TRUNG PHONG TAM THỜI HỆ NIỆM
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký
Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Chư vị đồng học!
Xin xem tiếp phần khai thị của Trung Phong thiền sư, tức phần khai thị trong thời thứ nhất.
Chỉ nhân tối sơ bất giác, hốt nhĩ động tâm, nhận vọng vi chân, mê kỷ trục vật. Do thị nghiệp võng khiên triền, lưu chuyển ngũ đạo. Hằng tùy sanh tử dĩ thăng trầm, cắng cổ chí kim nhi mị gián.
(Chỉ vì thoạt đầu bất giác, đột nhiên động tâm, tưởng vọng là chân, mê mất bản thân chạy theo vật dục. Do vậy, lưới nghiệp quấn trói, lưu chuyển năm đường. Luôn thăng trầm theo sanh tử, suốt từ xưa đến tận nay chưa hề gián đoạn)
Chúng ta đọc đến đoạn này. Trong phần trên, thiền sư dạy chúng ta về chân tướng sự thật của Pháp Tánh và nghiệp quả; đồng thời lại giảng: Pháp Tánh linh minh trạm tịch, không gì không có, ai nấy sẵn đủ. Chúng tôi nói: Nơi hoàn cảnh y báo, đặc biệt là tại thực vật, khoáng vật là rõ ràng nhất. Trên thực tế, thân thể chúng ta cũng là y báo, vì sao? Thân thể là cái được hiện, cái được biến, so với sơn hà đại địa, cây cối hoa cỏ bên ngoài là vật chất, thì vật chất nơi thân thể và vật chất bên ngoài không khác gì nhau. Kinh Kim Cang gọi là “nhất hiệp tướng” chính là giảng rất rõ, rất minh bạch. Nếu nói theo học thuật hiện tại thì “nhất” là lạp tử cơ bản, tất cả hết thảy vật chất đều do những hạt này hợp thành. Nhưng lạp tử cơ bản rốt cuộc là gì vậy? Hiện thời chưa phát hiện được, vẫn khó nói lắm. Nay khoa học đã phát hiện điện tử, nguyên tử, lạp tử; lạp tử có còn chia chẻ ra được nữa hay không? Trên mặt lý luận thì chia chẻ vĩnh viễn bất tận, nhưng trên thực tế, khoa học kỹ thuật mới chỉ đạt đến mức độ này: Hiện thời, vật chất nhỏ nhất được phát hiện được gán cho cái tên là “khoa-khắc” (quark). Còn có thể tách nó ra nhỏ hơn nữa được không? Các nhà khoa học chẳng dám quyết đoán. Vì sao? Khoa học kỹ thuật chưa tiến bộ đến mức ấy. Trên mặt lý luận, đương nhiên là có thể chia nhỏ được. Những thứ này đều là thứ được hiện, được biến, đúng là “không gì không có, ai nấy sẵn đủ”.
Vật thể dù nhỏ đến đâu, cho dù nó là căn bản của hết thảy vạn vật trong vũ trụ, tức là hết thảy vạn vật đều do nó hợp thành, thì nó vẫn có Pháp Tánh. Phải biết điều này: Nó có Pháp Tánh. Pháp Tánh trạm nhiên, chẳng biến đổi mảy may. Vậy rốt cuộc cái gì đã biến đổi chúng ta? Trong kinh Lăng Nghiêm có một đoạn Văn Thù Bồ Tát giảng rất khéo, tức là trong phần Tuyển Trạch Viên Thông, Ngài đã nói:
Giác hải tánh trừng viên,
Viên trừng giác nguyên diệu,
Nguyên minh chiếu sanh sở,
Sở lập chiếu tánh vong.
(Tạm dịch nghĩa:
Tánh của biển giác là ngưng lặng, viên mãn. Cái giác ngưng lặng, tròn đầy vốn mầu nhiệm, vốn sáng suốt ấy nếu sanh ra sự chiếu soi thì sự chiếu soi đã được thành lập ấy sẽ làm cho tánh bị mất đi).
Đây là giảng về vô minh do đâu mà khởi? Cũng là do vọng tưởng. Vọng tưởng do đâu mà khởi? Cũng chính trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã giảng rất rõ ràng, rất minh bạch: Tôn giả Phú Lâu Na hỏi đức Thế Tôn: “Vì sao lại có vọng tưởng? Vọng tưởng khi nào sanh?” Vọng tưởng ấy là vô minh căn bản. Thế Tôn đáp rất hay: “Đó là do một niệm vọng giác”. Chúng ta phải chú ý chữ “vọng”. Vọng là không thật, nhưng vọng là do mê chân mà sanh ra, ta chẳng thể nói nó là không có, cũng chẳng thể nói nó là có. Đức Thế Tôn nói: “Cái biết do tri kiến tạo lập chính là căn bản của vô minh”. Lời giảng của Văn Thù Bồ Tát có cùng ý nghĩa với lời Phật dạy: “Nguyên minh chiếu sanh sở” là cái biết do tri kiến lập thành. “Sở lập chiếu tánh vong” chính là gốc của vô minh. Lập thành cái biết! Không thể lập! Đại Thừa Phật pháp thường giảng: “Một pháp chẳng lập!”, lập một pháp là mê, một pháp chẳng lập sẽ rất tự tại. Một pháp không lập thì quý vị hoàn toàn nhất trí với Pháp Tánh, cùng một Thể, một Tướng, một Lực Dụng với Pháp Tánh. Đấy chính là chư Phật Như Lai, đắc đại tự tại, vô chướng vô ngại, nhập pháp giới vô chướng ngại, cảnh giới vô chướng ngại. Quyết định chẳng được lập, hễ lập là hỏng! Vì thế, Bồ Tát nói “sở lập chiếu tánh vong” (sự chiếu soi đã được thành lập ấy làm cho tánh bị mất đi). Tánh của sự chiếu soi (tức những sự hay biết do tri kiến tạo ra) là linh tri, linh minh trạm tịch. [Chiếu được thành lập] thì linh minh trạm tịch bèn mất đi, sanh ra những biến đổi. Giống như thí nghiệm nước kết tinh vậy, nó sanh ra những biến đổi không đúng đắn; nếu đúng đắn thì phải đẹp đẽ tột bậc, đẹp đẽ không thiếu khuyết mảy may. Chúng ta vừa động một niệm bèn sanh ra những biến hóa, dẫu vẫn rất đẹp đẽ nhưng so với sự đẹp đẽ vốn có đã bị sai khác rất lớn. Càng mê sâu hơn, càng biến thành xấu xí hơn. Pháp Tánh tùy duyên mà!
Hễ mê là xong, “mê vọng hữu hư không” (do mê vọng nên có hư không), Văn Thù Bồ Tát giảng như vậy đấy. Hư không từ đâu mà có? Do mê vọng mà có. “Y không lập thế giới” (nương vào hư không tạo thành thế giới), thế giới do đâu mà có? Thế giới từ trong Không mà sanh ra. Không là Vô, vô trung sanh hữu, sanh ra thế giới. “Tưởng trừng thành quốc độ” (Tưởng lắng đọng thành cõi nước); Tưởng ở đây là vọng tưởng, vọng tưởng ngưng tụ biến thành vật chất. Vật chất là gì? Nói theo cách bây giờ, vật chất là do tinh thần ngưng tụ biến thành. Vật chất là tinh thần; vật chất chính là Pháp Tánh đang được nói đến ở đây. Pháp Tánh ở tại đâu? Vật chất là Pháp Tánh, [vọng tưởng] ngưng tụ bèn biến thành Pháp Tánh, vô tướng biến thành hữu tướng; do đó, Có là do Không mà có. Dù hiện tướng, biến thành vật chất, nhưng bản năng của Pháp Tánh không bị mất đi, vĩnh viễn chẳng bị hư mất. Bản năng của Pháp Tánh là gì? Chính là linh tri! Kinh Đại Thừa gọi linh tri là thấy - nghe - hay - biết! Bởi vậy, thứ gì cũng đều có thấy - nghe - hay - biết!
Trên thân thể của chúng ta, nay ta gọi là tế bào (tế bào hãy còn lớn lắm), có không biết bao nhiêu tế bào (theo thuật ngữ Phật pháp là “vi trần, cực vi vi”), cực vi vi ngưng tụ thành tế bào. Mắt thịt của chúng ta không thấy được cực vi vi, nói thật ra chúng ta cũng không hiểu được, nhưng rất nhiều cực vi vi nhóm lại một chỗ hình thành một tế bào. Chúng ta có thể thấy được, hiểu được tế bào, tế bào có linh tánh hay không? Có chứ! Nó có thể thấy, có thể nghe, có thể cảm nhận, có thể biết, quý vị phải khéo đối đãi nó. Thế nào là khéo đối đãi? Tâm thiện! Tế bào thuận theo ý niệm. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường nói: “Hết thảy pháp từ tâm tưởng mà sanh”, “tướng chuyển theo tâm”, “nếu chuyển được vật thì giống với Như Lai”. Những câu nói này hết sức quan trọng! Chỉ cần quý vị nắm được những câu này, thật sự hiểu rõ, thật sự biết dùng, tâm thiện, tư tưởng thiện, ngôn ngữ, hành vi thiện thì tất cả tế bào trên toàn thân sẽ phản ứng đúng mực. Chúng ta thường bảo là “thật sự hiểu được đạo dưỡng sanh”! Tuổi cao cũng không sao, vẫn có thể phản lão hoàn đồng. Có thật sự làm được như vậy hay chăng? Thật sự được! Quý vị đã hiểu thì sẽ dùng tâm tưởng để khôi phục tất cả những khí quan, tế bào trên thân thể trở lại tuổi trẻ, khôi phục sự bình ổn, khôi phục sức khỏe, về lý vốn là như vậy. Nếu không hiểu thì sao? Không hiểu thì chính mình tàn hại mình mà thôi! Tàn hại như thế nào? Cả ngày từ sáng đến tối khởi vọng tưởng, tâm bất thiện, tư tưởng bất thiện, hành vi bất thiện, tự mình tàn hại mình, tự mình hủy diệt thân thể!
Tôi chỉ giảng tới đây thôi, không giảng thêm nữa, càng giảng mọi người càng không hiểu, sợ rằng càng nghe càng mê thêm. Tôi nói đến đây, nếu quý vị lãnh hội được sẽ rất có ích. Lời khai thị này hay lắm! Trung Phong là bậc tái lai, chẳng phải là phàm nhân. Trong đoạn văn này, Ngài khai thị vì đâu chúng ta thành ra nông nỗi này:
“Chỉ nhân tối sơ bất giác” (chỉ do thoạt đầu bất giác): Tối sơ là thời gian nào? Đừng hỏi ai khác, nếu hỏi ai khác lại càng khởi vọng tưởng! Nếu quý vị đi tìm cái thời điểm tối sơ ấy thì trong vọng tưởng lại tăng thêm vọng tưởng; chẳng chuyển biến được vọng tưởng, chẳng thể hóa giải. Nói thật ra, thưa cùng quý vị, thời gian là giả, không thật! Giáo pháp Đại Thừa nói thời gian không có khởi đầu, mà cũng không có kết thúc. Nếu nói có khởi đầu, có kết thúc thì là thật, không còn giả nữa. Do vậy, nói thời gian không khởi đầu không kết thúc thì nó là giả, không thật. Đầu cũng được, cuối cũng xong, thảy đều là nhất niệm. Thế nhưng rất ít ai hiểu được chân tướng sự thật, đây đều là chân tướng sự thật.
“Tối sơ bất giác” là một niệm hiện tiền bất giác. Cổ nhân nói “tối sơ nhất niệm bất giác”, nói “tối sơ” cũng rất hợp lý. Chúng ta không hiểu lời này, cứ tưởng tối sơ là quá khứ, quá khứ xa xôi hơn nữa, hiểu lầm mất rồi! Chẳng hiểu ý của người ta! Tối sơ là lúc thoạt đầu của một niệm, lúc thoạt đầu của một niệm hiện tiền. Cái tối sơ ấy khoảng chừng một phần ức vạn giây, hoặc một phần ức ức vạn giây, không cách gì nhận biết được. Đó là một niệm bất giác. Bất giác là gì? Chính là quý vị động, tức tâm quý vị động vậy.
Nếu quý vị nhìn vào tự tánh thì Pháp Tánh của Tự Tánh là trạm nhiên, trạm nhiên là bất động. Phần trên đã giảng: “Vô sanh là tâm tánh tịch diệt của chư Phật”, tịch diệt là bất động, đó là Pháp Tánh. Vốn bất động, bất động là thật; hễ quý vị vừa động thì động là vọng. Động gọi là “vọng động”. Cái động ấy cực kỳ vi tế, đừng nói là phàm phu chúng ta không nhận biết được, ngay cả bậc Đại Thừa Bồ Tát từ Thất Địa trở xuống còn không biết được, Bát Địa mới cảm nhận được. Vừa động tí ti, Bát Địa Bồ Tát nhận biết liền. Bát Địa Bồ Tát được gọi là Bất Động Địa là vì động dù cực kỳ vi tế Ngài vẫn cảm nhận được; thoạt động liền biết ngay. Đến Quả Địa Như Lai mới thật sự là tịch diệt, hoàn toàn bất động, khôi phục bất động. Tánh đức toàn thể đại dụng hiện tiền viên mãn, cảnh giới của quả địa Như Lai mà! Đẳng Giác Bồ Tát vẫn còn một phẩm sanh tướng vô minh, cực kỳ vi tế, toàn thể đại dụng vẫn còn thiếu một phần. Do vậy, chúng ta bèn hiểu rõ: Chư Phật, Bồ Tát dạy người tu hành, tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn là tu gì đây? Tu bất động! Trong phần trên, khi giảng kinh Di Đà, chúng ta thấy danh hiệu chư Phật nhằm biểu thị pháp. Vị Phật thứ nhất ở phương Đông trong chư Phật sáu phương là Bất Động Phật. Vừa mở đầu đã hiển thị: Bất Động là chân, còn Động là vọng. A Súc Bệ Phật là Bất Động Phật, vì sao quý vị phải khởi tâm động niệm nơi cảnh giới? Đây chính là nguyên nhân khiến quý vị đọa lạc, luân hồi, khiến cho cả đời này đâu đâu quý vị cũng gặp chướng ngại. Chướng ngại do đâu mà có? Là vì quý vị động. Nếu quý vị bất động sẽ không có chướng ngại. Chúng ta thấy vì sao Pháp Thân Bồ Tát, chư Phật Như Lai trong Hoa Tạng, trong Cực Lạc thế giới đều là pháp giới không chướng ngại; Lý vô ngại, Sự vô ngại, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại? Pháp giới vốn không chướng ngại là vì đâu? Là vì không động tâm, không động niệm. Cớ sao mình lại động niệm? Như vậy, hễ khởi tâm động niệm thì khởi tâm động niệm là vô minh, tức vô thỉ vô minh. Quý vị có hiểu vô thỉ nghĩa là gì không? Chư Phật, Bồ Tát dạy cho chúng ta biết chân tướng sự thật của vũ trụ, trọn chẳng làm khó dễ, hoàn toàn không đàm huyền thuyết diệu, không nói những gì chúng ta không thể hiểu. Nếu không sao gọi là từ bi cho được? Các Ngài giảng rất rõ ràng, minh bạch, lại còn giảng hết sức rõ rệt dễ hiểu. Nói “vô thỉ vô minh” là ngụ ý không có khởi đầu, cái khởi tâm động niệm hiện tiền của quý vị có khởi đầu hay chăng? Nếu hiện tại quý vị chẳng khởi tâm động niệm thì quý vị đã thành Phật rồi, Sự Sự vô ngại!
Bất giác là khởi tâm động niệm, giác tâm bất động, vô minh vọng động, cho nên vừa động bèn bất giác. Giống như nước, dùng nước làm tỷ dụ cho quý vị dễ hiểu. Nước đứng lặng thì mặt nước không có tí sóng gợn nào, mặt nước giống như một tấm gương, bất động! Lúc ấy nó sẽ in bóng cảnh giới bên ngoài rất rõ ràng. Giác là giác chiếu, rõ ràng rành rẽ. Nếu động thì vừa động bèn gợn sóng, gợn sóng vẫn có thể chiếu nhưng chiếu không rõ ràng, mê rồi! Do vậy, ta cúng dường Phật, Bồ Tát thì vật cúng dường quan trọng nhất là gì? Chính là một chén nước. Tôi thường dạy người khác: Chén đựng nước cúng Phật tốt nhất là chén pha lê; nay có người dùng chén bằng thủy tinh cũng rất tốt, nó trong suốt, quý vị thấy rất rõ ràng. Học bất động như nước, học thanh tịnh như nước, không ô nhiễm mảy may, không lay động mảy may, đó là Phật! Phàm phu và Phật khác biệt ở chỗ này: Tâm phàm phu động, tâm phàm phu nhiễm ô, nay chúng ta gọi nhiễm ô là “tâm ghi ấn tượng”. Trong tâm họ có tham - sân - si - mạn; có những thứ ấy là nhiễm ô. Trong chân tâm không có những thứ ấy, không có tự tư tự lợi, không có danh văn, lợi dưỡng, không có tham - sân - si - mạn, không có ghen ghét, đố kỵ. Những thứ ấy đều là hư vọng. Nói rốt ráo nhất là trong chân tâm không khởi tâm động niệm, không phân biệt, chấp trước. Phân biệt chấp trước, khởi tâm động niệm là vọng tâm. Tâm thủy vừa gợn sóng bèn dậy gió cảnh giới, cảnh giới là hoàn cảnh bên ngoài. Sáu căn quý vị tiếp xúc cảnh giới bên ngoài bị động là xong rồi!
Phật, Bồ Tát cao minh, sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài giống như gương chiếu mọi vật, chiếu rất rõ ràng rành rẽ. Gương quyết định không phân biệt, quyết định không chấp trước, trong trẻo hơn mọi thứ, không mê hoặc chút nào, Huệ đấy! Như Như bất động, đó là Định! Định và Huệ đều đạt đến viên mãn rốt ráo, Định - Huệ là một không hai. Định chính là Huệ, Huệ chính là Định. Đấy chính là con người thật của chúng ta, trong Tông môn gọi là “bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra”; nó chính là con người thật của chúng ta. Học Phật không có chi khác, chỉ là tìm cho ra, khôi phục bản lai diện mục của chính mình mà thôi. Bản tánh trạm tịch là Căn Bản Trí, bản tánh tịch chiếu là Hậu Đắc Trí, không gì không biết. Tịch diệt là không biết, Bát Nhã không biết, giác chiếu là không gì không biết. Không gì không biết nhưng tâm vẫn định, quyết định chẳng khởi tâm động niệm, quyết định không có phân biệt, chấp trước. Chỉ cần quý vị khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước là xong, đọa lạc mất rồi, thành phàm phu mất rồi. Bởi thế, tối sơ bất giác chỉ vì bất giác tâm bị động, không còn tịch nữa, “tưởng vọng là chân”, phiền phức ngay! Vọng là gì? Vọng là cái được hiện, cái được biến. Coi cái được hiện, được biến là thật; không biết cái làm chủ thể biến hiện (năng biến, năng hiện) mới là thật, cái được hiện, được biến là hư vọng, phiền toái rất lớn, “tưởng vọng là chân”.
“Mê kỷ trục vật” (mê mất chính mình chạy theo vật dục), Kỷ là chính mình. Thế nào là chính mình? Cái tâm năng hiện, cái thức năng biến là chính mình, tánh thức là chính mình; còn cái được hiện, được biến không phải là chính mình. Chúng tôi dùng những tỷ dụ thô thiển để giảng giải: Thân thể của chúng ta là chính mình, y phục ta mặc không phải là chính mình. Y phục do chúng ta làm ra, tự ta mặc vào thân, Phật pháp gọi nó là Ngã Sở (cái của ta). Thân là Ngã, vật ngoại thân là Ngã Sở Hữu (cái mà ta có). Mọi người biết rành chuyện này. Nay tôi bảo cùng quý vị, thân ta cũng là Ngã Sở Hữu, cái thân ta có thể hiện, có thể biến mới là Ngã. Thân ấy không có hình tướng, vô hình vô tướng, nhưng thật sự có, chẳng phải là không có. Phật pháp gọi nó là Chân Tâm, Bản Tánh; ngay cả hư không cũng do nó biến hiện ra, hư không cũng là cái được hiện, được biến.
“Mê kỷ trục vật”: “Trục vật” (chạy theo vật) là vọng tâm, không phải là chân tâm. Trục vật thường được hiểu là bị chuyển theo cảnh giới, đó là phàm phu. Người giác ngộ chuyển được cảnh giới. Ví dụ rõ ràng nhất là thân thể của chính ta, đối với người thật sự giác ngộ thì thân thể này sẽ chuyển theo Pháp Tánh của chính mình, chuyển được vật! Chuyển theo Pháp Tánh, không những thân thể này không già, không bệnh, hoàn toàn chẳng có sanh - lão - bệnh - tử, mà còn chẳng có những chuyện ba khổ, tám khổ! Người thế gian có những nỗi khổ là vì đâu? Vì bị cảnh giới xoay chuyển, không chuyển được cảnh giới, đó là “mê mất chính mình, đuổi theo vật dục”. Chuyển không được cảnh giới thì chắc chắn bị cảnh giới chuyển, không có con đường thứ ba. Chư Phật, Bồ Tát chuyển được cảnh giới, lục đạo phàm phu bị cảnh giới chuyển. Vì bị cảnh giới chuyển nên mới có sanh - lão - bệnh - tử, mới có nào là Ái Biệt Ly (yêu thương phải chia lìa), Cầu Bất Đắc (cầu không được thỏa ý), Oán Tắng Hội (chán ghét mà cứ phải gặp gỡ), mới có những chuyện như thế. Hễ bị cảnh giới chuyển thì phiền phức lớn lắm!
Bị cảnh giới chuyển nhưng người ta cứ nghĩ mình bị mạng vận chuyển, tức nói trên phương diện hoàn cảnh là “bị Phong Thủy chuyển”, không có cách gì xoay chuyển được vận mạng, không có cách gì vượt thoát Phong Thủy. Thế nhưng người thật sự giác ngộ, hễ thật sự giác ngộ bèn có phước. Phước ấy nhất định chẳng phải là phước như trong quan niệm thông thường của mọi người. Chúng ta không nghĩ ra, không thể nghĩ bàn được, đó là người thật sự giác ngộ. Vì sao? Người ấy chuyển được cảnh giới; thế nên người có phước sống nơi phước địa, phước địa [ắt có] người có phước sống. Người có phước ấy chuyển được cảnh giới, người ấy đến sống ở một nơi nào thì sơn hà đại địa, phong thủy nơi ấy cũng chuyển theo tâm người đó. Người ấy tâm thiện, tư tưởng thiện, hành vi thiện thì sơn hà đại địa không gì không thiện, thảy đều thành thiện. Quý vị chẳng tin ư? Cực Lạc thế giới chuyển như vậy đó, Hoa Tạng thế giới chuyển như vậy đó!
Thật ra, Hoa Tạng, Cực Lạc có khác gì địa cầu của chúng ta đâu! Không khác gì hết. Chỗ nào Phật, Bồ Tát ở, nơi đó thuần tịnh thuần thiện. Do vậy, sơn hà đại địa, hết thảy vạn vật, không thứ gì không thuần thiện thuần tịnh. Cư dân trên quả địa cầu này tâm bất thiện, tư tưởng bất thiện, hành vi bất thiện, nên sơn hà đại địa thảy đều bất thiện; hiện tượng của bất thiện là thiên tai nhân họa. Trời nào giáng tai ương, người cũng chớ hề gây tai vạ, đều là do nghiệp bất thiện chiêu cảm nên [những tai họa ấy] biến hiện ra, càng mê càng sâu hơn.
“Do thị nghiệp võng triền khiên” (do vậy, lưới nghiệp quấn trói): Nghiệp do chính quý vị tạo tác. Ngày nay quý vị tạo tác thiện nghiệp, nhưng nói thật ra, cũng chẳng phải là thiện nghiệp thật sự. Vì sao? Cái thiện đó là thiện đối với ác! Phật pháp nói đến chân thiện, chí thiện chính là cái thiện nơi Pháp Tánh. Nay quý vị đã mê mất Pháp Tánh, nói cách khác, là mê mất chân thiện, chí thiện. Đã mê rồi thì những cái thiện trong tư tưởng, tâm tư quý vị hiện thời chỉ là thiện tương đối, tức là cái thiện trong vòng Thiện - Ác. Thông thường, cái thiện của người giác ngộ là Bản Thiện: “Nhân chi sơ, tánh bản thiện” (con người ban đầu tánh vốn lành). Hết thảy chúng sanh bình đẳng, đúng như đại sư đã giảng ở đây: “Không gì không có, ai nấy sẵn đủ”, vốn là Thiện. Thiện - ác như Mạnh Phu Tử, Tuân Phu Tử đã giảng là tập tánh, chứ không phải là bản tánh. Chúng ta hoàn toàn mê mất bản tánh, chúng sanh trong lục đạo nào ai biết đến bản tánh? Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát tuy biết đến bản tánh, nhưng chưa chứng đắc. Nếu chứng đắc bản tánh sẽ siêu việt mười pháp giới, chúng ta thường gọi người như vậy là Pháp Thân Bồ Tát. Pháp Thân Bồ Tát chứng đắc bản tánh, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, cảnh giới như thế đó.
Như vậy, chúng sanh trong lục đạo phiền toái lớn lắm, “lưới nghiệp trói buộc”, nghiệp đã tạo vô lượng vô biên, dày đặc xen kín như lưới giăng. Cớ sao tạo lắm nghiệp đến vậy? Khởi tâm động niệm là tạo nghiệp, đó là ý nghiệp. Ngôn ngữ nơi miệng, chúng ta nói quá nhiều những điều tệ hại! Những lời tệ hại là gì? Nói dối, nói đôi chiều, nói ác, nói thêu dệt. Từ sáng đến tối nói không ngừng; nếu đem những lời mình nói phân loại cẩn thận thì chẳng ngoài bốn loại lớn nói trên. Người giác ngộ, người có đạo hạnh nói năng rất ít, tâm người ấy định, ngày nay chúng tôi giảng kinh thuyết pháp nói năng quá nhiều.
Khi xưa, chúng tôi thân cận Chương Gia đại sư, tôi ngồi cùng Ngài hai tiếng đồng hồ, trong hai giờ ấy, những câu Ngài nói chúng tôi nhớ từng chữ một, tôi cho rằng không thể nhiều hơn năm trăm chữ được. Còn tôi trong một buổi giảng hai tiếng đồng hồ, những đồng học tham gia giảng diễn đều biết cả, nếu chép lại thành bản thảo thì sao? Tối thiểu là hai vạn chữ. Tôi và Chương Gia đại sư mỗi lần gặp nhau, mỗi Chủ Nhật gặp gỡ một lần, nếu ghi lại những lời Ngài giảng trong hai tiếng đồng hồ thì không quá năm trăm chữ, khiến cho chúng tôi cảm thấy Ngài như đang luôn ở trong Định. Ngài gởi cho tôi một bức ảnh, quý vị thấy đó, Ngài ở trong Định, bất luận lúc nào, quý vị đều thấy Ngài ở trong Định. Ngài đi rất chậm, động tác từ tốn, nói rất ít. Tôi chỉ thấy Ngài như thế này: Môi luôn máy động không ngừng, đại khái là trì chú theo cách Kim Cang Trì, động môi nhưng không phát ra tiếng. Ngài nêu gương tốt cho chúng ta thấy, tu hành thật sự như vậy. Nay chúng tôi hiểu rõ: Thật sự tu thì trong mười hai thời sáu chữ hồng danh liên tục không gián đoạn, đó là công phu thật sự, thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Rất đáng tiếc, chúng ta bỏ lỡ tấc bóng, một ngày từ sáng đến tối không biết niệm Phật, không biết nhớ Phật, niệm Phật, suốt ngày khởi vọng tưởng. Nói cách khác, suốt ngày tạo nghiệp.
