- Nội Dung
- Dẫn Nhập Chagdud Tulku
- 1. Núi Huy Hoàng Màu Đồng-đỏ Cõi Thuần Tịnh Của Đức Padmasambhava
- 2. Những Quán Chiếu Trong Tấm Gương Pha Lê Sáu Cõi Bất Tịnh
- 3. Núi Potala Cõi Thuần Tịnh Của Đức Avalokiteshvara
- 4. Yulokod Cõi Thuần Tịnh Của Đức Tara
- 5. Cầu Thang Đưa Tới Giải Thoát Tóm Lược Những Hậu Quả Của Đức Hạnh Và Ác Hạnh
- Chú Thích
CHÚ THÍCH
1. Núi Huy Hoàng Màu Đồng-Đỏ
1- Tờ đầu của bản thảo
bị thất lạc, và vì thế bản dịch bắt đầu từ tờ 2a. Đoạn này có vẻ là một phần
của những câu kệ mở đầu, đặc biệt là trình bày về ý định của Dawa Drolma.
2- Một bài
cầu nguyện Đức Padmasambhava rất nổi tiếng. Cũng được gọi là Guru Rinpoche, Đức
Padmasambhava là một Đạo sư Phật Giáo Kim Cương thừa của tiểu lục địa Ấn Độ, đã
du hành tới Tây Tạng vào thế kỷ thứ tám để làm vững chắc hơn nữa truyền thống
Phật Giáo ở xứ này. Dân chúng Tây Tạng tôn kính Ngài như “Đức Phật thứ hai,” và
nhiều thực hành sùng mộ trong Phật Giáo Tây Tạng tập trung vào Ngài.
3- Dakini
là một từ Phạn ngữ được dùng trong Phật Giáo Kim Cương thừa để chỉ một nữ Bổn
tôn hiện thân cho hoạt động giác ngộ hoặc, trên một bình diện thế tục hơn, một
người nữ đã đạt được một cấp độ thành tựu tâm linh đáng kể. Người nam tương
đương là Daka.
Dorje Yudron là một trong mười hai thiên nữ tanma là những vị đã thệ nguyện bảo
vệ Phật Giáo và đất nước Tây Tạng.
4- Phật
Giáo Đại thừa thừa nhận mười cấp độ chứng ngộ (thập địa) giữa lần đầu tiên
thoáng nhận ra tánh Không (là chân tánh của thực tại) và cấp độ toàn giác của một
vị Phật. Trong một ý nghĩa thông thường thì Bồ Tát là bậc đi theo con đường Đại
thừa và, chính xác hơn, là bậc đã chứng ngộ ít nhất là cấp độ chứng ngộ đầu tiên
(sơ địa).
5- Các vị
trời địa phương là những chúng sinh phi-nhân mạnh mẽ cư trú và thống trị những
khu vực đặc biệt, kiểm soát thời tiết và tình trạng đất đai. Văn hóa Tây Tạng quan
tâm rất nhiều tới việc duy trì những mối liên hệ hài hòa với các vị trời địa
phương của một miền đất. Nyen là những tinh linh đất đầy năng lực dũng mãnh.
6- Trong
Phật Giáo Tây Tạng, Tulku là những hóa thân của các bậc Thầy tâm linh những đời
trước, được chính thức xác nhận, tôn phong và dạy dỗ để tiếp tục những hoạt động
của những hóa thân trước kia của các ngài. Ba vị Tulku được nhắc tới ở đây là
Tromge Kundun, Tromge Trungpa, và Drimed Khakyod Wangpo, là những vị Thầy của
Dawa Drolma và xuất hiện thật rõ nét trong các tường thuật của bà. Hơn nữa, vị
sau cùng còn là chú của bà và đã qua đời trước khi xảy ra những sự kiện được tường
thuật trong bản văn này.
