác đạo. Do tư tưởng, ngôn ngữ, hành vi quý vị chẳng lành; chẳng lành thì quý vị sẽ chiêu cảm khổ báo tam đồ, rất đáng thương, rất thê thảm! Quý vị có thể đoạn ác tu thiện, quý vị trì Ngũ Giới, tu Thập Thiện thì đời sau hưởng phước báo trời - người. Quý vị chẳng buông tự tư tự lợi xuống được, quý vị thoát chẳng khỏi lục đạo luân hồi, [nên đành] giúp cho quý vị hưởng phước báo trời - người. Đức Phật giáo hóa chúng sanh đúng là ứng cơ thuyết pháp, căn cơ quý vị như thế nào, nguyện vọng như thế nào, Phật đều thỏa mãn quý vị. Đấy là nói [về những điểm mà] thế giới Sa Bà của chúng ta khác với Tây Phương Cực Lạc thế giới

“Cõi kia do tịnh nghiệp vô lậu cảm thành, lại được trang nghiêm bằng nguyện hạnh của A Di Đà Phật ”. Câu “được trang nghiêm” có nghĩa là gia trì. Bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà, công đức tu hành trong vô lượng kiếp của Phật A Di Đà gia trì chúng ta. Quý vị muốn tu vô lậu tịnh nghiệp thì quý vị phải cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, không thể không hiểu đạo lý này. Lại thưa cùng quý vị: Trong tâm quý vị còn oán hận kẻ nào đó, vẫn còn có kẻ nào mình thấy gai mắt, sẽ chẳng đến được thế giới Cực Lạc. Vì sao? Tâm thái ấy chính là Lậu nghiêm trọng, chưa phải là Vô Lậu, mà là Hữu Lậu. Hữu lậu tu Tịnh nghiệp thì nghiệp ấy cũng chẳng tịnh, cũng biến thành Hoặc nghiệp. Bởi thế, muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, sao không nhìn vào những bà cụ già niệm Phật, lúc đi vãng sanh rất tự tại dường ấy? Quý vị phải chú tâm quan sát họ, lúc họ còn sống có oán hận ai chăng? Không có! Vì sao? Đều một nét bút sổ toẹt cả rồi! Tôi muốn sanh về thế giới Cực Lạc; đợi khi tôi thành Phật, tôi sẽ trở về độ mấy người. Đó là một điều kiện hết sức quan trọng để được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới

Tu hành trọng yếu nhất là phải sửa đổi những hành vi lầm lạc. Còn có một ai chẳng vừa ý, có chuyện gì chẳng khoan khoái thì đều là những thứ chướng ngại vãng sanh, tâm mình chưa thanh tịnh. Điều ấy giải thích vì sao vãng sanh khó, một vạn người niệm Phật chỉ có một, hai người được vãng sanh; đạo lý là đây. Nếu quý vị chưa chuyển được phiền não thì dùng một câu A Di Đà Phật đè xuống, đè chặt cho nó khỏi khởi tác dụng, đừng trông vào vận may. Nếu lúc lâm chung, trong hơi thở cuối cùng, không đè giữ được phiền não, nó bộc phát ra; bộc phát rồi bèn đọa tam đồ

Vì vậy, bình thời phải dùng công phu để chuyển biến nó, ta không oán hận nữa, càng tăng thêm từ bi. Người ta đem tâm oán hận mình, mình dùng tâm từ bi đối đãi họ, ta dùng tâm cảm ơn đối xử với họ. Nếu quý vị hỏi: Kẻ ấy đối với ta có ân gì vậy? Thành tựu Nhẫn Nhục Ba La Mật cho ta, đó là ân. Thành tựu Trì Giới Ba La Mật cho ta. Vì sao nói thành tựu Trì Giới? Ta đối với kẻ ấy chẳng báo thù, đó là Trì Giới, giới chẳng sát sanh, chẳng có ý niệm báo thù. Chẳng có ý niệm sân khuểNhẫn Nhục. Chẳng có ý niệm báo thù là không sát sanh, chẳng sát là Trì Giới. Thành tựu sáu Ba La Mật cho mình, đấy chẳng phải là ân huệ thì là gì? Phiền não tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay từ đây hóa giải, như vậy chẳng chướng ngại niệm Phật vãng sanh. Đấy mới thật sự cảm được A Di Đà Phật tiếp dẫn lúc lâm chung. Bởi thế, nếu có một chuyện trong thế gian nào mình không buông xuống được thì đều là phiền phức cả! 

Nếu quả thật thân tâm, thế giới, hết thảy đều buông xuống được, phiền não tập khí chẳng khởi hiện hành, người ấy niệm Phật vãng sanh hết sức bình an, hết sức ổn thỏa, thích đáng, lúc lâm chung Phật đến tiếp dẫn. Vì thế, thế giới Cực Lạc hoàn toàn do vô lậu tịnh nghiệp tạo thành. Vô lậuchuyển biến được phiền não tập khí, câu này rất trọng yếu. Đới nghiệp vãng sanh chỉ có thể mang theo những chủng tử tập khí trong A Lại Da thức, chứ chẳng thể mang theo những nghiệp hiện hành. Hiện hành là gì? Trong hiện tại vẫn thường phát tác, đó gọi là “hiện hành”, những nghiệp ấy không mang theo được. Chúng ta mỗi ngày từ sáng đến tối sanh sống, làm việc, xử sự, đãi người, tiếp vật đều là tu hành, sửa đổi hết những chứng bệnh, tập khí từ trước. Trước kia ta hận người, nay ta yêu thương người; trước kia mình chán ghét người, nay mình có thể giúp đỡ họ. Bây giờ đã đến giờ rồi. 
 
 

*
 
 

Chư vị đồng học! 

Chúng ta xem tiếp đoạn dưới. Phần thứ năm: 

“Hoa sen bốn màu, không có nỗi khổ thai sanh, không có nỗi khổ ái biệt ly”: Trong thế gian này, chúng tathai sanh, thai sanh có nỗi khổ mười tháng thai ngục. Thai sanh có duyên rất sâu với cha mẹ nên có cái khổ ân ái biệt ly. Đấy là điều hết thảy chúng sanh thai sanh chẳng thể tránh khỏi được, trong ấy có ân tình. Tây Phương thế giới không vậy, hóa sanh trong hoa sen. Vì thế, chắc chắn không có mười tháng thai ngục, không có hiện tượng ấy. Sanh về thế giới Cực Lạc hóa sanh trong hoa sen, nên không có các hiện tượng ân tình, ân ái; hiện tượng tình chấp cũng không có. Thế giới Cực Lạc chẳng giống thế giới của chúng ta. Chúng ta lại xem tiếp đoạn dưới nói gì. 

“Hoa sen lớn nhỏ, ánh sáng, màu sắc bất đồng. Kinh nói: ‘Chúng sanh phát tâm tín nguyện trì danh, trong ao liền sanh một búp sen, đề tên người ấy. Nếu tinh tấn niệm Phật, hoa càng ngày càng to, ánh sáng, màu sắc ngày càng tươi tắn. Nếu giữa chừng ngã lòng, hoặc đổi sang tu pháp môn khác, hoa ấy dần dần tàn khô”. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đúng là không thấy có hiện tượng sanh - lão - bệnh - tử, chẳng trông thấy hiện tượng sanh - trụ - dị - diệt. Chẳng hạn như nói người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là hóa sanh, chứ không sanh làm đứa bé con trong Tây Phương Cực Lạc thế giới dần dần lớn lên. Nếu không, sẽ thành ra có sanh - lão - bệnh - tử. Sanh vào thế giới ấy sắc thân không khác gì Phật A Di Đà, chứ không phải hiện làm một đứa bé con dần dần lớn lên, chẳng phải vậy! Vì thế, họ không có sanh trưởng. Sắc thân được hiện không khác gì với bốn mươi tám nguyện, đều là thân vàng ròng tía giồi mài, đầy đủ tướng hảo, quang minh viên mãn. Đó là do bổn nguyện oai thần của Phật A Di Đà gia trì, chẳng phải chỉ có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp phụ, mà thân còn có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo, nhưng tất cả chúng sanh đều như nhau. Thế giới Cực Lạcthế giới bình đẳng, thật chẳng thể nghĩ bàn! 

Chỉ mình hoa sen trong ao là thấy có tướng sanh diệt. Hoa sen từ đâu có? Đúng như trong Đại Thừa Phật giáo thường nói: “Từ tâm tưởng mà sanh”. Mười phương ba đời hết thảy chúng sanh, chẳng hạn như bản thân chúng ta, trong tâm muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới thân cận A Di Đà Phật, trong ao thất bảo nơi thế giới Cực Lạc bèn mọc lên một búp sen, nhưng trên búp sen ấy có ghi tên tuổi mình. Quý vị niệm Phật rất tinh tấn, tinh tấn niệm Phật, hoa sen ấy sẽ dần dần ngày càng to, tinh tấn niệm Phật hoa bèn to ra. Màu sắc, quang minh của hoa hoàn toàn tương ứng với độ lớn của hoa. Ánh sáng, màu sắc tươi sáng. Đấy là nói niệm Phật rất tinh tấn. Nếu quý vị niệm một khoảng thời gian, về sau không niệm nữa, do nhân duyên nào khác chướng ngại quý vị, quý vị bị ảnh hưởng đổi sang học môn khác, chẳng tu Tịnh Độ đổi sang học pháp môn khác, đóa sen ấy của quý vị dần dần bị héo khô, không còn nữa. Vì vậy, trong thế giới Cực Lạc chỉ có thể thấy hiện tượng sanh diệt nơi hoa sen trong ao sen. Chuyện hoa sen mỗi ngày lớn lên lại vừa to vừa đẹp là có; mỗi ngày cũng đều có rất nhiều hoa bị khô héo đi. Nay ta hãy tưởng tượng: Chắc chắn là trong số các hoa sen, búp sen rất nhiều, nhưng những hoa thật sự nở hoa kết quả trong tương lai chẳng nhiều; rất nhiều búp sen bị héo khô đi. Giống như thầy Lý đã nói: “Một vạn người niệm Phật, chỉ có hai ba người được vãng sanh”. Đấy chẳng phải là nói một vạn búp sen, chỉ có hai ba búp tương lai nở hoa, còn hơn chín ngàn chín trăm búp kia đều bị héo khô! Nhưng quý vị phải hiểu đấy là hiện tượng hiện tại trong thế giới Sa Bà của chúng ta, thế giới phương khác không nhất định phải giống như vậy. 

Trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy có rất nhiều thế giới thuần tịnh, người trong những nơi ấy rất khá, rất có thể một vạn người niệm Phật, một vạn người vãng sanh. Tổ sư đại đức nói “vạn người tu, vạn người đến”, chẳng sót một ai. Chỉ trong thế giới này của chúng ta rất tệ, các đồng học niệm Phật không chịu đựng nổi khảo nghiệm. Nhất là trong thời kỳ Mạt Pháp hiện tại, tà tri tà kiến rất nhiều, người chánh tri chánh kiến hiếm hoi. Người tà tri tà kiến rất nhiều, trong xã hội nhất định nẩy sanh hiện tượng “sai lầm chất chứa lâu ngày trở thành đúng”. Ai nấy đều tà kiến, tà kiến trở thành chánh kiến, người chánh kiến hiếm hoi, chánh kiến biến thành tà kiến. Đó là khảo nghiệm nghiêm trọng đối với người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ

Muốn đảm bảo chẳng bị tà tri tà kiến ảnh hưởng, chỉ có một phương pháp: Ngày ngày đọc kinh, ngày ngày nghiên cứu giáo pháp, giống như đạo tràng của chúng ta đang duy trì. Nếu quý vị hỏi vì sao có thể duy trì? Mỗi ngày giảng kinh, mỗi ngày đều học tập, không cần biết bạn tích cực hay không tích cực, không tích cực cũng không ăn nhằm gì, cốt sao mỗi ngày bạn thực hành, hành lâu ngày, giả cũng biến thành chân. Dần dần, từ từ, mỗi ngày hiểu một chút, mỗi ngày hiểu một tí, dần dần! Quý vị tích lũy mười năm, hai mươi năm, chẳng biến thành chân hay sao? Vì thế, công phu chẳng được gián đoạn. Chúng ta sanh trong thời đại này - trong thời đại của Ấn Quang đại sư không có vấn đề, thời đại Ngài thiện căn vẫn rất sâu dầy, vì sao? Hết thảy người đọc sách không ai chẳng đọc sách cổ, không ai chẳng hiểu văn ngôn, người niệm Phật đều có căn bản kha khá. Vì thế, lão nhân gia chủ trương chân chánh tu hành cầu sanh Tịnh Độ, đạo tràng chẳng được lớn, đạo tràng nhỏ thôi; đồng học chẳng được nhiều, chẳng được quá hai mươi người. Thật sự ra, Ngài dạy như vậy đều là vì nghĩ đến chúng ta hiện tại

Nay theo đường lối dân chủ tự do cởi mở, tự viện không có hằng sản, thâu nhập chẳng ổn định. Đạo tràng lớn, người đông, chi tiêu nhiều, chẳng dễ duy trì, quý vị phải nhọc lòng. Nếu nhọc lòng sẽ chẳng thể vãng sanh, vì tâm chẳng thanh tịnh. Vì thế, người ít, đạo tràng nhỏ, chi phí duy trì tiêu xài ít, dễ dàng duy trì, chắc chắn không cần hóa duyên, chắc chắn không phải quyên góp, trong đạo tràng chẳng làm pháp hội, không có kinh sám Phật sự, không truyền giới, không giảng kinh, chỉ có niệm Phật. Ngày ngày đả Phật thất, Phật thất suốt năm, công khóa thường nhật chiếu theo nghi thức Phật thất phổ thông, chiếu theo cách thức Phật thất núi Linh Nham ở Tô Châu. Nếu thật sự có thể tuân theo lời lão pháp sư khai thị, không ai chẳng thành tựu. Trong số hai mươi người ấy, hai mươi người sẽ vãng sanh trong tương lai. Chánh xác, hết sức chánh xác, chẳng cầu lấy náo nhiệt! Cầu lấy náo nhiệt thì đạo tâm, tâm thanh tịnh của ta ắt bị chướng ngại; đúng là dạy chúng ta thân cận A Di Đà Phật

Nhưng hiện tại có khó khăn, khó khăn ở chỗ nào? Chúng ta biết kinh giáo quá ít, thiện căn chẳng sâu dầy như người đời trước. Đấy là nói so với những người thuộc năm đầu Dân Quốc, người hơn một Giáp Tý (sáu mươi năm), chúng ta không bằng họ, căn bản họ sâu dầy hơn chúng ta. Vì thế, người hiện tại nếu hiểu rõ Tịnh tông được mấy phần thì sẽ hữu ích rất lớn cho tín tâm, nguyện tâm của quý vị. Vì thế, chúng tôi tuân thủ mỗi điều tổ Ấn Quang răn dạy, ngoại trừ điều răn “không giảng kinh”, chúng tôi đổi thành “nhất định phải giảng kinh”, Giải lẫn Hạnh cùng coi trọng. 