“Lưới nghiệp quấn trói”, tức là quý vị tạo tác nên “lưu chuyển năm đường”; đấy là quả báo. “Năm đường” là sáu nẻo luân hồi, vì sao gọi là “năm đường”? Không kể đường A Tu La thì thiên đạo, nhân đạo, súc sanh đạo, địa ngục đạo, ngạ quỷ đạo là năm đường. Vì sao không tính A Tu La? A Tu La trên cõi trời thì tính gộp trong thiên đạo, trong cõi người thì tính gộp vào nhân đạo, trong súc sanh thì gộp trong súc sanh đạo, trong đường ngạ quỷ thì gộp trong trong ngạ quỷ đạo. Kinh Lăng Nghiêm nói: Trong bốn đường ấy đều có A Tu La, địa ngục không có. Thông thường tính A Tu La thành một đường riêng, tức là thiên A Tu La, nhưng trên thực tế, có thể tính gộp A Tu La vào nhân đạo lẫn thiên đạo. Do vậy, kinh Phật thường nói ngũ đạo hay ngũ thú, luân hồi ngũ thú, đều do nghĩa này. “Lưu chuyển năm đường” là luân hồi, quả báo hiện tiền, luân hồi từ đâu mà có? Luân hồi do lưới nghiệp giăng mắc, nên mới lưu chuyển năm đường.
“Hằng tùy sanh tử dĩ thăng trầm” (luôn thăng trầm theo sanh tử) tùy theo quý vị tạo nghiệp thiện hay ác, đó là gì? Tập khí, tập tánh. Quý vị làm lành thì là hai đường trời - người; tạo ác thì súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ ba đường ác, vĩnh viễn lưu chuyển trong ấy. Vì sao? Tạo nghiệp trong khi đang thọ báo, do tạo nghiệp nên lại phải thọ báo. Quý vị hãy chú tâm quan sát liền nhận thấy sự tình phiền phức rất lớn, vì sao? Trong lục đạo khó thể vươn lên, đọa lạc rất chóng! Càng đọa càng sâu! Nếu chúng ta chú tâm quan sát điều này sẽ chẳng khó hiểu chi. Quý vị nghĩ xem: Nay quý vị đã mấy chục tuổi rồi, hãy chú tâm suy tưởng, quan sát. Mình năm nay bảy mươi tuổi, xã hội lúc mình sáu mươi tuổi ra sao? Mười năm trước đó, lúc năm mươi tuổi lại như thế nào? Lúc bốn mươi tuổi, ba mươi tuổi, hai mươi tuổi, lúc mười tuổi. Cứ lấy mười năm mà so sánh sẽ nhận thấy điều gì? Khoa học kỹ thuật tiến bộ, nhưng luân lý đạo đức thụt lùi, lòng người thiện hay ác? Thiện tâm, thiện niệm, thiện hạnh bị suy thoái với một mức độ lớn. Chúng tôi nói lòng người thiện lương, thiện ý, thiện hạnh, con người hiện tại không bằng người lúc mười năm trước. Người thuở mười năm trước không bằng người hai mươi năm trước, người hai mươi năm trước không bằng người ba mươi năm trước. Quý vị cứ nghĩ như thế bèn thấy đáng sợ thật, đời sau kém hẳn đời trước! Tương lai phải bị đọa lạc đáng sợ lắm, phải chịu khổ trong ngạ quỷ, địa ngục. Cũng thế, trong đường ngạ quỷ, trong đường địa ngục, con người hiện tại đọa lạc vào đấy chịu khổ nếu so với những kẻ đọa địa ngục, đọa ngạ quỷ trước kia không biết là khổ sở hơn gấp bao nhiêu lần! Khổ do đâu mà có? Do nghiệp của chính mình chiêu cảm, chứ nào phải đến tự bên ngoài; do nghiệp chiêu cảm nên trong Phật pháp thường nói “nhân quả chẳng không”. Trong cuộc sống thường nhật, đối người, đối sự, đối vật, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, hành vi không thể không cẩn thận, không thể không dè dặt. Chớ mặc tình buông lung, kẻo sau phải chịu khổ! Chẳng ai gánh chịu thay cho đâu, không gì không phải là tự mình làm, tự mình chịu, chẳng mảy may liên can đến người khác. Nếu quý vị trách móc người khác thì là tội càng thêm tội, khổ chồng thêm khổ, “luôn thăng trầm theo sanh tử”.
“Cắng cổ chí kim nhi mị gián” (suốt từ xưa đến nay chưa hề gián đoạn). “Mị gián” nghĩa là từ trước đến nay chưa hề gián đoạn, từ xưa đến nay. Câu này nói về tình hình cuộc sống của chúng ta sau khi mê cho đến hiện tại. Ở đây, Trung Phong thiền sư chỉ nêu nguyên tắc, nếu chúng ta chú tâm suy tưởng quan sát, mới biết những hiện tượng ấy đáng sợ. Phải giải quyết vấn đề như thế nào? Ngày nay chúng ta học Phật không có gì khác, chỉ là nhằm giải quyết vấn đề này, muốn hiểu rõ chân tướng sự thật này. Không hiểu rõ chân tướng sự thật thì ý niệm muốn giải quyết vấn đề không thể sanh khởi nổi, phải hoàn toàn hiểu rõ, thông suốt chân tướng sự thật thì mới muốn giải quyết vấn đề này, không giải quyết không được! A! Bây giờ đã hết giờ rồi.
*
Chư vị đồng học!
Xin xem tiếp đoạn khai thị tiếp theo:
Đương tri sanh tự duyên sanh, nhi pháp tánh bất dữ duyên câu sanh. Diệt tự duyên diệt, nhi pháp tánh bất dữ duyên câu diệt. Sở dĩ vân: “Pháp Tánh trạm nhiên”. Thị vị: “Sanh nhi vô sanh” giả dã.
(Nên biết: Sanh tự duyên sanh, nhưng Pháp Tánh chẳng sanh cùng với duyên. Diệt thì duyên tự diệt, chứ Pháp Tánh chẳng cùng diệt theo duyên. Do vậy, nói: “Pháp Tánh trạm nhiên”. Đó là nói về: “Sanh nhưng không sanh” vậy!)
Đến đây, đại sư bảo cho chúng ta biết chân tướng sự thật. “Đương tri” là hãy nên biết. Tuy nói là phải biết, nhưng lục đạo chúng sanh đều không biết. Vì sao không biết? Vì mê! Do vậy, Phật, Bồ Tát ứng hóa trong thế gian nhằm giúp đỡ chúng ta, cứu độ chúng ta. Công đức lớn lao bậc nhất là gì? Là giúp chúng ta phá mê khai ngộ. Cái khổ luân hồi trong lục đạo là do mê, ai cứu được? Phật, Bồ Tát có thể cứu được! Do vậy, chỉ có Phật, Bồ Tát mới có thể làm chuyện từ thiện cứu tế triệt để, rốt ráo, viên mãn nhất. Chẳng phải là quý vị không có gì ăn, bèn cho quý vị một chút thức ăn, quý vị không có áo mặc bèn cho một ít y phục, quý vị không có nhà ở bèn cho mấy gian phòng để ở; người thế gian chúng ta bảo đó là từ bi, là từ bi cứu tế. Phật, Bồ Tát không như thế! Phật, Bồ Tát muốn cứu quý vị thoát khỏi luân hồi lục đạo, muốn cứu quý vị ra khỏi mười pháp giới, muốn giúp cho quý vị thành Phật, giúp quý vị vĩnh viễn thoát khỏi hết thảy nỗi khổ thế gian. Sự nghiệp từ bi cứu tế lớn lao như thế, hết sức đáng tiếc là rất ít người thế gian biết được. Bậc đại thiện nhân như thế không ai nhận biết, dẫu không ai nhận biết nhưng Ngài vẫn thời thời khắc khắc chẳng rời khỏi chúng ta, đó mới là từ bi đến cùng cực. Ngài không rời khỏi chúng ta, thời thời khắc khắc, vĩnh viễn không gián đoạn chăm chút chúng ta. Chúng ta phải nên giác ngộ, phải nên hiểu rõ, phải nên thấu hiểu chân tướng sự thật này.
Sanh là duyên sanh, “nhưng Pháp Tánh chẳng sanh cùng với duyên ”; diệt là duyên diệt, “nhưng Pháp Tánh chẳng cùng diệt theo duyên”. Chúng tôi đổi một chữ sanh diệt chắc quý vị dễ hiểu hơn. Sanh là thân thể của chúng ta được sanh, diệt là thân thể này chết. Chúng tôi dùng “sống - chết” để nói chắc quý vị dễ hiểu hơn. Sanh, đúng là duyên sanh. Thân thể của chúng ta do Tứ Đại, Ngũ Ấm, các duyên hòa hợp tạo thành. Nói theo cách bây giờ thì thân thể này do rất nhiều khí quan, kinh mạch, tế bào hợp thành. Nhưng tâm tánh của chúng ta không phải là những khí quan, không phải là kinh mạch, cũng không phải là tế bào, cái nào cũng đều không phải. Tâm tánh không phải là vật chất, vật chất có sanh diệt; tâm tánh của chúng ta không sanh diệt, điều này cũng rất khó hiểu.
Hiện thời nói chung quý vị nhờ vào Internet để tiếp nhận những tin tức của chúng tôi, hoặc là qua CD, qua băng thâu hình do chúng tôi chế tác, quý vị nhìn vào màn huỳnh quang của TV sẽ trông thấy tôi. Tôi dùng tỷ dụ này để giảng cho quý vị dễ hiểu. Màn huỳnh quang của computer, của máy truyền hình giống như Pháp Tánh, những hình ảnh hiện nơi màn hình là duyên sanh sanh diệt. Quý vị hãy nghĩ coi: Những hình ảnh hiện trên màn hình có sanh, có diệt, nhưng cái màn hình ấy có sanh diệt hay không? Không có! Lại dùng điện ảnh để tỷ dụ: Tôi cho rằng người hiện thời ai nấy đều đã từng coi phim, cái phông màn để chiếu phim giống như Pháp Tánh mà chúng ta đang đề cập ở đây. Những hình ảnh chiếu trên phông màn có sanh diệt, đó là duyên sanh. Vì thế, cái hiện tướng (tướng được hiện) này có sanh có diệt, còn cái phông màn có thể hiện tướng (không có phông màn, hình ảnh không hiện được) thì không sanh, không diệt.
Từ những tỷ dụ này, quý vị hiểu: Pháp Tánh giống như cái màn để chiếu phim, cái gì cũng không có, nhưng nó lại có thể hiện tướng, dẫu hiện tướng nhưng không nhiễm trước. Dùng chuyện này để tỷ dụ chân tâm cũng được! Có đôi chỗ tương tự! Nếu chúng ta hiểu được đạo lý này, chúng ta sẽ dụng tâm giống như cái màn để chiếu phim, mặc sức quý vị hiện tướng này nọ. Quý vị hiện tướng Phật, Bồ Tát rất tốt, mà hiện tướng địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng tốt, không gì không tốt, quyết định không phân biệt, quyết định không chấp trước, quyết định không nhiễm ô mảy may. Có thể nói là hiện tại, quý vị ngày nào cũng phải tiếp xúc với màn huỳnh quang của máy truyền hình hay màn hình của computer, cái gì chúng cũng không có, nhưng cái gì cũng hiện được. Thế nhưng những máy móc ấy hiện được là nhờ vào ngoại duyên, [vẫn là] duyên sanh. Sanh là hiện tướng, tướng chính là duyên sanh. “Pháp Tánh chẳng sanh cùng với duyên”. Cái màn hình có thể hiện được hình ảnh ấy chẳng sanh cùng một lúc với hình ảnh, không phải thế. Diệt thì những hình ảnh trên màn hình đã hiện xong; tắt nguồn điện đi, không còn nữa, những tướng ấy diệt mất, không còn nữa, nhưng màn hình chẳng bị tiêu diệt theo tướng ấy. Như vậy, màn hình là bất sanh bất diệt, hình ảnh là hữu sanh hữu diệt. Hình ảnh chính là cảnh giới sáu trần bên ngoài mà sáu căn của chúng ta tiếp xúc. Căn của chúng ta lẫn cảnh giới bên ngoài đều là hữu sanh hữu diệt. Pháp Tánh có thể hiện tướng, nó là bất sanh bất diệt, giống như cái màn hình không sanh diệt, nó vĩnh hằng, đó mới thật sự là mình. Nhà Thiền nói “bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra”, đó mới thật sự là mình, không đâu chẳng tồn tại. Lại thưa cùng quý vị: Từ trước đến nay, nó không lay động. Pháp Tánh trạm nhiên, từ trước đến nay chưa từng lay động, từ trước đến nay chưa từng bị nhiễm ô, có đủ thấy - nghe - hay - biết.
Như vậy, [khả năng] thấy - nghe - hay - biết của con người chúng ta là do đâu mà có? Do Pháp Tánh mà có. Khả năng thấy - nghe - hay - biết của hết thảy vạn vật do đâu mà có? Cũng là từ Pháp Tánh. Không lạ lùng chút nào cả! Nó vốn sẵn là như vậy, kể cả hư không, nếu hư không chẳng thấy - nghe - hay - biết, nó sẽ chẳng thể truyền đạt sự thấy - nghe - hay - biết. Hiện thời có rất nhiều tín hiệu phải nhờ vào hư không để chuyển đi là vì hư không có thấy - nghe - hay - biết. Do đây biết rằng: Toàn thể vũ trụ sống động, không phải chết cứng, sống động hoạt bát. Quý vị thấy sơn hà đại địa, cây cỏ, bùn cát, đá tảng dường như ù lì không linh hoạt, chứ thật ra chúng linh động.
Văn Thù Bồ Tát nói “tưởng ngưng đọng thành cõi nước”, nói theo ngôn ngữ hiện thời thì câu này có nghĩa là: Vật chất do đâu mà có? Ngài giảng rất rõ ràng. “Tri giác là chúng sanh”, câu này giảng rất hay: Hết thảy chúng sanh đều có tri, đều có giác, là gì vậy? Pháp Tánh đấy! Tại động vật thì gọi là Phật Tánh, tại thực vật, khoáng vật thì gọi là Pháp Tánh. Phật Tánh và Pháp Tánh là một tánh, đều là thấy - nghe - hay - biết. Chúng tôi hết sức cảm tạ những nhà khoa học, hiện tại họ dùng phương pháp khoa học chứng minh thực vật cũng thấy - nghe - hay - biết, khoáng vật cũng thấy - nghe - hay - biết. Điều này giúp chúng tôi lý giải, hiểu sâu thêm một tầng, giúp ích cho việc dạy dỗ của chúng tôi, có tác dụng rất lớn; đặc biệt là đối với chính bản thân chúng tôi. Trong quá khứ, bản thân chúng tôi nghiên cứu kinh giáo, thật sự không có chứng cứ khoa học. Chúng tôi tin tưởng là nhờ vào Thánh Ngôn Lượng, tức là thánh nhân chẳng khinh dối chúng ta. Sau đấy, nhờ vào công phu tu hành của chính mình mới đạt đến một trình độ nhất định. Đấy là tu Định. Đạt đến một mức độ nhất định thì cảnh giới hiện tiền, tự mình chứng ngộ, quý vị đã chứng đắc rồi.
Hiện nay, dùng phương pháp khoa học thì dù chúng ta chưa đạt đến mức độ tu hành như vậy, cũng vẫn có thể thấy được, dùng máy móc, dụng cụ giúp chúng ta chứng minh. Đương nhiên máy móc chỉ giúp chúng ta chứng minh một cách hữu hạn, chỉ chứng minh được những gì rất thô tháp. Từ thiền định mà chứng đắc sẽ thấy chúng cực vi tế, lại còn rộng sâu. Chúng tôi cảm tạ những nhà khoa học đã cung cấp những tin tức này, khiến cho tín tâm của chúng tôi tăng gấp bội, chúng tôi biết phải khéo đối xử với chính mình như thế nào, biết phải khéo đối đãi hoàn cảnh sanh hoạt của chính mình như thế nào. Trong hoàn cảnh bao gồm cả hoàn cảnh nhân sự lẫn hoàn cảnh vật chất. Đối với hết thảy hữu tình chúng sanh, đó là hoàn cảnh nhân sự. Đối với hết thảy vô tình chúng sanh, đó là hoàn cảnh vật chất. Chúng ta giống như Phật, Bồ Tát, dẫu chẳng thể nói là hoàn toàn giống hệt, nhưng dần dần rất gần giống. Đãi người, xử sự, tiếp vật giống hệt như Phật Như Lai, sẽ dần dần khế nhập cảnh giới Phật. Đoạn khai thị này nhằm giải thích cho chúng ta biết: “Cho nên nói: ‘Pháp Tánh trạm nhiên”. Đây là nói về “sanh nhưng không sanh” vậy! Thế nào là “sanh nhưng không sanh” được giải thích nhiều như thế. Sanh là dấu vết sanh diệt của chúng sanh. Nói cách khác, sanh là hiện tướng. Pháp Tánh bất sanh bất diệt, Pháp Tánh không phải là tướng được hiện. Nói theo cách bây giờ, Pháp Tánh không phải là vật chất, vật chất sanh khởi từ Pháp Tánh. Do vậy, hiện tướng của vật chất có sanh diệt; còn hiện tướng của Pháp Tánh không có sanh diệt. Từ Tướng quý vị thấy được Tánh, đó là “sanh nhưng không sanh”. Đúng là như chúng ta trông thấy những tướng được hiện trên màn huỳnh quang, đồng thời ta cũng thấy được chính cái màn huỳnh quang ấy. Quý vị biết tướng được hiện trên màn hình có sanh diệt, còn màn hình bất sanh bất diệt. Trong sanh diệt quý vị thấy không sanh không diệt, chuyện này dễ hiểu. Từ chỗ này, quý vị phải chú tâm lãnh hội. Chúng ta lại đọc tiếp đoạn kế:
Vô sanh nhi sanh giả…
(Vô sanh mà sanh là)
Đây là luận về Tướng, vốn không có, không có mà nay lại có. Có như thế nào? Ở đây, Trung Phong thiền sư bảo chúng ta:
Chúng sanh mê vọng nhập tâm
Thưa cùng quý vị, cái tâm ấy là vọng tâm, chẳng phải chân tâm. Do vì mê vọng nên không nhập được chân tâm. Chân tâm thuần chân, tuyệt đối không thể kèm theo vọng. Tâm ấy là gì? Tâm ấy là tám thức, chúng ta thường gọi là A Lại Da Thức. Thật sự nhập A Lại Da Thức! A Lại Da Thức giống như cái kho, tất cả hết thảy mê vọng đều cất chứa trong A Lại Da Thức. A Lại Da Thức là kho lẫm; vì thế, trong kinh điển, đức Phật gọi thức này là Hàm Tàng Thức hoặc Tạng Thức. Tạng là kho lẫm. Chúng ta khởi tâm động niệm là ghi ấn tượng (người hiện thời nói là “ghi ấn tượng”) vào đâu? Chính là thâu cất trong A Lại Da Thức. A Lại Da Thức là vọng tâm, cũng rộng lớn không ngằn mé, giống như hư không. Ấn tượng ấy không phải là vật chất, cho nên không có thể tích. Trong kinh, đức Thế Tôn đã từng nhắc đến. Đức Phật nói: Nếu ấn tượng có thể tích thì khắp cõi hư không chẳng thể chứa đựng hết. May là nó không có thể tích, tàng trữ trong A Lại Da Thức. Ngày hôm qua chúng ta làm những chuyện gì, quá khứ làm những việc gì, hoặc là mấy chục năm trước làm chuyện gì, có những ấn tượng rất sâu đậm, hễ nghĩ tới bèn tưởng tượng được ngay. Nếu những ấn tượng ấy không có một chỗ nào giống như một cái kho tài liệu để cất giữ ngõ hầu lúc nào chúng ta cần rút tài liệu ra thì sự việc trong quá khứ bèn hiện bày ngay trước mặt; nếu không có một cái kho như vậy thì chẳng phải là cái gì cũng không có hay sao? Cái kho tài liệu ấy không hư nát, vĩnh viễn tồn tại bất hoại. Những thứ được tàng trữ trong kho ấy là từ đời đời kiếp kiếp, từ vô thỉ đến nay, tất cả hết thảy điều thiện cũng vậy, tất cả hết thảy điều bất thiện cũng thế, điều vô ký (không thiện không ác) cũng thế, đều được cất giữ trong kho ấy. Chúng ta muốn lấy ra một tài liệu nào thì tài liệu ấy bèn lập tức xuất hiện, hết sức nhanh chóng; ngay cả máy điện não (computer) hiện tại cũng chẳng thể sánh kịp. Máy điện não do con người phát minh, vĩnh viễn không thể nào sánh kịp bộ óc con người. Cái tâm ấy “mê vọng nhập tâm”, tâm ở đây là A Lại Da Thức.
Tích nghiệp thành quả
(Chứa nghiệp thành quả)
“Tích” là tích lũy (chất chứa), những tội nghiệp đã tạo tác từ vô thỉ đến nay được chất chứa, đến bây giờ biến thành quả, báo bèn hiện tiền, tức là Báo Chướng trong ba chướng. “Mê vọng nhập tâm” là Phiền Não Chướng, “tích nghiệp” là Nghiệp Chướng, “thành quả” là Báo Chướng. Thôi rồi! Quả báo hiện tiền!
Hư thọ luân chuyển, vọng kiến sanh diệt.
(Dối chịu luân chuyển, lầm thấy sanh diệt)
Luân hồi không thật, lục đạo không thật, là huyễn tướng. Kinh Kim Cang ví rất khéo: “Mộng, huyễn, bọt, bóng”. Phàm phu không biết, cho đó là thật, bởi thế đối với những chuyện đó bèn nẩy sanh vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tức là bị cảnh xoay chuyển. Không như người giác ngộ, người giác ngộ chuyển được cảnh giới, hoàn toàn làm chủ được cảnh giới. Phàm phu đáng thương, coi cảnh giới hư vọng không thật là thật, tâm bị cảnh giới chuyển. Tâm ấy là vọng tâm, còn chân tâm chẳng khởi tác dụng, vì mê rồi, bị mê mất rồi, không biết một tí nào cả! Cả ngày từ sáng đến tối khởi tâm động niệm, những điều mình nghĩ, mình tưởng đều là vọng tâm. Nếu chúng ta hỏi chân tâm có tồn tại hay chăng ư? Chân tâm tồn tại. Tôi vừa mới nói chân tâm giống như cái màn hình, không sanh, không diệt, không đến, không đi, như như bất động, nó tồn tại. Tồn tại như thế nào? Chẳng khởi tác dụng! Quý vị không nhận biết nó sẽ không dùng được nó. Người giác ngộ biết dùng, biết dùng thì được đại tự tại. Vì sao? Chẳng bị cảnh giới chuyển. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu chuyển được vật thì giống như Như Lai”. Bản lãnh của Pháp Thân Bồ Tát và chư Phật Như Lai là nhận chân chứ không nhận vọng, chẳng bị cảnh giới xoay chuyển.
Pháp Tánh ở tại đâu? Pháp Tánh chẳng lìa Pháp Tướng. Có thể nói là giống như chúng ta xem truyền hình, màn hình ở đâu? Chỗ nào quý vị thấy được hình ảnh thì chỗ đó chính là màn hình, màn hình không tách rời hình ảnh, hình ảnh chính là màn hình. Như vậy, thánh nhân từ hình ảnh mà thấy được màn hình bất sanh bất diệt, thấy được màn hình như bất động, tâm Ngài không động, chẳng bị cảnh giới của hình ảnh xoay chuyển. Hình ảnh rõ ràng, sáng tỏ, chẳng mảy may dính dáng gì đến Pháp Tánh cả, nó giữ được cái tánh. Do đó, từ đây ta cũng có thể hiểu được cảnh giới của bậc thánh nhân, dẫu nay mình chưa làm được, nhưng đã suy tưởng được. Ở trong ngũ dục lục trần, trong đại thiên thế giới, các Ngài đúng là giống như đang xem phim hay đang coi truyền hình vậy, nhất định không sanh nhiễm trước, thấy rất rõ ràng, rất minh bạch. Đó là Huệ, chính là như kinh Bát Nhã đã nói: “Bát Nhã vô tri nhưng không gì không biết”. Các Ngài thấy rất rõ ràng, không gì không biết. Vô tri là gì? Vô tri là Pháp Tánh, vô tri mới là chân tri (thật sự biết).
Lục đạo phàm phu hoàn toàn tương phản, họ có biết, nhưng cái họ biết chỉ là tất cả hết thảy những hình ảnh hiện trên màn hình, quên mất cái màn hình, hoàn toàn quên bẵng, không biết những hình ảnh đó phải nhờ vào màn hình mà biến hiện, quên tuốt cái màn hình, hoàn toàn chấp tướng. Lục đạo phàm phu là vậy đó! Cho tướng ấy là chân thật, đối với tướng bèn khởi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, niệm niệm so đo, không biết chúng là hư huyễn, hư vọng, về căn bản chẳng hề tồn tại. Vì sao? Vì những tướng ấy sanh diệt trong từng sát-na.
Quý vị hãy nghĩ xem có phải là những hình ảnh trên màn hình sanh diệt trong từng sát-na hay không? Chắc chắn chẳng có hai tướng giống nhau. Dễ thấy nhất là phim ảnh, [hình ảnh hiện ra hay biến mất] là do ống kính đóng hay mở, rõ rệt quá! Truyền hình tiến bộ hơn phim ảnh, người xem truyền hình rất nhiều, nhưng người hiểu được nguyên lý của truyền hình không nhiều. Người hiểu được nguyên lý của truyền hình sẽ hiểu tướng là hư vọng. Tướng của truyền hình là gì vậy? Là tổ hợp của những tia quét, mỗi tia quét do các vi điểm (pixel) hợp thành, nhiều điểm hợp thành tia quét, nhiều tia quét hợp thành hình ảnh. Nguyên lý là vậy. Do các tia quét di động rất nhanh nên ta chẳng biết nó là giả tướng. Mỗi giây, nơi ống kính của máy chiếu phim, hình ảnh được sanh diệt hai mươi bốn lần (ống kính mở là sanh, ống kính đóng là diệt). Nhìn trên màn bạc, những hình ảnh trông rất thật, không biết chúng là giả tướng. Những tia quét trong máy truyền hình so với tốc độ đóng mở ống kính của máy chiếu phim nhanh không biết gấp bao nhiêu lần, nên chúng ta bị lừa dối. Nếu tốc độ di động chậm lại, quý vị sẽ hoàn toàn hiểu rõ. Mỗi tia quét di động chậm lại, chuyển động từ từ thì quý vị sẽ hiểu rõ hình ảnh được xuất hiện ra sao; vì chúng xuất hiện quá nhanh nên quý vị không biết được.
Như vậy, luân hồi là giả, không thật, thế nhưng quý vị không hiểu, giống như nằm mộng: Mộng là giả, nhưng lúc nằm mộng không biết mình đang nằm mộng; bởi thế mới có chuyện chịu khổ, hưởng vui trong mộng. Nếu biết là nằm mộng, cổ nhân nói: Nếu biết mình đang nằm mộng, trong mộng thấy cọp ăn thịt mình, ta cũng hết sức phát tâm, phát khởi lòng từ bi, đem thân này thí cho cọp, mộng cảnh mà! Quý vị không biết là mộng, cứ cho đó là thật, nên thấy cọp chạy đến, kinh hoảng toát mồ hôi lạnh khắp mình. Chư Phật, Bồ Tát ứng hóa trong chín pháp giới, đến hóa độ chúng sanh, chúng ta thường nghe nhà Phật có câu: “Đại tác mộng trung Phật sự, khải kiến thủy nguyệt đạo tràng” (Làm Phật sự lớn lao trong mộng, xây dựng đạo tràng bóng trăng trong nước). Đạo tràng là bóng trăng trong nước, Phật sự là chuyện trong mộng. Vì thế, bậc ứng hóa rất tự tại, ở trong những pháp giới ấy giáo hóa chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh, đúng là chẳng lưu lại vết tích. Nếu quý vị hỏi các Ngài có tạo tác gì hay chăng ư? Các Ngài không tạo tác, làm nhưng không làm, không làm mà làm. Nhìn từ quan điểm của chúng sanh, các Ngài làm rất nhiều, nhưng trên thực tế, chuyện gì các Ngài cũng không làm.
