- 1- Giới Thiệu
- 2- Hãy Là Một Người Ân Cần Và Tế Nhị
- 3- Những Đặc Trưng Của Luận Giải
- 4- Kệ Tán Dương, Nguyện Ước Trước Tác, Và Khuyến Khích Lắng Nghe Tốt
- 5- Sự Liên Hệ Giữa Ba Con Đường
- 6- Viễn Ly
- 7- Tâm Giác Ngộ (Bodhicita)
- 8- Một Quan Điểm Đúng Đắn Về Tính Không
- 9- Huấn Thị Để Thực Hành
- 10- Kết Luận Lưu Ý Trên Chủ Trương Không Tông Phái
(9) Ngay cả nếu
các con đã xây dựng nên tính viễn ly và xu hướng tâm giác ngộ (bodhicitta),
Nhưng, nếu các con
thiếu sự tỉnh thức biệt quán thực chứng về tính bản nhiên bất động của thực
tại,
Các con sẽ không
thể cắt đứt gốc rễ của xu hướng luân hồi sinh tử của các con.
Do vậy, hãy tiến
hành nỗ lực trong những phương pháp đối với việc thực chứng tính duyên khởi.
Dịch kệ:
[9] Nhưng dù tâm
buông xả và tâm bồ đề có đủ
Nếu thiếu đi trí
tuệ chứng chân tướng thực tại
Vẫn không thể chặt
đứt gốc rễ luân hồi.
Vậy phải bằng mọi
cách giác ngộ lý duyên sinh..
Điểm chính của Tổ Sư Tông Khách Ba là để cho sự thông hiểu về ‘tính không’ sinh khởi như ý nghĩa của tính duyên khởi và thông hiểu ‘tính duyên khởi’ phát sinh như ý nghĩa của tính không. Do vậy, chúng ta cần những nổ lực trong những phương pháp để thực chứng tính không như tính duyên khởi. Làm thế nào?
(10) Bất cứ ai
đã từng thấy rằng (luật) vận hành của nhân quả
Đối với tất cả
những hiện tượng của luân hồi và niết bàn là không bao giờ hư dối,
Và những ai đã vở
mộng dựa trên nhận định của quan niệm trong khuynh hướng của sự tồn tại cố hữu,
Bất cứ là gì
mà họ có thể đã từng,
Đã đi vào con
đường làm vui lòng những Đức Phật.
Dịch kệ:
[10] Người khởi
bước vào con đường khiến chư Phật hoan hỉ
Là người thấy mọi
sự, dù luân hồi hay niết bàn
Đều thuận theo
nhân quả không sai
Và hoàn toàn rã
tan mọi vọng chấp [có tự tánh].
Tất cẩ những hiện tượng của luân hồi và niết bàn hình thành qua nhân quả. Điều này là không bao giờ lừa dối, không bao giờ sai chạy. Khi chúng ta thông hiểu điều này và thêm nữa, đã có sự hổ trợ căn bản và nương tựa vào khuynh hướng của tồn tại cố hữu bị tan vở, thế thì chúng ta đã bước vào con đường làm vui lòng các Đức Thế Tôn. Khi chúng ta thông hiểu tính không, chúng ta sẽ không còn có nhận thức hướng về sự tồn tại cố hữu. Trong cách này, cơ sở cho những nhận thức sai lầm sinh khởi – điều nâng đở hổ trợ cho sự chấp trước về sự tồn tại cố hữu của chúng ta – sẽ tan rã hay biến mất.
(11) Những sự
biểu hiện không lừa dối tương liên sinh khởi
Và tính không là
lìa mọi nhận thức (của những cách không thể hiện hữu).
Do thế cho đến khi
nào các con có hai sự thông hiểu này xuất hiện một cách riêng lẽ,
Các con vẫn chưa
nhận ra mục tiêu của những Đấng Chính Biến Tri.
Dịch kệ:
[11] Tướng hiện --
là duyên sinh không thể khác,
Tánh không -- vượt
mọi khẳng định, không thể nghĩ bàn
Nếu chứng tướng
hiện và chứng tánh không còn riêng lẻ tách lìa,
Thì vẫn chưa thấy
được ý thật của Phật.
Khi chúng ta thông hiểu tính không, chúng ta thấy là không có gì ở điều mà chúng ta có thể đưa tay chỉ và nói rằng đây là đối tượng của điều này. Tất cả mọi thứ là không thể tìm thấy trên sự phân tích căn bản. Tuy thế, mặt khác, chúng ta thấy rằng những thứ ấy lại chỉ đơn thuần biểu hiện. Để nghĩ rằng đây là hai thứ hoàn toàn riêng biệt không liên hệ bên trong – những sự vật hiện hữu không thể tìm thấy trên một phương diện và tuy vậy chỉ đơn thuần biểu hiện trên một phương diện khác – không là mục tiêu của Đấng Toàn Giác quan tâm về tính không và hai chân lý.