Chúng ta niệm Phật ở đây phải thật sự đảm bảotrí huệ, có định lực mới hòng phòng chống tà tri tà kiến. Mỗi ngày tối thiểu giảng kinh hai tiếng, thì quý vị mới được che chở, chẳng bị dao động bởi tà tri tà kiến. Đương nhiên, mỗi ngày có thể giảng bốn tiếng là quyết định an toàn. Đạo tràng lý tưởng của tôi là mỗi ngày giảng kinh bốn tiếng, hai mươi giờ kia niệm Phật, một ngày hai mươi bốn tiếng Niệm Phật Đường không để gián đoạn. Con người cần phải nghỉ ngơi thì thay phiên nhau nghỉ ngơi; luân lưu không cần quy định. Hễ quy định bèn có áp lực, phải làm sao? Phải làm như cách lão hòa thượng Đế Nhàn dạy người đồ đệ thợ nề: Mệt cứ nghỉ, nghỉ khỏe rồi lại vào Niệm Phật Đường niệm tiếp. Chẳng có mảy may áp lực nào, thật sự tinh tấn

Người niệm Phật chân chánh niệm Phật trong Niệm Phật Đường, lúc mệt bèn nghỉ, tôi nói chẳng cởi áo hải thanh. Chúng ta đắp y, lúc nghỉ ngơi, phải cởi y, nhưng không cởi áo hải thanh. Lúc nghỉ khỏe lại đắp y, lập tức lên Niệm Phật Đường, có như vậy mới hòng thành tựu. Phần đầu kinh A Di Đà có nhắc đến Bất Hưu Tức Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát để làm gương mẫu về mặt Hạnh môn cho chúng ta. Giải môn nhằm giúp tín tâm, nguyện tâm của ta sâu thêm, tăng trưởng định huệ. Chúng ta có định, có huệ, có tín, có nguyện thì hết thảy tà tri tà kiến chẳng thể xâm nhập tâm ta, chẳng thể lọt tai chúng ta, khiến chúng ta giữ gìn được sự thuần tịnh thuần thiện. Hết thảy chuyện bên ngoài chẳng ăn nhập gì đến ta, chúng ta không hỏi tới. Bởi vậy, truyền hình, tạp chí, radio, nhật báo bất tất phải xem, nghe, ngày ngày thiên hạ thái bình, ngày ngày chẳng có việc gì, tâm định, tâm tịnh. Chỗ như vậy mới gọi là “đạo tràng”, tịnh nghiệp đạo tràng. Những người đến đạo tràng, chúng ta phải khuyên họ buông xuống vạn duyên, cùng chúng ta niệm Phật, cùng nghe kinh. Hết thảy mọi sự thế gian rối ren tạp nhạp trong xã hội chẳng cần bàn đến ở nơi đây thì nơi đây là tịnh độ, nơi đây thiên hạ vốn vô sự. Chúng tôi tin hoa sen trong ao bảy báu của những người phát nguyện cầu vãng sanh trong đạo tràng nhỏ ấy nhất định mỗi ngày tăng trưởng, quang minh, màu sắc đẹp đẽ. Lại xem tiếp đoạn kế: 

“Tín tâm kiên cố, một đời chẳng đổi, đến lúc lâm chung, Phật cầm hoa ấy, tiếp dẫn vãng sanh, liền sanh trong hoa ấy, gọi là ‘thác chất liên thai’ (gởi thân trong hoa sen), thanh tịnh thọ sanh, hoa nở thấy Phật”. Tín Tâm Kiên Cố, bốn chữ này trọng yếu hơn hết, một đời chẳng đổi. Thầy Lý truyền bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ cho chúng tôi, đó là sự truyền pháp trong Tịnh tông chúng ta. Tôi tiếp nhận rồi, trong mười mấy năm hoằng dương toàn thế giới. Theo con số dè dặt nhất mà chúng tôi có được, thì tối thiểu bản hội tập này được lưu thông phải hơn hai trăm vạn cuốn trên toàn thế giới, phải từ hai trăm vạn cuốn đến ba trăm vạn cuốn đang lưu thông trên toàn thế giới, rất nhiều người đọc tụng, thọ trì, hưởng lợi ích chân thật

 Hai năm gần đây, kể từ tháng 10, tháng 11 năm 2000 trở đi, chúng tôi mới bắt đầu nghe thấy những tiếng hủy báng, phản đối, công kích bằng lời lẽ, công kích bằng văn tự, công kích đích danh rất nhiều, đều nhắm vào tôi. Tôi có ngã lòng không? Nếu tôi tín tâm chẳng kiên cố, nếu tôi thoái chuyển, đổi sang học tập bản khác, quý vị nghĩ xem làm sao tôi xứng đáng với thầy? Như vậy “tri ân, báo ân” chẳng trở thành chuyện dối người hay sao? Thầy truyền bản ấy cho tôi, phó thác pháp môn ấy cho mình, lúc mình nghe người ta hủy báng, liền lập tức thay đổi, còn ra thể thống gì? Bởi thế, tôi đã từng nói với các đồng học: “Dù người toàn thế giới phản đối, tôi vẫn cứ kiên trì, tôi quyết định không thay đổi!” Tôi không phụ lòng thầy, thầy chẳng nhìn lầm tôi! 

Nếu như tôi biến đổi, tín tâm dao động, thầy đã nhìn lầm người rồi, tôi chẳng xứng đáng. Tất cả những ai hủy báng, tôi đều cảm tạ. Cảm tạ chuyện gì? Họ khảo nghiệm tín tâm tôi có đủ kiên cố hay chăng? Tôi chịu đựng được thử thách, dùng đó dạy hàng hậu học: Chỉ cần ai có tín tâm kiên định, bất luận tu học một pháp môn nào, nhất định thành tựu. Bởi thế tám chữ sau đây rất trọng yếu: “Tín tâm kiên định, một đời chẳng đổi”. Không có áp lực lớn lao như vậy, không bị đả kích nghiêm trọng như vậy thì sự kiên định, tín nguyện, định huệ của quý vị sẽ do đâu được biểu hiện? Làm sao biết tín nguyện định huệ của mình đạt đến mức độ nào? Từ đây vỡ lẽ ra: Càng bị đả kích nghiêm trọng, khảo nghiệm nghiêm trọng thì cảnh giới của mình càng thật sự được nâng cao

Bởi thế, thuận cảnh, nghịch cảnh, thuận duyên, ác duyên, thuận nghịch thiện ác không có tiêu chuẩn, hoàn toàn do định huệ của chính quý vị. Nếu quý vị có định, có huệ thì ác duyên biến thành thiện duyên, nghịch cảnh chuyển thành thuận cảnh, tự mình đối với pháp môn này càng thêm kiên định, hạnh nguyện càng khẩn thiết, đó là chuyện tốt chứ không phải xấu. Nếu chúng ta cứ phải chống đỡ, phải biện bạch là sai mất rồi. Quý vị mắc lỡm to rồi, đã tự trái nghịch lời Thích Ca Mâu Ni Phật răn dạy. Thích Ca Mâu Ni Phật răn dạy điều gì? Mặc tẫn. Mặc tẫn có nghĩa là hoàn toàn chẳng quan tâm đến, người ta hủy báng mặc người ta, người ta sỉ nhục cứ để người ta sỉ nhục, quyết định chẳng đếm xỉa tới. Người ta chửi mình, chẳng đáp lại một câu nào. Người ta đánh mình, quyết định chẳng đánh trả! Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta như vậy! Như vậy chẳng phải là thiệt thòi ư? Không sai! Thiệt thòi là phước, phước về sau. Chỉ cần quý vị cam chịu thiệt thòi, phước báo hiện tiền, trí huệ hiện tiền, vĩnh viễn giữ lòng lắng tịnh, chẳng được bộp chộp. Tịnh sanh Huệ, thiện sanh phước, vĩnh viễn giữ được tâm hạnh thuần tịnh thuần thiện. Trong cả một đời nơi thế gian này, chúng ta hiểu rõ mục đích là “liễu sanh tử, xuất tam giới”. Chẳng những liễu sanh tử, xuất tam giới, mà còn là vãng sanh Tây Phương, thân cận Di Đà. Ta sống trong thế gian này, phương hướng, mục tiêu của ta là như vậy, những thứ khác đều không phải. Ngoài ra, bất luận người ta làm chuyện gì cũng chẳng ăn nhập gì đến ta cả, ta đi đường mình.

Rất nhiều năm trước (khoảng mười mấy năm trước), tôi ở Đạt Lạp Tư (Dallas), có một bữa, cư sĩ Doãn Kiến Duy hỏi tôi: “Nếu với hết thảy kinh, Đại Tạng Kinh bày ra ngay đây, nếu thầy chỉ được phép chọn một bộ kinh để tu hành, thì xin hỏi pháp sư sẽ chọn bộ nào?” Tôi bảo ông ta: “Tôi sẽ chọn Di Đà Kinh Yếu Giải, chẳng chọn bộ thứ hai, nói thật đấy! Hoằng dương Vô Lượng Thọ kinh là vì thầy tôi phó chúc, giảng kinh Hoa Nghiêm là vì rất nhiều vị đại đức xuất gia, tại gia khải thỉnh. Tôi tu học chỉ đơn giản một môn, thiết yếu, tôi không thích rắc rối, càng đơn giản càng hay. Di Đà Yếu Giải quá tuyệt, Ấn Quang đại sư coi trọng bản này, tôi cũng coi trọng bản này”. 

Nhưng tu Tịnh Độ thì Vô Lượng Thọ Kinh rất trọng yếu. Vô Lượng Thọ Kinh tường thuật cặn kẽ toàn bộ Tây Phương Cực Lạc thế giới cho quý vị được hiểu trọn vẹn. Hiểu trọn vẹn rồi sẽ chân chánh tu hành, Yếu Giải chỉ cho chúng ta một đường lối thù thắng bậc nhất. Nói cách khác, Vô Lượng Thọ kinh tiếp dẫn quý vị, giúp quý vị kiến lập tín tâm kiên cố. Giúp quý vị phát nguyện cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới phải nhờ vào Vô Lượng Thọ kinh. Có tín tâm, có chí nguyện, vậy thì tu hành ra sao? Yếu Giải tốt nhất! Yếu Giải giúp chúng ta tu hành

Bởi thế, kiên định, kiên trì pháp môn này, một đời chẳng đổi, bất biến. Lúc lâm chung, A Di Đà Phật cầm hoa sen ấy đến tiếp dẫn; hoa sen đó do chính tâm tưởng của quý vị biến hiện. Càng tinh tấn hoa sen càng to, màu sắc, quang minh càng đẹp, đấy là chỗ xuất sanh, là sanh xứ trong tương lai của quý vị nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới, chuyện này rất trọng yếu! Bởi thế, bây giờ người ta tranh giành, thì mình tranh cái gì? Tranh sao cho hoa sen của mình to hơn, sáng đẹp hơn, vậy mới đúng. Vì sao? Đấy là điều quý vị có thể đạt được trong tương lai, còn ngũ dục, lục trần, danh văn, lợi dưỡng của thế gian này là giả, không mang theo được gì cả. Vì vậy, cổ nhân thường luôn cảnh tỉnh rất cao độ: “Sanh không mang theo gì đến, chết không mang theo gì đi”. Bởi vậy, đối với hết thảy người, sự, vật thế gian không lưu luyến mảy may, phải chuyển biến cái tâm tham luyến những thứ ấy thành cái tâm tham luyến hoa sen trong ao bảy báu. Lúc tâm tưởng ta biến hiện ra cái hoa sen ấy, hoa sen của ta phải to, quang sắc phải đẹp, phẩm vị phải cao. Ta chỉ chuyên tâm cầu chuyện đó, quyết định chẳng có ý niệm nào khác. Có ý niệm gì khác sẽ biến thành chướng ngại. Phật cầm đóa hoa này tiếp dẫn vãng sanh, liền sanh trong hoa ấy, trong kinh thường gọi là “thác chất liên thai”, thanh tịnh thọ sanh. So với nằm trong thai mười tháng, nằm trong thai không thanh tịnh. Lúc quý vị nhập thai chẳng thanh tịnh, ý niệm chẳng thanh tịnh, dâm dục mà! Quý vị ở trong thai mười tháng, tức trụ xứ chẳng thanh tịnh, chung quanh trụ xứ của mình là ruột già, ruột non. Trong ruột già, ruột non là thứ gì vậy? Phẩn uế, nước tiểu bao vây quý vị, chẳng thanh tịnh. Thế giới Cực Lạc khác hẳn: Hoa sen thanh tịnh chẳng nhiễm mảy trần, lại còn liên hoa hóa sanh, vừa sanh vào thế giới ấy thân thể liền cao lớn, sắc tướng trang nghiêm. Cực Lạc thế giới chẳng có người già, kẻ trẻ, mỗi một người hình dáng giống hệt nhau. Thế giới bình đẳng, bởi thế, tâm họ bình.