Bởi thế, quý vị phải hiểu: Nay chúng ta luân hồi trong lục đạo, nhưng Phật, Bồ Tát, người giác ngộ thấy chúng ta chỉ luân hồi một cách hư giả; vì thế, chúng ta được gọi là những “kẻ rất đáng thương xót”. Vì sao đáng thương xót? Thật sự đáng thương xót lắm! “Lầm thấy sanh diệt”: Đối với sanh diệt, đối với chết chóc sợ hãi như thế ấy, sợ phát khiếp như thế là vì vọng kiến (thấy sai lầm). Khi quý vị đã hiểu rõ thì không có sanh diệt, không có sống chết, chỉ là thay đổi cảnh giới mà thôi. Chỉ là đổi một cảnh mộng này sang một cảnh mộng khác, không có cách nào lay tỉnh quý vị được! Hễ tỉnh ra thì sáu nẻo không còn nữa. Vĩnh Gia đại sư nói rất hay: “Trong mộng đành rành phô sáu nẻo, tỉnh rồi ba cõi rỗng toang hoang”. Giác ngộ rồi thì không còn nữa! Tiếp theo đây, Trung Phong thiền sư dùng tỷ dụ để thuyết minh, hy vọng rằng: Nếu với những điều vừa nói ở trên, quý vị không cách gì lãnh hội được thì nhờ vào tỷ dụ này sẽ giúp cho quý vị hiểu được!
Ư Pháp Tánh thể thượng, như kính hiện tượng, tự châu tùy sắc. Đương tri kính quang bản tịnh, châu thể tuyệt ngấn. Vật cảnh hỗ chương, bất vi sắc tượng. Bỉ sắc tượng chi khứ lai, do nghiệp quả chi nghiễm nhiên dã.
(Pháp Tánh về bản thể giống như hình ảnh được hiện nơi gương, giống như viên ngọc phản chiếu màu sắc [những vật xung quanh]. Phải biết: Ánh sáng của gương vốn tịnh, thể của châu trọn không tỳ vết. Vật cảnh soi rõ lẫn nhau, hình sắc chẳng trái nghịch. Hình sắc đến đi giống như nghiệp quả đành rành vậy)
Đọc đến đoạn này, có thể nói là giống như những tỷ dụ của chiếu bóng, màn hình của máy truyền hình, máy điện não chúng tôi đã dùng. Từ những tỷ dụ ấy, nếu chúng ta chú tâm thể hội thì quả thật y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều giống như vậy, đều không thật, Nhất Chân pháp giới mới là thật! Hoa Tạng, Cực Lạc là thật, là Nhất Chân pháp giới. Mười pháp giới đều là mộng, huyễn, bọt, bóng, chứ không riêng gì lục đạo.
“Pháp Tánh về bản thể giống như hình ảnh được hiện nơi gương”: Thời cổ chưa có khoa học, kỹ thuật, trong sanh hoạt thường nhật, mọi người thường dùng đến gương. Sáng sớm ngủ dậy, buổi tối trước khi ngủ, rửa mặt đều phải soi gương, “Pháp Tánh về bản thể giống như hình ảnh được hiện nơi gương”. Lại như “bảo châu tùy sắc”, bảo châu là thứ được mọi người yêu thích, thế nhưng người có châu báu không nhiều, nói chung phải là hạng phú quý. Còn gương hầu như nhà nào cũng có, là một vật dụng rất thông dụng. Châu có màu chẳng phải vì chính nó có màu, mà do phản chiếu màu sắc bên ngoài. Nay bảo châu được dùng rất nhiều vì có rất nhiều loại bảo châu nhân tạo, làm gần giống như thật, rất khó phân biệt. Chiếu ánh sáng vào châu theo những góc độ khác nhau, nó bèn hắt ra những tia sáng có màu sắc khác nhau. Điều này con người hiện thời hiểu rất rõ rệt: Châu vốn không có ánh sáng, được ánh mặt trời hoặc ánh đèn soi vào, sẽ thấy nó tỏa ra ánh sáng có màu sắc. Vì thế, “phải biết ánh sáng nơi gương vốn tịnh”, gương vốn thanh tịnh, nơi gương vốn chẳng có sắc tướng; châu cũng rất thanh tịnh, cũng không có màu sắc sáng chói. Vì thế, đại sư bảo chúng ta: “Ánh sáng của gương vốn tịnh, thể của châu trọn không tỳ vết”, không có vết sứt mẻ, hoàn toàn thanh tịnh.
“Vật cảnh soi rõ lẫn nhau, hình sắc chẳng trái nghịch”: Những cảnh giới bên ngoài gương là “vật cảnh”. Vật là gương hay châu, cảnh giới bên ngoài soi vào đó, chúng bèn phản chiếu lại, đó là “hỗ chương”. Chương có nghĩa là sáng rõ. Gương chiếu soi cảnh giới bên ngoài, cảnh giới bên ngoài hiện bóng trong gương; ánh sáng chiếu vào châu, châu tỏa ra màu sắc. “Hình sắc chẳng trái nghịch ”, hình tượng tự nhiên hiện ra những tướng như vậy, điều này rất dễ hiểu! Những hình sắc ấy có sanh có diệt, lúc chiếu là sanh, lúc không chiếu là diệt. Nếu chúng ta di động cái gương, dùng mặt này soi thì cảnh giới sẽ sanh nơi mặt này, soi bằng mặt kia thì cảnh giới bên mặt này không còn nữa, diệt mất; mặt kia lại sanh. Soi mặt mũi tôi, mặt mũi tôi bèn sanh trong gương; đem soi vào mặt anh, mặt tôi bèn biến mất, mặt anh bèn sanh. Cảnh giới dường như có sanh có diệt, nhưng cái gương (có khả năng chiếu soi) không sanh không diệt. Châu biến đổi màu sắc thuận theo ánh sáng, biến đổi là có sanh có diệt, chứ bản thể của châu không sanh không diệt.
Như vậy, “hình sắc đến đi”: Chữ “sắc” chỉ cho châu vì châu hiện sắc, gương hiện hình. “Do như nghiệp quả nghiễm nhiên” (giống như nghiệp quả rành rành), “nghiễm nhiên” là tự nhiên. Hết thảy chúng sanh chúng ta vì mê hoặc chân tướng sự thật (Thật Tướng các pháp), nên khởi Hoặc tạo nghiệp, biến hiện thành quả báo, giống như hình ảnh hiện trong gương, giống như màu sắc xuất hiện nơi châu, không phải là chân thật. Gì là chân thật? Tánh của chúng ta là chân thật, ở đây nói Pháp Tánh là chân vậy. Nếu bây giờ chúng ta hỏi Pháp Tánh ở nơi đâu thì như kinh Lăng Nghiêm đã giảng: “Từ cửa ngõ sáu căn phóng quang lay động cõi đất”. Chư Phật Như Lai thấy được điều này nên chúng ta chắp tay xưng Ngài là Phật, vì sao? Quý vị có Phật tánh, tánh của quý vị và tánh của Phật không hai không khác, Ngài là Phật nhưng vì sao quý vị không là Phật? Hết thảy chúng sanh đều là Phật, vô tình chúng sanh có Pháp Tánh. Trong pháp Đại Thừa thường nói: “Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Ta thấy được Tánh, nơi Tướng thấy được Tánh sẽ thành Phật. Tuyệt đối chẳng mê nơi tướng thì gọi là “đại triệt đại ngộ”, Giáo Hạ gọi là “đại khai viên giải”, Niệm Phật gọi là “Lý nhất tâm bất loạn”, thật sự nhất tâm bất loạn! Thế nào là nhất tâm? Hóa giải hết thảy tất cả đối lập thì mới gọi là “nhất tâm”. Có người, có ta, ta và người đối lập thì chẳng phải là nhất tâm; trong nhất tâm không có đối lập. Chúng ta thường hay nói đến Phật và chúng sanh, tức là vẫn còn có Phật và chúng sanh, như vậy là còn mê, chưa giác ngộ. Giác ngộ thì sao? Giác ngộ rồi thì không Phật, không chúng sanh, Phật chính là chúng sanh, chúng sanh chính là Phật, là một không phải hai, đó là nhất tâm. Phàm những gì đối lập, tương đối đều không có, chân - vọng không có, tà - chánh không có, thiện - ác không có, đúng - sai không có, ta - người không có, xa - gần không có, trước - sau không có, đó mới là nhất tâm bất loạn, đó là “nhập Bất Nhị pháp môn”, đó là “nhập Phật cảnh giới”. Phật giác ngộ cảnh giới triệt để, được đại tự tại, “Lý vô ngại, Sự vô ngại, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”. Hết thảy mọi thứ không gì không tùy thuận Phật tánh, chẳng tạo nghiệp, không phiền não, phiền não không còn, nghiệp không còn; vì vậy, quả báo trong sáu nẻo mười pháp giới không còn nữa. Đó là “giác rồi ba cõi rỗng toang hoang”, chỉ còn sót lại cảnh giới nào? Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới là Hoa Tạng, là Cực Lạc. Chúng ta xem đoạn tiếp theo, nếu quý vị muốn thật sự hiểu được những tỷ dụ trên, quý vị phải chú tâm thể hội:
Cố chư Phật ư nghiễm nhiên sanh diệt trung, duy kiến vô sanh.
(Bởi thế chư Phật trong sự sanh diệt rành rành, chỉ thấy vô sanh)
Câu này rất dễ hiểu. Chư Phật Như Lai, Pháp Thân Bồ Tát thấy hết thảy vạn vật, dẫu là lục đạo hay là mười pháp giới đều bất sanh bất diệt. Vì sao? Các Ngài từ Tướng thấy được Tánh, Tánh cũng như Tướng không trở ngại; cốt sao quý vị hiểu được chân tướng sự thật này. Vì sao? Như tấm gương soi chiếu vạn vật bên ngoài có trở ngại gì hay không? Vạn vật hiện trong gương, gương trọn chẳng nhiễm, mảy may trở ngại cũng không có. Vì sao nay chúng ta có chướng ngại? Do chúng ta nhiễm trước. Chúng ta mắt thấy, tai nghe, tiếp xúc cảnh giới bên ngoài bèn khởi tâm động niệm, sanh khởi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Vậy là hỏng bét rồi! Phật, Bồ Tát hiểu rõ chân tướng sự thật rõ ràng minh bạch, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước. Những lời này tôi đã nói rất nhiều năm rồi, ai thực hiện được thì người ấy thành tựu. Lời này chẳng để nói xuông, có nói cũng vô ích, [chỉ là] kể tên món ăn, đếm của báu nhưng chính mình chẳng được thọ dụng! Nếu chính mình đối với cảnh giới hiện tiền, thấy sắc, nghe tiếng, quả thật biết chân tướng sự thật rõ rệt, minh bạch: Đây là Tướng Phần, kia là Tánh Phần, thật sự khế nhập cảnh giới, Tánh - Tướng như một. Tánh và Tướng vẫn là đối lập, vẫn là còn mê chưa ngộ. Thật sự giác ngộ thì Tánh và Tướng là một, Sự - Lý là một, nhân quả là một, quý vị nhập Nhất Chân, đắc nhất tâm. Do như vậy mà đắc Nhất tâm .
Bởi thế, tách lìa hết thảy cảnh giới thì quý vị sẽ đạt được nhất tâm từ đâu đây? Huống hồ quý vị có lìa được cảnh giới hay chăng? Không lìa được! Quý vị chỉ có thể chuyển đổi, chứ chắc chắn không thể lìa khỏi được. Vì sao không tách lìa được? Pháp Tánh tự nhiên hiện, có thể tánh thì tự nhiên bèn hiện tướng, hễ có hiện tướng thì tự nhiên có tác dụng. Thể - Tướng - Dụng là một nhưng ba, tuy ba mà một, giống như hình tướng hiện trong gương, là một không hai. Đúng là mê - ngộ bất đồng, do vậy: “Chư Phật trong sự sanh diệt rành rành, chỉ thấy vô sanh”, trong Tướng thấy Tánh, Tánh - Tướng như một.
Chúng sanh ư trạm nhiên vô sanh trung, duy kiến sanh diệt.
(Trong vô sanh trạm nhiên, chúng sanh chỉ thấy sanh diệt)
Chúng sanh đang mê, vô sanh là Pháp Tánh. Nơi Pháp Tánh chúng sanh thấy hiện tướng sanh diệt, chỉ thấy được Pháp Tướng, đem Pháp Tướng đối lập, quên mất Pháp Tánh vô sanh, hoàn toàn không biết mình đối lập nơi tướng hư vọng. Giống như chúng ta thấy cái phông màn đây; cái phông màn này là tướng, phía sau có núi, có mây vờn, có cây cối, phân biệt như thế. Sự phân biệt ấy là khởi tâm động niệm: Đây là núi, đây là mây, đây là cây, cây không phải là núi, núi không phải là mây. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là hỏng rồi, mê rồi, càng mê sâu hơn, càng chấp trước nghiêm trọng hơn. Chư Phật, Bồ Tát không vọng tưởng, không phân biệt, không chấp trước, thấy rất rõ ràng, không khởi tâm động niệm. Các Ngài không nói đây là cây, đây là mây, đây là núi, không hề có, nhất thể! Bất đắc dĩ thì gọi bằng một danh từ, đó là Pháp Tướng.
Pháp Tánh có thể hiện, Pháp Tướng là cái được hiện, Pháp Tánh là một, Pháp Tướng bất nhị, đó là trí huệ chân thật. Có vậy mới thấy chân tướng sự thật rõ ràng, minh bạch, không mê, không nhiễm. Chúng ta học Phật phải lấy việc khế nhập cảnh giới này làm mục tiêu tu học, kinh thường gọi là “nhập Phật tri kiến”. A! Nay đã đến giờ rồi!
*
Chư vị đồng học!
Xin xem tiếp phần khai thị của Trung Phong thiền sư trong thời thứ nhất. Chúng tôi đã đọc đoạn sau đây:
Cố chư Phật ư nghiễm nhiên sanh diệt trung, duy kiến vô sanh; chúng sanh ư trạm nhiên vô sanh trung, duy kiến sanh diệt.
(Vì thế, chư Phật đối với sự sanh diệt đành rành, chỉ thấy vô sanh; chúng sanh đối với vô sanh trạm nhiên chỉ thấy sanh diệt).
Hai câu này tôi đã giảng rồi. Trung Phong thiền sư quả thật đã dùng lời giải thích trực tiếp, thích đáng nhất để thuyết minh chúng sanh khác với Phật ở chỗ nào. Chúng ta hãy xem đoạn văn khai thị tiếp theo đó:
Chỉ nhân mê ngộ chi hữu sai, toại chí hiện lượng nhi bất nhất; thực nãi sanh vô tự tánh, vô sanh diệc vô tự tánh, ngộ tắc sanh diệt giai vô sanh, mê tắc vô sanh giai sanh diệt. Sở dĩ, ly thử biệt vô, thị nãi nhất thể nhi dị danh dã.
( Chỉ do mê ngộ sai khác mà đến nỗi hiện lượng (1) khác nhau, chứ thật ra, sanh không có tự tánh, vô sanh cũng không có tự tánh. Hễ ngộ thì sanh diệt đều là vô sanh, còn mê thì vô sanh đều thành sanh diệt. Do vậy, lìa khỏi cái này không còn gì khác, đấy chỉ là một thể mà tên gọi khác nhau).
Chúng ta đọc đến đoạn này. Trong đoạn trên đại sư đã vì chúng ta thuyết minh tỉ mỉ: Chúng sanh và Phật khác nhau ở chỗ nào? Sai biệt ở chỗ mê hay ngộ, mê thì gọi là chúng sanh, giác ngộ thì gọi là Phật. Vì vậy, ở đây, thiền sư nói: “Chỉ do mê ngộ sai khác”. Mê ngộ là quý vị thấy cảnh giới bên ngoài, tức sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, mắt thấy, tai nghe, thân thể tiếp xúc, thậm chí tất cả hết thảy cảm thọ đều khác nhau. Những đạo lý như vậy nếu giảng giải một cách nông cạn thì không đến nỗi khó hiểu lắm. Ví như chúng ta đều cùng sống trong thế gian này như nhau, nhưng do trình độ văn hóa khác biệt, tu dưỡng sai khác, thấy cảnh giới bên ngoài - tức là đối với hết thảy người, sự, vật - mỗi người cảm nhận khác nhau. Đấy là một sự thật rất rõ ràng. Ngoài ra, còn có thể nêu một thí dụ khác: Như khi mỗi một người chúng ta đang vui vẻ, thấy hết thảy người, sự, vật đều cảm thấy vui thích; nếu khi chúng ta đang lo buồn, phiền não, nhìn vào hết thảy người, sự, vật ắt cảm thấy chán ghét, đều không đáng ưa.
Do vậy biết rằng, cảnh giới bên ngoài là một, tùy theo mức tu dưỡng, tùy theo tình cảm của ta, sau khi ta tiếp xúc, trong sự cảm nhận của ta cảnh giới sẽ bị biến đổi rất lớn. Ngay từ bản thân mỗi người chúng ta, hoặc là từ giữa chốn bạn bè thân thiết, mọi người cùng tụ hội, dễ thấy chuyện này rõ rệt nhất. Từ đây chúng ta có thể suy đoán là bọn phàm phu chúng ta và Phật khác biệt rất lớn. Sự khác biệt trong việc nhận biết vũ trụ nhân sanh càng lớn hơn nữa. Chư Phật thấy được chân tướng của vũ trụ nhân sanh, chúng ta chỉ thấy vọng tướng của nhân sanh vũ trụ. Vì sao chúng ta thấy hư vọng? Chỉ vì chúng ta mê mất chân tướng. Mê như thế nào? Trong phần trên đã nói rồi đó: Phật, Bồ Tát giác ngộ, triệt để giác ngộ, viên mãn giác ngộ; bởi vậy, các Ngài trông thấy chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
Ở đây, thiền sư dạy chúng ta: “Chỉ vì mê ngộ sai biệt, đến nỗi hiện lượng khác nhau” - cách thấy của chúng ta và cách thấy của Phật bất đồng. Cách thấy của chúng ta là đối với cảnh giới bèn sanh khởi vọng tưởng, bèn khởi tâm động niệm, bèn phân biệt, chấp trước. Sáu căn của Pháp Thân Bồ Tát và chư Phật Như Lai tiếp xúc cảnh giới sáu trần chẳng khởi tâm động niệm, không phân biệt, chấp trước. Khởi tâm động niệm là vô minh; vọng tưởng, chấp trước là tạo nghiệp. Trong hết thảy cảnh duyên, Phật, Bồ Tát không mê hoặc, không tạo nghiệp, đắc đại tự tại! Sai biệt ở chỗ này, ngoài điều này ra, sai biệt gì cũng chẳng có. Vì thế, tiếp theo đó, thiền sư lại nói:
“Thực nãi” nghĩa là nói thật ra, “sanh không có tự tánh”. Sanh là hiện tướng của hết thảy vạn vật, hết thảy vạn sự vạn vật sanh khởi, kể cả hư không, hư không vốn cũng chẳng có, hư không sanh khởi như thế nào? Nếu nói hư không chẳng có, ắt mọi người cảm thấy rất lạ lùng; thế nhưng qua tỷ dụ sau đây, có lẽ quý vị sẽ lãnh hội được. Ví như nằm mộng, trong mộng có hư không hay chăng? Có! Vậy tôi hỏi quý vị: “Hư không trong mộng do đâu mà có?” Lúc quý vị nằm mộng, hư không hiện hữu, lúc tỉnh dậy, cái hư không trong mộng không còn nữa. Như vậy, nếu quý vị chú tâm quan sát: Hiện tướng ấy thật sự tồn tại, hư không có sanh diệt, cái hư không trong giấc mộng của chúng ta có sanh diệt. Đương nhiên, hết thảy hiện tượng, thế giới, vi trần, chúng sanh được hiện trong cái hư không đó, những cảnh giới vốn có trong mộng tợ hồ hiện hữu đối với chúng ta, chúng có sanh có diệt. Nay cái hư không thế giới, sơn hà đại địa, chúng sanh lăng xăng đang hiện diện đây do đâu mà có? Đúng là từ hư không sanh, hư không là Không, trong Không sanh ra Có. Hiện tại, khoa học đã phát hiện: Quả thật trong Không sanh ra Có, đã thế lại còn nhất thời đốn hiện, hoàn toàn giống với những gì kinh Đại Thừa đã nói, nhưng không diễn giải được tường tận như trong kinh điển.
“Sanh không có tự tánh”, tự tánh ấy chính là tự thể, sanh không có tự thể. Vì không có tự thể nên mới gọi là vọng, không gọi là chân. Kinh Lăng Nghiêm giảng rất khéo: “Từ đâu sanh ra thì cũng chính ngay đó mà diệt”. Tốc độ sanh diệt rất nhanh, không cách gì hình dung được nên Phật bảo là “chẳng thể nghĩ bàn”, tức là không có cách gì hình dung được tốc độ nhanh chóng ấy. Trong những buổi giảng, chúng tôi thường dùng chuyện chiếu bóng làm tỷ dụ, tấm phim lọt vào ống kính của máy chiếu phim khi nó mở ra, chẳng phải là hình ảnh bèn được chiếu ngay lên màn bạc hay sao? Đó là Sanh. Ống kính đóng lại, hình ảnh ấy không còn nữa. Đó là Diệt. Ống kính lại mở ra, tấm ảnh thứ hai lại xuất hiện, đó lại là Sanh. Rồi lại đóng vào, bức ảnh thứ hai lại diệt. Đó là sự sanh diệt trông thấy rõ ràng nhất. Sự sanh diệt ấy là nhất thời đốn hiện, Sanh là nhất thời đốn sanh, không có trước sau; Diệt cũng là nhất thời đốn diệt, cũng không có trước sau. Đấy chính là như kinh Lăng Nghiêm đã giảng: “Từ đâu sanh ra thì cũng chính từ ngay đó mà diệt”. Thế nhưng sự sanh diệt do ống kính của máy chiếu phim đóng mở trong một giây chỉ là hai mươi bốn lần. Những hiện tượng hiện đang ở trước mắt, kể cả thân thể chúng ta, kể cả những gì chúng ta cảm nhận, những gì chúng ta thấy được, nghe được, suy nghĩ, tưởng tượng đều được tính gộp trong đó, trong một giây những hiện tượng ấy sanh diệt bao nhiêu lần? Kinh Nhân Vương bảo một cái khảy ngón tay là sáu mươi sát-na, trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt. Chiếu theo đó, trong một giây tối thiểu khảy ngón tay được bốn lần, bốn lần sáu mươi nhân chín trăm gần bằng hai mươi vạn tám ngàn, tức là hai mươi mốt vạn sáu ngàn lần sanh diệt. Không [chậm] như tốc độ của ống kính trong máy chiếu phim mà nhanh như thế nào? Một giây không phải là hai mươi bốn lần mà là hai mươi mốt vạn sáu ngàn lần, làm sao quý vị biết là giả cho được! Tôi cho rằng trong kinh Nhân Vương, đức Thế Tôn giảng như vậy chỉ là phương tiện nói, chứ chưa phải đã nói sự thật. Vì sao? Sự thật, tốc độ còn nhanh hơn thế nữa, không cách gì tưởng tượng được. Tợ hồ nhanh đến mức độ nào? Gần như sanh diệt đồng thời. Bởi vậy, kinh Phật thường bảo là “bất sanh bất diệt”, bất sanh bất diệt là sanh diệt đồng thời, vừa sanh đã diệt, vừa diệt lại sanh, nhất thời đốn hiện. Nhất thời đốn hiện là ngay trong cùng một thời, tính như thế nào là “một thời”? Trong một thời sanh, lại diệt trong cùng một thời ấy, sanh diệt đồng thời. Bởi thế, sanh không có tự tánh, vô sanh cũng không có tự tánh.
“Hễ ngộ thì sanh lẫn diệt đều là vô sanh”: Chư Phật, Bồ Tát giác ngộ, biết sanh diệt đều là bất sanh, hết thảy pháp không sanh, không sanh thì có đâu mà diệt? Đấy mới là chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Do vậy, chư Phật, Bồ Tát đối với những hiện tượng này từ trước đến nay chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước, hoàn toàn tương ứng với chân tướng. Do vậy, Thanh Lương đại sư khi chú giải kinh Hoa Nghiêm đã bảo: Chư Phật, Bồ Tát thuộc về vô ngại pháp giới, pháp giới Lý vô ngại, Sự vô ngại, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, pháp giới không chướng ngại. Pháp giới không chướng ngại ở đâu? Ở ngay trước mặt chúng ta. Vì sao chúng ta không thấy? Là vì mê! Hình dáng của mê là gì? Hình dáng của mê là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, quý vị khởi lên những thứ ấy là bị phiền phức rồi! Như thế gọi là “khởi Hoặc tạo nghiệp”. Tạo nghiệp chính là quý vị đã bóp méo những hiện tướng của vũ trụ nhân sanh, chúng chỉ là những hiện tướng được hiện bởi tâm. Những hiện tướng ấy vốn là Cực Lạc thế giới, là Nhất Chân pháp giới, là Hoa Tạng thế giới rốt ráo viên mãn, không khiếm khuyết mảy may nào. Sau khi bị bóp méo, cảnh giới bên ngoài bèn nảy sanh biến hóa, biến thành mười pháp giới, biến thành sáu nẻo, biến thành tam đồ, biến hóa như vậy đó!
Thế nhưng nếu quý vị hiểu biết thì chủ thể gây ra sự biến hiện (năng biến) ấy chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Do vậy, cái cảnh giới được biến hiện do được sanh từ cái năng biến này (cái được biến là lục đạo, tam đồ) nên cũng chẳng phải là thật. Tuy không thật, nhưng quý vị chẳng giác; do bất giác nên phải gánh chịu, phải chịu khổ chịu nạn trong ấy, khác nào quý vị nằm mộng trong khi đang mộng. Quý vị gặp ác mộng, gặp ác mộng rất khó chịu! Có lúc sợ đến nỗi mướt mồ hôi lạnh tỉnh phắt dậy, sợ điếng người. Kết quả chỉ là một cơn mộng. Nay chúng ta đang luân hồi trong lục đạo cũng là đang mơ một giấc mộng lớn trong mười pháp giới. Cơn mộng ấy từng giấc nối tiếp nhau, nằm mộng trong khi đang mộng, vĩnh viễn không tỉnh được, có phải là phiền phức quá hay chăng? Phật, Bồ Tát không dạy chúng ta điều chi khác cả, chỉ là nhằm đánh thức chúng ta khỏi giấc mộng đó thôi.