7- Jatrul,
“hóa thân của Ja,” là một đệ tử của ba vị tulku được đề cập trong chú thích 6,
đã cho rằng Dawa Drolma được định trước để làm phối ngẫu tâm linh của ông. Tuy
nhiên gia đình bà đã từ chối cuộc hôn nhân này. Thất vọng cay đắng, Jatrul đổ
lỗi cho Jigmed T’hrogyal, cha của Dawa Drolma, bởi đã từ chối không cho ông lấy
người vợ được định trước này.
8- Khi
chúng sinh trong nhân loại làm gãy bể các thệ nguyện Kim Cương thừa, hay samaya
của họ, họ bị tái sinh làm những chúng sinh yêu ma phi-nhân mà tiếng Tây Tạng
gọi là damsri, hay “những yêu ma gãy bể samaya.” Những yêu ma này không chỉ
chịu đựng những hậu quả tiêu cực của những vi phạm đạo đức của riêng họ mà bằng
những hành động của họ, họ còn khuyến khích người khác mắc phạm những vi phạm
tương tự.
9- Ba mặt
phẳng là thế giới địa ngục, thế giới bề mặt, và các thiên đường.
10- Một Bổn
tôn thuộc nghiệp là vị Bổn tôn mà một người có mối liên hệ nghiệp mạnh mẽ nhất
với ngài, nhờ vào những ràng buộc được thiết lập trong những đời trước.
11- Orgyan
là tên Tây Tạng của Oddiyana trong Phạn ngữ, nó ám chỉ một xứ sở có tính chất
huyền thoại mà cư dân của nó là những hành giả cao cấp của Phật Giáo Kim Cương
thừa. Những tường thuật đáng tin cậy nhất nhận diện nó là xứ Kashmir
hiện nay.
12- Torma
là những nghi lễ cúng dường nào đó được cử hành trong truyền thống Phật Giáo
Tây Tạng.
13- Dawa
Drolma đang nói tới Tromge Kundun, là người mà sau này bà cũng nhắc tới là
Chhogtrul Rinpoche, “Hiện thân Cao quý Siêu phàm.” Lạt ma gốc là vị Thầy khai
thị chân tánh của bổn tâm ta.
14- Tu viện
Tromge là nơi các vị Thầy của Dawa Drolma đã sống và giảng dạy, theo hai dòng
Nyingma và Sakya của Phật Giáo Tây Tạng.
15- Một
tantra chính yếu (xem chú thích 61) và Bổn tôn của loại tantra cao nhất trong
các “tân”phái của Phật Giáo Tây Tạng được sáng lập từ thế kỷ thứ mười một.
Hevajra là thực hành chính trong dòng Sakya.
16- Vajradhara
là một vị Phật thuộc dharmakaya (Pháp Thân), hay thực tại tối hậu, trong biểu
tượng Kim Cương thừa.
17- Suốt
trong các bài tường thuật, Dawa Drolma nhắc tới bản thân mình trong ngôi thứ ba
là “cô gái này.” Có lẽ vì Dawa Drolma đã đọc những tường thuật này cho một người sao chép cũng như bởi tánh khiêm tốn và tự xoá nhoà chính mình của
bà.
18- Amitayus
là vị Phật của sự trường thọ, pháp thực hành của Ngài kéo dài thọ mạng của hành
giả. Samyak và Vajrakilaya là những Bổn tôn phẫn nộ, những pháp thiền định của các
ngài che chở hành giả tránh khỏi các chướng ngại.