Tâm con người trong thế giới này của chúng ta bất bình, tướng mạo sai biệt. Người có phước báo tướng mạo xinh đẹp, tự nhiên có tâm kiêu mạn. Người không phước báo, bần tiện, khổ sở, trong nhân gian không ngóc đầu lên được, tâm tự ty. Đấy là những hiện tượng ta thường thấy trong xã hội. Tây Phương Cực Lạc thế giới không có những chuyện ấy, mọi người tướng mạo hệt như nhau, thể chất giống hệt, tình trạng cuộc sống đồng nhất, học tập như nhau, chẳng có gì bất bình đẳng. Vì thế, họ chẳng sanh khởi phiền não. Phiền não ngạo mạn chẳng thể sanh khởi trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, mỗi cá nhân chẳng khác gì nhau. Phiền não tự ty cũng chẳng thể sanh khởi được, vì mình bình đẳng với hết thảy mọi người. Vì thế, dẫu phiền não tập khí vẫn có, nhưng đến nơi ấy, không có duyên lôi kéo, dẫn dụ những phiền não đó. Tây Phương Cực Lạc thế giới thù thắng khôn sánh như thế đó, mười phương chư Phật khen ngợi. Cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn như vậy đều là bổn nguyện oai thầncông đức tu hành trong vô lượng kiếp của Phật A Di Đà gia trì

Thanh tịnh thọ sanh, “hoa nở thấy Phật ngộ vô sanh”, hoa nở thấy Phật thì cái quý vị thấy chính là báo độ của Như Lai, chúng ta thường gọi là Thật Báo Trang Nghiêm độ. Phàm Thánh Đồng Cư Độ, Phương Tiện Hữu Dư độ ở đâu? Thưa cùng quý vị: Ở trong hoa sen! Lúc hoa sen chưa nở, những cõi ấy ở ngay trong hoa sen. Chúng ta xem trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, vãng sanh Hạ Hạ Phẩm thuộc Phàm Thánh Đồng Cư Độ, phải bao lâu hoa mới nở? Mười hai kiếp. Thời gianTây Phương Cực Lạc thế giới dài nhất là mười hai kiếp hoa nở. Trong mười hai kiếp hoa chưa nở, tình trạng sanh hoạt trong hoa như thế nào? Đọc kinh Hoa Nghiêm mới hiểu, kẻ ấy ở trong hoa cảm nhận hoa là thế giới, thế giới ở trong hoa. Thế giới trong hoa không khác gì Tây Phương Cực Lạc thế giới, không đọc Hoa Nghiêm không hiểu được cảnh giới này. 

Kinh Hoa Nghiêm cho chúng ta biết: Đại thế giới, đại vũ trụ này và thế giới trong một vi trần không hai, không khác. Trong một hạt vi trầnmột thế giới, vào thế giới trong vi trần đó và vào trong đại thế giới không khác gì nhau, không lớn, không nhỏ. Vì vậy, thế giới trong hoa thật ra hoàn toàn tương đồng với Cực Lạc thế giới; về căn bản, tự mình chẳng biết mình đang ở trong hoa. Ở trong hoa, ngày ngày quý vị thấy Phật, ngày ngày cùng các thượng thiện nhân ở chung một chỗ. Do đây biết: Cực Lạc thế giới vô lượng vô biên. Nơi mỗi một đóa sen đã có người thác chất nơi liên thai thì hoạt động trong hoa sen ấy và hoạt động trong Cực Lạc thế giới chẳng khác gì nhau. Đúng là ở trong hoa ấy, quý vị trưởng dưỡng thánh thai, tu hành trong ấy. Dẫu hoa chưa nở, quý vị muốn đến mười phương thế giới tham phỏng chư Phật chẳng trở ngại gì. Theo như kinh nói, quý vị thấy rất nhiều đại chúng, mỗi ngày cúng Phật, nghe pháp. Cúng Phậttu phước báo, nghe pháp mở mang trí huệ, phước huệ song tu. Nghe Bổn Sư A Di Đà Phật giảng kinh, thuyết pháp; đồng thời lại có thể nghe mười phương hết thảy chư Phật giảng kinh, thuyết pháp. Còn có nhân duyên thế gian, xuất thế gian nào thù thắng hơn được nữa? Tìm không thấy! Vì thế, mười phương chư Phật khen ngợi A Di Đà Phật “ánh sáng cao quý nhất, vua trong các Phật”. Chúng ta có hiểu được như vậy thì sau đấy tâm ta mới định, không còn vọng tưởng nữa. 

Nếu các đồng học muốn học kinh giáo, trước hết phải nắm chắc Tịnh Độ rồi mới học kinh giáo; dẫu có chướng ngại cho việc nâng cao phẩm vị, nhưng quý vị quyết định được vãng sanh. Nếu quý vị chẳng nắm chắc việc vãng sanh Cực Lạc thế giới, trong hiện tại quý vị học kinh giáo rất nhiều, tinh lực lẫn thời gian đều bị phân tán. Nói cách khác, đến lúc lâm chung có được vãng sanh hay không vẫn là ẩn số, vẫn là một câu hỏi bỏ ngỏ! Từ cổ đến nay rất nhiều pháp sư giảng kinh, nhân vì một ý niệm sai lầm nên lầm lạc, một phen lầm lạc rất phiền, đời đời vẫn luân hồi lục đạo y như cũ. Vì người ấy đời trước làm pháp sư, giảng kinh thuyết pháp, pháp bố thí, tài bố thí, giảng kinh là nội tài bố thí nên đời sau được hưởng phước báo

Quý vị hãy nhớ đến đồng học của ngài An Thế Cao. Ông ta hiểu kinh, thích bố thí, nhưng tâm sân khuể chưa đoạn. Lòng sân khuể của ông ta không nghiêm trọng lắm. Ông đi khất thực – lúc bấy giờ còn theo chế độ khất thựcthí chủ cúng dường ông ta cơm, thức ăn không ngon, tâm ông cảm thấy rất khó chịu, có một chút vậy thôi mà đọa làm thân súc sanh! Đọa vào loài rắn, trở thành long vương, tức long vương hồ Động Đình. Vị đồng học của An Thế Cao khi thọ mạng sắp hết, tự biết mình sẽ đọa địa ngục, vì sao? Lúc làm long vương, ông ta đã tạo không ít tội nghiệp. Tâm sân nặng nề: “Ngươi đến lễ ta, cúng dường ta, ta đối xử với ngươi rất tử tế, bảo hựu ngươi thượng lộ bình an. Nếu ngươi không lễ ta, không cung kính ta, không cúng dường ta, cho ngươi nếm một chút ma thuật, khiến đường ngươi đi chẳng được bình an, thậm chí ngươi bị lật thuyền”; tạo rất nhiều tội nghiệp! Có thần thông như thế thì có thể quậy phá chúng sanh, nhưng quả báo sau khi chết đi chẳng kham tưởng tượng nổi. May là An Thế Cao chưa đọa lạc, Ngài là một vị cao tăng khai ngộ, đắc đạo, nên long vương bèn cầu Sư siêu độ

Mẫu chuyện này được chép trong truyện ký về ngài An Thế Cao, quý vị đều đọc cả rồi. Vàn muôn chớ tạo ác nghiệp, nhất định phải hiểu “một miếng ăn, một hớp uống, không gì chẳng phải tiền định”. Nhân quả của mỗi người, người ấy phải tự gánh vác, không ai chịu thay được. Ấn Quang đại sư là một vị đại thiện tri thức cận đại, cả đời giáo hóa của Ngài nói thật ra chỉ là hai việc: Một là khuyên người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ; hai là khuyên người chú trọng nhân quả báo ứng. Trong các sách nhân quả báo ứng, Ngài nói sách An Sĩ Toàn Thư tốt nhất, kế đến là Cảm Ứng Thiên Vựng Biên; suốt đời Ngài dùng những sách này giáo hóa chúng sanh

Nhân quả báo ứngđịnh luật thăng trầm trong luân hồi lục đạo, quý vị làm lành nhất định cảm được thiện báo, quý vị làm ác nhất địnhác báo. Cát - hung họa - phước, thiện ác báo ứng thuộc quyền quý vị, chẳng do ai khác cả! Bị người khác hãm hại không sao cả! Nói thật ra, bị người khác hãm hại mà chính ta không có tâm sân khuể, không có tâm báo thù, tai nạn bèn tiêu. Chính mình trong vô lượng kiếp đời quá khứ đã tạo tội nghiệp, mọi người thường nghe nhà Phật nói “tội nặng, báo nhẹ”, thế nào là “tội nặng báo nhẹ”? Ta bị người khác sỉ nhục, bị người khác hủy báng, bị người khác hãm hại, đấy đều là quả báo. Rất có thể tội ta rất nặng, do những chuyện ấy, ta trả báo từng chút một. Ta gặp phải những chướng nạn ấy không có tâm sân khuể, không có tâm báo thù, mình phải tự khéo kiểm điểm. Cổ đức từng nói: “Hữu tắc cải chi, vô tắc gia miễn” (có lỗi bèn sửa đổi, không lỗi càng thêm cố gắng). Nghiệp chướng tiêu trừ, tội nặng báo nhẹ! 

Bởi vậy, đối với người hủy báng, người hủy nhục, người hãm hại, mình chỉ cảm ơn! Nếu họ gặp phải chướng nạn, mình sẽ toàn tâm toàn lực giúp đỡ họ, không oán hận mảy may. Đó gọi là “học Phật”, đó gọi là “chân chánh thọ dụng Phật pháp, hưởng lợi ích nơi Phật pháp”. Oán kết hóa giải, oan gia nên mở đừng nên buộc, chớ kết oán cùng người. Lúc kết oán sẽ oan oan tương báo, đời đời kiếp kiếp chẳng xong, hai bên cùng đau khổ, còn làm liên lụy người khác. Bởi thế, phải nghĩ kỹ những lý sự ấy, vì muốn tránh khỏi những buộc ràng đời đời kiếp kiếp, quý vị phải hạ tâm quyết định, trong một đời này nhất định phải sanh về Cực Lạc thế giới, nhất định phải thấy A Di Đà Phật! Chuyện gì cũng bỏ ra sau, cũng không quan trọng, chẳng đáng kể. A! Bây giờ đã hết giờ rồi. 
 
 

*
 
 

Chư vị đồng học! 

Xin xem tiếp tiểu đoạn thứ ba của phần “hoa sen bốn màu”: 

“Thật ra, quang minh, màu sắc vô lượng, chỉ lược nói bốn màu mà thôi”. Trong kinh này chỉ nói bốn màu là xanh, vàng, đỏ, trắng; nhưng thật ra, quang minh và ánh sáng rất nhiều thứ. Bốn màu ấy nay được gọi là nguyên sắc (màu gốc), bốn màu ấy pha chế thành vô lượng màu sắc. Điều cuối cùng:
 
 

“Cực Lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm”. 

(Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế)
 
 

Câu này tổng kết cả đoạn. “Lúc Phật Di Đà còn tu nhân, dùng bốn mươi tám nguyện nhiếp thủ hai trăm mười ức cõi Phật”, chúng ta đã đọc thấy điều này trong kinh Vô Lượng Thọ, con số “hai trăm mười ức” hàm nghĩa viên mãn. Trong Mật giáo - Phật phápHiển giáoMật giáo - Hiển giáo thường dùng con số Bảy, con số Mười hoặc con số Một Trăm để biểu thị ý nghĩa viên mãn, Mật giáo dùng con số Mười Sáu hay con số Hai Mươi Mốt để biểu thị ý nghĩa viên mãn. Hai Trăm Mười Ức là đại viên mãn! Vì thế, hai trăm mười ức không phải là con số [thật sự], vì nếu đúng là một con số [nhất định] thì hai trăm mười ức chưa nhiều lắm. Con số này biểu thị ý nghĩa đại viên mãn, không sót một cõi Phật nào, cả pháp giới tận hư không giới không sót một cõi Phật nào. 