Vì thế, câu này nói rất khéo, rất thật: “Sanh không có tự tánh, vô sanh cũng không có tự tánh”. Đối với người giác ngộ, sanh lẫn diệt đều là vô sanh, họ thấy rất rõ ràng, rất minh bạch; người mê không vậy, “mê thì vô sanh đều là sanh diệt”. Người mê chấp trước, phân biệt, trong sự cảm nhận của họ, tất cả hết thảy vạn sự vạn vật trong vũ trụ đều có sanh có diệt. Mỗi khi đức Phật giảng kinh, ta biết Ngài căn cứ trên Nhị Đế. Nhị Đế là gì? Thứ nhất là thuận theo cảnh giới chính mình đã chứng đắc, đó gọi là Chân Đế. Giảng cho quý vị những điều chân thật: Những kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa là những kinh giảng lẽ chân thật, giảng về cảnh giới của Phật, Bồ Tát, bọn lục đạo phàm phu chúng ta rất khó tiếp nhận, rất khó thấu hiểu. Vì sao? Đó chẳng phải là cảnh giới của chúng ta, hoàn toàn khác với cảnh giới của chúng ta. Vì vậy, ngoài ra đức Phật còn thuyết pháp thuận theo chúng sanh, tùy thuận chúng sanh chính là Tục Đế. Tùy thuận Tục Đế thì đức Phật giảng có sanh - lão - bệnh - tử, động vật có sanh - lão - bệnh - tử, thực vật có sanh - trụ - dị - diệt, tinh cầu có thành - trụ - hoại - không. Những điều này chúng ta hiểu, chúng ta đồng ý, thừa nhận những cách giảng như thế, không sai chút nào. Đó là thế giới theo cảm nhận của phàm phu, Phật cũng thường giảng như thế. Vì sao? Quý vị chưa giác ngộ, giảng sự thật quý vị không hiểu được, giảng điều giả thì quý vị hoàn toàn đồng ý, đấy chính là “hễ mê thì vô sanh đều là sanh diệt”. Kiến giải của Phàm và Thánh bất đồng, chứ thật ra Lý và Sự chẳng hai. Tôi thường nói tiến sĩ Giang Bản Thắng của Nhật Bản đã dùng phương pháp khoa học [để chứng minh] đạo lý này, tức là dùng nước làm thí nghiệm (nước là khoáng vật), phát hiện nước có thể thấy, có thể nghe, có thể hiểu được ý con người. Dùng thiện ý đối với nó, nó kết tinh hết sức đẹp đẽ. Dùng ác ý đối với nó, nó kết tinh hết sức xấu xí. Những điều này chứng minh lời Phật đã giảng: Nước có khả năng thấy - nghe - hay - biết, thấy - nghe - hay - biết là Pháp Tánh. Nó không phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, nhưng nó có thể bị ảnh hưởng bởi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của những thứ khác mà biến dạng, tướng trạng biến dạng.
Từ thí nghiệm này chúng ta có thể nhận hiểu một điều: Nước nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới, nước trong Hoa Tạng thế giới nhất định không hề thiếu khuyết mảy may, hết sức viên mãn, thật sự đầy đủ “chân thiện mỹ huệ” như ta thường nói. Vì sao? Người trong những thế giới ấy toàn là bậc giác ngộ, Hoa Tạng thế giới toàn là Pháp Thân đại sĩ, không có phàm phu. Mức thấp nhất đều là hàng Sơ Trụ Bồ Tát của Viên Giáo, cho đến hàng Đẳng Giác, cho đến quả địa Như Lai. Vì vậy, nơi ấy không có người mê hoặc, đều là người thật sự giác ngộ. Tất cả hết thảy vật chất đều biến thành hoàn mỹ nhất, nên gọi là Nhất Chân. Địa cầu của chúng ta đây vốn vẫn là Nhất Chân, vì sao lại biến ra nông nỗi này? Cư dân trên địa cầu mê không giác, suốt ngày từ sáng đến tối khởi vọng tưởng, những điều suy nghĩ, tâm niệm, lời lẽ, việc làm đều hoàn toàn trái nghịch Pháp Tánh. Do vậy, sơn hà đại địa, tất cả hết thảy vật chất nơi đây đều bị biến đổi theo tâm tưởng của chúng ta, biến thành hết sức xấu xí. Sơn hà đại địa nơi cõi này và sơn hà đại địa cõi Cực Lạc giống hệt nhau, vì sao bên họ đẹp đẽ đến thế, chỗ chúng mình lại xấu tệ đến thế? Không có gì khác cả, tướng chuyển theo tâm! Tâm chúng ta bất thiện, nó bèn phản ứng bất thiện; tâm chúng ta thiện thì ngay lập tức nó bèn thiện. Do vậy, chúng ta bèn hiểu được rằng: Nếu như tất cả cư dân trên thế giới này buông được hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống thì thế giới của chúng ta chính là Cực Lạc thế giới. Vì sao? Tất cả hết thảy vật chất lập tức biến đổi. Từ thí nghiệm nước kết tinh, chúng ta thấy rằng nếu dùng ác ý đối với nước, nó sẽ kết tinh hết sức xấu xí. Chúng ta thay đổi ý niệm, dùng ý niệm tốt lành nhất đối với nó, ngay lập tức nước bèn biến đổi, biến hiện những kết tinh rất đẹp cho ta thấy, biến đổi theo ý niệm của chúng ta. Tiến sĩ Giang cho biết trong suốt tám chín năm, ông chưa hề thấy có hai kết tinh nước hoàn toàn giống nhau, chúng tôi có thể khẳng định điều này. Vì sao? Mỗi ý niệm của quý vị khác nhau, nước phát sanh những biến hóa theo từng ý niệm. Quý vị không có hai ý niệm hoàn toàn tương đồng nên chẳng thể xuất hiện hai kết tinh hoàn toàn giống nhau, đạo lý là vậy!
Hy hữu thay! Khoa học đã phát hiện được điều này, coi như là đã bước đầu chứng thực được chân tướng vũ trụ (nói theo thuật ngữ nhà Phật là “Thật Tướng của các pháp”). Phật và các đại Bồ Tát chẳng cần đến những máy móc khoa học, các Ngài tận mắt thấy, dùng phương pháp gì vậy? Thiền Định rất sâu. Cũng có nghĩa là: Hoàn toàn buông được vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống thì chân tướng phơi bày lồ lộ. Tướng giác ngộ, tướng mê hoặc, y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới thấy rất rõ ràng, minh bạch, rốt cuộc là nguyên nhân gì, là duyên do nào cũng đều rất rõ ràng minh bạch.
“Do vậy, lìa khỏi cái này thì không còn gì khác, chỉ là cùng một thể mà tên gọi khác nhau”. Thế nào là “tên gọi khác nhau”? Tướng khác nhau, nhưng vốn cùng một thể. Phải biết địa cầu của chúng ta, tức địa cầu của thế giới Sa Bà, tinh cầu của Cực Lạc thế giới, và tinh cầu của Hoa Tạng thế giới đều là một thể, giống hệt nhau, đều là vật chất. Khoa học hiện tại bảo chúng đều là những nguyên tố, nhưng được tổ hợp khác nhau, nay ta thường nói là công thức cấu tạo khác nhau. Vì sao kết cấu khác nhau? Kết cấu do ai chủ trì? Ý niệm! Tâm quý vị thanh tịnh, những nguyên tố cảm nhận được, nó thấy - nghe - hay - biết mà! Đó là bản năng của Pháp Tánh chẳng bị tiêu mất, bất sanh bất diệt, không có hình tướng, nhưng hiện hữu trong hình tướng. Vì thế, bất cứ hình tướng nào, bất cứ vật chất nào cũng đều có khả năng thấy - nghe - hay - biết, thuận theo hữu tình chúng sanh mà biến hóa. Hữu tình chúng sanh thiện thì chúng biến hóa rất tốt, hữu tình chúng sanh bất thiện thì chúng cũng biến hóa rất tồi tệ. Bởi thế, “chỉ cùng là một thể mà tên gọi khác nhau”, bởi nó chỉ cùng một thể mà hình tướng khác nhau. Tiếp đó, đại sư giảng mấy câu về lẽ thực tế.
Thẩm như thị.
(Xét như vậy)
“Thẩm như thị”: Thẩm có nghĩa là xem xét kỹ càng, rất nghiêm túc, rất chú tâm xem xét vấn đề này thật minh bạch, rõ ràng. Chữ “như thị” chỉ những điều đã nói ở phần trên.
Tắc A Di Đà Phật tức thị ngã tâm, ngã tâm tức thị A Di Đà Phật.
(Thì A Di Đà Phật chính là tâm ta, tâm ta chính là A Di Đà Phật)
Ta bèn có thể khẳng định, A Di Đà Phật từ đâu mà có? Từ tâm hiện thức biến. Tâm của ai? Chính cái tâm của chúng ta. Quý vị hiểu cái tâm này là cùng chung, thức cũng là của chung, chân tâm là của chung, còn vọng tâm bất đồng. Vọng tâm của tôi khác với vọng tâm của anh, cũng có thể hiểu là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mỗi người mỗi khác, nhưng chân tâm tương đồng. Chân tâm: Lìa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước chính là chân tâm. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật có nêu một tỷ dụ, từ tỷ dụ này chúng ta có thể hiểu được. Phật nói chân tâm giống như cái gì? Biển cả! Biển cả là chân tâm. Vọng tâm là gì? Vọng tâm là một cái bọt nước trong biển cả. Biển cả là một, nhưng các hoa sóng xuất hiện do sóng vỗ thì vô lượng vô biên, mỗi một bọt nước giống như vọng tâm của những chúng sanh chúng ta, ta chấp trước vọng tâm là chân tâm của chính mình, quên mất chân tâm thật sự. Chân tâm là biển cả kia mà! Khi nào cái bọt nước ấy bị vỡ tan, tan đi sẽ dung hợp với biển cả thành một thể. Chân là một, vọng là hai ba, là vô lượng vô biên. Vì thế, kinh Đại Thừa thường nói: “Mười phương tam thế, cùng chung một Pháp Thân, một tâm, một trí huệ, lực vô úy cũng thế”. Do vậy, chân tâm là một, không phải hai.
A Di Đà chỉ do tâm hiện, chỉ do thức biến. Ngã ở đây là Chân Ngã, chứ không phải là Ngã nơi cái thân xác thịt, xác thịt không phải là Ngã. Kinh Phật thường nói Vô Ngã, Vô Ngã là nói về nhục thân, nơi nhục thân không có Ngã (vô ngã), nhưng quý vị có Chân Ngã. Nhà Phật nói đến bốn tịnh đức Thường - Lạc - Ngã - Tịnh, đó là thật. Trong Pháp Tánh có Ngã, Pháp Tánh có Thường - Lạc - Ngã - Tịnh, Pháp Thân có Ngã, Pháp Thân có Thường - Lạc - Ngã - Tịnh. Mười phương tam thế Phật cùng chung một Pháp Thân, Pháp Thân gì vậy? Pháp Thân chính là Pháp Tướng. Chân tâm, Chân Ngã là Pháp Tánh, tướng được hiện bởi Pháp Tánh gọi là Pháp Tướng. Pháp Tướng là gì? Hư không, thế giới, hết thảy chúng sanh là Ngã! Chuyện này rất khó hiểu, rất khó lãnh hội.
Tôi lại dùng chuyện mộng để tỷ dụ, chúng ta ai cũng có kinh nghiệm về mộng. Tôi hỏi quý vị nhé: Nếu trong khi quý vị đang nằm mộng, nếu quý vị bất chợt giác ngộ: “Mình đang nằm mộng mà!” thì mộng ấy từ đâu mà có? Con người hiện thời nói mộng do tâm ý thức biến hiện, tâm ý thức biến hiện thành cảnh giới trong mộng. Trong mộng có hư không, trong mộng có sơn hà đại địa, trong một có rất nhiều nhân vật. Vậy thì quý vị phải hỏi: Có cái gì trong mộng không phải là quý vị hay chăng? Mộng do tâm ý thức của ta biến hiện, thảy đều là ta; quý vị bèn hiểu rõ: Không gì không phải là ta. Lúc ấy, quý vị mới thật sự hiểu lời Phật đã nói: “Đồng thể đại bi, vô duyên đại từ”.
Vì sao Phật phải yêu thương, che chở hết thảy chúng sanh, phải độ chúng sanh khổ nạn? Không có gì khác cả! Vì cùng chung một Pháp Thân. Ta có cái thân này, thân của hết thảy chúng sanh cũng là thân của ta, sơn hà đại địa cũng là cái ta có, thậm chí hư không cũng là cái ta có. Chúng ta nói đến người một nhà, người một nhà vẫn chưa thân thiết, thân thiết nhất chính là “cùng chung một Pháp Thân”, lẽ đâu không yêu thương, che chở? Do vậy, trông thấy hết thảy chúng sanh chịu khổ chính là bản thân mình chịu khổ, thấy hết thảy chúng sanh hưởng vui chính là tự mình hưởng vui. Chúng sanh và Phật không hai, chúng sanh và Phật là một, không phải hai. Chúng sanh và ta không hai, ta và chúng sanh là một thể. Không chỉ cùng một thể với hữu tình chúng sanh, kinh Hoa Nghiêm nói: “Tình và vô tình cùng viên mãn Chủng Trí”, ta và cây cối hoa cỏ, sơn hà đại địa, hư không rộng lớn có cùng một thể. Đạo lý này sâu xa lắm, chỉ có kinh Đại Thừa mới giảng thật rõ ràng, thật thấu triệt. Đó là Thật Tướng, là chân tướng sự thật, vốn sẵn là như thế.
Mười pháp giới một thể nhưng tên khác, thật sự là một thể, chúng ta nói đến Phật pháp giới, Bồ Tát pháp giới, Thanh Văn pháp giới, Duyên Giác pháp giới, thiên pháp giới, nhân pháp giới, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục pháp giới, một thể khác tên. Vì sao khác tên? Do khác tướng, tướng không giống nhau, nhưng quả thật là một thể. Vốn chỉ là một tướng, tướng khác đi là vì chúng sanh khởi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, bóp méo tướng ấy. Tướng bị bóp méo khác nhau, nên mang tên khác nhau, chứ thật ra chỉ là một thể. Có khôi phục lại được tướng ấy thành giống hệt nhau hay chăng? Được chứ! Chỉ cần lìa được vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, hết thảy tướng sẽ biến thành một tướng. Một tướng có nghĩa là núi vẫn là núi, nước vẫn là nước, cây vẫn là cây, hoa vẫn là hoa, nhưng biến thành tướng đẹp đẽ nhất!
Giống như trong kinh Phật đã giảng: Trong các cõi Phật, cây cối hoa cỏ vĩnh viễn không điêu tàn, vĩnh viễn xanh tươi, thật lạ lùng! Nói cách khác, thực vật không sanh - trụ - dị - diệt, động vật không sanh - lão - bệnh - tử, khoáng vật không thành - trụ - hoại - không, chẳng thể nghĩ bàn! Con người thọ vô lượng, cây cối hoa cỏ cũng thọ vô lượng, sơn hà đại địa cũng thọ vô lượng, chúng ta thấy đó: Cảnh giới chư Phật chẳng thể nghĩ bàn! Cảnh giới chư Phật thật như thế đó, bị biến thành nông nỗi này là do vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà thành, lầm lẫn chịu khổ chịu nạn trong ấy. Vạn pháp một thể nhưng tên khác, một thể là Pháp Tánh. Chúng ta lại thấy: Ở đây, đại sư lại nói A Di Đà Phật chỉ do tâm hiện, chỉ do Thức biến, lại xét đến y báo:
Tịnh Độ tức thử phương, thử phương tức Tịnh Độ.
(Tịnh Độ chính là phương này, phương này chính là Tịnh Độ)
Quả địa cầu của chúng ta đây và Tây Phương Cực Lạc thế giới là một không hai, không khác gì nhau. Tây Phương Cực Lạc thế giới trang nghiêm như thế đó, tốt đẹp như thế đó. Đức Thế Tôn dạy chúng ta: Mặt đất của Tây Phương Cực Lạc thế giới không phải là đất cát, không phải là xình lầy mà là gì? Là bảy báu. Đại địa là lưu ly, người thế gian chúng ta gọi lưu ly là Phỉ Thúy, tức một loại ngọc có màu xanh lá cây trong suốt. Như vậy đại địa của Tây Phương Cực Lạc thế giới trong suốt, từ trên mặt thấy thấu tận đáy, thuần sắc xanh tuyền. Bảy báu trong thế giới chúng ta rất cứng rắn như đá tảng vậy, rất cứng nên chỉ có thể làm bảo châu, làm đồ công nghệ, làm nghệ thuật phẩm để thưởng thức. Bảy báu của Tây Phương Cực Lạc thế giới mềm mại, cả cõi đất rất mềm, ta bước lên giống như đi trên một cái mền bằng đất rất dầy, đi lên đó rất dễ chịu, không cứng chắc. Ở chỗ chúng ta đây, làm đường bằng nhựa đường, phủ nhựa đường hoặc đắp đất. Đường sá ở Tây Phương Cực Lạc thế giới bằng vàng ròng, quý vị hiểu vàng ròng biết là bao nhiêu, vàng ròng đem đắp đường. Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, phần lớn những thứ quý báu ấy được dùng làm vật liệu xây dựng. Vì sao trong thế giới chúng ta, những thứ này bị biến thành đất sét, cát, đá, đều bị biến thành những thứ như vậy? Không có gì khác cả, hoàn toàn giống như phản ứng kết tinh nước! Người sống nơi này tâm bất thiện, bởi thế phản ứng kết tinh bèn biến thành những thứ ấy. Người Tây Phương Cực Lạc thế giới hiền lành, vật chất bèn biến thành vô lượng trân bảo, chứ thật ra, chúng chỉ là một thứ, không khác gì nhau! Bởi thế, “Tịnh Độ chính là phương này, phương này chính là Tịnh Độ”.
Khởi phi mê ngộ chi tự thù, hà hữu thánh phàm nhi bỉ thử.
(Há chẳng phải do mê ngộ nên tự khác nhau, nào có thánh phàm sai biệt!)
Phàm hay Thánh bất quá chỉ là danh từ mà thôi, tên gọi khác nhau, nguyên nhân thật sự gây nên những hiện tượng bất đồng chính là mê - ngộ. Người Tây Phương Cực Lạc thế giới giác ngộ, tất cả hết thảy vạn vật, cảnh giới biến hiện theo cái ngộ đó đều tốt đẹp chẳng thể nghĩ bàn. Con người trong thế gian chúng ta hiện thời tâm hạnh bất thiện, cho nên tất cả hết thảy vạn vật ở nơi đây biến thành xấu tệ, đạo lý là vậy. Như vậy, y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới chính là những hình ảnh biến hiện từ chính cái tâm của chúng ta. Kinh Kim Cang dạy: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, là những hình tướng do chính tâm chúng ta biến hiện. Đạo lý này, chân tướng sự thật này chúng ta phải rõ ràng, phải thấu suốt, phải hiểu rõ. Như vậy, phải sửa đổi từ đâu? Từ ngay nơi cái tâm chúng ta, đó là thật sự tu đấy.
Chân tu không phải là hình thức, mà cốt ở thực chất. Thực chất là gì? Khởi tâm động niệm. Thoạt đầu, Chương Gia Đại Sư dạy tôi câu này: “Phật pháp trọng thực chất chứ không trọng hình thức. Tâm anh biến thành thiện thì không gì chẳng thiện”. Đầu tiên là tướng mạo chuyển biến, tướng chuyển theo tâm, tướng mạo trang nghiêm; tiếp đến là thể chất, thân thể mạnh khỏe, không có bệnh tật. Đó là vật chất gần mình nhất. Chúng ta khởi tâm động niệm, tất cả hết thảy vật chất đều có phản ứng, giống như nước kết tinh vậy. Vì thế, tâm quý vị lành, tư tưởng lành, ngôn ngữ, hành vi lành thì mỗi tế bào khắp toàn thân, mỗi một khí quan đều tốt lành, mọi thứ tốt lành cả, lẽ nào quý vị không khỏe mạnh cho được, làm sao sanh bệnh cho được!
Nói cách khác, nếu quý vị sanh bệnh, có bệnh tật gì thì bệnh do đâu sanh ra? Chủ yếu là do ý niệm bất thiện tạo thành. Đương nhiên vẫn còn có những nhân tố khác, những nhân tố khác là ăn uống, khí hậu, bị hoàn cảnh bên ngoài công kích, nhưng quan trọng nhất vẫn là tâm tư của chính mình. Nay y giới cũng đang nghiên cứu sức khỏe tâm lý, người tâm lý khỏe mạnh dẫu bị bệnh vì lạnh, gió cũng rất dễ chữa trị, rất mau lành, khôi phục bình thường. Nếu tâm lý không khỏe mạnh ắt phiền toái vô cùng, rất dễ bị bệnh độc bên ngoài công kích, lại còn chẳng dễ lành bệnh, tâm lý không khỏe mạnh mà! Hiện tại, các bác sĩ thường nói như thế nhưng chưa biết được tiêu chuẩn của tâm lý khỏe mạnh là gì, còn trong Phật đã nói về điều này rất rõ rệt.
Lần thứ nhất chúng tôi được nghe câu “Phật pháp trọng thực chất chứ không trọng hình thức” là từ Chương Gia đại sư dạy. Lần thứ hai được nghe câu này ở Tân Gia Ba, Tổng Thống Nạp Đan bảo tôi như vậy. Ông là người theo Ấn Độ Giáo (Hinduism), ông cho biết rất tôn trọng Phật giáo, ông bảo: “Phật giáo trọng thực chất chứ không trọng hình thức”. Tôi nghe xong hết sức kinh ngạc, bởi lẽ sau khi tôi được nghe câu nói này từ Chương Gia đại sư, trong mấy mươi năm chưa có ai nói câu này trước mặt tôi. Chẳng phải là người nội hạnh (có công tu dưỡng thật sự bên trong) chẳng thể nói nổi câu này. Cái “thực chất” đó chính là khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, hành vi nhất định phải tương ứng với chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi, không gì là bất thiện. Chúng ta xử sự, đãi người, tiếp vật, nhất là đối với những người hiểu lầm, hủy báng, tổn hại chúng ta, chúng ta phải dùng lòng chân thành đối với họ, dùng tâm thanh tịnh, bình đẳng đối với họ, dùng tâm chánh giác từ bi đối với họ, chân tâm! Quyết định chẳng được nói gã đó chơi xấu mình, cần gì phải xử tốt với nó? Nếu vậy là trật rồi! Kẻ ấy đọa địa ngục, vì sao ta không đọa địa ngục? Nói vậy chẳng phải là nói ác hay sao? Kẻ ấy gây tạo lục đạo, vì sao ta không gây tạo lục đạo? Nay ta cùng kẻ ấy chẳng đi cùng một đường; kẻ ấy theo con đường lục đạo, chúng ta theo con đường thành Phật. Con đường họ đi là mê không giác, con đường nay chúng ta đang đi là giác chứ không mê, khác nhau! Như vậy nếu cảm thấy bị thua thiệt, vẫn còn lòng giận hờn, vẫn có tâm báo thù, há chẳng phải là lầm lạc quá đỗi ư? Chẳng những người ta sai lầm, mình cũng lầm luôn! Đoạn khai thị này là đại đạo lý, cũng chứa đựng chân tướng sự thật. Nói xong, trong tiểu đoạn cuối cùng, thiền sư dạy chúng ta:
Nãi tri hiện tiền chúng đẳng
(vậy thì hiện tiền đại chúng)
Chúng ta hiện đang ở cùng một chỗ làm pháp sự này, làm pháp sự này để nhằm cùng học tập, cùng tu hành.
Dĩ tự tánh A Di Đà Phật
(Hãy đem A Di Đà Phật nơi tự tánh)
Hiểu rồi thì A Di Đà Phật chính là tự tánh.
Dữ đại chúng thiệt căn
(Cùng với cái lưỡi của đại chúng)
“Cái lưỡi của đại chúng” ý nói chúng ta hãy xưng niệm A Di Đà Phật.
Phổ đồng vận chuyển căn bản pháp luân
(Cùng xoay chuyển rộng khắp căn bản pháp luân )
“Căn bản pháp luân” chính là Nhất Chân pháp giới; y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều là những hình ảnh do tự tánh hiện, do thức biến. Đó là “căn bản pháp luân”. Việc này chỉ có chư Phật Như Lai, Pháp Thân đại sĩ thấu hiểu, thông suốt. Ngày nay chúng ta có tín tâm, tin rằng chư Phật không nói dối, Phật chẳng lừa dối chúng sanh, Phật nói ra câu nào cũng chân thật, chúng ta nghe lời Phật chắc chắn không bị lầm lạc. Phật dạy chúng ta chẳng phải chỉ nghe xong rồi thôi, không phải vậy, nghe xong phải chiếu theo những lời dạy ấy mà tu học, sau đấy tự mình chứng đắc cảnh giới. Đấy chính là chỗ phi thường của đức Phật, Ngài yêu cầu chúng ta phải tự mình chứng minh được những điều Phật đã giảng, chứng thực vũ trụ nhân sanh có đúng như vậy hay không, nhất định chúng ta phải đích thân chứng đắc. Cái “phổ đồng căn bản pháp luân” ở đây theo chúng tôi hiểu trên mặt Sự chính là mọi người cùng xưng niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật.
Chư nhân hoàn ủy tất ma?
(Các nhân giả còn gì vướng mắc nữa chăng? Hiểu thấu chăng?)
“Chư nhân” nghĩa là gọi mọi người bằng danh xưng“nhân giả” (bậc nhân từ), “nhân giả” là từ ngữ xưng hô cung kính đối với Bồ Tát, nghĩa là người nhân từ, “chư nhân” nghĩa là các vị nhân từ. “Hoàn ủy tất ma”: Ủy là ủy khuất (vướng mắc, ép uổng). Có điều gì xử ép quý vị chăng, quý vị đã hiểu thấu hay chưa? “Tất ma” là thấu hiểu hay chưa! A! Bây giờ đã hết giờ rồi, chúng ta nghỉ một lát.
*
Chư vị đồng học!
Hãy xem tiếp bài kệ tiếp theo của Trung Phong thiền sư:
12. Thiền kệ
Sanh diệt vô sanh sanh bất sanh,
Lạc bang na khẳng cấm nhân hành,
Thùy tri vạn trượng hồng trần lý
Hạm đạm hoa khai chánh nguyệt minh.
(Tạm dịch:
Sanh diệt vô sanh, sanh chẳng sanh,
Cực Lạc sanh về há cấm ngăn?
Hồng trần muôn trượng nào ai biết:
Búp sen xòe nở rạng trăng thanh)
Câu nào trong bài tụng này cũng mang thiền cơ thâm diệu. Phần khai thị ở trên cũng khiến cho chúng tôi hiểu được đôi chút bài kệ này. “Sanh diệt vô sanh sanh bất sanh”, Sự - Lý trong câu này chúng tôi chẳng thể nói là mình thấu hiểu thật rõ ràng, tối thiểu chỉ có khái niệm lờ mờ, như vậy đã rất hy hữu; vì sao? Trước kia, về căn bản, chúng tôi chẳng có khái niệm gì, nay có chút khái niệm như thế, nhà Thiền gọi khái niệm ấy là “nghi tình”. Có nghi tình mới có chỗ ngộ; bởi lẽ tiểu nghi thì tiểu ngộ, đại nghi bèn đại ngộ. Ở đây không phải là hoài nghi mà là nghi tình. Nghe Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức giảng cho chúng ta nghe chân tướng của vũ trụ nhân sanh, chúng ta phải thường đọc, thường nghe, thường suy nghĩ cho đến khi nào tâm định, định bèn khai huệ. Tâm lao chao, vọng niệm quá nhiều sẽ không có cách gì, cũng không có cách gì ngộ nhập được, chúng tôi thường nói là “khai ngộ”, quý vị không có cách gì khai ngộ. Khai ngộ thì nhất định tâm phải định. Vì thế, cổ nhân Trung Quốc nói: “Đọc sách ngàn lần tự thấy được nghĩa”. Người học Phật hiểu đạo lý này rất dễ dàng, sau khi đọc một ngàn lần, tâm bèn định. Tâm đã định ắt có chỗ ngộ. Không cần nghĩ đến nghĩa, chẳng cần phải hỏi mà thấu suốt, hoát nhiên khai ngộ mà! Đạo lý là đây. Bởi thế, nghe nhiều, đọc nhiều, vì nhiều người tuyên giảng, trí huệ càng được mở mang nhanh chóng!