Có ba cõi thuần tịnh liên kết với ba thân (kaya), hay các cấp độ của hiện thể
giác ngộ. Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ là một trong nhiều cõi được gọi là các cõi
thuần tịnh Hóa Thân (nirmanakaya), hiện hữu trong ý nghĩa nào đó trong một cách
thế tương tự với cấp độ bình thường của thực tại vật lý của chính chúng ta,
nhưng chỉ những người có sự nội quán và thành tựu tâm linh sâu xa mới có thể đi
tới được. Các cõi thuần tịnh Báo thân (sambhogakaya) tạo thành một cấp độ đang
hình thành của sắc tướng thuần tịnh phi-vật chất. Cõi thuần tịnh Pháp Thân
(dharmakaya) là bản tánh vô-sắc tướng, nền tảng của thực tại, vượt lên bất kỳ
sự tạo tác ý niệm nào. Những kinh nghiệm của Dawa Drolma trong chương này hoàn
toàn xảy ra trong phạm vi của một cõi thuần tịnh Hóa Thân, mặc dù sau này bậc
dẫn dắt của bà là Đức Tara nhắc tới hai cấp độ
khác trong chương này (xem chú thích 83).
19- Một lễ
quán đảnh là một nghi lễ trong Phật Giáo Kim Cương thừa, nó cho phép người nhận
thực hành một pháp thiền định Bổn tôn đặc biệt.
Một terton là bậc tìm lại và khám phá những giáo lý kho tàng ẩn dấu, hay terma.
Laykyi Dorje là một bậc thầy Nyingma ở thế kỷ mười bốn, đã tìm lại một số giáo
khóa quan trọng.
20- Trong
những kinh nghiệm thực sự về giác tánh nguyên sơ, hành giả có thể thình lình
thấu suốt các sự kiện, ngôn ngữ, ý niệm, và v.v.. mà trước đây họ không biết.
21- Đó là
năm 1924
22- Đây là
những giáo lý của Phật Giáo Kim Cương thừa, “bí mật” bởi vì chúng sâu xa (và vì
thế chỉ có thể tiếp cận được với sự hướng dẫn đúng đắn) và được giữ riêng tư
giữa vị Thầy và đệ tử. Cách sử dụng “mantra” (thần chú) hiện ra thật rõ ràng
trong những giáo lý như thế, nhưng từ nguyên học của thuật ngữ biểu thị “cái
bảo vệ tâm” chống lại những kiểu thức tư tưởng lầm lạc.
23- Tập
trung vào một hình tướng của Đức Avalokiteshvara, vị Bồ Tát của lòng bi mẫn,
với mười một mặt, một ngàn tay, và một ngàn mắt, đây thường là một nghi lễ kéo
dài hai ngày, chay lạt một phần trong ngày đầu và chay lạt hoàn toàn vào ngày
thứ hai.
24- Đây là
hai giai đoạn của thiền định Kim Cương thừa chính thức. Giai đoạn trước liên
quan chủ yếu tới sự quán tưởng và trì tụng thần chú; giai đoạn sau giải quyết
những kỹ thuật du già cao cấp và sự thiền định không hình tướng.
25- Bhurkakuta
là một Bổn tôn được kết hợp với sự tịnh hóa samaya bị gãy bể hay bất tịnh.
26- Để có
một sự giảng nghĩa về sáu cõi, xin coi Dẫn nhập.
27- Giáo
khóa chính này là một terma được terton Karma Lingpa khám phá vào thế kỷ mười
bốn.
28- Thần
chú của Avalokiteshvara, Bồ Tát của lòng bi mẫn: Om
mani padme hung. Nó cũng được nhắc tới là “thần chú sáu âm.”
29- Những
thời gian khác nhau trong ngày được kết hợp với bốn loại hoạt động giác ngộ –
sáng sớm với pháp làm an bình (tức tai), gần trưa với pháp tăng ích, chiều và
tối với năng lực (pháp kính ái), và khuya với năng lực phẫn nộ (pháp hàng phục).
30- Đây là
những nghi lễ nhắm vào Đức Yeshe Tsogyal, phối ngẫu người Tây Tạng của Đức
Padmasambhava. Việc dâng cúng một bữa tiệc là một nghi lễ chính yếu trong Phật
Giáo Kim Cương thừa, được thực hành để nâng cao sự chứng ngộ và để chuộc lỗi
những vi phạm thệ nguyện tâm linh của hành giả.