Chẳng những không sót một cõi Phật nào, như nay ta đã biết, chúng ta đọc kinh Hoa Nghiêm hiểu được thế giới trùng điệp, trùng trùng vô tận. Trong mỗi một vi trần đều có thế giới, trong mỗi thế giới lại có vi trần, trong mỗi vi trần lại có thế giới, đó là tánh đức chẳng thể nghĩ bàn! Hai trăm mười ức hoàn toàn bao quát, trùng trùng vô tận thế giới đều được gộp trong ấy. Nói cách khác, khi A Di Đà Phật còn là Bồ Tát, vô lượng vô biên trùng điệp cõi nước thuộc pháp giới hư không giới Ngài đều từng đến thăm. Mục đích thăm viếng là gì? Lấy ưu điểm, bỏ khuyết điểm để kiến lập một hoàn cảnh tu học tối hảo, tức thế giới Cực Lạc! 

Thế giới Cực Lạc do đâu có? Chẳng phải do A Di Đà Phật bỗng dưng tưởng tượng ra. Ví như một người thật sự có trí huệ, có đại phước đức, mong kiến lập một quốc gia, sao cho quốc gia ấy thù thắng nhất, tốt đẹp nhất trong hết thảy tất cả các quốc gia trên thế giới này; chí nguyện ấy rất hy hữu, thực hiện bằng cách nào đây? Người ấy phải đi thăm mỗi quốc gia, đến học hỏi những ưu điểm của mỗi một quốc gia. Ưu điểm thì chọn lấy, khuyết điểm thì nhất luật sửa đổi; lẽ đương nhiên quốc gia ấy đứng đầu thế giới. Phải rất nghiêm túc học tập một cách không thành kiến, ngay cả những quốc gia rất lạc hậu, nay ta gọi là “quốc gia chưa khai hóa”, vẫn có những điểm đáng học hỏi

Chẳng hạn như mấy năm trước đây, có một vị đồng học đề nghị tôi xem cuốn sách Âm Thanh Hoang Dã, do một người Mỹ viết. Bà vào nội địa châu Úc, sống cùng thổ dân một thời gian, miêu tả tình hình cuộc sống của chính bọn họ. Điều đáng quý nhất là bọn họ có tâm yêu thương, đoàn kết, niệm niệm luôn quan tâm đến bộ lạc mình, hoàn toàn sống sanh hoạt trong thiên nhiên, không tự tư tự lợi, không có dục vọng chiếm hữu. Quý vị nghĩ xem: Mọi người chúng ta hiện nay ai nấy đều chiếm hữu, tôi sống trong nhà này là tôi chiếm hữu, đất đai quanh nhà tôi thuộc quyền tôi chiếm hữu! Thổ dân châu Úc không có những quan niệm ấy, họ cảm thấy rất lạ lùng [trước những quan niệm ấy], đất đai thuộc thiên nhiên, là của chung của hết thảy chúng sanh, sao anh lại có thể chiếm hữu một khoảnh được? Quan niệm ấy hay lắm! Bởi thế từ trước đến nay họ chưa hề có tranh chấp về quyền chiếm hữu, không hề có. Mọi người cùng chung hưởng thọ, bình đẳng hưởng thọ, hy hữu thay! 

Vậy thì quý vị nói họ không có văn tự, không có văn hóa, nhưng họ có rất nhiều quan niệm tốt, cách nghĩ tốt, hành trì tốt đáng cho chúng ta học hỏi, ta không thể coi thường được. Đặc biệt là y dược, những thổ dân ấy có cách chữa trị riêng, chúng ta hoàn toàn không hiểu được. Có một thổ dân bị thương rất nghiêm trọng, bọn họ dùng một loại thảo dược bôi lên một lần, mấy giờ sau người ấy khôi phục, hoàn toàn bình thường; tuy trước đó bị ngã gãy lòi xương! Loại y dược ấy có đạo lý riêng, chúng ta không hiểu nổi. Kinh nghiệm được lưu truyền cả mấy ngàn năm, vạn năm, đời đời truyền cho nhau. Sống ngoài hoang dã gặp phải độc xà, mãnh thú, họ biết loại dược thảo nào có thể giải độc, thật sự trị được bệnh. Họ chẳng hề có máy móc, phòng thí nghiệm hóa học, cũng chẳng có lý luận gì để bàn thảo, nhưng trong ấy có đại đạo lý. Bởi vậy, dẫu cho những thổ dân chưa được khai hóa, họ cũng có văn hóa riêng, có đặc sắc riêng. Nếu chúng ta đều học hỏi tất cả những ưu điểm, sửa đổi tất cả các khuyết điểm, quốc gia của ta sẽ đứng đầu thế giới. A Di Đà Phật sử dụng biện pháp ấy. Ngài chu du tất cả hết thảy cõi nước trong pháp giới hư không giới, chọn lấy ưu điểm, loại bỏ khuyết điểm, kiến lập thế giới Cực Lạc. Vì thế, thế giới Cực Lạc biến thành đệ nhất. 

“Được thành tựu bởi công đức xứng tánh”: Chẳng thể nghĩ bàn bậc nhất, hoàn toàn do tánh đức lưu lộ, còn chi hơn được? A Di Đà Phật mảy may tư tâm chẳng có, niệm niệm đều vì giúp đỡ rất nhiều người hữu chí học đạo trong pháp giới, hư không giới. Hết sức đáng tiếc là bọn họ chẳng có hoàn cảnh tu học rất tốt, thường gặp phải chướng ngại, đạo nghiệp khó thành tựu. Phật vì những người như vậy, tạo nên một hoàn cảnh tu học tối hảo, hoàn cảnh tu học ấy chẳng phải do Ngài vắt kiệt trí óc tưởng tượng ra, mà do tham phỏng khắp pháp giới. Sau đây, chúng tôi phải nêu lên một chi tiết để các đồng học tham khảo

“Đọc kinh sử để thâu thập kinh nghiệm của cổ nhân”. Ngàn vạn phần chớ nghĩ cổ nhân chẳng bằng người hiện tại, nếu nghĩ vậy là lầm mất rồi. Trí huệ, kinh nghiệm của cổ nhân thường cao hơn người hiện nay rất nhiều. Đương nhiên người đời nay cũng có những phát minh, ta không thể phủ nhận được. Học hỏi từ cổ nhân thì học vấn của chúng ta sẽ có căn bản. “Tham học, thâu thập thành quả của người hiện thời”. Cổ nhân trong nước, ngoài nước ta đều phải học, học theo A Di Đà Phật. A Di Đà Phật thông minh, tâm rỗng rang học hỏi, thâu gom những thành tựu lớn lao nơi kinh nghiệm, học thuyết trong ngoài xưa nay để kiến lập thế giới Cực Lạc, đấy đúng là “đọc vạn quyển sách, đi vạn dặm đường”, chúng ta phải “thờ A Di Đà Phật làm thầy, học theo hạnh A Di Đà”. Những gì Phật A Di Đà dạy chúng ta ở đây, chúng ta phải học tập theo, trọn chẳng coi thường người khác thì mới có thể thành tựu học vấn, đức hạnh chân chánh. 

Trung Quốc lần đầu tiên bất hạnh gặp phải bệnh truyền nhiễm SARS tấn công. Qua lịch sử, ta có thể thấy rõ từ cổ đến nay, tại mỗi một quốc gia, khu vực đều có ôn dịch phát sanh. Cứ mỗi lần ôn dịch phát sanh đều có người tìm ra cách trị liệu. Chúng ta thấy nhà tiên tri Nặc Tra Đan Ma Tư (Nostradamus) người Pháp sống vào thế kỷ 16, cũng là một thầy thuốc. Ông ta sanh nhằm thời đại bị ôn dịch nghiêm trọng, ông cũng là danh y, phương thuốc của ông chữa trị bệnh dịch ấy rất hữu hiệu. Trong lịch sử Trung Quốc cũng có mấy lần ôn dịch rất nghiêm trọng, đều có những thầy thuốc cao minh tìm ra phương thuốc hóa giải được những bệnh ôn dịch ấy. Tinh thần khoa học rất đáng tán dương, nhưng nếu tinh thần khoa học đi theo hướng thiên kiến, quá khích, hẹp hòi, không bao dung, chẳng thể nghiên cứu, học tập rộng rãi, thì khoa học chuốt nhọn sừng trâu chạy vào tử lộ. Chúng ta hãy nghĩ xem phương pháp học tập của Phật A Di Đà có hợp với khoa học hay chăng? Ngài cái gì cũng học, quyết chẳng buông bỏ một phương diện, lãnh vực nào, cổ kim trong ngoài đều học hết, thành tựu học vấn cho chính mình, thành tựu đức năng cho chính mình, đấy là một tấm gương tốt
 
 

6.3.1.2.4. Thiên nhạc vũ hoa (nhạc trời, mưa hoa)
 
 

Lại xem tiếp đoạn thứ sáu kế đó, “thiên nhạc vũ hoa”. Chúng tôi đọc đoạn kinh văn này một lượt. 
 
 

“Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ thường tác thiên nhạc, hoàng kim vi địa. Trú dạ lục thời, vũ thiên mạn-đà-la hoa. Kỳ độ chúng sanh, thường dĩ thanh đán, các dĩ y kích, thạnh chúng diệu hoa, cúng dường tha phương thập vạn ức Phật, tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc, phạn thực kinh hành” 

(Lại này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thường tấu nhạc trời, vàng ròng làm đất. Ngày đêm sáu thời, mưa hoa mạn-đà-la cõi trời. Chúng sanh cõi ấy, thường vào sáng sớm, ai nấy dùng y kích đựng hoa trời cúng dường mười vạn ức Phật phương khác chỉ trong thời gian một bữa cơm, trở về nước mình, dùng cơm, kinh hành)
 
 

Đoạn kinh văn này chúng tôi phải phân thành mấy tiểu đoạn để giới thiệu. Đoạn này giảng về thiên thời, nhạc cõi trời, “y kích thạnh hoa”, “tha phương cúng Phật”, “phạn thực kinh hành”. Chúng ta đọc đoạn kinh văn này, văn tự không nhiều, cảnh giới đúng là có thể hiển hiện ngay trước mắt. “Y kích thạnh hoa” (giỏ hoa đựng hoa), “y kích” giống như cái người Tàu gọi là “hoa lam” (giỏ hoa), cái người cổ Ấn Độ dùng để đựng hoa được gọi là “y kích”. Cũng có người nói dùng y phục túm lại đựng hoa, không nhất định; bởi lẽ chúng ta không hiểu rõ phong tục tập quán thời ấy; nhưng để đựng hoa thì người Tàu dùng giỏ hoa đựng hoa. Đây chính là “không có cái khổ Cầu Bất Đắc”, “y thực sung sướng”. Quần áo tự tại, uống ăn tự tại, trong phần ăn uống thì “phạn thực, kinh hành” (dùng cơm, kinh hành). Chủ yếu vẫn là “không có nỗi khổ Cầu Bất Đắc”. 

Chúng ta qua các thế giới phương khác cúng Phật “cúng dường tha phương thập vạn ức Phật”, hoa để cúng Phật. Quý vị thích loại hoa nào, trên không bèn rơi xuống loại hoa ấy, “vũ thiên mạn-đà-la hoa” (mưa hoa mạn-đà-la cõi trời). Chữ Vũ có nghĩa là từ trên rơi xuống, đọc là Yù, là động từ chỉ hành động rơi xuống. Hoa trời rơi xuống, từ trên không trung rơi xuống. “Mạn-đà-la” là tiếng Phạn, có nghĩa là gì? Dịch sang tiếng Tàu là Thích Ý, quý vị thích hoa nào, loại hoa đó sẽ rơi vào y kích của quý vị. Quý vị thích hoa sen, sẽ thấy hoa rơi xuống là hoa sen. Quý vị thích hoa mai, sẽ thấy hoa mai rơi xuống. Thích hoa mẫu đơn, hoa mẫu đơn rơi xuống. Thích hoa lan, hoa lan rơi xuống. Thích Ý nghĩa là vừa ý mình, tự mình thích hoa gì, hoa đó bèn rơi xuống. Đó gọi là Mạn Đà La, bởi thế Mạn Đà La không phải chỉ một thứ. “Không có nỗi khổ Cầu Bất Đắc”, đúng là tâm tưởng sự thành, thuận theo lòng muốn. Chuyện này trong thế gian chúng ta không thể có được, thế giới của chư Phật cũng ít có, thế giới Cực Lạc được Di Đà bổn nguyện oai thần gia trì, công đức viên mãn không khiếm khuyết.