Đây là kinh nghiệm của suốt một đời tôi, như quý vị đều thấy đó. Tôi học Phật đến năm nay là năm mươi hai năm, đã giảng kinh được bốn mươi lăm năm, trong suốt bốn mươi lăm năm không gián đoạn, ngoại trừ những lúc phải đi đây đi đó, hầu như ngày nào cũng giảng, mà đọc kinh cũng chưa hề gián đoạn, du hành cũng không gián đoạn. Nếu tâm quý vị định, không có vọng niệm, không bị tạp loạn thế gian gây rối thì mới khế nhập được mấy phần.
Câu thứ hai nói về Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Lạc bang na khẳng cấm nhân hành” (Cực Lạc sanh về há cấm ngăn?): Quyết định chẳng cấm ai vãng sanh Cực Lạc thế giới. Nơi Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật dang rộng hai tay hoan nghênh mọi người di dân sang đó, không hề cự tuyệt. Nói thật ra, cũng giống như Úc châu hiện thời, bộ trưởng Cái Thụy bộ Công Dân của Úc Châu có lần chủ trì lễ tuyên thệ nhập tịch, khi ấy tôi vẫn chưa là công dân Úc, nhưng tình cờ lần ấy, ông mời tôi tham dự lễ nhập tịch. Ông tuyên bố trong buổi lễ: “Úc châu hoan nghênh di dân từ mọi nơi, chẳng giống như những quốc gia khác đặt ra rất nhiều hạn chế theo từng khu vực địa lý”. Úc châu hạn chế rất ít, hoan nghênh di dân, trở thành công dân Úc rất dễ! Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng thế, hoan nghênh chúng sanh từ các cõi Phật trong mười phương, chỉ cần quý vị muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, điều kiện rất đơn giản: Quý vị thật sự tin tưởng, có nguyện vọng, muốn sanh về đó rồi nhất tâm nhất ý niệm một câu A Di Đà Phật. Câu A Di Đà Phật ấy giống như tín hiệu, chúng ta ở đây phát đi tín hiệu, A Di Đà Phật ở bên đó liền nhận được, chúng ta dùng phương pháp này để tâm tâm tương ấn cùng Phật A Di Đà, giữ mối quan hệ. Đến khi duyên chín muồi, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn chúng ta.
Thông thường khi duyên chín muồi là lúc chúng ta mạng chung. Quý vị phải hiểu: Lục đạo phàm phu đều có thọ mạng, vì sao có mạng vận? Là vì họ có vọng tưởng, có chấp trước. Trong Liễu Phàm Tứ Huấn, Vân Cốc thiền sư giảng: “Hễ ai có chấp trước, có vọng tưởng thì phải có số, không thể tránh khỏi số. Ai vọng tưởng, chấp trước, phân biệt đều buông xuống được hết sẽ không còn số nữa!” Người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ chúng ta có buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống được hay chưa? Chưa! Nếu chưa thì vẫn còn có số, đó gọi là “đới nghiệp vãng sanh”. Nếu vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều buông xuống thì sự vãng sanh ấy gọi là “tự tại vãng sanh”, muốn đi lúc nào bèn đi ngay lúc ấy, không bị mạng vận câu thúc, không còn mạng vận nữa; vì thế sanh tử tự tại. Mức độ tự tại cũng khác biệt, [tùy theo] công phu của quý vị cao hay thấp mà sâu hay cạn khác nhau. Bởi thế, Cực Lạc thế giới luôn hoan nghênh, tuyệt đối không ngăn cấm.
“Thùy tri vạn trượng hồng trần lý; hạm đạm hoa khai chánh nguyệt minh” (hồng trần muôn trượng nào ai biết: búp sen xòe nở dưới trăng thanh). Từ ngữ “vạn trượng hồng trần” hình dung lục đạo luân hồi. “Thùy tri” là ai có thể nghĩ được? Trong lục đạo luân hồi nghiễm nhiên có búp sen của Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Hạm đạm” là búp sen chưa nở, lúc nở rồi thì gọi là “liên hoa”, lúc chưa nở gọi là “hạm đạm”. Hạm đạm là búp sen. Búp sen là gì vậy? Chính là người niệm Phật, mỗi một người niệm Phật phát nguyện cầu sanh, trong ao bảy báu nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn sanh ra một đóa sen. Trên hoa đề tên người ấy, trong tương lai khi người ấy vãng sanh sẽ sanh trong hoa sen ấy. Nay chúng ta chưa sanh vào Cực Lạc thế giới, nay đang phát tâm, trong ao báu bên thế giới Cực Lạc bèn có hoa sen. Tín hiệu của chúng ta là niệm Phật A Di Đà, niệm Phật chính là tín hiệu, tín hiệu ấy sẽ vun quén đóa sen đó. Quý vị niệm Phật công phu càng siêng, tâm niệm càng thuần, càng chân thật thì hoa sen dần dần tăng trưởng, càng ngày càng to, ánh sáng, màu sắc càng đẹp. “Hạm đạm hoa khai chánh nguyệt minh”: Vầng trăng biểu thị Chân Như Tự Tánh, vẫn chỉ là do tâm hiện, chỉ do thức biến, trọn chẳng rời khỏi tâm tánh, tâm tánh có thể hiện, có thể biến; tất cả hết thảy hiện tượng là cái được hiện, được biến, nhất định phải hiểu đạo lý này. Khai thị đến chỗ này là hết một đoạn, tiếp theo là phần quan trọng nhất: Niệm Phật, vì Hệ Niệm Pháp Sự lấy việc niệm Phật làm chánh, niệm Phật, phát nguyện. Ở đây, chúng ta thấy có tám mục, thuyết pháp, khai thị, thuyết pháp xong lại niệm Phật.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật.
Tiếp đó, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần, niệm Đại Thế Chí ba lần, niệm Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát ba lần, những nghi thức này ắt chư vị rất quen thuộc, mọi người thường làm thế. Sau phần Niệm Phật là phát nguyện, trong thời thứ nhất nêu lên mười đại nguyện vương Phổ Hiền. Khi Tịnh Tông Học Hội của chúng ta thành lập, trong phần duyên khởi chúng tôi đặt ra năm khoa mục tu hành, cũng có nghĩa là những giáo huấn chân thật mà trong cuộc sống thường nhật, làm việc, xử sự, đãi người, tiếp vật chúng ta nhất định phải tuân thủ, quyết định không được trái nghịch. Năm khoa mục ấy đều trích từ kinh luận ra.
1) Thứ nhất là “tịnh nghiệp tam phước” trích từ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh. Điều thứ nhất là “hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm không giết, tu Thập Thiện nghiệp”, chúng ta phải thực hiện, phải làm được. Điều thứ hai là “thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”. Điều thứ ba là “phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến khích, sách tấn hành giả”. Đó là khoa mục tu hành thứ nhất của chúng ta. Chúng ta có được vãng sanh Tịnh Độ hay không là do chúng ta có làm được mười một câu này mấy phần. Nếu quý vị hoàn toàn không làm được thì một đời này chẳng thể vãng sanh, rất quan trọng!
2) Khoa mục thứ hai là Lục Hòa Kính. Lục Hòa Kính là cách đối xử giữa đại chúng ở cùng một chỗ với nhau. Con người là động vật có tính xã hội, quyết định chẳng thể sống một mình. Dẫu là tại gia thì vợ chồng cũng là hai con người cùng sống một chỗ, bởi thế phải đối xử thuận hòa với nhau, tôn kính lẫn nhau là điều quan trọng hơn hết. Để dạy đại chúng đối xử với nhau như thế nào, đức Phật nêu ra sáu điều.
“Kiến hòa đồng giải” nói theo ngôn ngữ bây giờ là tạo dựng sự hiểu biết chung. Cách nghĩ, cách nhìn của chúng ta đối với vũ trụ, đối với nhân sanh, đối với hết thảy người sự vật phải rất gần giống nhau. Gần giống nhau theo cách nào? Phật pháp giảng hết sức cao minh: Phải buông hết thành kiến, cũng như cách nghĩ, cách nhìn của mình xuống, ai nấy đều buông xuống, đấy chẳng phải là hoàn toàn nhất trí hay sao? Kiến giải, cách nghĩ, cách nhìn tương đồng, phương pháp ấy hay khéo đến cùng cực. Tuy vậy, buông xuống chẳng phải là chuyện dễ dàng, Bồ Tát mới buông xuống được, A La Hán vẫn chưa buông xuống hoàn toàn, nhưng đã buông xuống không ít. Phàm phu không làm được, làm thế nào đây? Phàm phu phải nương theo lời Phật, Bồ Tát răn dạy, vậy là tốt, chớ có nương theo vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Nếu nương theo những giáo huấn trong kinh điển thì bọn phàm phu chúng ta làm được điều này, hết sức cụ thể! Phật dạy chúng ta làm như thế nào, chúng ta cứ làm như thế đó; Phật dạy chúng ta đừng làm những gì, chúng ta quyết định không làm. Đó là biện pháp tốt.
Thứ hai là “giới hòa đồng tu”. Giới nghĩa là đại chúng sống cùng một chỗ phải có quy củ, phải có luật lệ, mỗi một cá nhân đều phải tuân thủ. Đức Phật vì chúng ta chế định những giới luật, pháp tắc, là khuôn mẫu sanh hoạt được chế định dựa trên hoàn cảnh sanh hoạt hiện thời của chúng ta. Nay chúng ta gọi đó là công ước sanh hoạt.
Tiếp đến là “thân hòa đồng trụ”, “khẩu hòa vô tranh”, “ý hòa đồng duyệt”, cuối cùng là “lợi hòa đồng quân”. Lợi hòa đồng quân là cuộc sống vật chất lẫn cuộc sống tinh thần đều bình đẳng, không đặc biệt, không cao thấp, chúng ta sống hệt như nhau, nay gọi “cộng hữu tài sản”. Do vậy, trước kia chúng tôi giảng kinh thường nói Phật giáo chính là sở hữu tài sản chung một cách tối cao, lúc Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, nhà Phật hoàn toàn nói đến quyền sở hữu tài sản chung, không có tư hữu tài sản, chỉ có đoàn thể. [Mỗi cá nhân trong] đoàn thể sống bình đẳng nhất loạt như nhau, đích thân Thích Ca Mâu Ni Phật làm mẫu mực. Cả một đời đức Phật, cơm, áo, ăn ở đều giống hệt đại chúng, không khác biệt chút nào. Do vậy, mọi người khâm phục Ngài đã làm được hết sức triệt để. Đó là Lục Hòa, tức khoa mục thứ hai.
3) Khoa mục thứ ba là Tam Học. Đây là tổng cương lãnh, tổng nguyên tắc tu hành của chúng ta. Tam Học là Giới - Định - Huệ, quyết định chẳng được trái nghịch, quyết định chẳng được lìa khỏi,
4) Khoa mục thứ tư là Lục Độ của Bồ Tát: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, Bát Nhã.
5) Khoa mục thứ năm là mười đại nguyện vương Phổ Hiền được nói đến ở đây. Tịnh tông học nhân chúng ta tu hành thường phải dựa vào đâu? Dựa vào mười nguyện này!
Năm khoa mục này được gọi là “hành kinh” (kinh để tu hành), phải đưa chúng vào hành động, chẳng được nói xuông. Kinh này không phải để quý vị tụng, cũng chẳng phải để cho quý vị giảng giải, mà là yêu cầu quý vị thực hiện, áp dụng vào cuộc sống của chính quý vị, thực hiện trong cách xử sự, đãi người, tiếp vật, quý vị phải làm cho được. Vì thế, chúng ta tu hành, dùng năm khoa mục này làm tiêu chuẩn hòng sửa đổi những hành vi sai lầm. Ở đây, chúng ta hãy xem mười nguyện Phổ Hiền ấy, nguyện thứ nhất trong mười nguyện Phổ Hiền là:
13. Phát nguyện (Phổ Hiền thập đại nguyện)
Nhất giả lễ kính chư Phật.
(Một là lễ kính chư Phật)
Chư Phật là gì? Luận theo Lý, chư Phật là Pháp Tánh. Pháp Tánh phủ trùm cả vô tình lẫn hữu tình, bao gộp toàn bộ, chúng ta phải chân thành, bình đẳng cung kính đối với hết thảy chúng sanh trong vũ trụ. Vì sao? Hết thảy hữu tình chúng sanh là vị lai Phật, kinh Phật dạy như thế. Quá khứ Phật, hiện tại Phật, đức Thế Tôn đã giới thiệu với chúng ta không ít, còn vị lai Phật? Tất cả hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, tương lai đều muốn làm Phật, bởi thế hết thảy chúng sanh đều là vị lai Phật. Trong“lễ kính chư Phật” quan trọng nhất là dạy chúng ta phải lễ kính vị lai Phật. Đó là ý nghĩa thật sự. Do vậy, trong nhiều nghi thức nhà Phật, mở đầu bằng “nhất thiết cung kính” (hết thảy cung kính), “nhất tâm đảnh lễ” đều là vì ý nghĩa này. Không riêng gì Phật pháp giảng như thế, Nho gia Trung Quốc cũng nói như vậy. Quý vị đọc thiên sách Khúc Lễ trong Lễ Ký, câu đầu tiên là “Khúc Lễ viết: Vô bất kính” (Khúc Lễ nói: ‘Đừng bất kính’). Đúng là câu đầu tiên ấy và nguyện Phổ Hiền thứ nhất khéo sao chỉ khác cách nói nhưng cùng một tác dụng. Người Tàu thường nói: “Anh hùng sở kiến đại lược tương đồng” (cái thấy của bậc anh hùng gần giống nhau). Phật nói tu hành thật sự thì phải bắt đầu từ chỗ này, Nho gia cũng khởi đầu từ đây, cung kính! Chúng ta đối với Phật cung kính như thế nào thì nói cách khác, đối với hết thảy mọi người cũng phải cung kính như cung kính Phật. Sau đó lại mở rộng ra, đối với hết thảy vạn vật, đối với cây cối hoa cỏ, đối với sơn hà đại địa, đối với thần linh trong chín pháp giới, đối với các loài quỷ trong ba ác đạo đều cung kính như Phật. Đối với họ phải thanh tịnh, phải bình đẳng, phải chân thành, chẳng được có ý nghĩ cao thấp, vì sao? Là một thể khác tên, một thể nhưng khác tướng, đạo lý này ở phần trên đã giảng rồi!
Trong mấy năm qua, tôi qua lại với rất nhiều tôn giáo khác, chúng tôi xây dựng một công nhận chung: “Trong vũ trụ chỉ có một chân thần duy nhất. Vị chân thần duy nhất ấy trong Phật giáo chúng ta gọi là Pháp Tánh”. Chân thần sáng tạo trời, đất, vạn vật, trong kinh Phật nói trời đất vạn vật chỉ do tâm hiện, chỉ do thức biến, chính Tánh Thức sáng tạo trời, đất, vạn vật, tôn giáo gọi cái được pháp tánh hiện, pháp tánh biến ấy là chân thần. A Di Đà Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật đều do Pháp Tánh hiện, Pháp Tánh biến. Các thần linh trong những tôn giáo khác cũng là đối tượng được hiện được biến bởi Pháp Tánh; do vậy là một chứ không phải hai. Chúng ta hiểu nguyên lý này, biết chân tướng của sự thật, luận trên mặt Sự, chúng ta có thể nói hết thảy các vị thần trong mọi tôn giáo đều là hóa thân của Thích Ca Mâu Ni Phật. Lấy ta làm bản vị thì ta là chủ, họ là khách. Nếu luận trên căn bản của Cơ Đốc giáo (Christianism) thì Cơ Đốc Giáo là chủ, ta là khách, tất cả hết thảy các thần trong những tôn giáo khác đều là hóa thân của Gia Tô (Jesus). Thích Ca Mâu Ni Phật cũng vậy, Khổng Tử, Lão Tử của Trung Quốc cũng thế. Do vậy, chủ không nhất định là chủ, mỗi người đều có thể làm chủ, khách cũng có thể làm chủ, đứng ra làm chủ, ai nấy đều có thể làm bạn. Kinh Hoa Nghiêm bảo đó là “chủ bạn viên dung”.
Do đó, tất cả hết thảy tín đồ tôn giáo là người một nhà, đều là hóa thân của một chân thần. Tôi vào giáo đường của tôn giáo khác, tôi lễ bái, người khác thấy vậy ngạc nhiên lắm, cớ sao ông lại lễ bái? Tôi lễ là lễ hóa thân của một vị chân thần, thần của họ không khác gì Thích Ca Mâu Ni Phật cả, là một không phải hai. Phổ Hiền Bồ Tát còn mở rộng ý nghĩa này hơn nữa: Không những hết thảy thần là một mà hết thảy chúng sanh đều là một. Chúng ta đối với tất cả hết thảy chúng sanh lễ kính, coi họ như chư Phật Như Lai, coi như chân thần duy nhất không hai không khác. Ai làm được như thế? Phổ Hiền Bồ Tát làm được. Nếu quý vị làm được như thế, quý vị chính là Phổ Hiền Bồ Tát.
Phổ Hiền Bồ Tát có năm mươi mốt tầng cấp: Sơ Phát Tâm Phổ Hiền Bồ Tát, Thập Tín Vị Phổ Hiền Bồ Tát, Thập Trụ Phổ Hiền Bồ Tát, Thập Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Thập Hồi Hướng Phổ Hiền Bồ Tát, Thập Địa Phổ Hiền Bồ Tát, Đẳng Giác Phổ Hiền Bồ Tát. Cứ hễ là người tu hạnh Phổ Hiền thì đều gọi là Phổ Hiền Bồ Tát. Tịnh tông học nhân chúng ta tu hạnh Phổ Hiền, quý vị hãy mở kinh Vô Lượng Thọ ra xem đi, không phải là trong phần Chánh Tông, mà là trong Tự Phần, mở đầu bằng phần liệt kê đại chúng tham dự pháp hội, sau phần nêu danh hiệu đại chúng có một câu: “Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức” (đều cùng tuân thủ, tu tập đức của Phổ Hiền). Đức của Phổ Hiền chính là mười nguyện này đấy. Vì thế, phải biết Tịnh tông đồng học nếu là người thật sự tu Tịnh tông thì người ấy tu như vị Bồ Tát nào? Tu theo Phổ Hiền Bồ Tát. Cận đại, Hoằng Nhất đại sư như ai nấy đều biết, khóa niệm sáng tối của Hoằng Nhất đại sư là gì? Niệm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm. Ngài tu Tịnh Độ, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, Ngài không niệm kinh Vô Lượng Thọ, không niệm kinh A Di Đà, mà niệm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Do đây biết rằng: Hoằng Nhất đại sư cả một đời tu mười đại nguyện vương. Quý vị hãy chú tâm quan sát Ngài, sau khi Ngài học Phật, quy tín Tịnh Độ rồi, Ngài biểu hiện, Ngài sống, xử sự, đãi người, tiếp vật có giống với mười nguyện hay chăng? Có phải là thật sự thực hiện hay không? Tôi chú tâm quán sát thấy Ngài thật sự làm được. Bất luận đối với ai Ngài đều cung kính, Ngài xử sự, đối vật đều cung kính. “Lễ kính chư Phật” được thể hiện trong sanh hoạt thường nhật. Hoằng Nhất đại sư đã nêu gương cho chúng ta thấy.
Chúng ta học Phật phải khởi đầu từ đâu? Từ lễ kính! Đối với người khác ngạo mạn, đối với người khác không biết tôn trọng, không biết quan tâm, không biết giúp đỡ tức là không biết học Phật, vẫn là mê hoặc điên đảo, không làm được một câu nào! Bởi thế, ngàn muôn phần mọi người chớ hiểu lầm “chư Phật” chỉ là những vị đã thành Phật! Không phải thế! “Chư Phật” ở đây là tam thế chư Phật, quan trọng nhất là vị lai chư Phật. Vị lai chư Phật là tất cả hết thảy chúng sanh trong hiện tại, bao gồm cả động vật, muỗi, kiến đều là Phật. Quý vị có lễ kính được hay không? Cây cối hoa cỏ cũng đều là Phật, phạm vi rất rộng lớn, nghĩa lý rất sâu rộng, vi diệu đến cùng cực! Vì thế, đó là tiêu chuẩn tu học của Tịnh Tông.
Căn bệnh lớn nhất của chúng ta là không biết cung kính, hiện thời đúng là vô lễ vô kính, làm sao vãng sanh cho được? Tây Phương Cực Lạc thế giới, khi tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà đã bảo cùng quý vị rồi: Cực Lạc thế giới chỉ là Phổ Hiền pháp giới. Hễ ai sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng đều là Phổ Hiền Bồ Tát, bốn cõi chín phẩm đều tu hạnh Phổ Hiền. Trong kinh Vô Lượng Thọ có một đoạn nói rõ ràng: Phổ Hiền Bồ Tát là Sơ Tổ Tịnh Tông của thế giới Sa Bà, Ngài dạy dỗ chúng ta chính là thay mặt đức A Di Đà Phật giáo hóa. Chúng ta phải tin, phải hiểu, phải tiếp nhận, phải nghiêm túc phụng hành, phải dùng cái tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm từ bi để học tập. Khắp pháp giới trọn hư không giới, Phổ Hiền Bồ Tát cùng hết thảy chúng sanh (chúng sanh ở đây bao gồm hữu tình lẫn vô tình) quyết định không đối lập, như thế là lễ kính chân chánh. Nếu có đối lập thì chẳng thực hiện được câu “lễ kính chư Phật” này. Vì vậy, hạnh Phổ Hiền khó tu lắm. Kinh giáo Đại Thừa thường nói: Bồ Tát không tu hạnh Phổ Hiền sẽ chẳng thể viên thành Phật đạo. Nếu quý vị muốn chứng đắc Phật quả viên mãn thì quý vị phải tu hạnh Phổ Hiền. Do đây, ta có thể hiểu được sự thù thắng của Tây phương Cực Lạc thế giới: Tây Phương Cực Lạc thế giới toàn là người tu hạnh Phổ Hiền, đều đã tu Phật đạo rốt ráo viên mãn.
Nhị giả xưng tán Như Lai.
(Hai là khen ngợi Như Lai)
Ở đây, chúng ta phải chú ý, ở trên nói “chư Phật”, còn ở đây lại đổi thành Như Lai. Nghĩa là sao? Chư Phật và Như Lai chẳng phải là một không phải là hai hay sao? Thưa cùng quý vị, chư Phật và Như Lai không một, không khác, chẳng thể nói là một, mà cũng không thể nói là hai; thế nhưng quả thật có hai cách giảng. Chư Phật là nói trên mặt Tướng, còn nói Như Lai là luận trên mặt Tánh. Chúng ta đã biết Tự Tánh có bản năng, bản năng là gì? Là giác tri, như trong hội Lăng Nghiêm, đức Thế Tôn bảo là “thấy - nghe - hay - biết”. Thấy - nghe - hay - biết là Tự Tánh, hoặc như kinh thường gọi là Pháp Tánh, nó có bản năng vĩnh viễn bất sanh bất diệt trọn khắp pháp giới hư không giới. Ngoại trừ bản năng ra còn có bản đức, cái đức ấy cũng trọn khắp hư không, pháp giới. Bản đức (cái đức chánh yếu) là gì vậy? Chính là từ bi, là yêu thương. Do vậy, tôn giáo nào cũng đều nói đến từ bi, đều nói đến yêu thương. Phật pháp nói đến từ bi, kinh Cổ Lan (Koran) nói đến nhân từ, kinh Tân Cựu Ước nói đến yêu thương, Chúa yêu thương con người, Thượng Đế yêu thương thế nhân, mọi tôn giáo đều nói đến yêu thương. Vì vậy, yêu thương là chân lý của vũ trụ, chân lý của vũ trụ chính là bản đức của pháp tánh, vốn sẵn đủ tánh đức. Từ thí nghiệm kết tinh nước, tiến sĩ Giang Bản Thắng đã phát hiện được chuyện này, gởi những thông điệp đến nước, nước có thể thấy, có thể nghe, có thể tiếp nhận những thông điệp từ con người. Thông điệp nào tốt lành nhất? Chính là yêu thương và cảm tạ. Hai thông điệp ấy gây nên những phản ứng kết tinh đẹp đẽ nhất. Thí nghiệm suốt tám, chín năm, ông khẳng định yêu thương và cảm tạ chính là chân lý của vũ trụ, chúng ta đã biết rồi! Chúng ta biết đấy chính là tánh năng, tánh đức; tánh năng là thấy - nghe - hay - biết, tánh đức là nhân từ, bác ái.
Ở Tân Gia Ba, chúng tôi qua lại cùng chín tôn giáo, tôi cũng viết mấy câu: “Căn bản của mọi tôn giáo là nhân từ bác ái”. Tông chỉ cứu độ chúng sanh của mọi tôn giáo là giúp cho chúng sanh lìa khổ được vui. Nhân từ, bác ái, lìa khổ được vui là quan niệm chung của tất cả hết thảy tôn giáo, là mục tiêu giảng dạy chung. Vì sao tôn giáo không thể đoàn kết? Vì sao không thể đối xử hòa mục với nhau? Vì sao không thể hợp tác với nhau? Có thể được chứ! Gạt bỏ mọi sai biệt sẽ thật sự thực hiện được! Năm ngoái, tôi hai lần qua thăm Nhật Bản, gặp gỡ hàng lãnh đạo Cơ Đốc Giáo đều hết sức vui vẻ, hết sức hòa hài. Quan niệm cơ bản của chúng tôi là nhân từ bác ái, lìa khổ được vui.
Lìa khổ được vui là luận theo mặt Quả. Có quả ắt phải có nhân, chúng ta hạ thủ công phu từ nơi nhân. Nhân là gì? Phá mê khai ngộ! Hết thảy khổ do mê mà có, hết thảy vui do ngộ mà sanh. Hễ ngộ bèn vui, hễ mê bèn khổ. Vì vậy, quả báo của phá mê khai ngộ là lìa khổ được vui. Phá mê khai ngộ nhất định phải là người đã khai ngộ rồi đi dạy dỗ người chưa khai ngộ. Trong kinh Phật thường nói: Người đã khai ngộ phải vì người chưa khai ngộ, vì bọn họ diễn nói. “Diễn” là biểu diễn, làm cho người ta thấy; “nói” là vì họ thuyết minh. Cuộc sống rất vui sướng ấy của chúng ta phải làm cho họ biết, khiến cho họ trông thấy sanh lòng vui vẻ, hướng về mình thỉnh giáo, ta sẽ giải nói tường tận cho họ khiến họ cũng giác ngộ. Giác ngộ rất vui sướng, đã lìa được khổ rồi!
Vì thế, trong phần trên tôi đã nói hai câu, trong câu đầu tiên, chư Phật là nói trên mặt sự tướng, cung kính hết thảy, quyết định chẳng được phân biệt, không chấp trước. “Xưng tán” khác với lễ kính, phải tương ứng với tánh đức mới xưng tán, không tương ứng tánh đức thì không xưng tán. Không như lễ kính, lễ kính là hoàn toàn bình đẳng, không điều kiện; xưng tán có điều kiện. Nói cách khác, chỉ khen ngợi điều thiện, không khen điều bất thiện. Chúng ta phải hiểu đạo lý này. Nếu khen ngợi điều bất thiện, làm sao giáo hóa chúng sanh cho được? Sao có thể biến đổi phong tục xã hội cho tốt lành hơn được? Vì vậy, xưng tán điều lành, không xưng tán điều bất thiện.