31- Tuyên
bố này là một ám chỉ tới quan điểm rõ ràng của Phật Giáo: Nếu từ vô thủy dòng
tâm thức của tất cả chúng sinh từng trải qua những chuỗi hóa thân đời này sang đời
khác, thì hệ quả là mọi chúng sinh đã có lúc từng là cha hay mẹ của bản thân
ta.
32- “Orgyan
vĩ đại” ám chỉ Đức Padmasambhava, bởi sự sinh ra kỳ diệu của Ngài xảy ra trong
xứ Orgyan. Tam Bảo là những nguyên lý tâm linh cao nhất của Phật đạo – Phật,
hay tâm giác ngộ (ví dụ như được hiện thân trong Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu
Ni); Pháp, các giáo lý được một vị Phật như thế ban cho để dẫn dắt chúng sinh
tới giác ngộ; và Tăng đoàn, những vị thực hành và chứng ngộ những giáo lý này
và vì thế có thể hành xử như những người dẫn dắt và bạn đồng hành trên con
đường tâm linh.
33- Bồ đề
tâm (sự “tỉnh giác” hay “thái độ giác ngộ”) bao gồm hai phương diện – phương
diện tương đối là lòng bi mẫn vị tha và phương diện tối hậu là sự chứng ngộ tánh
Không, chân tánh của các hiện tượng.
34- Sự đo
lường này được dùng để cung cấp chứng cớ khiến người ta tin rằng kinh nghiệm
delog của bà là chân thực, không phải là một trò lừa gạt được tạo dựng.
35- Một mức
độ che chướng bắt nguồn từ sự tổn thương cho tâm thức trong bardo, hay trạng
thái trung gian giữa cái chết và sự tái sinh, trong thời gian thụ thai, thai
nghén, và lúc sinh ra. Điều này phần nào giải thích cho sự kiện các Tulku có
thể không biểu lộ khả năng nhớ hết được những đời trước.
36- Một Bổn
tôn Kim Cương thừa được đặc biệt kết hợp với sự tịnh hóa các hậu quả của những
ác hạnh và che chướng.
37- Drolma,
từ Tây Tạng tương dương với từ Tara trong Phạn
ngữ, thường được ban cho người nữ ở Tây Tạng. Tsult’hrim Drolma là một ni cô đã
săn sóc và dạy dỗ Chagdud Rinpoche khi ngài còn là một đứa trẻ (và ngài nhớ lại
với vẻ hài hước, bà đã phát vào đít ngài rất nhiều).
38- Trong
Phật Giáo Kim Cương thừa, năm “bộ Phật” là một cách thức phân loại các Bổn tôn
được sử dụng trong thiền định; năm bộ Phật này cũng tạo thành giản đồ cho sự chuyển
hóa những yếu tố bất tịnh trong tính chất bình phàm của ta thành các phương
diện thanh tịnh và chân thực của chúng. Ở đây khăn trùm đầu màu xanh dương của
Dawa Drolma biểu thị Kim Cương bộ, tượng trưng cho việc chuyển hóa sự sân hận
thành phương diện thuần tịnh của giác tánh nguyên sơ, nó phản chiếu trong sáng
mọi sự như một tấm gương.
39- Danh
hiệu tôn kính khác của Tromge Kundun.
40- Một
nhóm năm thiên nữ, lúc đầu là những tinh linh thế tục nhưng được Đức
Padmasambhava thuần phục thành những vị bảo trợ của Phật Pháp. Kết giao với vùng
xung quanh Hy Mã Lạp Sơn, họ được tôn kính khắp xứ Tây Tạng.
41- Giải
trừ Chướng ngại trên Con đường là một bài cầu nguyện sùng mộ nổi tiếng, một
phần của một giáo khóa terma được khám phá trong thế kỷ mười bốn. Vajra guru
(Đạo sư Kim cương) là thần chú của Đức Padmasambhava: Om ah hung vajra guru
padma siddhi hung. Thần chú của các thân tướng trắng và xanh của Đức Tara là Om
tara tuttate ture soha. Thần chú của thân tướng màu đỏ của Đức Tara là Om tare
tam soha.