“Tha phương cúng Phật” là “cúng dường mười vạn ức Phật phương khác”, “được niềm vui thần thông, niềm vui hầu nhiều đức Phật”, trong thế gian này chúng ta muốn thân cận một đức Phật chẳng dễ dàng, chẳng có phước báo lớn như thế. Quý vị vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng giống như vãng sanh hết thảy thế giới chư Phật, phải hiểu điều ấy! Có rất nhiều người không hiểu đạo lý này! Lúc tôi còn trẻ, có những đồng tham đạo hữu hết sức ngưỡng mộ Di Lặc Bồ Tát, nhất tâm nhất ý cầu sanh về tịnh độ Di Lặc. Tịnh độ Di Lặc ở đâu? Trên trời Đâu Suất là tầng trời thứ tư của Dục Giới. Đâu Suất thiênPhàm Thánh Đồng Cư độ, có nội viện và ngoại viện. Ngoại viện là phàm phu, tức chư thiên của tầng trời thứ tư trong Dục Giới. Nội việntịnh độ của Di Lặc Bồ Tát. Trên trời Đâu Suất, những thiên chúng bình phàm của trời Đâu Suất không thấy được Di Lặc Bồ Tát

Tốt! Rất hy hữu! Tương lai, Di Lặc Bồ Tát giáng sanh trong thế gian này thị hiện thành Phật, bọn họ đều là đại đệ tử của Di Lặc Bồ Tát, giống như những vị Xá Lợi Phất, Mục Kiện Liên trong pháp hội này của Thích Ca Mâu Ni Phật. Nhưng quý vị có dám chắc được sanh về Đâu Suất nội viện hay không? Yêu cầu của Đâu Suất nội viện rất cao, điều kiện rất nghiêm nhặt, người bình thường chẳng đạt được tiêu chuẩn ấy, quý vị không có cách nào vãng sanh được. Chúng ta biết Di Lặc Bồ Tát là chuyên gia về Duy Thức, Ngài thật sự là tổ sư của Pháp Tướng Duy Thức tông, đương nhiên phải tu học tương ứng với Ngài, Ngài tu pháp môn nào? Duy Tâm Thức định, trong Pháp Tướng Tông gọi là ngũ chủng Duy Thức quán; quý vị phải tu thành mới có thể vãng sanh. Ngũ chủng Duy Thức quán chẳng phải là chuyện dễ, khó hơn Niệm Phật rất nhiều. 

Tu tịnh độ Di Lặc bao nhiêu người? Thật sự được vãng sanh về nội viện có mấy người? Chúng ta biết cận đạiHư Vân lão hòa thượng sanh về Di Lặc nội viện. Trong Niên Phổ, chúng tôi thấy Ngài đã từng nhập định lên được trời Đâu Suất, Di Lặc Bồ Tát giảng kinh ở đấy. Tại pháp tòa, có mấy người đại sư nhận biết. Đó là những người tu tịnh độ Di Lặc thành công, Hư Vân lão hòa thượng quen biết, Ngài kể ra. Những người ấy chắc chắn được sanh. Vẫn còn có rất nhiều người tu tịnh độ Di Lặc, Hư Vân lão hòa thượng không thấy, không biết họ lưu lạc vào đường nào rồi! Bởi vậy khó lắm, rất ư là khó! Tôi từng nói với các đồng tham đạo hữu, tôi nói rất cặn kẽ: “Quý vị khéo gắng tu, nếu quý vị thật sự thành tựu, vãng sanh Di Lặc nội viện, tôi có thể thường đến thăm quý vị”. Họ sững sờ: “Ông có bản lãnh gì mà thường đến thăm chúng tôi?” 

Tôi nói: 

- Ông không biết đâu! Tôi tu Tịnh Độ Di Đà, sau khi tôi vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, ông thấy đó “cúng dường tha phương thập vạn ức Phật”, tôi mỗi ngày đều có thể đến Di Lặc nội viện đi chơi rong. Quý vị tu thành công, tu đến Di Lặc nội viện, nhưng không đến được thế giới Cực Lạc. Tôi có thể thường đến chỗ quý vị dạo loanh quanh, quý vị không có cách chi đến chỗ tôi được. Nguyên nhân nào? Di Lặc Bồ Tát thường đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, đến làm chi? Lên lớp! Pháp Tướng Duy Thứcmôn học tại Tây Phương Cực Lạc thế giới do Di Lặc Bồ Tát dạy, Ngài là thầy dạy học của thế giới Cực Lạc, chúng tôihọc sinh. Học sinh của A Di Đà Phật thì vị Phật nào, Bồ Tát nào cũng đều rất tôn trọng. Chúng tôi thưa cùng Di Lặc Bồ Tát: “Hôm nay con đến nội viện Ngài chơi”; chắc chắn Di Lặc Bồ Tát rất hoan hỷ: “Đến đi, xin mời!” nên đi được!

Như vậy, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới là sanh về thế giới của hết thảy chư Phật, Bồ Tát, bất luận một tịnh độ Phật, Bồ Tát nào, muốn đến bèn đến, chẳng thể nghĩ bàn! Quý vị muốn tu tịnh độ Di Lặc vị tất thành tựu, tôi thật sự có thể thành tựu. Quý vị tu cái khó, tôi tu cái dễ. Tôi một thành, hết thảy đều thành; quý vị có tu thành tựu thì chỉ thành tựu được một cái đó, chẳng thể đến thế giới chư Phật ở phương khác được! Không thể không hiểu đạo lý này. Hiểu rõ chân tướng sự thật của đạo lý này, thì đối với pháp môn Tịnh Độ, quý vị sẽ chết lòng trọn ý. Bởi vậy, sanh vào thế giới Cực Lạc có sự vui hầu hạ nhiều đức Phật, mười phương tam thế hết thảy chư Phật Như Lai, thảy đều thân cận hết thảy Pháp Thân Bồ Tát

Trong phần thứ hai, giảng về “cúng dường tha phương thập vạn ức Phật”, nhất định phải hiểu ý nghĩa câu “riêng vì chúng sanh cõi này mà nói”. “Nêu rõ ý: sau khi vãng sanh, có năng lực tùy thời qua lại cúng dường Bổn Sư, Di Lặc, phổ độ kẻ oán người thân, đều chẳng khó khăn gì”. Mười vạn ức cõi Phật rất gần, không phải là khoảng cách xa. Phàm ai vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đều có thể cúng dường vô lượng vô biên các đức Phật Như Lai trong các cõi Phật phương khác, há chỉ mười vạn ức cõi! Mười vạn ức cõi đáng kể chi! Sở dĩ nói “mười vạn ức cõi” là vì thế giới Sa Bà của chúng ta chỉ cách thế giới Cực Lạc mười vạn ức cõi, nên đặc biệt nói như vậy với ngụ ý: Mười vạn ức cõi thường có thể qua lại, ngày ngày đều qua lại, muốn qua là qua. 

Đó là vì có một loại chúng sanh còn lưu luyến thế giới Sa Bà, trong thế giới ấy vẫn còn có rất nhiều người nhà quyến thuộc, vẫn còn có thân bằng bè bạn, thường nghĩ tới họ, ta về thế giới Cực Lạc rồi, có trở lại gặp họ được chăng? Thưa cùng quý vị: Quý vị sanh về thế giới Cực Lạc, bất cứ lúc nào đều có thể quay về! Nếu chúng ta hỏi: Bất cứ lúc nào đều có thể quay về, có ai vãng sanh thế giới Cực Lạc quay về đâu? Vì sao họ không quay về? Có phải họ quên hết rồi chăng? Chúng ta hằng ngày nhớ đến họ, họ cũng không quay về. Phải hiểu rõ chân tướng sự thật này, kinh Vô Lượng Thọ giảng rất rõ, người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới thuộc Hạ Hạ Phẩm, được bổn nguyện oai thần của Phật A Di Đà gia trì, thiên nhãn thấy thấu suốt, thiên nhĩ nghe thông triệt, Tha Tâm Thông biết khắp mọi chuyện. Không hề có chuyện họ chẳng nghe được, thấy được, chẳng biết được tình hình chúng ta! 

Vì sao họ chẳng trở về? Không về chắc chắn là có nguyên nhân không về! Thiện Đạo đại sư nói: “Nói chung là gặp duyên bất đồng”, vì duyên chưa thành thục, duyên thành thục bèn đến. Ở trên tôi đã nói cùng quý vị, Giao Quang pháp sư soạn Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn Sư, thật sự có đến. Sư vì muốn chú giải kinh Lăng Nghiêm, xin khất lại cùng A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chuẩn hứa, Phật liền đi. Sư mắc bệnh, bệnh liền khỏe. 

Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, chúng ta thấy pháp sư Oánh Kha đời Tống, nhất tâm cầu sanh Tịnh Độ, một câu Phật hiệu niệm suốt ba ngày ba đêm, thật sự niệm được A Di Đà Phật đến. A Di Đà Phật bảo Sư, đúng là chí thành cảm thông, Phật bảo: “Ngươi còn thọ được mười năm, ngươi khéo niệm Phật dụng công, đến mười năm sau ngươi hết tuổi thọ, ta lại đến tiếp dẫn ngươi”. Oánh Kha thông minh: “Con không cần sống thêm mười năm, con muốn theo Phật ngay bây giờ!” Thật sự buông xuống được! A Di Đà Phật cũng đáp ứng, bảo Sư: “Tốt! Ba ngày sau nữa ta đến tiếp dẫn ngươi!” Ba ngày sau quả thật được vãng sanh. Sư không sanh bệnh, lúc vãng sanh đại chúng trong tự viện niệm Phật trợ niệm Sư. Niệm chưa được bao lâu, Sư bảo mọi người: “A Di Đà Phật đến rồi, đến tiếp dẫn tôi, nay tôi theo Ngài”. Nói xong bèn mất. 

Phàm mọi sự ắt có thời tiết nhân duyên, chẳng phải họ không đến gặp chúng ta, chỉ vì chính chúng tanghiệp chướng, nghiệp chướng của chúng ta sanh ra chướng ngại. Chướng ngại chẳng ở nơi họ, mà ở nơi chúng ta. Trước kia, Chương Gia đại sư bảo tôi: “Chỉ cần tích cực sám trừ nghiệp chướng, cảm ứng tùy thời hiện tiền chẳng thể nghĩ bàn”. Bởi vậy, chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa câu “mười vạn ức cõi Phật”, cốt ý nói với chúng sanh thế giới Sa Bà, tỏ rõ ý nghĩa: Sau khi vãng sanh, quý vị có thần thông, có năng lực tùy thời qua lại như thế, nếu đối với Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, đối với Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Phật vẫn còn có tình chấp, vẫn có lòng tưởng niệm, thường mong đến gặp gỡ, được! Không có vấn đề gì! Trong nhà quý vị còn có cha mẹ anh em, thân thích bằng hữu, “phổ độ kẻ oán người thân” đều chẳng khó khăn, tùy thời đều có thể đến. Lúc ấy, quý vị có năng lực quán sát căn cơ, lúc nào cơ duyên thành thục, lúc nào nên đến. 

“Phạn thực kinh hành”: Lúc ăn cơm; “thanh đán”: sáng sớm, “thường vào sáng sớm”, “vì thế nói “tức dĩ” (ngay trong lúc ấy), minh thị thần túc chẳng thể nghĩ bàn, chẳng lìa cõi kia, thường ở khắp mười phương, chẳng tốn thời gian trở về”. Thần túc chẳng thể nghĩ bàn ta gọi là Thần Túc Thông, phi hành tự tại. Kinh nói “tức dĩ thực thời” (ngay trong giờ cơm), nghĩa là trong thời gian ăn một bữa cơm, thời gian không lâu, trong khoảng thời gian một bữa ăn đã đến được vô lượng vô biên cõi Phật tham phỏng rồi trở về

Tham phỏng các cõi Phật cùng một lúc thì đi bằng cách nào? Hóa thân mà đi. Một thân có thể hiện vô lượng thân. Nếu chẳng hiện vô lượng thân, đến gặp mỗi đức Phật, phải cần không ít thời gian! Ở chỗ mỗi đức Phật chừng một giờ, không cần nói nhiều chư Phật Như Lai, chỉ nói mười vạn ức cõi như ở đây thôi, đã phải mất mười vạn ức giờ mới về được! Phân thân đi. Đồng thời trong mỗi cõi Phật, trước mỗi một đức Phật đều có quý vị, quý vị ở đó dâng hoa, cúng dường bằng hoa, nghe Phật thuyết pháp. Quý vị chẳng lìa thế giới Cực Lạc, vẫn nghe A Di Đà Phật giảng kinh thuyết pháp, nhưng phân vô lượng thân đi cúng dường hết thảy Phật, nghe hết thảy Phật thuyết pháp. Mỗi ngày học không biết là bao nhiêu!

Trong thế gian này của chúng ta, quý vị ở trong lục đạo, chẳng thoát khỏi lục đạo. Trong lục đạo, quý vị học vô lượng kiếp, thì ở Tây Phương Cực Lạc thế giới chỉ một ngày là xong. Bởi vậy nghĩ lại nơi này, học kinh giáo phải siêng khổ đến mức nào? Học rất khổ sở! Do đó, những người thông minh bậc nhất sẽ buông xuống vạn duyên, ngay cả kinh giáo cũng buông luôn, vì sao? Đến thế giới Cực Lạc sẽ học tiếp; hiện thời phải đắc thủ Cực Lạc thế giới một cách ổn thỏa, thích đáng cái đã! Học một kiếp ở đây vẫn không bằng học một ngày trong thế giới Cực Lạc. Vì sao? Trong khoảng thời gian một ngày người ta có thể đi tham phỏng vô lượng vô biên Phật, nơi mỗi một đức Phật chẳng cần nghe nhiều, nghe một câu đã tuyệt diệu rồi! Quý vị dạo một vòng như thế nghe được vô lượng vô biên Phật pháp. Vì thế, quý vị ắt hiểu rõ vì sao ở Tây Phương Cực Lạc thế giới thành Phật dễ dàng đến thế!