Người bất thiện, chuyện bất thiện, ta lễ kính nhưng không xưng tán; người lành việc lành, ta vừa lễ kính lại vừa xưng tán, khác biệt ở chỗ này. Trong năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử, quý vị thấy rồi đó: Ngài đến tham phỏng Thắng Nhiệt bà-la-môn, có lễ kính nhưng không xưng tán; tham phỏng Cam Lộ Hỏa Vương, có lễ kính nhưng không xưng tán; vì sao? Thắng Nhiệt Bà La Môn tượng trưng cho ngu si, bất thiện; Cam Lộ Hỏa Vương tượng trưng nóng giận, bất thiện! Vì thế đối với tham - sân - si, hết thảy tâm hạnh bất thiện không xưng tán, chỉ có lễ kính, như thường hay nói (chính Khổng lão phu tử nói như vậy) “kính nhi viễn chi” (tôn trọng nhưng không gần gũi). “Viễn” không có nghĩa là không qua lại với họ, không có nghĩa như vậy, mà là không học theo họ, ta chỉ nên học theo cái lành, chẳng được học theo cái bất thiện. Bởi lẽ, không được xưng tán bất thiện, đối với chuyện này phải cân nhắc; lễ kính không giống vậy, lễ kính không cần cân nhắc chút xíu nào, lễ kính là bình đẳng. Do hết thảy chúng sanh tánh vốn lành nên chúng ta tôn kính điều ấy. Xưng tán là gì? Người ta có tập tánh, trong tập tánh có thiện, có bất thiện. Lễ kính hoàn toàn dựa trên bản tánh, chứ không dựa trên tập tánh; vì thế, đối với kẻ ác cũng phải lễ kính. Còn xưng tán thì phải chú trọng tập tánh, trong tập tánh có thiện, có ác, chúng phải nêu điều ác, ẩn giấu điều thiện. Thiện phải được biểu dương, phải tán thán. Ác chớ nói, đừng ghim vào lòng, cũng đừng để nơi miệng, khiến kẻ làm ác tự phản tỉnh. Những điều ấy đều thuộc về giáo dục, khiến cho người làm ác tự cảm thấy: “Mình làm một điều lành nhỏ nhặt được mọi người khen ngợi, mình làm điều ác rất nhiều chẳng ai nói một câu nào. Không phải người ta không biết, người ta biết chứ, biết nhưng không phê bình một câu nào, khiến lương tâm mình bị cắn rứt, khiến tự mình quay đầu là bờ”, như vậy là hay lắm!
Nói thô thiển là mình phải tha thứ cho lỗi lầm của người khác, không cần phải trách móc lỗi người, mong mỏi người ta sửa lỗi đổi mới, đấy gọi là “phổ độ chúng sanh”. Lại gìn giữ thân tâm của chính mình cho thanh tịnh, thuần thiện thuần tịnh, quyết chẳng để điều bất thiện vào tâm, quyết chẳng thể nói đến điều bất thiện. Thân - ngữ - ý của mình thuần thiện thuần tịnh, lại còn cảm hóa được những kẻ bất thiện, cảm hóa những sự bất thiện. Có phải là tốt hơn không? Thánh nhân giáo hóa chúng ta như thế đó.
Tam giả quảng tu cúng dường.
(Ba là rộng tu cúng dường)
Ở phần trên đã nói không chỉ là hình thức, nói xuông, mà phải có hành động cụ thể. Nghĩa là sao? Thấy người khác có khổ nạn, mình phải thật sự giúp đỡ. Không cần người ta thỉnh cầu, khi mình trông thấy, nghe thấy, phải tận tâm tận lực giúp đỡ, giúp đỡ không kèm thêm điều kiện nào. Cúng dường là bố thí, trong bố thí có lòng cung kính thì gọi là “cúng dường”. Trong bố thí không có tâm cung kính thì chỉ gọi là “bố thí”, thêm vào lòng cung kính chân thành thì sự bố thí ấy được gọi là “cúng dường”. Do vậy, Phổ Hiền Bồ Tát không tu bố thí mà tu cúng dường.
“Quảng tu cúng dường”: Chúng ta nghe nói người khác gặp tai nạn, tự mình phải chú tâm xem xét, quan sát có đúng như vậy hay không. Nếu quả thật là đúng thì khi chúng ta nghe nói đến chuyện đó, phải tận tâm tận lực giúp đỡ, đó là nghĩa vụ, không có bất kỳ điều kiện gì. Mấy vị cán bộ chủ yếu của hội Hòa Thống của Úc Châu, ở ngay tại thành phố Brisbane này, bọn họ đến tìm tôi, bảo tôi họ muốn lập một đoàn y tế qua Tây Tạng khám bệnh miễn phí. Tôi hỏi: “Chữa bệnh miễn phí gì vậy?” Họ nói: “Người Tây Tạng sống trên cao nguyên, tia tử ngoại tuyến (ultraviolet ray) rất mạnh, nên bị bệnh cườm mắt rất nhiều. Mỗi năm có đến khoảng sáu bảy ngàn bệnh nhân, mỗi năm càng tăng thêm, nghiêm trọng hơn, bị mù lòa”. Những người phát tâm gồm năm bác sĩ mắt, năm bác sĩ đa khoa tổng quát, lại còn một số y tá, ước chừng gần hai mươi người, lập thành một đội y tế qua đó giúp đỡ những người bị cườm. Nghe nói hiện thời dụng cụ mổ cườm hết sức tiến bộ, chỉ mổ trong thời gian rất ngắn, không đau đớn gì, ngay lập tức mổ bỏ được cườm, khiến cho người bệnh khôi phục thị lực. Đây là chuyện tốt lành! Chuyện này khác gì nhà Phật chúng ta thường nói “thắp đèn sáng” khiến cho những chúng sanh khổ nạn được khôi phục ánh sáng.
Tôi nghe vậy, tôi vẫn còn có chút khả năng, tôi bảo: “Hay lắm! Tôi cúng dường chút tiền thuốc men”. Họ cũng không yêu cầu tôi, cũng không đến xin xỏ tôi, tôi nghe được chuyện tốt lành, đây là sự thật. Đại khái là đồng bào ở Tây Tạng, hầu như mắc bệnh cườm rất nhiều, gần như chiếm một phần ba dân số, rất nghiêm trọng! Cứ trong ba người có một người mắc bệnh cườm, hết sức nghiêm trọng! Đây là chuyện tốt. Sau khi tôi hiểu rõ chuyện này, tôi cũng tỏ thái độ. Ít lâu sau, từ Tây Tạng có một đoàn khách thăm viếng đến thăm Úc châu, đại sứ Trung Quốc tại Úc châu thông báo cho tôi biết, mong tôi sẽ tiếp đoàn khách viếng thăm này. Chúng tôi cùng ăn một bữa cơm tại bờ biển Hoàng Kim, người lãnh đạo bọn họ là tiên sinh Nhiệt Địa, là người Tạng, ngỏ lời mời mong mỏi tôi sang thăm Tây Tạng, đúng lúc đang có phái đoàn này, tôi đi cùng mọi người luôn. Tôi cũng rất hưởng ứng, từ trước đến nay chưa hề đi. Vì thế, lần này có cơ duyên như vậy bèn đi theo đoàn luôn.
Như vậy, hễ biết ai có khổ có nạn thì phải tận tâm tận lực tu cúng dường! Không đợi người ta khuyên nhủ, đợi đến khi người ta khuyên thì không còn ý nghĩa gì, quý vị không thật tâm, bị ép buộc; giống như bị người ta khuyên, mình không vui lòng, vẫn là bị ép buộc một chút. Nếu chúng ta dưỡng thành cái tâm bố thí cúng dường, có hành vi bố thí cúng dường, chẳng đợi người khác mở miệng, nhưng tự mình phải xem xét chuyện ấy là thật hay giả. Trong xã hội chuyện giả rất nhiều, người lừa tiền cũng không ít, chúng ta cũng đừng mắc lừa, đừng bị lừa dối. Do vậy, nhất định phải chú tâm quan sát, thẩm tra là thật hay giả. Nếu quả thật họ cần thì chúng ta phải bỏ tiền, ra sức, tận tâm tận lực giúp. Nay đã hết giờ rồi!
*
Chư vị đồng học!
Xin xem tiếp phần sám hối trong phần Khai Thị của thời thứ nhất. Xem từ nguyện thứ tư của mười nguyện Phổ Hiền.
Tứ giả sám hối nghiệp chướng.
(Bốn là sám hối nghiệp chướng)
Cổ nhân thường nói: “Nhân phi thánh hiền, thục năng vô quá, quá nhi năng cải, thiện mạc đại yên” (Con người chưa phải thánh hiền, ai mà không lầm lỗi. Có lỗi biết sửa, còn gì tốt lành hơn được nữa). Như vậy, có thể nói cách tu Sám Hối này phổ biến trong mọi thánh giáo dù là thế gian hay xuất thế gian. Chúng ta xem khắp những tôn giáo trên thế giới, những vị giáo chủ, tiên tri, thầy truyền giáo của họ không ai không dạy người đời phải thường hối cải. Hối là sám hối, Cải là sửa lỗi. Trong nhà Phật, hai chữ Sám Hối là hợp dịch cả tiếng Phạn lẫn tiếng Hoa. Sám là Sám-ma, là tiếng Phạn, Hối là hối cải (hối lỗi, sửa mình), đây là ý nghĩa tiếng Hán [của chữ sám-ma]. Do ý nghĩa chữ Sám-ma của tiếng Phạn và chữ Hối Cải của tiếng Hán ý nghĩa gần giống nhau, nên ghép chung lại gọi là Sám Hối.
Cách sám hối chú trọng phát lộ. Phát lộ là gì? Lộ là bày rõ ra. Mình có lầm lỗi, làm bậy, chẳng được giấu diếm, phải báo cùng đại chúng, nay gọi là “thản bạch” (nói thẳng thắn). Ở trước đại chúng nói ra lầm lỗi của chính mình, chịu đựng đại chúng quở trách, giáo huấn, sau đấy đổi mới sửa lỗi, về sau không còn tái phạm. Sám hối như vậy thật sự có công đức, sau này không còn tái phạm nữa! Trước kia, tôi thân cận Chương Gia đại sư, Chương Gia đại sư dạy dỗ tôi. Khi ấy, tôi vừa mới được tiếp xúc Phật pháp, trong Phật pháp có những quy củ, nghi thức tôi không biết một điều nào hết. Đại sư hết sức từ bi, bảo tôi Phật pháp trọng thực chất, chứ không trọng hình thức, trong Phật pháp, sám hối hết sức quan trọng. Thế nào là sám hối? Biết lỗi sửa được lỗi, sau này không tái phạm nữa, đó là sám hối chân chánh. Ngài nói nghi thức không quan trọng, đối với tôi là kẻ sơ học mà nói như vậy, tôi được rất nhiều lợi lạc.
Sám hối quan trọng nhất tự mình phải biết lỗi của mình. Từ khi tôi học Phật mãi đến nhiều năm sau, tôi mới thật sự hiểu thế nào là khai ngộ như nhà Phật thường nói. Khai ngộ là gì? Chúng ta nghe nói “khai ngộ” thấy rất huyền diệu; sau khi được tiếp xúc kinh giáo đã nhiều, tôi mới thật sự thấu hiểu thế nào là khai ngộ? Biết lỗi lầm của chính mình, ấy là khai ngộ! Sửa đổi lỗi lầm là sám hối. Sám hối là công phu tu hành chân chánh. Trong phương pháp tu học này, khó nhất là biết lỗi của chính mình. Ai biết được lỗi của chính mình, người ấy chẳng mê, người ấy giác ngộ.
Lỗi lầm vô lượng vô biên, khởi tâm động niệm cho đến ngôn ngữ, hành vi. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện nói: “Chúng sanh Diêm Phù Đề (nói đơn giản là chúng sanh trên quả địa cầu này) khởi tâm động niệm không gì chẳng phải là tội”. Kẻ mới học Phật chúng ta nghe được lời ấy, tưởng như kinh Phật nói quá đáng. “Khởi tâm động niệm không gì chẳng phải là tội”, chưa chắc! Có những người khởi tâm động niệm là thiện, chẳng lẽ cũng là tội hay sao? Vì thế sanh tâm kính ngưỡng đối với Phật pháp, nhất là đối với Đại Thừa Phật pháp quả thật khó khăn lắm! Phật thuyết pháp, tiêu chuẩn bất đồng, bất luận cá nhân nào thiện niệm hay ác niệm; thiện hạnh vẫn là ác hạnh nếu không thể vượt khỏi lục đạo luân hồi; trong mắt của chư Phật, Bồ Tát, hoặc bậc đại triệt đại ngộ, [những thiện hạnh như thế] đều không phải là chân thiện. Cái thiện thật sự sẽ như thế nào? Cái thiện chân chánh nhất định phải vượt thoát luân hồi, vượt thoát mười pháp giới; không thể vượt thoát luân hồi nếu chẳng phải là tội thì sẽ là gì đây? Nhìn từ mức độ này, quý vị mới hiểu kinh Phật nói không sai. Chúng sanh trong lục đạo luân hồi, tâm địa thiện lương, chẳng vì chính mình, mà vì quốc gia, vì dân tộc, vì hết thảy chúng sanh là tốt lắm! Khó có, [người như vậy] là bậc thánh nhân thế gian! Nhưng như thế nào? Chẳng đoạn Kiến Tư phiền não, danh văn, lợi dưỡng có thể nhạt một chút, nhưng không nhổ được tận rễ, chuyện bỏ mình vì người vẫn còn có mức hạn. Dẫu là “sát thân thành nhân, thành nhân thủ nghĩa” (hy sinh thân mình để hoàn thành điều nhân, thành tựu điều nhân, giữ được điều nghĩa), nhưng vẫn còn phân biệt chấp trước, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước này là nhân, kia là nghĩa: “Ta phải làm người có nhân, ta phải là người có nghĩa”, không ra khỏi tam giới được! Lý này rất sâu, nếu không thâm nhập kinh tạng, khế nhập Đại Thừa và rất nhiều ngôn luận của Phật, Bồ Tát, thật chẳng dễ gì thấu hiểu được! Không dễ hiểu vẫn chưa sao, có rất nhiều chỗ ta hiểu lầm ý nghĩa, đúng là “sai chỉ hào ly, lầm cả ngàn dặm”. Điều này khiến chúng tôi mỗi khi đọc câu kệ Khai Kinh “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa” cảm thấy câu này không dễ gì đọc lên. “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa” là chuyện khó khăn hết sức. Xưa kia, thầy Lý từng bảo tôi giảng một câu kệ khai kinh. Cụ nói: “Chúng ta ý nghĩa này nọ đều không biết, làm sao có thể hiểu được nghĩa chân thật của Như Lai?” Chúng tôi suy nghĩ: Không sai! Ai có thể hiểu được nghĩa chân thật của Như Lai? Chúng ta hạ mức độ xuống thấp nhất thì cũng phải là đoạn được Kiến Tư phiền não, đoạn được Trần Sa phiền não, cũng như phá được một hai phẩm vô minh thì quý vị mới hiểu được nghĩa chân thật của Như Lai. Phiền não tập khí chưa đoạn, làm sao hiểu được nghĩa chân thật của Như Lai? Nghĩa chân thật của Như Lai là từ tự tánh thanh tịnh tâm viên mãn hiển lộ, chúng ta hoàn toàn mê mất cái tâm thanh tịnh nơi tự tánh, đạo lý là như thế đó. Chúng tôi hiểu được đạo lý này, chúng tôi gật đầu, đúng là không thể hiểu được nghĩa chân thật của Như Lai.
Nếu nay chúng ta nỗ lực thực hiện, thì trước hết phải đoạn Kiến Tư phiền não. Bắt đầu đoạn từ đâu? Điều này chúng tôi thường nói, thường khuyến khích các đồng học, tôi cũng nghiêm túc nỗ lực học tập: “Chúng ta phải buông tự tư tự lợi xuống, buông danh văn, lợi dưỡng xuống, buông sự hưởng thụ ngũ dục, lục trần xuống, buông tham - sân - si - mạn xuống!” Đấy là cái ải đầu tiên. Nếu vẫn còn một thứ nào đó thì đối với pháp Đại Thừa chúng ta chẳng sờ đụng được, làm tới làm lui cũng vẫn là tâm luân hồi tạo nghiệp, sao không lầm lỗi? Thật sự phải buông xuống được, buông xuống rồi quý vị mới thấy thấu suốt. Thấy thấu suốt thì trí huệ hiện tiền, hoảng nhiên đại ngộ. Đại ngộ có nhiều mức độ; “hoảng nhiên đại ngộ” nói thật ra chỉ là ngộ một chút. Qua mấy ngày, hoặc mấy tháng, lại có hoảng nhiên đại ngộ khác, lại ngộ nhiều hơn một tí. Cổ đức thường nói: “Chúng ta tích tiểu ngộ thành đại ngộ, tích đại ngộ thành đại triệt đại ngộ”.
Nếu quý vị muốn khai ngộ mà không buông phiền não tập khí xuống được thì quý vị không ngộ nổi. Những gì Phật, Bồ Tát nói trong kinh điển, chúng ta nghe xong, nói thật ra dường như hiểu mà không phải hiểu, chứ không thật sự hiểu. Thật sự hiểu thì tư tưởng, kiến giải, ngôn ngữ, hành vi sẽ biến đổi, khác với lúc chưa hiểu, hoàn toàn khác hẳn. Khi chưa hiểu, mình là phàm phu; thật sự hiểu thì mình là thánh nhân, siêu phàm nhập thánh, phá mê khai ngộ. Tâm tư, hành vi, biểu hiện của thánh nhân là bỏ mình vì người. Quý vị hãy chú tâm quán sát khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, hành vi của các Ngài hoàn toàn tương ứng với những gì kinh điển đã nói. Quý vị hãy chú tâm quan sát những lời các Ngài nói, những điều các Ngài làm được kinh điển gọi là sở hạnh của Phật, Bồ Tát. Thế thì quý vị hãy chú tâm quan sát Thích Ca Mâu Ni Phật, thấy hạnh nghiệp cả một đời Phật có giống với những gì đã giảng trong kinh hay không?
Phàm là bậc giác ngộ, biểu hiện cả một đời, bất luận là trong sanh hoạt, trong công việc, trong xử sự đãi người tiếp vật, cứ lấy kinh luận làm tiêu chuẩn để đo lường, chắc chắn tương ứng, ấy là “thật sự học Phật”. Thật sự sám trừ sạch nghiệp chướng của chính mình, sám hối là đặc biệt nói về nghiệp chướng. Ở phần trên chúng tôi đã giảng về nghiệp chướng, trong bài kệ Hồi Hướng thường niệm câu: “Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não”, câu ấy chính là sám hối nghiệp chướng. Mặt trước của Nghiệp chướng là Hoặc chướng, tức mê hoặc, mặt sau của Nghiệp chướng là Báo chướng, báo là quả báo. Hoặc là vô minh. Nghiệp là phân biệt, chấp trước. Chúng tôi nói theo cách kinh Hoa Nghiêm đã giảng. Còn nếu theo các kinh Đại Thừa, theo thuật ngữ đức Phật đã dùng, thì Hoặc chướng là vô minh phiền não, Nghiệp chướng là Trần Sa phiền não, Kiến Tư phiền não, đều thuộc về nghiệp. Báo chướng là lục đạo luân hồi, lục đạo luân hồi là quả báo. Đó là Tam Chướng. Trong Tam Chướng có nhân, có quả, nếu nói tỉ mỉ, có nhân, có duyên, có quả. Nghiệp là nhân, Hoặc là duyên, y báo, chánh báo trang nghiêm trong lục đạo chính là quả, là sự khổ lục đạo.
Trong kinh, đức Phật dạy chúng ta: “Tam giới đều khổ”. Trong Dục Giới thì ba loại khổ lớn là Khổ Khổ, Hoại Khổ, Hành Khổ ta đều phải hứng chịu hết, không cách gì tránh khỏi được. Bất luận quý vị làm thiện hay tạo ác, cũng đều phải hứng chịu. Trời Sắc Giới có công phu thiền định, đè nén được một phần tập khí phiền não nên không có Khổ Khổ, chỉ có Hoại Khổ và Hành Khổ. Đến Vô Sắc Giới là cao rồi, ngay cả thân thể cũng không có. Chúng ta thường gọi Vô Sắc Giới là “linh giới”, không có sắc tướng, nên không có Hoại Khổ, nhưng có Hành Khổ. Vì thế, Phật bảo tam giới đều khổ, tam giới là nhà lửa. Chúng ta chỉ có cách sám hối nghiệp chướng, thật sự trừ sạch nghiệp chướng mới vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, đó mới là thật sự thiện. Vì thế, nhìn từ góc độ này, những lời kinh Địa Tạng đã giảng là đúng, không giả: “Chúng sanh Diêm Phù Đề, khởi tâm động niệm không gì chẳng phải là tội”, ý nghĩa rất sâu xa. Ngài lấy Pháp Thân Bồ Tát làm tiêu chuẩn, dùng cái thiện của Pháp Thân Bồ Tát làm tiêu chuẩn để nhìn chúng sanh trong lục đạo luân hồi. Đến thiên đạo vẫn chưa phải là thiện, chưa ra khỏi luân hồi. Hưởng hết phước trời, trong A Lại Da Thức vẫn còn có chủng tử của tập khí ác, vẫn phải đọa xuống, không thể tính là thiện được! Nếu là thiện thật sự, sẽ vĩnh viễn không đọa lạc. Vậy thì chỉ có siêu việt, ngoại trừ siêu việt ra, không còn cách nào khác nữa! Siêu việt lục đạo, đến bốn thánh pháp giới, bốn thánh pháp giới được tính là thiện, nhưng là tiểu thiện chứ chưa phải đại thiện, chưa phải là cái thiện viên mãn rốt ráo. Thiện viên mãn rốt ráo là Nhất Chân pháp giới; do vậy, quý vị vẫn còn phải vượt thoát Tứ Thánh.
Nói cách khác, trong nhà Phật pháp sám hối từ Sơ Phát Tâm đến Đẳng Giác Bồ Tát không ai lìa khỏi được. Đẳng Giác Bồ Tát vẫn phải tu sám hối nghiệp chướng, Ngài có những nghiệp chướng nào? Ấy là một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, đó là nghiệp chướng của Ngài. Như vậy, quý vị phải hiểu: Đẳng Giác Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn là đới nghiệp vãng sanh, Ngài mang theo nghiệp ít nhất, chỉ mang theo một phẩm sanh tướng vô minh. Pháp môn Tịnh Tông chẳng thể nghĩ bàn, trong các tịnh độ của chư Phật Như Lai thì đới nghiệp chỉ là đới vô minh nghiệp, chắc chắn không mang theo Kiến Tư, quyết định không mang theo Trần Sa. Chỉ riêng Tây Phương Cực Lạc thế giới, tịnh độ của Phật Di Đà, là có thể mang theo Trần Sa phiền não, có thể mang theo Kiến Tư phiền não, trong tất cả các cõi Phật không tìm đâu được một cõi như vậy.
Tu các pháp môn khác, quý vị sám hối nghiệp chướng giống như tỷ lệ thành tích học tập của quý vị trong trường học, nói chung phải đạt đến năm mươi phần trăm mới coi là trúng cách; còn Tây Phương Cực Lạc thế giới khác hẳn, tiêu chuẩn của Tây Phương Tịnh Độ thấp nhất, sám hối nghiệp chướng chỉ chừng năm phần bèn được vãng sanh. Các pháp môn khác, các cõi Phật khác đòi hỏi năm mươi phần trăm mới hòng vãng sanh, ở đó đặt ra tiêu chuẩn: Phải đạt năm mươi phần trăm mới được; còn ở đây lấy tiêu chuẩn đạt năm phần là được rồi. Đối với bọn phàm phu nghiệp chướng sâu nặng chúng ta mà nói, chúng ta phải nỗ lực mãi, sao cho nghiệp chướng tiêu trừ được một chút mới hòng vãng sanh. Điều này chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta phải hiểu điều này cho rõ ràng, hiểu rõ rồi mới chịu thật sự khẳng định, ngoại trừ pháp môn này ra, chúng ta tu học bất luận pháp môn nào khác đều chẳng thể thành tựu. Ấy là vì mình không có năng lực sám hối nghiệp chướng với một mức độ lớn lao, nên làm chẳng được!
Phương pháp thực hiện là mỗi ngày phải phản tỉnh, mỗi ngày phải nghĩ đến lầm lỗi của chính mình. Vì sao phải thực hiện công khóa sáng tối? Thực hiện công khóa sáng tối có gì tốt? Công khóa sáng tối chẳng phải là làm cho Phật, Bồ Tát, mà làm vì chính mình, nhất định phải hiểu rõ thật minh bạch ý nghĩa này, khóa tụng sáng tối là tu pháp môn sám hối. Khóa sáng lay tỉnh chính mình, vì thế chúng tôi chọn kinh văn để đọc là bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà, nhằm cảnh tỉnh chính mình, hy vọng cách suy nghĩ, tư tưởng, hành vi của chúng ta ngày hôm nay sẽ tương ứng bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà. Mỗi ngày tụng khóa sáng để cảnh tỉnh chính mình. Khóa tối là phản tỉnh, mình tương ứng lời Phật răn dạy là tốt, ngày mai cứ làm như thế, ngày mai phải giữ gìn, chẳng được để mất đi. Điều gì không làm được, phải sanh tâm hổ thẹn, nhất định phát tâm sửa lỗi, ngày mai ta nhất định phải làm cho được. Công khóa sáng tối như thế ắt có công đức, giúp mình sám hối, giúp mình phát hiện lầm lỗi, giúp mình sửa đổi lầm lỗi, đó là tu hành. Tu hành là sửa cho đúng những tư tưởng sai quấy, những hành vi lầm lạc, những ngôn ngữ sai trái. Ngôn ngữ, hành vi đều sanh từ ý niệm. Bởi thế tư tưởng lầm lạc là quan trọng nhất, do vì cách nghĩ sai lầm mới dẫn đến hành vi, ngôn ngữ sai lầm. Bởi vậy, tu hành ý nghiệp quan trọng hơn bất cứ gì khác! Sửa đổi cho đúng những tư tưởng lầm lạc của chúng ta, mong có được chánh tri chánh kiến, trong giai đoạn này, ngoại trừ đọc kinh, nghe kinh ra, không còn có phương pháp thứ hai nào. Đọc kinh, nghe kinh, lấy kinh làm chủ. Quý vị hãy nhớ kỹ, trước khi Thế Tôn nhập diệt, Ngài dạy chúng ta pháp Tứ Y: “Y Pháp bất y nhân” (Nương vào pháp không nương theo người). Đối với những điều người ta nói mình phải tìm cho ra căn cứ lý luận từ kinh. Bởi lẽ hết thảy những gì người ta nói mình chỉ có thể dùng để tham khảo mà thôi, rốt cuộc người ấy nói đúng hay không chúng ta phải có trí huệ phân biệt, chẳng thể mù quáng hùa theo. Mù quáng hùa theo là ngu si, là đi vào con đường lầm lạc. Bởi thế phải có trí huệ quyết định, chọn lựa. Chuyện này đâu phải là chuyện dễ.
Chúng sanh căn tánh bất nhất, tùy theo căn tánh của mỗi loại mà đức Phật có từng cách thuyết pháp. Ví dụ rõ ràng nhất là đối với kẻ chấp trước Có, đức Phật giảng Không. Giảng Không nhằm ý gì? Phá cái chấp Có của kẻ đó. Thế nhưng với hạng người chấp Không, Phật bèn giảng Có, để phá cái chấp Không. Phật thuyết pháp nhằm phá chấp trước, phân biệt, vọng tưởng của chúng sanh. Chúng sanh vọng tưởng, chấp trước khác nhau, Phật dùng phương pháp thiện xảo phương tiện khác nhau. Chúng sanh không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì Phật không có pháp nào để nói cả. Không có pháp nào để nói mới là thật sự thuyết pháp. Ai hiểu? Chỉ có Pháp Thân Bồ Tát, những vị Pháp Thân Bồ Tát thuộc địa vị sâu mới hiểu được, đừng nói là lục đạo phàm phu không hiểu nổi, ngay cả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát trong chín pháp giới cũng không hiểu. Vì thế chuyện này thật khó khăn lắm!