42- Tất cả
những chi tiết này được chỉ rõ trong tiên tri của Đức Tara về Dawa Drolma.
43- Nghiệp
được tạo nên trong việc giết một thú vật làm ô uế y phục như thế và sẽ cản trở
cho sự thành công của kinh nghiệm delog của bà.
44- Do bởi
đặc tính chữa bệnh, nước mưa trong những mùa nào đó kết hợp với chòm sao của
các rishi, hay các vị thấu thị, được những người Tây Tạng hứng lấy và tích trữ.
45- Thuật
ngữ kunzhi (là từ Tây Tạng tương đương với alaya trong Phạn ngữ) ở đây ám chỉ
một bình diện tiền ý thức không có ngay cả những niệm tưởng vi tế nhất.
46- Đây là
ba loại kinh nghiệm phát sinh trong thiền định như những dấu hiệu nhất thời của
sự thành công, nhưng hành giả không được dính mắc vào chúng như những mục
đích, bởi điều đó sẽ giới hạn tiến bộ tâm linh của hành giả. Sự dính mắc vào
lạc sẽ dẫn tới việc tái sinh làm một vị trời trong dục giới; dính mắc vào sự
trong sáng dẫn tới việc tái sinh làm một vị trời trong sắc giới; dính mắc vào
sự tỉnh giác vô niệm khiến tái sinh làm một vị trời trong cõi vô sắc – tất cả
những cõi giới trong sự hiện hữu có điều kiện.
47- Như
được dùng ở đây, “tính chất thông thường” biểu thị cái gì thuộc nền tảng, chân
thực, và không bị tạo lập.
48- Trong
các nghi lễ Kim Cương thừa, một mũi tên được trang trí bằng dải ruy băng tượng
trưng cho sự trường thọ và thịnh vượng.
49- Trong
vũ trụ học Phật Giáo, hệ thống thế giới của chúng ta bao gồm một ngọn núi ở
trung tâm, vây quanh là bốn đại lục chính, mỗi đại lục có hai tiểu lục địa
ở hai bên. Tiểu lục địa ở phương tây nam của ngọn núi trung tâm và ở
phương tây đối với thế giới chúng ta (“lục địa phương nam”) là Chamara. Đức
Padmasambhava an trú ở đó, khuất phục một loài yêu ma khát máu, nếu không chúng
sẽ tàn phá thế giới chúng ta.
50- Hình
ảnh đám mây biểu lộ phẩm tính bao la và siêu trần của kinh nghiệm của bà.
51- Trú xứ
của Đức Padmasambhava trong cõi thuần tịnh của Ngài.
52- Từ Phạn
ngữ vidyadhara (bậc hộ trì giác tánh nội tại, Trì Minh Vương) ám chỉ bậc đã
khám phá chân tánh của bổn tâm ngài như một trạng thái giác ngộ nội tại (và do
đó “hộ trì” kinh nghiệm này).
53- “Đấng
Kim Cương Sinh-trong Hồ xứ Orgyan,” một tính ngữ thông thường của Đức
Padmasambhava.
54- Vajravarahi
là một nữ Bổn tôn cao cấp nhất của các tantra trong Phật Giáo Kim Cương thừa.
55- Từ Phạn
ngữ tathagata (Như Lai - đấng đã đạt tới một trạng thái như thị) là một tính
ngữ chỉ một vị Phật.
56- Không
thể nhận ra vị này; dường như ông là một nhân vật lịch sử có thực trong số
những người quen của Dawa Drolma.
57- Một
mala là một sợi chuỗi hột được dùng như chuỗi tràng để đếm các thần chú hay bài
cầu nguyện.
58- Trì
tụng thần chú trăm-âm của Bổn tôn Vajrasattva (Kim Cang Tát Đỏa) là một kỹ
thuật Kim Cương thừa để tịnh hóa bản thân về các hậu quả của những ác hạnh và
che chướng.