Ở đây chúng ta học rất khổ sở, chướng nạn rất nhiều, bên kia người ta học rất dễ. Đã thế, họ chẳng phải nghe những pháp sư tầm thường giảng, tuyệt đại đa số pháp sư chưa khai ngộ, còn là phàm phu! Còn ở kia, quý vị đi nghe giảng kinh thuyết pháp, nghe từ chư Phật Như Lai, không phải là Đẳng Giác Bồ Tát, không phải là Bồ Tát Ma Ha Tát, quý vị học trực tiếp từ chư Phật Như Lai. Hoàn cảnh tu học như vậy quý vị tìm đâu ra được? Ngoại trừ Cực Lạc thế giới, không tìm được ở đâu hết! Bởi vậy, ở đây có hai câu: “Chẳng lìa cõi ấy, thường ở khắp mười phương”. Hai câu này rất trọng yếu. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, do năng lực của Thần Túc Thông, có thể phân vô lượng vô biên thân; Tôn Ngộ Không không thể sánh kịp, Tôn Ngộ Không chỉ có bảy mươi hai phép biến hóa, thua xa lắc! 

Đoạn tiếp đó viết: “Văn này”, tức là đoạn kinh văn này, “hiển thị thế giới Cực Lạc, một âm thanh, một hạt bụi, một sát-na, cho đến khoa chân, khảy ngón tay, thảy đều quán triệt vô ngại mười phương Tam Bảo”. Quý vị phải hiểu chữ “mười phương” này có nghĩa là trùng trùng vô tận mười phương thế giới. Trùng trùng vô tận thế giới, phải đọc kinh Hoa Nghiêm mới có một chút ấn tượng. Nếu không đọc Hoa Nghiêm [sẽ không hình dung được, bởi] các kinh Đại Thừa khác ít nhắc tới thế giới trùng trùng vô tận! Hết thảy chư Phật Như Lai, Bồ Tát, Thanh Văn, Tam Bảo ở trong ấy. “Quán triệt” là thông đạt, không có chướng ngại

“Lại hiển thị Sa Bà trược trọng ác chướng không cách ngăn Cực Lạc mà thành ra ngăn cách”. Câu này nói rõ ý nghĩa được hiển thị bởi đoạn kinh văn này. Nay ta là chúng sanh trong thế giới Sa Bà dẫu không tệ lắm, vì trong đời quá khứ từng có thiện căn, có phước đức, nên nghe được pháp môn này, nhưng thế giới của chúng ta đúng là ngũ trược ác thế, nghiệp chướng sâu nặng! Cực Lạc đúng là chẳng ngăn cách gì với ta, như Trung Phong thiền sư đã nói rất hay: “Tâm ta chính là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chính là tâm ta”, “Tịnh Độ chính là phương này, phương này chính là Tịnh Độ”, chẳng ngăn cách! Trung Phong thiền sư không bị ngăn cách, nhưng ta bị. Vì sao chúng ta bị cách ngăn? Nghiệp chướng chưa tiêu, chưa chuyển được ngũ trược. Ngài chuyển được, ta chưa chuyển được; Ngài đã tiêu nghiệp chướng, chúng ta chưa tiêu, chẳng ngăn cách thành ra ngăn cách! 

“Trong Cực Lạc thì công đức rất sâu, tuy ngăn cách với Sa Bà, nhưng chẳng ngăn cách. Ý ấy rất sâu”: Ý này rất sâu, cũng nhằm minh thị rõ vì sao chúng ta tu pháp môn này, vì sao mong cầu Tịnh Độ? Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, bao chướng ngại đối với chúng sanh trong tất cả hết thảy pháp giới không còn nữa, tất cả hết thảy chướng ngại đều bị phá trừ. Chẳng phải là lúc ấy quý vị có thể nói là mình nhớ được đời trước, một đời, hai đời, ba đời, các đời trong quá khứ, vô lượng đời đều nhớ lại hết, ký ức hoàn toàn khôi phục ư? Thấy hết oán thân trái chủ trong đời đời kiếp kiếp. Cá nhân nào cơ duyên thành thục, quý vị nhất định giúp đỡ, đến độ kẻ đó. Lúc đó tâm rộng mở, tâm thật sự bao thái hư, lượng châu sa giới, oán thân đều nghĩ bình đẳng, người oán kẻ thân cùng mình đều là những người hữu duyên. Phật chẳng độ kẻ vô duyên, hễ ai có duyên với ta, ta đều có phương pháp giúp đỡ kẻ ấy, thành tựu kẻ ấy, quý vị nói có tự tại chăng? Ý nghĩa này sâu vậy thay! Hiện tại hết giờ rồi! 
 
 

6.3.1.2.5. Thuyết pháp trang nghiêm
 
 

Chư vị đồng học xin xem tiếp đoạn thứ bảy “thuyết pháp trang nghiêm”, chúng ta đọc qua kinh văn một lượt: 
 
 

 “Phục thứ, Xá Lợi Phất! Bỉ quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu tạp sắc chi điểu, bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá-lợi, ca-lăng-tần-già, cộng mạng chi điểu. Thị chư chúng điểu trú dạ lục thời xuất hòa nhã âm. Kỳ âm diễn sướng Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, như thị đẳng pháp, kỳ độ chúng sanh, văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”. 

(Lại nữa Xá Lợi Phất! Cõi ấy thườg có các loài chim kỳ diệu nhiều màu như chim: bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá-lợi, ca-lăng-tần-già, cộng mạng. Các loài chim ấy, ngày đêm sáu thời, hót tiếng hòa nhã. Tiếng ấy diễn sướng Ngũ Căn, Ngũ Lục, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, các pháp như vậy. Chúng sanh cõi ấy, nghe tiếng ấy rồi, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng)
 
 

Đến đây là một đoạn, tức là đoạn kinh thuyết minh “chúng điểu hóa tích” (các loài chim do Phật hóa hiện). Ở đây chúng ta phải hiểu rõ: Như trong phần sau đức Phật sẽ thuyết minh, những loài chim bên cõi ấy đều là do A Di Đà Phật biến hóa ra, tuyệt đối chẳng thuộc súc sanh đạo. Vì sao Phật chẳng hiện thân Phật thuyết pháp, lại phải biến ra những thân chim ấy để thuyết pháp? Đó là vì Phật thương yêu, che chở chúng sanh không một điều cỏn con nào Ngài chẳng quan tâm. Nếu Phật hiện Phật thân thuyết pháp, học trò nghe pháp sẽ nhất định cung cung kính kính, quy quy củ củ ngồi ở đó, không thể không giữ oai nghi. Còn nếu chim thuyết pháp, họ sẽ rất thoải mái, không bị câu thúc, có thể tùy tiện một chút! Ngồi nghe cũng được, đứng nghe cũng xong, đi nghe cũng được, nằm nghe cũng chẳng sao. Đấy là vì A Di Đà Phật thương yêu, săn sóc chúng sanh, từ chỗ này, chúng ta phải hiểu rõ

Trước kia, tôi thường nghĩ đến đạo tràng trong thế kỷ 21. Tôi nói đạo tràng của thế kỷ 21 chẳng cần phảitự viện, am đường, không mang hình thức ấy. Đạo tràng tu hành của đại chúng phải giống như làng nghỉ hưu của Úc châu, Úc châu thực hiện làng nghỉ hưu rất tốt. Chúng tôi đã đến rất nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới; mỗi lần đến địa phương nào, trước hết tôi đều tìm hiểu sự nghiệp phước lợi dành cho người già. Tại Mỹ, Gia Nã Đại, tôi thường đến thăm khu chung cư dành cho người già. Tôi đến Úc châu, trước hết đi thăm làng nghỉ hưu của bọn họ. Tôi ghé thăm sáu bảy làng nghỉ hưu, tôi hết sức vui mừng, những nơi ấy đáng là đạo tràng của thế kỷ 21, thật sự học Phật, niệm Phật

Về nghỉ hưu, trong làng nghỉ hưu có giảng đường, có thư viện, có rạp chiếu bóng, có thiết bị dạy học từ xa; âm thanh niệm Phật cũng giống như bên chỗ Phật A Di Đà, học theo Ngài, các loài chim hóa hiện. Nay chúng ta không cách gì biến hóa, chúng ta có thể đặt những cái loa nhỏ trên cây, âm thanh thuyết pháp từ trên cây truyền đi. Con người nhàn tản thong dong dưới gốc cây, có thể nghe kinh hay niệm Phật theo. Nếu có lầu, đài, đình, gác thì trong tiểu đình có thể đặt máy truyền hình dây cáp (cable TV), mấy người ngồi trong đình vừa nghe kinh vừa có thể thấy hình ảnh pháp sư. Với kỹ thuật khoa học hiện tại, có thể làm được những chuyện này. 

Mỗi đạo tràng có khóa trình tu chánh, có thể nói là mỗi một tông phái đều có thể thực hiện được. Nghỉ hưu rồi ở những nơi đó, bất luận ở bất cứ chỗ nào trong làng nghỉ hưu cũng là đạo tràng, có phải rất tự tại hay không? Đại chúng cùng tu học một chỗ, nhưng không nhất định phải tụ tập vào một giảng đường. Quy mô các làng nghỉ hưu ở Úc Châu đều rất lớn; vì thế, mỗi một làng nghỉ hưu giống như một công viên, diện tích đất đai rất lớn. Trong ấy, hoa cỏ cây cối, cầu nhỏ, suối nước, quý vị vào đó thăm quả thật rất đáng lưu luyến. Nếu có thể gắn thêm những thiết bị điện tử, tùy thời có thể thấy hình ảnh, nghe tiếng niệm Phật, tiếng giảng kinh, nơi đó sẽ giống như thế giới Cực Lạc. Thời thời khắc khắc đều nhắc nhở chính mình đừng quên niệm Phật

“Sáu thời diễn pháp”, nghe kinh, nghe pháp ngày đêm chẳng gián đoạn, đó là “sáu thời”, cũng như nay ta nói là hai mươi bốn giờ. Ở đây, nói sáu thời là theo người Ấn Độ thời cổ. Cổ Ấn Độ chia mỗi ngày làm sáu thời thần, ban ngày ba thời thần, ban đêm ba thời thần. Trong kinh, ta thường thấy nói Sơ Nhật Phần, Trung Nhật Phần, Hậu Nhật Phần của ban ngày, tức là mười hai giờ ban ngày. Đêm xuống cũng có Sơ Dạ Phần, Trung Dạ Phần, Hậu Dạ Phần; đó là ba thời ban đêm. Bởi thế, một thời của họ bằng với bốn giờ của chúng ta

Lúc đức Phật còn tại thế, thời gian nghỉ ngơi của Tăng đoànTrung Dạ. Trung Dạ là lúc ngủ nghỉ. Trung Dạ là từ mười giờ đêm đến hai giờ sáng, bởi vậy, mười giờ đêm đi ngủ, hai giờ sáng thức dậy. Phật dạy mọi người phải tinh tấn, chẳng được giải đãi, chẳng được ham ngủ, con người hiện tại phải ngủ tám tiếng, quá nhiều! Bởi vậy, phải tinh tấn, phải dũng mãnh, thời gian quý hơn bất cứ gì khác, chẳng được lãng phí thời gian

Nhưng con người hiện tại nghiệp chướng nặng hơn trước, vọng niệm nhiều, chẳng ngủ nghỉ thì thể lực chẳng thể khôi phục. Vì thế chúng ta hết sức khen ngợi lời răn dạy của Đế Nhàn lão hòa thượng: “Chẳng cần biết ngày đêm, cứ mệt bèn nghỉ ngơi, cái gì cũng buông xuống, nghỉ ngơi cho khỏe, nghỉ ngơi xong lại lập tức làm tiếp. Lúc nào mệt nghỉ ngơi lúc ấy, lúc nào nghỉ khỏe khoắn rồi bèn làm lúc ấy”. Phương pháp này phải nói là đối với chúng ta không có áp lực, đúng là phương pháp tốt. Nếu công phu đắc lực, quý vị sẽ càng ngày càng ngủ ít, tinh thần ngày càng sung mãn

Sáu thời diễn pháp, ngày đêm không gián đoạn, điều này hiện thời chúng ta có thể làm được. Chúng ta có thể dùng băng ghi hình để giảng kinh niệm Phật. Mỗi ngày giảng kinh suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ không gián đoạn bằng cách chiếu băng ghi hình. Niệm Phật cũng hai mươi bốn tiếng đồng hồ không gián đoạn, niệm Phật bằng máy. Mỗi chỗ đều có thiết bị, bên cạnh thiết bị có nút mở, quý vị muốn nghe niệm Phật, ấn nút, Phật hiệu bèn phát ra; muốn nghe kinh, ấn nút thì hình ảnh bèn hiện ra. Nếu ta chẳng muốn nghe cũng chẳng muốn nhìn thì tắt đi, có phải rất tự tại hay không? Nghe kinh, nghe pháp không lúc nào gián đoạn, đó là “niềm vui nghe chánh pháp”. 