Thế nhưng có một nguyên tắc chung, nếu chúng ta nắm được nguyên tắc chung ấy, đối với các cách thuyết pháp bất đồng của chư Phật, Bồ Tát, trong tâm sẽ lãnh hội được một ít. Thế nào là tổng nguyên tắc? Đó là khế cơ, khế lý khế cơ. Khế cơ là thích hợp nhu cầu hiện tại của người đó, đối với người đó có lợi lạc, có lợi ích, đó là khế cơ. Về Lý thì quyết định chẳng được trái lý. Khế cơ, khế lý là đúng. Đấy là tổng nguyên tắc, tổng cương lãnh để hết thảy chư Phật, Bồ Tát độ chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới. Danh hiệu của tổng nguyên tắc, tổng cương lãnh trong Đại Thừa Phật pháp gọi là một câu A Di Đà Phật. A Di Đà Phật là tên gốc của tánh đức, là tên gọi bản năng tự tánh của mỗi chúng sanh. Trì danh niệm Phật, hết thảy chư Phật đều dạy chúng ta như thế, dùng danh hiệu này để đánh thức tánh đức của chính mình, gọi nó trở về, ý nghĩa là như vậy!
Cần phải nhận thức rõ ràng Phật và Phật giáo. Phật là gì? Pháp Đại Thừa giảng về Phật rất nhiều, Phật là chân tâm, không phải là bên ngoài, tự tánh chân tâm gọi là Phật. Tiếng Ấn Độ gọi là Phật, là tánh, là bản lai diện mục. Hiểu rõ ý nghĩa những danh tự ấy, hiểu thấu suốt thì mới lãnh hội chút ít những danh từ thuật ngữ ấy. Tin Phật là tin mình có chân tâm, tin mình có bản tánh. Xem kinh, như trong phần trước chúng ta đã đọc thấy: “A Di Đà Phật chính là tâm ta”. Tin A Di Đà Phật là tin vào cái tâm của chính mình, niệm A Di Đà Phật là niệm cái tên gốc của chính tâm mình. Ta không tin Phật là không tin vào chân tâm của chính mình, không tin vào cái tên gốc của chính mình, vậy là sao? Là mê hoặc điên đảo! Trung Phong thiền sư giảng rất rõ ràng: “A Di Đà Phật chính là tâm ta, tâm ta chính là A Di Đà Phật. Tịnh Độ chính là phương này, phương này chính là Tịnh Độ”. Hết thảy chư Phật đều nói pháp này là pháp khó tin, vì sao? Con người mê rồi. Họ tin tưởng điều gì? Tin vào phiền não tập khí của chính mình, cho tham - sân - si - mạn, danh văn, lợi dưỡng là Ngã. Bởi thế họ bèn luân hồi lục đạo, khởi tâm động niệm tạo vô lượng vô biên nghiệp, nghiệp cảm luân hồi, trong luân hồi thọ khổ thọ nạn rất oan uổng! Họ vốn là Phật, vốn rất tự tại, có vô lượng vô biên trí huệ, vô lượng vô biên đức năng, vô lượng vô biên tướng hảo, nay đều mê mất hết.
Chư Phật, Bồ Tát cũng như những bậc tái lai là những vị giác ngộ, các Ngài đem sự giác ngộ, khôi phục, kinh nghiệm, phương pháp của chính mình ban cho chúng ta, để chúng ta thuận tiện đối chiếu học theo; chiếu theo những phương pháp ấy mà tu học sẽ bớt được rất nhiều chuyện. Nếu chúng ta thật sự hiểu được, thật sự thấu suốt, trong một đời này khéo tu học, thì trong một đời này nhất định chứng đắc. Nếu quý vị hỏi chứng đắc điều gì ư? Xin thưa cùng quý vị một chuyện hiện thực: Chứng đắc rõ ràng nhất là tướng mạo quý vị càng ngày càng tốt, càng ngày càng trẻ ra, càng ngày càng mạnh khỏe. Trong một đời này, có thể đạt được thân Kim Cang bất hoại, vĩnh viễn không sanh bệnh, vĩnh viễn không suy lão, vĩnh viễn vui sướng. Bất luận làm chuyện gì, việc gì cũng thuận lòng, việc gì cũng như ý, trong nhà Phật có cầu ắt ứng. Những chuyện tốt ấy quý vị đều có thể đạt được, đấy là nói về chuyện hiện thực nhất, không có chút xíu gì huyền diệu cả! Nếu quý vị không làm được là vì quý vị chưa hiểu đạo lý này, không hiểu phương pháp này thì học sai mất rồi!
Nếu thật sự hiểu được lý luận này, hiểu được phương pháp này, tu học không sai lầm chút nào, chắc chắn quý vị đạt được những quả báo nói trên. Phải mất bao lâu mới cảm thấy có hiệu quả? Ba tháng, từ ba tháng đến nửa năm, quý vị sẽ nhận biết hiệu quả, quý vị sanh lòng tin. Tư tưởng, hành vi bèn biến đổi. Sự biến đổi ấy quý vị thật sự làm được. Từ tướng mạo, thể chất, tâm tình thái độ xử sự đãi người tiếp vật ta có thể thấy được sự biến đổi ấy rất rõ rệt: quý vị thật sự làm được, quý vị thật sự dụng công. Nếu giả là không được rồi, người ta nhìn qua một cái là thấy ngay, vì sao? Quý vị chẳng có biến hóa gì cả!
Đạo lý này khoa học hiện thời đã chứng minh. Bởi thế, lần này chúng tôi mời tiến sĩ Giang Bản Thắng đến thăm nơi đây. Rất tiếc là ông đến thăm nhằm lúc tôi đi thăm Tây Tạng, lịch trình bị kẹt không thể tiếp đãi ông ta được. Chậm nhất là tháng Giêng năm sau tôi sẽ đến Đông Kinh dự hội nghị, đi họp ở Nhật Bản, tôi có thể đến thăm ông ta. Ông ta dùng phương pháp khoa học chứng thực: Chúng ta dùng thiện ý, lấy nước để thí nghiệm, dùng thiện ý đối đãi nước thì nước bèn kết tinh rất đẹp! Chúng ta dùng ác ý đối với nó, nước bèn phản ứng hết sức xấu xí. Đây chính là chứng minh rõ ràng nhất! Vì sao nói quý vị thật sự tu hành, tướng mạo của quý vị sẽ thật sự biến đổi rất đẹp? Vì quý vị tu hành là đem tất cả hết thảy ý niệm bất thiện đổi thành những ý niệm tốt lành nhất, tâm quý vị thiện, tư tưởng thiện, hành vi thiện, thì phản ứng đầu tiên là gì? Những bộ phận và tế bào trên thân sẽ có phản ứng ban đầu giống như phản ứng của nước. Mỗi một bộ phận đều biến đổi hết sức đẹp đẽ, mạnh khỏe nhất. Mỗi một tế bào cũng biến đổi hết sức tốt đẹp, nên quý vị bèn trẻ ra, đạo lý là như vậy.
Trong quá khứ, chúng tôi chỉ nghe theo những gì kinh Phật đã giảng, thật thà chất phác y giáo tu hành, cũng không nghĩ gì đến tướng hảo, thân thể khỏe mạnh, không nghĩ đến những chuyện đó, đó là quả báo. Chúng tôi chỉ nghe thầy giáo huấn, đúng là tâm biến đổi một trăm tám mươi độ. Quả nhiên biến cải bèn khởi tác dụng, chúng tôi chưa nhận biết tác dụng nhưng người khác đã nhận ra. Người khác nhận thấy tướng mạo khác đi, tướng mạo hiện thời so với tướng mạo xưa kia tốt hơn nhiều lắm, khí sắc khác hẳn, sức khỏe khác hẳn, trước kia hay bệnh, nói chung là eo nhức, lưng mỏi, nay không còn nữa. Xưa kia, thỉnh thoảng còn bị cảm mạo, mấy năm nay không còn nữa. Chú tâm quan sát, chúng tôi chú tâm quan sát phản tỉnh, đó là gì vậy? Chính là hiệu ứng của nghiệp chướng tiêu trừ.
Xưa kia, Chương Gia đại sư dạy tôi: Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng. Ngày dạy tôi cầu Phật, dạy tôi chớ cầu nơi người. Ngài nói cầu nơi người, người ta không đáp ứng, mình có sanh phiền não hay không? Tôi nói không sai, quả nhiên sanh phiền não! Vì thất vọng, bị ngăn trở, trong tâm khó chịu. Ngài nói cầu Phật, Bồ Tát; cầu Phật, Bồ Tát không có cảm ứng là vì nguyên nhân nào? Do chính mình có nghiệp chướng. Sám trừ nghiệp chướng rồi thì cảm ứng bèn hiện tiền. Đúng là có cầu ắt ứng. Cái cầu ấy đúng pháp đúng lý, quyết định chẳng vì mình hưởng thụ, quyết định chẳng vì chính mình, vì cá nhân. Danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần trong thế gian này, quyết định chẳng được cầu những thứ ấy. Cầu những thứ ấy là tăng trưởng tham - sân - si, Phật, Bồ Tát đại từ đại bi tuyệt đối chẳng thể tăng trưởng tham - sân - si - mạn của quý vị; Phật, Bồ Tát từ bi giúp cho chúng ta tiêu trừ tham - sân - si - mạn. Nếu sám trừ được tham - sân - si - mạn, niệm niệm mong chánh pháp tồn tại lâu dài, tiếp nối huệ mạng Phật, vì giúp cho hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ, thì hết thảy chư Phật, Bồ Tát đều hộ niệm quý vị, đều giúp đỡ quý vị. Vì sao? Quý vị và các Ngài đồng tâm, đồng chí, đồng hạnh. Chư Phật, Bồ Tát là như thế đó, quý vị có giống các Ngài thì sức của các Ngài mới gia trì cho quý vị được! Ở đây, Trung Phong thiền sư khuyên chúng ta nên phát nguyện, hy vọng chúng ta nguyện nào cũng tương ứng với bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà, có vậy quý vị mới được gia trì viên mãn. A Di Đà gia trì quý vị, mười phương hết thảy chư Phật đều gia trì quý vị, làm sao quý vị không tự tại? Làm sao quý vị không vui sướng? Mười phương hết thảy chư Phật gia trì, thì xin thưa với quý vị, mười phương hết thảy thiện thần đều gia trì mình, tâm - nguyện - giải - hạnh của họ đều tương đồng. Vì thế, chúng ta phải coi trọng cái nguyện này.
Đối với người khác, chúng ta không lễ độ, kiêu căng tự đại, không để ai vào mắt, đấy đều là nghiệp chướng. Bởi thế, lễ kính chư Phật là sám hối nghiệp chướng, xưng tán Như Lai cũng là sám hối nghiệp chướng. Nghiệp chướng lớn nhất là ganh ghét, ganh ghét gây chướng ngại. Chúng ta thấy người khác có chuyện tốt, miệng trọn chẳng đề cao, người khác có lúc bất thiện, mình bèn suốt ngày từ sáng đến tối rêu rao, khen mình chê người. Xưng tán Như Lai cũng là sám hối nghiệp chướng ấy. Rộng tu cúng dường cũng là sám hối nghiệp chướng, tâm lượng của mình nhỏ nhen, tự tư tự lợi, chẳng thể bỏ mình vì người, làm sao rộng tu cúng dường cho được? Quý vị hãy nghĩ xem đấy có phải là sám hối nghiệp chướng hay không? Sau đấy, quý vị thấy mười nguyện Phổ Hiền, không nguyện nào không phải là sám hối nghiệp chướng. Như vậy, trong mười nguyện, sám hối nghiệp chướng là nguyện tổng quát. Chúng ta cũng có thể nói là Bồ Tát đạo từ Sơ Phát Tâm đến quả địa Như Lai tu điều gì? Chính là tu sám hối nghiệp chướng. Nếu nghiệp chướng nào cũng đều sám được sạch sành sanh, không còn mảy may nào thì quý vị đã viên thành Phật đạo. Ở phần trên, chẳng phải tôi đã từng nói đó ư? Đẳng Giác Bồ Tát vẫn còn mang một phẩm sanh tướng vô minh, đó chính là nghiệp chướng của họ, vẫn còn phải sám hối cho hết một phẩm sanh tướng vô minh mới chứng đắc Phật quả. Vì thế, chúng ta nhất định phải chịu sám hối nghiệp chướng sâu nặng của chính mình, ngày ngày phải phát hiện nghiệp chướng của chính mình, ngày ngày phải sám trừ nghiệp chướng của chính mình mới hòng tiến bộ trên đường Bồ Đề.
Ngũ giả tùy hỷ công đức.
(Năm là tùy hỷ công đức)
Điều này hết sức quan trọng, nhằm đối phó điều gì? Đối trị ganh ghét chướng ngại. Chúng ta thấy những người khác làm việc tốt, trong tâm không vui thú. Nghiêm trọng nhất là nghĩ cách gây chướng ngại, không mong người ấy thành công. Trong một đời này, không biết chúng tôi gặp phải bao nhiêu lần. Năm 1999, kỷ niệm năm mươi năm lập quốc của Trung Quốc, tôi được mời tham dự lễ ngũ thập chu niên đại khánh. Tôi ở Bắc Kinh viếng thăm kinh khắc đá ở Phòng Sơn, hết sức hoan hỷ, nhằm đúng ngay lúc đó, có một vị cư sĩ tặng tôi một món tiền, số tiền cũng không ít, để in số kinh khắc đá ở Phòng Sơn. Tôi đến Bắc Kinh được cục trưởng cục Tôn Giáo nhà nước họ Diệp tiếp đãi, tôi nêu lên chuyện ấy. Tôi nói tôi hy vọng in lại một ngàn bộ kinh khắc đá gởi tặng nước nhà, chứ bản thân tôi không cần. Hy vọng nhà nước sẽ gởi tặng thư viện các nước trên toàn thế giới hòng bảo tồn vĩnh viễn, đó là nghệ thuật phẩm cao cấp. Tất nhiên bọn họ in, nhưng in chữ quá nhỏ, đọc không được, chỉ có thể dùng làm tài liệu. Bởi thế chúng tôi hy vọng in chữ to hơn, in chữ to thì đương nhiên là số tập sẽ nhiều hơn, phân lượng lớn hơn, giá thành phải cao. Không sợ giá thành cao, cốt in cho đẹp đẽ, tinh xảo, khiến ai trông thấy đều sanh tâm hoan hỷ. Đương thời, nhà nước cũng đồng ý, cấp cho tôi một tờ giấy phép. Về sau, chướng ngại rất nhiều, việc ấy không thành, đáng tiếc quá! Họ chẳng thể tu tùy hỷ công đức, không thể cho phép được.
Năm ngoái, tại Đài Loan bàn đến chuyện in Tứ Khố Hội Yếu, nhân vì số tiền kia vẫn còn, tôi nghe vậy rất hoan hỷ. Nếu như tôi có được bản quyền Tứ Khố Hội Yếu, tôi cũng mong in một ngàn bộ, gởi tặng thư viện các đại học nổi tiếng trên toàn thế giới. Dường như cũng có mấy người tranh giành, chèo kéo không buông, việc ấy cũng hỏng luôn. Không biết học tùy hỷ công đức, ai nấy đều tranh giành, công đức này tôi làm, kẻ kia muốn tranh làm, mấy người đều muốn tranh, thế là xong luôn, hết chuyện, không làm được gì hết! Bao nhiêu thiện sự muốn phát tâm làm đều bị phá hoại như thế cả. Mỗi cá nhân đều muốn tranh công, rất đáng tiếc. Đây là chúng sanh thiếu phước, chúng tôi muốn làm, làm không thành công. A! Nay hiện tại đã hết giờ rồi!
*
Chư vị đồng học!
Chúng ta xem tiếp nguyện thứ năm của mười nguyện Phổ Hiền trong phần Khai Thị phát nguyện:
Ngũ giả tùy hỷ công đức.
(Năm là tùy hỷ công đức)
Điều này hết sức quan trọng, hết thảy chúng sanh đều có nghiệp chướng, đều có căn bệnh sau đây: Không vui lòng tùy hỷ công đức. Nào ai biết “tùy hỷ công đức” và công đức của chính mình đã tu không hai không khác. Vì thế, người thật sự có trí huệ, ngạn ngữ thường nói: “Thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác” (thành tựu điều tốt đẹp cho người, không thành điều ác cho người). Chuyện bất thiện chúng ta không tùy hỷ. Thiện sự, hảo sự, chuyện có lợi ích cho xã hội, cho đại chúng hãy nên tùy hỷ. Chẳng nên có tâm lượng hẹp hòi như thế, phải mở rộng tâm lượng.
Trước kia, tôi ở tại Tân Gia Ba, một nữ tu Thiên Chúa giáo gọi điện thoại cho tôi, họ có một đoàn y tế (Thiên Chúa Giáo lập trường học, lập bệnh viện, các bác sĩ trong bệnh viện của bà ta lập một đoàn y tế) qua Phi châu chữa bệnh miễn phí. Đây là một việc tốt, tôi nghe xong hết sức hoan hỷ, tôi lập tức bảo bà ta: “Tôi gởi bà năm vạn đồng tiền thuốc men, hãy mua nhiều thuốc mang qua bên đó”. Bà làm chuyện tôi muốn làm, tôi vẫn chưa có được cái duyên ấy, người ta làm được, tôi bèn đầu tư, khác gì chính tôi làm! Hết sức là hay, vì sao không làm? Vì sao cứ nhất định phải chính mình làm? Ngốc quá, mình làm bận đến chết! Một thời gian không lâu sau, bà lại gọi điện cho tôi mong tôi lại giúp đỡ lần này. Bà nói bên Phi châu hết sức nghèo khổ, con người rất đáng thương, bà nói hết thảy những thiết bị đều không có, thiếu thốn nhất là xe cứu thương, giao thông rất bất tiện. Bà đề xuất: “Pháp sư! Ông có thể cho tôi một cái xe cứu thương được hay không?” Tôi nói: “Được chứ!” Tôi gởi một xe cứu thương cho bà. Không cần biết là tôn giáo hay đoàn thể nào, chuyện người ta làm là chuyện tốt, đối với xã hội, đối với chúng sanh khổ nạn thật sự hữu ích thì chỉ cần tôi trông thấy, nghe thấy, không cần ai phải bảo tôi, tôi đều tận tâm tận lực giúp đỡ người khác. Tôi biết người ta làm chuyện ấy chính là tôi làm, tôi làm chính là người khác làm, việc gì phải phân biệt so đo? Cớ gì cứ nhất định phải nhọc sức mới là của mình?
Hết thảy công lao chuyện tốt cứ cho là của mình sẽ không thoát khỏi tam giới. Vì sao? Ngã Chấp quá nặng! Luân hồi lục đạo do Ngã Chấp tạo thành. Trong kinh đức Phật giảng rất hay, Ngã Chấp bị phá thì lục đạo luân hồi không còn nữa, quý vị bèn vượt thoát luân hồi; đoạn được Pháp Chấp thì vượt khỏi mười pháp giới. Do đây biết rằng: Lục đạo luân hồi do Ngã Chấp, Pháp Chấp tạo thành. Trong mười pháp giới thì bốn thánh pháp giới do Pháp Chấp tạo thành, không có Ngã Chấp nhưng còn Pháp Chấp. Pháp Chấp không có thì mười pháp giới không còn nữa, thế giới ấy gọi là Nhất Chân. Chấp trước không thể không phá, tùy hỷ nhằm giúp chúng ta phá chấp trước, hết thảy việc tốt không nhất định phải là của mình, phải hiểu đạo lý này. Phải nhiệt tâm, tích cực, nỗ lực thực hiện tùy hỷ công đức.
Vì vậy, chuyện in lại những kinh khắc đá ở Phòng Sơn đến nay tôi vẫn không lúc nào quên. In Tứ Khố Hội Yếu bất kể là ai in, tôi đều tùy hỷ, chỉ cần có ai làm là được rồi. Tôi tuyệt đối chẳng cho công đức tốt lành ấy là của chính mình, không có quan niệm ấy, không có ý tưởng ấy. Ai làm tôi đều giúp đỡ cả, tôi toàn tâm toàn lực giúp đỡ, tiếng tốt hoàn toàn thuộc về người ấy, tôi chỉ mong chuyện ấy làm thành công. Đối với xã hội, đối với hết thảy chúng sanh có lợi ích, chúng tôi thấy vậy bèn rất hoan hỷ. Những thứ ấy thật sự là kho báu của Trung Quốc, Tứ Khố Hội Yếu và Thạch Kinh đúng là kho báu, hy vọng kho báu ấy có thể lưu truyền tới mọi nơi trên toàn thế giới, khiến cho chúng sanh trên toàn thế giới đều được tiếp xúc. Chúng tôi chỉ có nguyện vọng như vậy, không hề mảy may cầu danh văn, lợi dưỡng cho bản thân mình. Vì vậy, phải tích cực tùy hỷ, tùy hỷ có công đức vô lượng vô biên, phải hoan hỷ thực hiện, thành tựu điều tốt đẹp cho người, không thành tựu điều ác cho họ. Nguyện thứ sáu là:
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân
(Sáu là khuyên mời chuyển pháp luân)
Chuyển pháp luân: Chúng tôi thường nói pháp luân về căn bản vốn là một biểu tượng thường được dùng trong Phật giáo, đức Phật dùng biểu tượng này. Vì sao dùng luân? Luân (bánh xe) tượng trưng cho sự viên mãn. Đức Phật giảng cho chúng ta hết thảy pháp, chân tướng của hết thảy pháp hay Thật Tướng của các pháp chẳng phải có, chẳng phải không, Luân có thể biểu thị điều này. Luân hình tròn, hình tròn ấy không có tâm, phía ngoài là hình tròn bao quanh, như vậy luân không phải là không. Luân không phải có chẳng phải không, luân có thể biểu thị được những điều ấy. Vì thế, đức Phật dùng Luân làm biểu tượng, ngụ ý: Về Sự là có, hình tròn bao quanh phía ngoài, như vậy Luân chỉ Sự, về mặt Sự là có; về Lý là không, vì tâm của hình tròn không có. Chẳng thể nói tâm là không có, tâm thật sự có, nhưng tâm không có hình tướng.
Như vậy, Tâm là Không, Luân là Sắc, một đằng Sắc, một đằng Không. Tâm kinh nói: “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc. Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”. Luân thể hiện được điều này. Suốt một đời đức Thế Tôn, Phật vì hết thảy chúng sanh thuyết minh chân tướng của nhân sanh vũ trụ suốt bốn mươi chín năm. Bởi thế, đức Phật nói Tướng có, Tánh không, Sự có, Lý không, Có và Không là một không phải hai, chẳng hề rời khỏi Luân. Quý vị thật sự thông đạt, Không vốn là Sắc, Sắc chính là Không, Có chính là Không, Không chính là Có. Đạo lý này rất huyền diệu, rất sâu xa, nhưng nó là chân tướng sự thật. Do thông đạt điều này sẽ không chấp trước vào hai bên Có và Không nữa, tâm bèn định.
Quý vị chấp Không là lầm, chấp Không vô ích, chẳng có tác dụng gì. Nếu quý vị chấp Có là vì chẳng hiểu rõ Có từ đâu mà có, căn bản của Có là gì quý vị không biết! Như vậy, Không lẫn Có đều hiểu rõ, không chấp trước cả Không lẫn Có, sống hết thảy tùy duyên như vậy mới là đại tự tại! Một tí ti chấp trước cũng không có, chẳng những phân biệt, chấp trước đều không có, mà vọng tưởng cũng không có, con người như vậy sao không tự tại cho được? Đạt đại tự tại! Quý vị đạt được pháp hỷ thật sự, thường sanh lòng hoan hỷ, pháp hỷ sung mãn. Quý vị hoàn toàn tùy thuận Pháp Tánh, tùy thuận tự nhiên, không có vọng niệm, không phân biệt, không chấp trước. Phật giảng cho ta đạo lý này, chân tướng sự thật này khiến cho chúng ta trong một đời này đạt được cuộc sống hạnh phúc viên mãn.
“Thỉnh chuyển pháp luân” có nghĩa là thỉnh Phật thường dạy dỗ chúng ta. Phật là bậc ứng hóa, Ngài đã khôi phục tự tánh, đã đạt trí huệ viên mãn rốt ráo, đức năng rốt ráo viên mãn, tướng hảo rốt ráo viên mãn, những gì hết thảy chúng sanh mong cầu Phật đều đạt được, đều biểu hiện cho chúng ta thấy. Chúng ta đều thấy: Ngài vì sao có trí huệ viên mãn như thế, đức năng như thế, tướng hảo như thế? Đức Phật dạy: Mỗi người chúng ta đều có được như thế, nhưng mê - ngộ bất đồng. Mê nên vận dụng sai cái tâm, biến thành nông nỗi ấy; nếu giác ngộ sẽ khôi phục, khôi phục giống như chư Phật Như Lai không hai không khác. Bởi thế mới nói hết thảy chúng sanh vốn sẵn thành Phật.
“Thỉnh chuyển pháp luân” là thỉnh chư Phật, Bồ Tát, thỉnh những bậc giác ngộ thường đến dạy dỗ chúng ta. Nói một cách thông tục thì là thỉnh Phật giảng kinh, thuyết pháp. Do trước kia, danh từ “giảng kinh thuyết pháp” chưa có vấn đề gì, nay con người nghe đến thì từ ngữ ấy bèn biến thành tôn giáo, nghĩ ngay đến tôn giáo, nên chúng ta phải thay bằng danh từ khác, gọi là “khế cơ”. Nói cách khác, thuyết pháp như thế nào? Mời đến dạy chúng ta, giảng kinh thuyết pháp nhằm dạy chúng ta. Dạy dỗ chúng ta không phải là dạy một lần đã hiểu ngay, vừa dạy bèn hiểu rõ là quá tốt. Chúng ta phiền não tập khí rất nặng, dạy một lần không hiểu; vì thế cổ nhân dạy chúng ta: “Đọc sách ngàn lần, tự thấy được ý nghĩa”, “Một môn thâm nhập, trường thời huân tu”, chúng ta mới hòng giác ngộ. Làm cách nào đây? Lại tiến thêm một bước nữa:
Thất giả thỉnh Phật trụ thế.