59- Đây là
giải thích dài nhất của một mô tả vũ trụ theo một quan điểm lý tưởng, có tính
chất ước lệ. Được gợi lên trong trí tưởng tượng của ta, vũ trụ này được cúng
dường cho đối tượng của đức tin của ta như một phương tiện để tích tập công đức
và đào sâu sự nội quán.
60- Người
nữ được tắm là một Dakini vì được tái sinh trong cõi thuần tịnh của Đức
Padmasambhava nhờ thành tựu tâm linh của bà.
61- Các
sutra (Kinh điển) là những lời thuyết giảng của Đức Phật tạo nên nền tảng kinh
điển của các phái công truyền Tiểu thừa và Đại thừa Phật Giáo; các tantra (Mật
điển) là những kinh điển bí mật hơn tạo nên nền tảng của giáo lý Phật Giáo Kim
Cương thừa.
62- Một Đạo
sư vĩ đại sống từ năm 1820 tới 1892. Ngài có công trong việc lãnh đạo một cuộc
vận động cải cách rộng lớn, tập trung ở miền đông Tây Tạng trong thế kỷ thứ
mười chín. Mặc dù trên danh nghĩa ngài là một Lạt ma của phái Sakya, ngài đã
nghiên cứu rộng rãi và trao truyền các dòng truyền thừa trong mọi trường phái
của Phật Giáo Tây Tạng.
63- Đây là
những sutra (Kinh), hay những lời thuyết giảng của Đức Phật; vinaya (Luật), hay
những luật lệ đạo đức; và abhidharma (Luận), hay những giáo lý siêu hình và tâm
lý.
64- Chày và
chuông là những pháp khí được cầm trong tay khi cử hành các nghi lễ Kim Cương
thừa. Chày tượng trưng cho phương tiện thiện xảo, chuông tượng trưng sự thấu
suốt siêu việt tánh Không.
65- Một ám
chỉ tục lệ phổ thông ở Tây Tạng là cúng dường một khăn quàng bằng vải trắng cho
một vị Thầy khi xin yết kiến hay khẩn cầu một trao truyền chính thức các giáo
lý tâm linh. Tượng trưng cho lòng chân thành thanh tịnh của hành giả, chiếc
khăn thường được vị thầy choàng sau cổ hành giả như một sự ban phước.
66- Derge
được dùng làm trung tâm văn hóa và hành chánh chính yếu của miền đông Tây Tạng.
Vị Dakini được ám chỉ ở đây là một phụ nữ có thực sống trước thời đại của Dawa
Drolma.
67- Một
phần của giáo khóa gồm các giáo lý terma, một vài giáo lý trong số đó được dịch
sang Anh ngữ như Tibetan Book of the Death (Sách Tây Tạng về cái Chết, Tử
Thư Tây Tạng).
68- Một
chương của một tantra được sử dụng rộng rãi trong phái Nyingma trong Phật Giáo
Tây Tạng như một nghi lễ sám hối phổ thông.
69- Một
hình thức giữ hơi thở được sử dụng rộng rãi trong các thực hành thiền định Kim
Cương thừa cao cấp.
70- Ba thực
hành này được bao gồm trong một khóa giáo lý terma gọi là Heart Drop of
Longchenpa (Tâm Yếu của Longchenpa) (Longchen Nyingt’hig), được Rigdzin Jigmed
Lingpa khám phá vào thế kỷ thứ mười bảy. Để có tài liệu về giáo khóa này, xin
đọc H.H. Dilgo Khyentse Rinpoche, The Wish-Fulfilling Jewel (Boston: Shambhala,
1988), trang 9, (bản dịch Việt ngữ: Viên Ngọc Như Ý); và Tulku Thondup, The
Tantric Tradition of the Nyingma (Truyền thống Mật thừa của phái Nyingma)
(Marion, Mass.: Buddhayana, 1984), trang 174.