“Đều niệm Tam Bảo, được niềm vui chánh niệm, chỉ rõ không có tam đồ”, thuyết minh Cực Lạc thế giới không có ba ác đạo, nên chẳng có cái khổ đọa lạc, những loài chim ấy đều do A Di Đà Phật biến hóa ra. “Đều niệm Tam Bảo”: Ở đây, Tam Bảo được hiểu theo nghĩa rộng, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Phật là giác ngộ, giác chứ không mê; Pháp là chánh tri chánh kiến, chánh chứ không tà; Tăng là thanh tịnh bất nhiễm, tịnh chứ không nhiễm. Tăng còn biểu thị sự hòa hợp, lục hòa kính. Mười phương tam thế hết thảy chư Phật giảng vô lượng vô biên các pháp, đều chẳng thể vượt khỏi ba loại lớn ấy, Giác - Chánh - Tịnh là ba loại lớn. Giác là Huệ học, Chánh là Định học, Tịnh là Giới học. Tam Học Giới - Định - Huệ, hết thảy chư Phật, Bồ Tát giáo hóa chúng sanh chẳng ngoài ba loại lớn này. Ở đây, lấy Phật - Pháp - Tăng làm đại biểu, quý vị phải hiểu: Nếu dùng Tam Tạng để luận thì Phật tượng trưng cho Luận Tạng, Pháp tượng trưng cho Kinh Tạng, Tăng tượng trưng cho Luật Tạng. Tam Tạng Kinh Luật Luận, đều niệm Tam Bảo! 

Tây Phương Cực Lạc thế giới quyết định chẳng có ba ác đạo. Không có ba ác đạo thì rõ ràng chỉ có nhân thiên đạo. Trong Phàm Thánh Đồng Cư độ là nhân thiên đạo, bởi quý vị là đới nghiệp vãng sanh, đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát. A Duy Việt Trí Bồ Tát chẳng phải là tu được, mà do A Di Đà Phật bổn nguyện oai thần gia trì, khiến cho trí huệ, thần thông, đạo lực của quý vị rất giống với A Duy Việt Trí Bồ Tát. Chuyện này chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải quý vị tự chứng đắc, lúc quý vị tự chứng đắc là khi hoa khai kiến Phật. Quý vị phải hiểu lúc “hoa khai kiến Phật” chính là lúc quý vị tự chứng đắc. Lúc hoa chưa nở, quý vị đã được dự vào hàng A Duy Việt Trí Bồ Tát là vì Phật lực gia trì, điều này hết sức chẳng thể nghĩ bàn! 

Lại xem tiếp đoạn thứ hai: “Cực Lạc nhiếp khắp pháp giới chúng sanh”. Câu này rất trọng yếu. “Pháp giới” là tất cả hết thảy chúng sanh khắp pháp giới. Do vậy, quý vị thấy phạm vi giáo hóa chúng sanh trong thế giới Cực Lạc rất rộng lớn, không có ngằn mé. Giống như một trường học, học sinh đến học từ rất nhiều địa phương; nhưng trường học nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới có một điểm khá giống với chương trình dạy học hàm thụ hiện tại, dù xa đến đâu cũng không bị ngăn trở. Mười phương vô lượng vô biên thế giới đều thuộc khu vực giảng dạy của trường này, Cực Lạc thế giới không chỉ là một tam thiên đại thiên thế giới, chẳng giống các cõi Phật. Các cõi Phật đúng là một trường học, chỉ có một học khu, có phạm vi nhất định. Chỉ riêng Tây Phương Cực Lạc thế giới không có phạm vi; tất cả hết thảy trường học đều thuộc phạm vi của nó. Nghĩa là hết thảy các cõi Phật đều là phạm vi giáo hóa của A Di Đà Phật, quý vị nói xem phạm vi có phải rất lớn hay chăng? 

“Mỗi một căn, trần đều viên diệu”. Viên là viên mãn, Diệu là vi diệu. “Phải biết kinh văn này cũng chỉ là riêng vì thế giới này mà nói”. Đây là đức Thích Ca Mâu Ni Phật phương tiện nói, đặc biệt vì ứng với căn cơ của chúng sanh trong thế giới Sa Bà mà nói. Phật đặc biệtchúng taphương tiện nói như thế; chứ trên thực tế, phạm vi giáo hóa của Phật A Di Đà rộng lớn vô hạn. Bởi lẽ, đệ tử của Phật A Di Đà đến bất cứ cõi Phật nào, đều được hoan nghênh đặc biệt, đều được tiếp đãi như khách quý, được hưởng lây vinh dự của Phật A Di Đà. Người ta vừa thấy mình là đệ tử Phật A Di Đà, bèn đối đãi khác với đệ tử của chư Phật khác. Đoạn tiếp đó nói về nội dung thuyết pháp

“Đại Trí Độ Luận nói: “Ba mươi bảy phẩm”, tức ba mươi bảy Đạo Phẩm, “không gì chẳng nhiếp, dẫu cho vô lượng Đạo Phẩm cũng gộp trong ấy”. Chúng ta phải hiểu điều này; nếu không, quý vị sẽ thấy phạm vi thuyết pháp của những loài chim ấy rất hạn hẹp, tựa hồ chỉ nói pháp Tiểu Thừa. Mọi người nghĩ ba mươi bảy Đạo Phẩm là pháp Tiểu Thừa, có gì hiếm có, lạ lùng đâu? Đại Trí Độ Luận nói rất rõ: “Ba mươi bảy Đạo Phẩm không gì chẳng thâu tóm”. Nói cách khác, nếu triển khai ra thì tất cả hết thảy pháp do mười phương chư Phật đã nói, không một pháp nào thoát khỏi phạm vi của ba mươi bảy Đạo Phẩm; cũng có nghĩa là ba mươi bảy Đạo Phẩmcương yếu Phật pháp, là pháp môn tổng trì của Phật pháp. Mở rộng ra là hết thảy pháp, hết thảy pháp quy nạp lại chẳng ngoài ba mươi bảy loại lớn. Quý vị phải hiểu như vậy! Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, Phật thuyết pháp, Bồ Tát thuyết pháp, các loài chim thuyết pháp đều là rốt ráo viên mãn. Nói cách khác, quý vị muốn học bất cứ pháp môn nào đều rất dễ dàng. Bất luận muốn học một pháp môn nào không gì chẳng thành tựu; bởi lẽ trong mười hai thời không gián đoạn

Đến được thế giới Cực Lạc rồi, nếu chúng ta hỏi trong Phàm Thánh Đồng Cư độ có còn phải ăn uống hay không, có còn phải ngủ nghỉ hay không? Không cần nữa! Chúng ta biết trong lục đạo của thế giới Sa Bà, Sắc Giới thiên không cần ăn uống, không cần ngủ nghỉ, quý vị thấy đó, rất tự tại! Chẳng cần ăn uống giảm bớt biết bao phiền phức, ăn uống tốn rất nhiều thời gian, lãng phí biết bao tinh thần. Trong thế gian pháp, ăn uống thuộc về Ngũ Dục; tài, sắc, danh, ăn uống, ngủ nghỉ là dục vọng, ngũ dục. Trong Phật pháp, chúng còn được gọi là Ngũ Cái (năm thứ che đậy), Cái là tỷ dụ, ý nói chúng che đậy tánh đức, Cái là chướng ngại. Tài, sắc, danh, ăn, ngủ là chướng ngại, chướng ngại Bát Nhã trí huệ sẵn có trong tánh đức, chướng ngại vô lượng đức năng nơi tánh đức, chướng ngại tướng hảo quang minh của tánh đức. Đó là năm thứ chướng ngại

Vậy thì trong Sắc Giới Thiên, từ Sơ Thiền Thiên trở lên, dưỡng thân bằng dưỡng chất nào? Lấy Thiền Duyệt làm thức ăn, dùng Thiền Duyệt để thay thế. Người thế gian chúng ta cũng có cách nói giống vậy: “Gặp chuyện vui tinh thần sảng khoái”. Chư thiên Sắc Giới vui sướng Thiền Định, đó là chất bổ tốt nhất. Dục Giới thiên không được vậy, vẫn cần phải ăn; Sắc Giới thiên không cần nữa. Nếu cật vấnTây Phương Cực Lạc thế giới có cần ăn nữa không? Không cần đâu! Nếu không cần, sao vẫn còn có những hiện tượng ăn uống? Đó là vì phiền não tập khí. Ở đấy lâu ngày sẽ không cần ăn nữa. Vì sao không ăn uống? Tâm vừa nghĩ đến ăn, cơm bèn hiện ra. Cơm bày ngay trước mặt, nếu nghĩ mình nay là Bồ Tát trong Cực Lạc thế giới không còn là phàm phu, chẳng cần đến những thứ này nữa; vừa nẩy sanh ý niệm đó, cơm thức ăn bèn lập tức không còn, chúng được biến hóa ra mà! Vì thế, trong Phàm Thánh Đồng Cư độ của Tây Phương Cực Lạc thế giớihiện tượng như vậy, trong Phương Tiện Hữu Dư độ không có. Thích Ca Mâu Ni Phật toàn giới thiệu Phàm Thánh Đồng Cư độ cho chúng ta. Vì thế, phải hiểu vô lượng đạo phẩm đều được gộp trong ấy. Tiếp đây, chúng tôi giới thiệu đơn giản bảy khoa của ba mươi bảy Đạo Phẩm, tức là bảy loại lớn. 

Thứ nhất là Tứ Niệm Xứ, “dùng trí quán cảnh” tức là thấy thấu suốt, vì thế, Tứ Niệm Xứtrí huệ. Trong thế giới Sa Bà của chúng ta, trong kinh điển, đức Thế Tôn thường nói bốn phép quán chính là trí huệ chân chánh. Thứ nhất “quán thân bất tịnh”, thứ hai là “quán Thọ là khổ”, thứ ba là “quán tâm vô thường”, thứ tư là “quán pháp vô ngã”. Quý vị phải thường quán như thế, mới mở mang trí huệ được. 

Thân rất nhơ bẩn, chẳng sạch sẽ! Người hiện tại ba ngày không tắm giặt, thân hôi hám rất khó chịu, mùi hôi trên thân do đâu mà có? Từ bên trong phát xuất ra, bên trong rất dơ bẩn; Thiền Tông đại đức thường ví thân người như cái gì? Như cái đãy da thối! Cái đãy da này bên trong chứa đựng những thứ gì? Đựng toàn phân tiểu, máu mủ, không có gì sạch sẽ cả, ba mươi sáu thứ vật bất tịnh, trong túi da này chứa những thứ đó. Nếu quý vị giác ngộ, thật sự thấu hiểu rõ ràng, thấy minh bạch sẽ chẳng lưu luyến cái thân này nữa. 

Làm cách nào? Nhờ cái thân giả này để tu chân, minh tâm kiến tánh là chân. Yêu tiếc sắc thân này, tham luyến sắc thân này, phải dùng các thứ chất bổ để gìn giữ sắc thân này, là trật rồi! Đức Phật chẳng nói chúng ta không cần yêu tiếc thân thể này, nếu bảo “chẳng cần” là hiểu lầm ý Phật mất rồi. Phật dạy ta phải thật sự nhận thức sắc thân này là gì, phải nhận hiểu rõ ràng, rồi mới khéo lợi dụng thân này, nhờ vào giả để tu chân, như vậy mới đúng! 

Thứ hai là “quán Thọ”. Thọ là hưởng nhận, sự nhận hưởng trong cả một đời. Bất luận là thân phận nào, là phú quý hay bần cùng; nói chung, nếu quý vị chú tâm quán sát, những gì quý vị thọ hưởng là khổ hay vui? Ở trên tôi đã thưa cùng quý vị, sanh, lão, bệnh, tử, cầu chẳng được, yêu thương chia lìa, chán ghét cứ phải gặp mặt, ngũ ấm lừng lẫy, quán Thọ là khổ! Nếu quý vị nói nay ta vẫn có lạc, rất khoái lạc ư? Lạc là Hoại Khổ. Còn chẳng khổ chẳng vui thì sao? Chẳng khổ chẳng vui là Hành Khổ. Tam giới đều khổ! Kinh Pháp Hoa ví von như nhà lửa, thân giống như một cái nhà, bên trong bốc lửa. Giác ngộ như vậy. Chẳng giác ngộ sẽ không biết “quán Thọ là khổ”. 

Thứ ba là “quán tâm vô thường”. Tâm ở đây là niệm. Niệm sanh diệt không trụ, bởi nó sanh diệt chẳng ngừng nên nó là vọng niệm. Vô thường, nói đơn giản là không có niệm nào giống nhau cả, sanh diệt trong từng sát-na, biến hóa trong từng sát-na, tự mình không làm chủ được. Tự mình không làm chủ được nên mới gọi là Vô Ngã, Ngã là chủ tể. Không làm chủ được! Tự mình làm chủ được thì mình không muốn già, không muốn đổ bệnh, không muốn chết, có được hay không? Không được! Kinh điển không gọi tâm ấy là chân tâm, mà gọi là vọng tâm. Vọng tâm là gì? Kinh Hoa Nghiêm giảng là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Tâm vọng tưởng, tâm phân biệt, tâm chấp trước, vô thường, thiên biến vạn hóa. 

Câu thứ tư là “quán pháp vô ngã”, có nghĩa là hết thảy pháp khôngchủ tể. Hết thảy pháp là nhân duyên sanh pháp, không có chủ tể, không tự tại

Quý vị có bốn pháp quán ấy, hiểu “thân bất tịnh, thọ là khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã” quý vị mới hòng thấy thấu suốt được. Thấy thấu suốt rồi mới có thể buông xuống, buông xuống những gì? Buông xuống tự tư tự lợi, buông xuống danh văn lợi dưỡng, buông xuống ngũ dục lục trần, buông xuống tham - sân - si - mạn. Vì sao người ta không buông xuống được? Vì chẳng thấy thấu suốt, thấy thấu suốt sẽ tự nhiên buông xuống được! 