(Bảy là mời đức Phật ở lại nơi đời)
Thầy ở lại đây dạy dỗ chúng ta, chúng ta cảm thấy rất lợi lạc, rất vui sướng, chúng ta thỉnh thầy thường ở nơi đây. Nói cách khác, dạy dỗ chúng ta lâu dài, dạy trong thời gian ngắn không được. Phải thỉnh thầy bằng cách nào? Tuyệt đối chẳng phải là mình đối xử lễ phép với thầy, đãi đằng trọng hậu, khiến cho cái ăn, cái mặc, chỗ ở của thầy sung túc, không hề có ý nghĩa như vậy đâu nhé! Người thật sự có đạo đức tuyệt đối chẳng tham cầu ngũ dục, lục trần cúng dường, quyết định chẳng tham cầu danh lợi, họ không có ý niệm ấy. Dùng danh lợi, dùng ngũ dục lục trần lưu giữ họ, lưu không được. Họ đã hoàn toàn vứt bỏ những thứ đó, làm sao giữ chân họ được? Phải làm sao mới giữ được? Phải y giáo phụng hành, thật sự học, thật sự thực hành! Có bảo họ đi, họ cũng không đi. Vì sao? Họ nhất định phải thành tựu cho quý vị, giúp quý vị phá mê khai ngộ, giúp quý vị minh tâm kiến tánh, giúp quý vị tu hành chứng quả, chẳng thể bỏ quý vị được. Như vậy, chư Phật, Bồ Tát, những vị thiện tri thức thường ở lại một chỗ nào thì ta thường nói là [các Ngài] có duyên phận [với chỗ ấy], cơ duyên chín muồi, Ngài bèn đến; duyên phận không có, các Ngài bèn đi. Thế nào là không có duyên phận? Mọi người chẳng chịu nghiêm túc học, chỉ học bề ngoài, không tích cực học, Phật, Bồ Tát bèn bỏ đi. Điều kiện để “Thỉnh Phật trụ thế” không có gì khác cả, cuối mỗi bộ kinh đều có một câu: Y giáo phụng hành! Nếu quý vị làm được bốn chữ này thì không thỉnh Ngài cũng trụ thế, Ngài cũng ở lại nơi đó. Quý vị tin tưởng lời Ngài dạy, không hoài nghi tí nào, hiểu được, tiếp nhận được, áp dụng được những điều Ngài dạy vào cuộc sống, áp dụng vào công việc, vào xử sự, đãi người, tiếp vật, quý vị là người thật sự học Phật, không phải là giả. Vì vậy, chúng ta phải dụng tâm chân thành, tin sâu chắc, huệ giải, y giáo phụng hành.
Chúng ta phải thỉnh Phật, Bồ Tát, thỉnh thiện hữu ở lâu dài trong thế gian này. Chúng ta biết phiền não tập khí quyết chẳng thể đoạn hết trong một thời gian ngắn được, bởi lẽ thời gian bị phiền não tập khí của chúng ta rất dài. Giống như khúc gỗ ngâm nước cả mười mấy năm, ngấm đẫm nước, nay lôi lên, châm chút lửa toan đốt cháy nó không phải là chuyện dễ. Phải tốn một thời gian dài, dần dần mới đốt cháy được. Nay chúng ta giống như khúc gỗ ngấm nước nhiều năm, ướt đẫm rồi, nay phải dùng lửa mạnh để đốt; nếu lửa ấy không mãnh liệt không ăn thua gì. Khúc gỗ ấy phải thiêu ở đâu mới cháy được? Trong lò luyện gang, phải bỏ vào lò luyện gang. Lò luyện gang cháy không ngừng, hai mươi bốn tiếng đồng hồ đốt không ngừng. Một ngày không thiêu được thì hai ngày, tôi tin rằng, hai ba tuần chắc chắn phải cháy. Ấy là nói về sự trường thời huân tập, ngày ngày nghe giảng. Chính bản thân chúng tôi ngày ngày diễn giảng, tôi là hạng người căn tánh bậc trung, không phải hạng thượng căn lợi trí. Nay chúng tôi có một chút thành tựu là nhờ đâu? Nhờ thầy dạy dỗ. Tôi theo thầy, đầu tiên là học ba năm với Chương Gia đại sư, Chương Gia đại sư viên tịch rồi, tôi học với thầy Lý mười năm; [tất cả là] mười ba năm! Mười ba năm bén rễ rồi sau đấy tôi mới có thể tự tu. Mỗi ngày tự mình đọc tụng kinh luận, đồng thời tiếp nhận lời khuyến thỉnh của các đồng tu giảng giải cho họ. Đến nay là năm mươi hai năm, suốt năm mươi hai năm tôi đọc kinh luận không gián đoạn, giảng kinh bốn mươi lăm năm không gián đoạn. Do vậy, đối với danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần dụ hoặc trong thế gian này tôi mới có thể không động tâm. Nếu không có thời gian huân tập lâu dài như thế, nếu bảo là danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần không động tâm thì phải là bậc thánh nhân, nào phải là phàm nhân, nói dễ dàng sao! Phải như vậy mới chuyển được cảnh giới.
Tôi chuyển được cảnh giới, nếu quý vị cứ lấy từng mười năm một mà quan sát sẽ thấy rõ ràng; vì thế tôi nói Khổng lão phu tử quả thật là hạng căn tánh bậc trung, không phải bậc thượng căn lợi trí. Thích Ca Mâu Ni Phật là bậc thượng căn lợi trí, quý vị thấy: Ngài thị hiện thành Phật năm ba mươi tuổi, bộ kinh giảng đầu tiên là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh chẳng thể nghĩ bàn! Đúng là bậc thượng thượng căn! Nhưng chúng ta thấy Khổng lão phu tử thành tựu như thế này: Ngài nói mười lăm tuổi chí dốc nơi việc học, ba mươi tuổi căn bản vững vàng, bốn mươi tuổi không lầm lẫn, năm mươi tuổi biết vận trời, sáu mươi tuổi tai nghe đã thuần, bảy mươi tuổi tùy lòng mong muốn không vượt quy củ. Mức tiến triển của tôi không khác Khổng phu tử cho lắm: Nâng cao dần dần, không phải là đốn ngộ, mà là từng bước tu dần, chứng dần. Hơn năm mươi năm dùi mài không ngơi, càng học càng hoan hỷ, mãi đến mấy năm gần đây mới khế nhập cảnh giới một chút, đúng là pháp hỷ sung mãn. Câu mở đầu sách Luận Ngữ minh định: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?” (Học rồi thường thực hành, cũng chẳng vui sao?) Đối với câu nói này, tôi lãnh hội rất sâu. Sự vui lớn nhất của đời người là học! Bởi thế, trong Luận Ngữ, Khổng lão phu tử nói mấy câu: “Ngô thường”: Ngài nói chính bản thân mình thường… “Ngô thường chung nhật bất thực”: ta suốt ngày không ăn. “Chung dạ bất tẩm”: suốt đêm không ngủ. “Dĩ tư”: suy nghĩ. “Vô ích, bất như học dã”: Bất cứ sự việc gì trong thế gian này, việc gì tốt đẹp nhất? Học! Học theo thánh nhân, học theo hiền nhân, học làm người tốt. Không gì bằng học, có việc gì sánh bằng học! “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ; hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ?” (Học rồi thường thực tập, cũng chẳng sướng ư? Có bạn từ phương xa đến, cũng chẳng vui sao?) “Bằng” ở đây là gì? Là người hiếu học! Mọi người chúng ta chí đồng đạo hợp, đều là người ham học. Hy vọng mọi người đến học viện chúng ta đều là người hiếu học, mọi người chúng ta cùng ở trong hoàn cảnh nhỏ này cùng nhau học tập. Thật sự hiếu học mới có điều kiện thỉnh Phật trụ thế. Không hiếu học, chỉ mang hình thức, chỉ làm ra vẻ thì Phật không trụ thế, Bồ Tát cũng chẳng trụ thế. Cũng vậy, thiện tri thức cũng không trụ thế, chỉ có thật sự hiếu học [mới giữ các Ngài trụ thế được mà thôi!]
Mười đại nguyện Phổ Hiền theo giảng giải của cổ đức, chúng tôi cũng xem các chú giải, trên thực tế chỉ là bảy nguyện từ “lễ kính chư Phật” đến “thỉnh Phật trụ thế”, bảy điều ấy là nguyện. Ba điều sau đều là hồi hướng. Chúng tôi suy gẫm kỹ những lời tổ sư đại đức giảng, thấy rất hợp lý. Giáo pháp Đại Thừa nói đến ba thứ hồi hướng: hồi hướng Bồ Đề, hồi hướng chúng sanh, hồi hướng Thực Tế. Vì sao phải hồi hướng? Hồi hướng để mở rộng tâm lượng, chúng ta làm việc này chẳng vì tự mình, mà vì chúng sanh khắp pháp giới hư không giới, tâm lượng bèn lớn lao, đấy mới là hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ Hiền khác với hạnh của mọi Bồ Tát ở chỗ nào? Ở chỗ này đây! Mọi Bồ Tát cũng có lễ kính, cũng có xưng tán, cúng dường, sám hối nghiệp chướng, nguyện nào cũng có, nhưng vì sao không gọi là hạnh Phổ Hiền? Vì tâm lượng không rộng lớn như thế này.
Quý vị giống như chúng tôi là phàm phu, phàm phu thế gian bảo tâm lượng của hạng người sau đây rất lớn: “Bụng tể tướng chứa được cả chiếc thuyền”, ông ta nghĩ đến điều gì? Nghĩ đến đất nước, dân tộc mình, đúng là không vì cá nhân, không vì gia đình mình, mà vì đất nước, vì dân tộc mình, thật bất phàm! Tâm lượng ấy vẫn còn nhỏ, ông ta vì đất nước dân tộc mình, nhưng đất nước dân tộc khác thì sao? Nước mình mạnh nhất trên thế giới, những nước khác đều rất yếu kém, mình phải làm sao đây? Có nghĩ đến chăng? Tâm lượng vẫn chưa đủ lớn! Tâm lượng ấy có thể làm người lãnh đạo quốc gia, tâm lượng ấy dung nạp một đất nước. Nếu tâm lượng lớn hơn nữa, bao dung được cả thế giới, khởi tâm động niệm không những nghĩ đến nhân dân, đất nước mình, mà còn phải nghĩ đến nhân dân toàn thế giới, làm sao cho nhân dân toàn thế giới đều hưởng cuộc sống tốt đẹp; người như thế là lãnh tụ toàn thế giới, tâm lượng lớn lao! Người ấy vẫn không bằng Bồ Tát. Bồ Tát khởi tâm động niệm là gì? Nghĩ đến tam thiên đại thiên thế giới, người thế gian chúng ta không thể sánh bằng được. Tâm lượng của Bồ Tát là phổ độ chúng sanh, muốn độ chúng sanh trong chín pháp giới khắp tam thiên đại thiên thế giới, nhưng vẫn không bằng Phổ Hiền Bồ Tát! Tâm lượng của Phổ Hiền Bồ Tát trọn khắp hư không giới, pháp giới. Trọn khắp pháp giới, hư không giới, quả thật có không ít những vị Pháp Thân Bồ Tát có tâm lượng như thế, nhưng Phổ Hiền Bồ Tát vẫn thù thắng hơn, thù thắng ở chỗ nào? Nhờ kinh Hoa Nghiêm chúng ta mới thấy, tâm Phổ Hiền Bồ Tát bao gồm cả những thế giới trong vi trần, trong hội Hoa Nghiêm đức Phật đã dạy chúng ta như thế, các kinh khác không nói đến điều đó. Trong mỗi một vi trần đều có thế giới, vi trần không phóng to, thế giới không rút nhỏ, thế giới trong vi trần giống hệt thế giới bên ngoài, không khác nhau! Ai có thể vào được trong ấy? Phổ Hiền Bồ Tát vào được.
Tâm lượng của Phổ Hiền Bồ Tát có thể nhập, có thể độ trùng trùng vô tận thế giới. Thế giới trong vi trần lại có vi trần, trong những vi trần ấy lại có thế giới, do đó, thế giới trùng trùng vô tận. Vì sao có hiện tượng ấy? Phật dạy chúng ta: Tự Tánh vốn là như thế. Chân tâm, bản tánh vốn sẵn là như vậy, trong ấy không có lý do gì cả, nó chỉ như vậy thôi. Như tánh đức, chúng ta thường gọi là tánh năng. Bản năng của tánh vĩnh viễn không mất, nó như vậy đó, đức của tánh cũng giống như thế đó. Bản năng của tánh là gì? Trong Pháp Sự này, Trung Phong thiền sư gọi là “linh tri tâm”. Bản năng của tánh là linh tri, tức là nó thấy - nghe - hay - biết. Vì sao lại có thể thấy - nghe - hay - biết? Vốn sẵn là như vậy. Đó là bản năng. Nơi thân thể chúng ta, mỗi một tế bào đều thấy - nghe - hay - biết. Nay có thể dùng phương pháp khoa học để thăm dò điều này. Đức của tánh là gì? Chính là cái mà kinh Đại Thừa thường gọi là trí huệ, năng lực, đức năng, tướng hảo, đó là tánh đức. Vô lượng trí huệ, vô lượng năng lực (không gì không thể), vô lượng tướng hảo. Kinh Đại Thừa thường nói: Thân có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo. Một cách diễn giải khác là “thường - lạc - ngã - tịnh”, đó cũng là những đức mà bản tánh sẵn có. Đó là tánh đức (những phẩm chất tốt đẹp của bản tánh). Đấy chính là những điều “không gì không có, ai nấy sẵn đủ”.
Phật, Bồ Tát không dạy điều gì khác, chỉ nhằm dạy ta khôi phục bản năng, bản đức, đức năng sẵn có của chính mình, chỉ vậy mà thôi! Đến khi nào chính quý vị hoàn toàn khôi phục, Phật sẽ giảng cho quý vị về viên mãn Bồ Đề, quy về Vô Sở Đắc, đấy là điều bản tánh vốn sẵn có. Phật, Bồ Tát không trao tặng cho mình điều gì cả, chỉ là do chính mình tự chứng đắc. Phật, Bồ Tát chỉ làm người giới thiệu, là Tăng Thượng Duyên mà thôi, pháp bình đẳng mà! Phật, Bồ Tát chẳng cậy công: “Ta dạy ngươi, ta có ân đức đối với ngươi”. Không hề có! Phật, Bồ Tát dạy ta cảm ân, cảm cái ơn của hết thảy chúng sanh trọn khắp pháp giới, hư không giới, dạy chúng ta cảm ơn cha mẹ, cảm ơn sư trưởng, cảm ơn hết thảy chúng sanh, tâm lượng ấy lớn lắm. Vì vậy, hồi hướng là mở rộng tâm lượng, tâm lượng có mở rộng mới khôi phục được tự tánh. Tâm lượng nhỏ là không được, chẳng thể thấy được Tánh. Do vậy, nguyện thứ tám là:
Bát giả thường tùy Phật học.
(Tám là thường học theo Phật)
Đây là hồi hướng Bồ Đề, Bồ Đề là điều chúng ta mong cầu, là mục tiêu của chúng ta. Ta học, ta tu, ta hành là vì lẽ gì? Vì Bồ Đề. Nói thật ra, trên mặt Sự, mọi người hãy khéo hiểu, vì Bồ Đề chính là vì chánh pháp tồn tại lâu dài. Nền giáo dục của đức Phật là nền giáo dục trí huệ, Bồ Đề là giác ngộ, là giáo dục đại trí đại giác, ta mong mỏi nền giáo dục ấy còn mãi trong thế gian, vĩnh viễn không dứt, phần trên gọi là “Phật trụ thế”. Thỉnh Phật trụ thế nhất định phải “thường tùy Phật học” thì Phật mới trụ thế, hai câu này liên quan với nhau. Nếu chúng ta chẳng tùy thuận Phật, không học theo Phật, Phật chẳng thể trụ thế. Chúng ta muốn thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế thì điều kiện quan trọng nhất là “thường tùy học Phật”. Ta ưa thích nền giáo dục này, ta yêu mến nền giáo dục này, ta học tập nền giáo dục này, Phật bèn trụ thế, Ngài chẳng thể lìa khỏi chúng ta. Loại hồi hướng thứ hai là:
Cửu giả hằng thuận chúng sanh.
(Chín là hằng thuận chúng sanh)
Quý vị hãy nhìn kỹ chữ “thuận” này, không những phải “thuận” mà còn “hằng thuận”, vĩnh viễn tùy thuận chúng sanh mới có thể giúp đỡ chúng sanh được. Quý vị có hảo ý giúp đỡ người ta, nhưng không thuận theo ý họ, họ sẽ phản kháng, không thể tiếp nhận mình, vậy là không còn cách gì hết. Vì thế, hãy xem chư Phật, Bồ Tát độ chúng sanh, các Ngài thuận theo chúng sanh. Quý vị thấy trong phẩm Phổ Môn có nói đến ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, nên dùng thân nào để độ bèn hiện thân ấy, hằng thuận đấy! Người ta thích Phật, Quán Âm Bồ Tát bèn hiện thân Phật, chúng sanh bèn vui thích. Nên dùng thân nào để độ bèn hiện thân ấy, hoàn toàn thuận theo chúng sanh, chứ không chiều theo ý riêng mình. Nếu thuận theo ý mình chẳng phải là độ chúng sanh, dẫu hảo tâm, dẫu có ý nghĩ tốt, chúng sanh chẳng tiếp nhận mình. Bởi thế, quý vị phải biết tùy thuận chúng sanh, nhất là “hằng thuận chúng sanh”, khó đấy!
Nay chúng ta giúp đỡ chúng sanh ở bên ngoài, mọi người không tiếp nhận là vì nguyên nhân nào? Chúng ta không tùy thuận họ, mà hoàn toàn thuận theo ý mình. Thuận theo ý mình thì người ta bài xích, làm không xong! Ai thích Cơ Đốc (Christ), thích Gia Tô (Jesus), Quán Thế Âm Bồ Tát bèn hiện thành Cơ Đốc, biến thành Gia Tô, họ cũng vui vẻ! Năm ngoái, hình như vào tháng 11, tôi qua thăm Nhật Bản, giảng kinh ở Nhật Bản, gặp mặt Trung Thôn Khang Long lão hòa thượng. Vị hòa thượng này tuổi ngoài chín mươi, là quốc bảo của Nhật Bản. Trong giới Phật Giáo Nhật Bản, hòa thượng rất có tiếng tăm, có địa vị. Lúc gặp gỡ, tôi không ngờ Ngài bảo tôi một câu khiến những pháp sư Nhật Bản hiện diện đều hết sức kinh ngạc. Ngài nói gì vậy? Ngài nói: “Người sáng lập mỗi một tôn giáo trên thế giới đều là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát!” Điều này hoàn toàn tương đồng với những điều tôi thường nghĩ, thường nói. Vị lão hòa thượng ấy thật phi phàm! Những vị pháp sư Nhật Bản ở quanh Ngài bảo tôi: “Trước nay lão hòa thượng chưa hề nói như thế!” Họ nói: “Pháp sư! Hôm nay ông đến đây, Ngài bảo ông như vậy, chứ trước nay Ngài chưa hề nói như thế”, khiến tôi cảm thấy được khích lệ lớn lao! Ngày nay chúng ta tiếp xúc các tôn giáo bất đồng trên toàn thế giới, thực hiện công tác đoàn kết đa nguyên văn hóa, lão hòa thượng nói câu ấy ủng hộ tôi. Nói thực ra, hòa thượng tuổi tác quá cao, ngoài chín mươi tuổi, đầu óc rất minh mẫn, nhưng nay cũng phải ngồi xe lăn, thân thể cử động không thuận tiện lắm, nhưng đầu óc sáng suốt, nói năng cũng rất minh mẫn, gặp mặt Ngài vô cùng hoan hỷ. Thật là người có trí huệ, thật sáng suốt, “hằng thuận chúng sanh”.
Thuyết pháp thì không có pháp nhất định để nói. Chúng sanh thích pháp gì bèn nói cho họ nghe pháp ấy, không có pháp nào nhất định để nói cả. Chư Phật, Bồ Tát cũng không có hình tướng, thân tướng nhất định, hoàn toàn hằng thuận chúng sanh. Kinh Lăng Nghiêm nói “tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng”. Hai câu ấy chính là như Đại Thừa Phật pháp thường nói: Nên dùng thân nào để độ được, bèn hiện thân ấy, nên nói pháp nào bèn nói pháp ấy. Sự ứng hiện ấy đều là ứng theo chúng sanh, chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát bèn có ứng. Hiện thân tướng là “thân ứng”, vì họ thuyết pháp là “thuyết ứng”, đều phải ứng theo chúng sanh. Chúng sanh là cơ, ứng cơ thuyết pháp, ứng cơ hiện thân, tất cả hết thảy không gì không phải ứng cơ, đó gọi là “hằng thuận chúng sanh”.
Quý vị hiểu thấu đại đạo lý, đại nguyên tắc, đại phương châm này thì quý vị sẽ thấy thế giới ngày nay hướng theo khoa học kỹ thuật, trong khoa học kỹ thuật, phổ biến nhất, quen thuộc nhất là phương tiện truyền thông, truyền thanh, truyền hình, hiện thời là Internet. Chúng tôi thấy vậy, phải hằng thuận chúng sanh, chúng tôi cũng phải đi theo con đường ấy. Chúng tôi giảng kinh, không thể giảng trên giảng tòa, giảng tại giảng đường không được, nay chúng tôi giảng trong phòng thâu hình. Đồng thời, hình ảnh, âm thanh của chúng tôi theo đường Internet phổ biến toàn thế giới, cứ vào trang web của chúng tôi sẽ thâu nhận được. Đó là hằng thuận chúng sanh, là ứng cơ thuyết pháp. Hiện tại người ta cảm như vậy thì chúng tôi phải ứng như thế, hễ có cảm bèn có ứng, cảm ứng đạo giao.
Hiện nay có cần xây dựng một đạo tràng rất lớn hay không? Không cần thiết! Đạo tràng hoằng pháp ngày nay (tổ sư đại đức vẫn là tổ sư đại đức, đối với họ chúng tôi không lạm bàn), vị tổ sư gần nhất của Tịnh Độ Tông chúng ta là Ấn Quang đại sư, lão nhân gia dạy chúng ta đạo tràng không cần to, Ngài không chủ trương dựng đạo tràng lớn, mà là đạo tràng nhỏ. Mọi người cùng tu một chỗ với nhau không cần đông, chúng thường trụ lấy hai mươi người làm hạn định, không được vượt quá hai mươi người. Càng suy gẫm lời dạy ấy chúng tôi thấy càng hợp lý. Vì sao? Phù hợp tình huống xã hội hiện thời, không hóa duyên, cuộc sống của hai mươi người dễ dàng duy trì. Đạo tràng quá lớn, chúng thường trụ quá đông, nguồn sống cho đại chúng từ đâu mà có? Nhất định phải làm pháp hội, nhất định phải làm rất nhiều, phải chèo kéo. Hiện thời giống như du lịch vãn cảnh, đạo nghiệp hoàn toàn bị hủy mất, tâm thanh tịnh không đạt được. Vì thế, Tổ dạy không hóa duyên, không làm pháp hội (không làm hết thảy pháp hội), không thâu đồ đệ, không truyền giới, không giảng kinh, chuyên môn niệm Phật. Công khóa bình thường giống như khóa niệm Phật thất phổ thông. Hai mươi người cùng tu, ai nấy đều có thể thành công. Lời khai thị ấy thật phi thường, là lời giáo huấn chân thật! Đương nhiên người đến đạo tràng tu hành đều hiểu Phật pháp, nên không cần giảng kinh, giảng kinh tại đâu? Giảng kinh trên truyền hình, trên Internet. Đối với kinh giáo mọi người đều hiểu được, chúng ta chọn nơi đây để tu hành, rất đơn giản, hai mươi người tụ tập, tìm một căn nhà nhỏ là đủ rồi, quý vị bèn có thể thành công. Nhất định phải đoạn tuyệt ngoại duyên. Nếu đạo tràng nào trở thành đạo tràng du lịch vãn cảnh thì không phải là đạo tràng để tu hành, chẳng thể tu thành tựu nơi ấy. Phải hiểu đạo lý này.
Như vậy, giảng kinh thuyết pháp trên truyền hình là đưa việc giảng kinh thuyết pháp đến tận gia đình mỗi người. Chúng ta thấy khoa học kỹ thuật hiện nay phát triển, chúng tôi tin rằng năm năm sau, Internet thay thế truyền hình. Vì sao? Năm ngoái chúng tôi thấy ở Nhật Bản, điện thoại cầm tay (cell phone) có thể bắt sóng Internet, từ màn hình nhỏ trên máy có thể thâu nghe được Internet. Tôi tin rằng năm năm sau, các băng thông Internet càng mở rộng hơn, bất cứ nơi nào trên thế giới, dùng điện thoại cầm tay đều có thể thâu bắt được. Chúng tôi tưởng tượng màn hình của điện thoại nếu được làm lớn hơn một chút, quý vị bèn thấy rõ ràng, âm thanh, hình ảnh đều thấy nghe rất rõ. Nói cách khác, khác nào một cái máy truyền hình nhỏ có thể mang bên người, đưa Phật pháp đến tận tay. Hiện tại, những cái máy truyền hình to được bày ở nhà, đưa Phật pháp đến tận nhà, độ mấy năm nữa, tiến hơn bước nữa, đưa Phật pháp, hình ảnh, âm thanh giảng kinh thuyết pháp đến tận lòng bàn tay. Bất luận quý vị ở đâu, tùy tiện bất cứ lúc nào muốn nghe, đều có thể nghe được. Thật sự nghe hiểu, nghe thấu suốt, giác ngộ, muốn tu hành, tìm một đạo tràng nhỏ, đạo tràng nhỏ có hai mươi người, quý vị thật sự thành tựu. Tổ sư đại đức dạy chúng ta như thế. Ấy đều là hằng thuận chúng sanh, đều là ứng cơ thuyết pháp.
Vì thế, những đạo tràng lớn ngày nay nói thật ra là chỗ để du lịch ngoạn cảnh, là nguồn thâu nhập cho quốc gia, thuộc về dịch vụ. Đồng thời, những nơi ấy có thể phát huy một hiệu quả là cơ hội giáo dục, từ cơ hội du lịch ngắm cảnh đem Phật pháp giới thiệu cho du khách, khiến du khách hiểu, khiến họ có thể từ máy truyền hình, từ trong lòng bàn tay, được nghe Phật pháp. Đấy là thích ứng với căn cơ chúng sanh hiện đại, hằng thuận chúng sanh hiện đại, chúng ta phải hiểu như vậy. Nếu quý vị không hiểu đạo lý này sẽ chẳng thể phổ độ chúng sanh. Điều cuối cùng:
Thập giả phổ giai hồi hướng
(Mười là hồi hướng khắp tất cả)
Đây là hồi hướng Thật Tế. Thật Tế là gì? Chính là hồi hướng bản tánh. Hết thảy sanh từ bản tánh, tối hậu quy về bản tánh. Bản tánh còn gọi là Tự Tánh, Chân Như, Thật Tế, vẫn là hồi quy về đó, từ đâu sanh ra thì quay về đó. Chúng ta thường nói trở về với thiên nhiên, người thế gian thường hay nói như thế. Trong Phật pháp nói quay về với Thật Tế, trở về với Chân Như. Quay về như thế nào? Chính là niệm niệm, hạnh hạnh đều tương ứng với Chân Như, phải hiểu điều này, đó gọi là Khế Lý. Chín điều nguyện trước là Khế Cơ, điều này là Khế Lý, quyết định chẳng được trái nghịch Thật Tế Lý Thể.
Pháp Thân Bồ Tát làm được điều này, ngoài Pháp Thân Bồ Tát ra, như Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ Tát chỉ có thể làm được tương tự. Đối với điều này, bọn phàm phu chúng ta ngơ ngác, chẳng biết thế nào là “phổ giai hồi hướng”, không hiểu nó nghĩa là gì! Hôm nay tôi xin thưa cùng quý vị: Quý vị chỉ có khái niệm lờ mờ, muốn hiểu thật rõ ràng, thì nó có nghĩa là “công phu tu hành của quý vị phải khế cơ, khế lý”. Phần trên là giảng về khế cơ, nguyện này là khế lý. Lý ấy phải dựa vào đâu? Đơn giản là chúng ta chưa chứng đắc lý Chân Như thì phải nương vào kinh giáo. Chúng ta khởi tâm động niệm, hết thảy hành vi đều tương ứng kinh giáo, chẳng trái nghịch những gì kinh giáo răn dạy, đấy chính là “phổ giai hồi hướng”. Trái nghịch sự giáo huấn của kinh điển thì một điều cũng chẳng có, thuyết pháp khế cơ nhưng không khế lý. Đoạn này chúng tôi giảng đến đây thôi!