71- Đó là
chú của bà, ngài Drimed Khakyod Wangpo.
72- Con gái
của vua xứ Zahor ở Ấn Độ, Mandarava là một phối ngẫu tâm linh của Đức
Padmasambhava, bà trợ giúp cho Ngài trong việc đạt được quyền định đoạt sự
trường thọ.
73- Đây là
một bản dịch được sửa đổi nổi tiếng của Lời Khẩn nguyện Bảy-Dòng.
74- Các
mara (ma quân) là những thế lực hay chúng sinh làm giới hạn kinh nghiệm của ta
và trói buộc ta vào vòng luân hồi. Bốn loại mara như thế thường được nhắc tới
là: những cảm xúc phiền não, cái chết (hiện thân là Yama, Thần Chết), các sự
kết tập tâm-vật lý (các uẩn) cấu thành thân-tâm của một cá nhân không giác ngộ
tâm linh, và các thế lực ngăn cản năng lực của tâm đạt được những cấp độ cao
hơn của sự thể nhập thiền định (được nhân cách hóa là “con cái của các vị
trời”).
75- Trong
Phật Giáo Kim Cương thừa, màu trắng và xanh dương được kết hợp với phương đông,
màu vàng với phương nam, đỏ với phương tây, và xanh lá cây với phương bắc.
76- Nghĩa
đen: “khoảng [chiều dài] tay áo.”
77- Dấu
hiệu terma ( ) biểu thị rằng những trích dẫn khác nhau trong tường thuật này
tạo thành một loại terma, hay kho tàng tâm, mà Dawa Drolma đang khám phá.
78- Trong
hệ thống Nyingma của Phật Giáo Tây Tạng, Samantabhadra (Đức Phổ Hiền) là hiện
thân của Pháp Thân – thực tại tối hậu, không thể diễn tả được. Thuật ngữ có
nghĩa là nó “hoàn toàn tích cực.”
79- Vua Hoa
sen (Padma Gyalpo) và Padma T’hod T’hreng Tzal là những tính ngữ biểu thị cho
những khía cạnh đặc biệt của Đức Padmasambhava.
80- Một
yogini của Phật Giáo Ấn Độ cổ được miêu tả rõ ràng trong sự truyền dạy của
nhiều giáo lý Nyingma. Xem Thondup, Truyền thống Mật thừa của phái Nyingma,
trang 17.
81- Một
phép ẩn dụ về sự hợp nhất phương tiện thiện xảo và trí tuệ siêu việt.
82- Từ Phạn
ngữ samsara và nirvana biểu thị một cách tương ứng trạng thái không giác ngộ,
có điều kiện của sự hiện hữu bình phàm đối nghịch với trạng thái giác ngộ,
không điều kiện của giác tánh của một vị Phật.
83- Tuyên
bố này cho thấy Dawa Drolma không thực sự chết, nhưng phải trở lại thân xác bà
trong cõi người. Mặc dù vào lúc này Đức Tara muốn nói tới các cõi thuần tịnh
khác thuộc các cấp độ giác ngộ Báo thân và Pháp Thân, nhưng tất cả những sự
kiện trong chương này, bao gồm những sự kiện từ lúc này trở đi, xảy ra trong
cõi thuần tịnh Hóa Thân Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ.
84- Năm
điều xác quyết này là những đặc tính tiêu biểu của Báo Thân – đó là luôn luôn
có một vị Thầy, có quyến thuộc (đoàn tùy tùng), hoàn cảnh, giáo lý, và cơ hội
toàn hảo.
85- Một
tính ngữ chỉ Đức Avalokiteshvara, Bồ Tát của lòng bi mẫn.
86- Tức là
Đức Phật Pháp Thân Samantabhadra (Phổ Hiền).
87- Một
trong mười bảy tantra chính của ati yoga, hay Đại Viên Mãn, cách tiếp cận của
phái Nyingma.