(12) Nhưng khi,
không phải luân phiên, mà tất cả cùng một lúc,
Chúng ta khẳng
quyết tính duyên khởi không sai chạy từ nơi hiện tượng đơn thuần
Toàn bộ những nguyên nhân của những phương thức tiếp nhận đối tượng (như tồn tại cố hữu) tan rã,
Các con đã hoàn toàn sáng tỏ quan điểm đúng đắn.
Dịch kệ:
[12] Bao giờ tướng
hiện và tánh không đồng loạt không xen kẻ,
Càng chứng duyên
sinh càng rã tan vọng chấp,
Đó là lúc chánh
kiến đã vẹn toàn.
Những gì chúng ta cần, là để thấy rằng do bởi những sự vật sinh khởi một cách tương tức tương nhập – vì sự biểu hiện lệ thuộc trên những nguyên nhân và hoàn cảnh để xuất hiện – chúng thì trống rỗng trong sự tồn tại cố hữu; chúng không có sự tồn tại độc lập. Sự kiện rằng chúng có thể sinh khởi một cách phụ thuộc trên nhân và duyên một cách đơn giản bởi vì chúng không có sự tồn tại một cách độc lập. Do thế, sự thông hiểu và tin chắc càng mạnh mẽ rằng những sự vật sinh khởi một cách phụ thuộc (theo nhân duyên), rằng những sự vật tùy thuộc trên nguyên nhân và kết quả, sự thông hiểu và tin chắc của chúng ta càng mạnh hơn sẽ chính là những sự vật không có sự tồn tại độc lập và cố hữu; và ngược lại. Để hiểu hai điều này một cách đồng thời trong sự liên kết như thế này nghĩa là chúng ta phải hoàn toàn phân tích đúng đắn về tính không.
(13) Xa hơn
thế, khi chúng ta biết làm thế nào sự biểu hiện (từ tâm thức) khử trừ sự tồn
tại cực đoan (thường kiến)
Và tính không khử
trừ sự không tồn tại cực đoan (đoạn kiến),
Và làm thế nào
tính không hiển hiện như nhân và quả,
Các con sẽ chẳng
bao giờ bị đánh mất bởi những quan điểm dính mắc vào những cực đoan.
Dịch kệ:
[13] Hơn nữa,
Vì hiện, nên không
thường
Vì không, nên
không đoạn
Nếu từ giữa tánh
không mà thấy được nhân quả
Thì thoát được hai
đầu cực đoan.
Thường thì, chúng ta thấy nó giải thích rằng thực tế sự biểu hiện khử trừ cực đoan hoàn toàn không tổn tại– những sự vật không phải không tồn tại một cách hoàn toàn, bởi vì chúng thật sự xuất hiện. Và cũng thế, thực tế tính không khử trừ cực đoan tồn tại cố hữu – những sự vật không phải tồn tại một cách cố hữu, bởi vì chúng không có một sự tồn tại trong cách có thể như thế.
Tuy nhiên, ở đây, chúng ta có một cách thừa nhận đối kháng. Thực tế sự biểu hiện (từ tâm thức) khử trừ cực đoan tồn tại cố hữu. Điều này là bởi vì, để những sự vật biểu hiện, chúng phải là không có sự tồn tại cố hữu. Chúng phải là những hiện tượng sinh khởi một cách lệ thuộc (duyên sinh). Do thế, sự việc chúng thật biểu hiện khử trừ khả năng rằng chúng có thể tồn tại một cách cố hữu.
Hơn thế nữa, thực tế tính không khử trừ cực đoan hoàn toàn không tồn tại. Thật sự rằng điều gì ấy không có sự tồn tại cố hữu có nghĩa rằng nó có thể biểu hiện bởi sự sinh khởi lệ thuộc (nhân duyên): nó không thể là hoàn toàn không tồn tại. Do vậy, thực sự tính không khử trừ cực đoan hoàn toàn không tồn tại.
Đây là phong cách xác nhận đặc biệt của Tông Khách Ba và theo bình luận của Choney Rinpoche về Tán Dương Sự Sinh Khởi Tương Duyên của Tông Khách Ba. Do thế, sự thông hiểu về những sự vật hiện hữu không có sự tồn tại cố hữu bởi vì chúng sinh khởi một cách lệ thuộc, và rằng chúng sinh khởi một cách lệ thuộc bởi vì chúng không có sự tồn tại cố hữu, ngăn ngừa chúng ta rơi vào hai cực đoan chấp trước vào chân lý, sự tồn tại cố hữu và tại sự hoàn toàn không tồn tại.
Tiếp theo là huấn thị về thực hành.