Thế giới Cực Lạc chẳng giống thế giới chúng ta, thế giới Cực Lạc “thường - lạc - ngã - tịnh” là sự thật, liên hoa hóa thân, tịnh, chẳng phải là bất tịnh, thân thể trong suốt, một mảy nhiễm ô cũng không có. Thân thể chúng sanhTây Phương Cực Lạc thế giới trong suốt, không nhiễm ô! Khi nào chúng ta đoạn sạch được vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tập khí phiền não, thân thể chúng ta sẽ trong suốt; hễ còn một mảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng nào thì toàn thân đen thui! 

Tây Phương thế giới không có các sự khổ, chỉ hưởng các sự vui, thật sự có vui. Ở đây, chúng ta quán tâm vô thường, người ta ở bên kia “nhất tâm bất loạn”, nhất tâm bất loạn là Thường. “Tự tại chủ tể” chính là Ngã. Do đây biết rằng: Ở đây, chúng ta phải tu Tứ Niệm Xứ, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, Tứ Niệm Xứ kết quả hiển hiện, thành tựu, đến thế giới ấy sẽ được viên mãn. Vì thế, kinh Di Đà chẳng nhắc đến ba khoa trước, mà nói từ Ngũ Căn, Ngũ Lực trở đi. Chúng ta phải tu Tứ Niệm Xứ Quán ở đây, nhưng Tây Phương Cực Lạc thế giới không nhắc đến vì không cần đến nữa, ở đó họ không có vấn đề ấy. 

Lại xem tiếp Tứ Chánh Cần, Tứ Chánh Cần cũng là chuyện chúng ta phải tu, Cực Lạc thế giới không cần đến. Tứ Chánh Cầnđoạn ác, sanh thiện. Cần là siêng gắng, nỗ lực, Chánh là chánh xác, chánh đáng. Trong sanh hoạt thường nhật, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, chúng ta chẳng được quên, phải thật sự tu tập. Đoạn ác gồm hai câu: 

1) “Ác đã sanh phải đoạn”: Đối với tiêu chuẩn thiện ác, Phật dạy kẻ sơ học dùng “Thập Thiện Nghiệp đạo”, tức Thập Thiện Nghiệp; trái với Thập Thiện nghiệp gọi là Thập Ác. Đối với những ác niệm đã sanh khởi, những ác nghiệp đã tạo, ta phải giác ngộ nhanh chóng đoạn trừ. Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, nói thêu dệt, tham sân si, là ác! Những ý niệm ấy vừa sanh khởi thì phải đoạn trừ! 

2) “Ác chưa sanh đừng sanh”: Lại còn phải không có những ý niệm ấy. Quý vị phải nhớ rõ: Chẳng được sanh khởi những ác niệm ấy. Chẳng những chúng gây tổn hại nghiêm trọng cho mình, còn gây tổn hại cho người khác. 

“Ác đã sanh phải đoạn, ác chưa sanh đừng sanh”, không có chuyện ác, không có ý niệm ác, hành vi ác cũng không có! 

Đoạn ác thì phải sanh thiện, “thiện đã sanh phải tăng trưởng, thiện chưa sanh phải sanh”. Chỉ thiện, không ác chỉ có thiện! Thiện - ác vẫn lấy thập thiện nghiệp làm tiêu chuẩn, chúng ta sơ học phải lấy những điều này làm cơ sở; sau đấy mới nâng cao lên, sau đấy mới khuếch đại, Thập Thiện Nghiệpcăn bản. Chẳng giết, chẳng trộm, chẳng dâm, chẳng nói dối, chẳng nói đôi chiều, chẳng thêu dệt, chẳng ác khẩu, không tham, không sân, không si, thường phải sanh khởi những tâm niệm này. Nếu những tâm niệm này chưa sanh phải nhanh chóng sanh khởi. Ác niệm phải đoạn, thiện niệm phải sanh; hành vi ác phải đoạn, hành vi thiện phải sanh. Quý vị phải tâm hành “không ác, chỉ có thiện” như thế, “tịnh niệm tiếp nối, vô thượng Bồ Đề”, vô thượng Bồ Đề được kiến lập từ đây. 

Bốn câu này thông hết thảy pháp, chẳng hạn như Lục Độ trong Đại Thừa pháp: Keo tham là ác, bố thí là thiện; ý niệm keo lẫn, ý niệm tham cầu đều chẳng thiện, phải đoạn. Ý niệm bố thí, hành vi bố thí, bố thí cúng dường là thiện, phải sanh. Ác nghiệpbất thiện, trì giới là thiện. Sân khuểbất thiện, nhẫn nhục là thiện. Giải đãibất thiện, tinh tấn là thiện. Tán loạnbất thiện, thiền định là thiện. Ngu sibất thiện, Bát Nhã là thiện. Nói chung, mười thiện nghiệp đạo là cơ sở tiêu chuẩn tối sơ, nâng cao dần lên, nâng dần lên thành hết thảy pháp, hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian đều có hai mặt thiện ác, đoạn ác tu thiện

Đoạn thứ ba là Tứ Như Ý Túc, Túc là mãn túc (trọn đủ). Mãn Túcnhư ý. Bởi thế, Phật dạy chúng ta: Bốn thứ này nếu chúng ta làm trọn vẹn sẽ được như ý. “Buông xuống được, quay đầu như ý; quay đầu là bờ”. Bởi vậy, bốn điều này là Định, là Phước, bốn thứ Định, bốn thứ Phước. Người Trung Quốc chúng ta thường nói “như ý hồi đầu” (cây như ý gập đầu xuống). Quý vị thấy xưa kia trong tay những kẻ phú quý thường cầm một cây Như Ý. Cầm cây Như Ý có nghĩa là gì? Đầu cây Như Ý cong ngược xuống, tức là thời thời khắc khắc cảnh tỉnh chính mình, bất luận làm gì không được quá phận, phải biết hồi đầu! Chẳng biết hồi đầu rắc rối lắm, nẩy mối loạn liền. Người bây giờ gọi là “tiết chế”, biết tiết chế! Bất luận làm chuyện gì cũng có một chừng mực nhất định, đến khi đó phải biết tiết chế. Cổ nhân Trung Quốc gọi là “phải biết quay đầu”. Phàm tạo tác tội nghiệt đều là do không biết tiết chế, chẳng biết quay đầu, đúng là “mặc sức tự làm”, rắc rối xảy đến liền, đến khi quả báo hiện tiền có hối cũng không kịp nữa. 

Phật dạy chúng ta bốn việc, thứ nhất là Dục Như Ý Túc. Dục là dục vọng, nhất định phải biết tri túc, biết đủ ắt thường vui. Điều thứ hai là Tinh Tấn, Tinh Tấn Như Ý Túc thì thường vui. Để giải thích tôi dùng hai câu: “Biết đủ thường vui, tâm an lý đắc”. Tôi giải thích như vậy ắt mọi người dễ hiểu. Cổ đức giải thích bốn câu này chẳng dễ hiểu, quý vị đọc lời giải thích của tôi, đọc xong hiểu liền. Việc gì sung sướng nhất? Ngày ngày có tiến bộ đúng là sung sướng, thật sự pháp hỷ sung mãn. Trong Luận Ngữ, Khổng phu tử nói: “Học rồi thường tu tập theo, cũng chẳng vui ư?” Ngày ngày có tiến bộ, tinh tấn là ngày ngày có tiến bộ, khổ là gì? Chẳng có tiến bộ là khổ. 

“Niệm Như Ý Túc” còn gọi là “Tâm như ý túc”. Trong tương lai, quý vị thấy trong Phật pháp nhắc đến Tứ Như Ý Túc, có khi dùng chữ Niệm, có khi dùng chữ Huệ; nhưng cũng có chỗ dùng “Tâm Như Ý Túc” hoặc “Tư Duy Như Ý Túc”. Dùng “niệm” và dùng “tâm” tôi đều đã từng thấy rồi. Trong kinh có những cách nói như vậy, đều là một cả! Niệm Như Ý Túc là an tâm! An tâm là nếu tâm quý vị biết tri túc, tâm bèn an! Tinh Tấn Như Ý Túc, hôm nay tinh tấn, hôm nay ta thực hiện công khóa viên mãn, đều có tiến bộ, đều thực hiện được, thường vui sướng. Tinh tấn chẳng thể chẳng tri túc; chẳng tri túc sẽ tinh tấn quá phận, phải quay đầu lại kẻo tổn hại thân thể! Công khóa một ngày phải thực hiện xong trong một ngày, chẳng được trong một ngày toan hoàn tất công khóa của mười ngày, mất mạng đấy! 

Phật không dạy người như thế, Phật dạy tùy theo căn tánh, trình độ của quý vị, dạy những gì nhất định thích hợp với căn tánh của quý vị, thích hợp với trình độ của quý vị. Trước kia, trẻ đi học trong trường tư, thầy dạy học trò mỗi đứa mỗi khác, mức độ tiến bộ của mỗi trẻ mỗi khác. Đứa có tư chất cao, trí nhớ tốt, hiểu biết khá, khóa trình mỗi ngày (trước kia gọi là “thượng thư”, tức là tốc độ dạy mình đọc), đứa thượng thượng căn có thể dạy đọc hai mươi hàng, mỗi hàng hai mươi chữ. Hai mươi hàng là bốn trăm chữ, mỗi ngày nó có thể tiêu hóa được chừng ấy là thượng căn. Cănh tánh bậc trung mỗi ngày đọc được mười lăm hàng, từ mười hàng cho đến mười lăm hàng. Căn tánh hạ đẳng rất đần, trí nhớ không tốt, dạy nó bao nhiêu hàng? Từ ba hàng đến năm hàng, ba hàng là ba mươi sáu chữ, năm hàng là một trăm chữ, phải đọc thuộc, phải học thuộc. 

Tiêu chuẩn để trắc nghiệm học trò, nói đúng ra trắc nghiệm khá dễ dàng. Thầy kêu học trò đọc, ví dụ như: “Ta dạy trò đọc hai mươi hàng, thử coi trò có phải là thượng căn hay không? Mười lần phải thuộc, lấy đó làm tiêu chuẩn!” Nếu mười biến không thuộc, được! Giảm ngay xuống, nhất định mười lần bèn thuộc, thích hợp với trình độ của nó: Nếu mười biến không thuộc là [mình đã bắt nó đọc] quá nhiều. Bởi thế, trẻ đó phải là hạ căn, dạy nó ba hàng tức sáu mươi chữ, đọc ba lần bèn thuộc là tốt. Đứa trẻ nào đọc một trăm chữ, mười lần thuộc được, tư chất nó cao hơn, phải nâng lên một chút. Vì thế, cùng dạy một lớp, nhưng tấn độ của mỗi cá nhân sai khác. Mười lần thuộc rồi thầy bèn đốc thúc trẻ, đọc lớn lên, đọc một trăm lần, nhìn vào sách lớn tiếng đọc, đọc cả trăm lần. Đọc một trăm lần xong, xếp sách lại, đọc nhẩm một trăm lần, có tiến bộ! Đó là bài học ngày hôm nay, ngày mai có bài học của ngày mai. Đó là Tinh Tấn Như Ý Túc

Tôi nêu thí dụ trên đây chắc mọi người dễ hiểu. Mỗi ngày phải có tiến bộ. Tiến bộchừng mực, thích hợp trình độ của mình, thích hợp với căn tánh của mình thì chẳng khó khăn chút nào. Ngày ngày đều có tiến bộ, tháng tháng có tiến bộ, năm năm có tiến bộ; sao không vui sướng cho được? Niệm Như Ý Túc (tâm như ý túc) tâm an. Huệ Như Ý Túc (tư duy như ý túc) là hiểu thấu suốt minh bạch. Lý giải minh bạch tâm bèn an, tâm đã an thì lý bèn minh bạch, “thành tựu nhất tâm, bất thoái Bồ Đề”, tôi nói như vậy chắc mọi người hiểu được. Có thể áp dụng vào cuộc sống thường nhật, áp dụng vào dạy học, áp dụng vào niệm Phật, áp dụng vào tu hành, đó là cương lãnh, là nguyên tắc. A! Nay đã hết giờ rồi, hôm nay chúng tôi giảng đến đây thôi! 

Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký,
phần 5 hết


(1) Thân nhân duyên: Nhân duyên trực tiếp, thân mật, có công năng sanh khởi các pháp hữu vi
Sở duyên duyên: Sở duyên là đối tượng của nhận thức, chẳng hạn như sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là sở duyên của sáu thức. Nếu khi đối tượng được nhận thức bởi tâm và tâm sở trở thành nguyên nhân làm cho tâm và tâm sở sanh ra kết quả, thì nó sẽ được gọi là Sở Duyên Duyên. Ví dụ như Sắc là sở duyên duyên của Nhãn Thức và pháp. Câu Xá Luận, quyển 7 giải thích: “Tánh của sở duyên duyên tức tất cả pháp, tâm và tâm sở ứng hiện tùy theo sở duyên duyên này. Như nhãn thức và Pháp tương ứng lấy tất cả Sắc làm sở duyên duyên”. 
Vô gián duyên: Sự sanh khởi của tâm và tâm sở do niệm trước dẫn sanh niệm sau không xen hở (theo Huệ Quang tự điển). 
(2) Bông vải, nguyên tác là “miên hoa” tức quả của cây bông vải (cotton) chưa đánh thành sợi. 
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.