88- Bà cảm
nhận rõ ràng rằng những lợi ích trong việc thuật lại kinh nghiệm của bà đã làm
nặng nề thêm những hậu quả của việc vi phạm huấn thị của Đức Tara.
89- Theo
Chagdud Rinpoche, điều này có thể ám chỉ mạn đà la năm phương diện của Đức
Padma T’hod T’hreng Tzal.
90- Đức
Samantabhadra (Phổ Hiền) được nhắc tới trong ẩn dụ nổi tiếng này về hành vi lý
tưởng của việc cúng dường thì không phải là Đức Phật Pháp Thân, mà là một Bồ
Tát nổi danh trong các Kinh điển về khả năng tạo ra các vật cúng dường theo ý
muốn nhờ những năng lực thể nhập thiền định của Ngài.
91- Các vị
trời trong cõi trời này thuộc dục giới trong vòng luân hồi (tên theo nghĩa đen
có nghĩa là “Những Hiện thân Hỉ lạc”) có những kho công đức to lớn tới độ họ có
thể hóa hiện bất kỳ thú vui cảm giác nào họ muốn mà không cần nỗ lực.
92- Chĩa ba
là một biểu tượng của sự thành tựu ba thân.
93- Đây là
môt ẩn dụ thông thường về sự không tương xứng giữa ngôn ngữ bình thường và
những ý niệm để diễn tả kinh nghiệm trực tiếp về chân tánh của ta.
94- Bậc duy
trì ba cấp độ của sự hứa nguyện trong thực hành Phật Giáo – các giới luật của
con đường Tiểu thừa dành cho sự giải thoát cá nhân, các giới nguyện Bồ Tát của con
đường Đại thừa, và samaya Mật thừa của con đường Kim Cương thừa.
95- Srongtzan
Gampo là một nhà cai trị của xứ Tây Tạng trong phần lớn của thế kỷ thứ bảy.
Phật Giáo được du nhập vào Tây Tạng trong triều đại của ngài, mặc dù việc củng
cố một truyền thống Phật Giáo Tây Tạng đã xảy ra vài thế kỷ sau này. Nub
Namnying (hay Namkhai Nyingpo) là một trong hai mươi lăm đệ tử thân thiết nhất
của Đức Padmasambhava ở Tây Tạng. Dagpo Daod (1079 -1153) thường được biết
nhiều hơn với tên Gampopa, đệ tử chính của Milarepa và là một nhà sáng lập phái
Kagyud của Phật Giáo Tây Tạng.
96- Đó là
lúc Dawa Drolma quen biết ngài trong cõi người trước khi ngài mất.
97- Một vị
Thầy và terton Tây Tạng hầu như sống trọn đời ở Sikkim. Ngài sống từ 1597 tới
khoảng 1650.
98- Tu viện
Dzaga là một tu viện Nyingma rộng lớn cách xa Tu viện Tromge ở quê hương của
Dawa Drolma miền T’hromt’har khoảng một ngày đường. Có một mối liên hệ chặt chẽ
giữa hai trung tâm. Một trưởng tử tâm huyết (con trai hay con gái tâm huyết) là
một đệ tử rất thân cận.
99- Bốn thị
kiến là những giai đoạn chứng ngộ trong tiếp cận Đại Viên Mãn. Những từ “thuần
tịnh nguyên thủy” và “hiện diện tự nhiên” ở đây ám chỉ hai giai đoạn thực hành
trong Đại Viên Mãn, được gọi là t’hregchhod và t’hogal trong tiếng Tây
Tạng.
100- Từ
tương tự trong tiếng Tây Tạng có thể ám chỉ các xương đùi người được làm thành
kèn trum pét và ám chỉ những nhạc khí tương tự làm bằng đồng thau hay đồng đỏ.
101- Đó là
phái Nyingma. Nghi lễ được ám chỉ là một phần của giáo khóa terma chính yếu
được Nyang Nyima Odzer khám phá vào thế kỷ thứ mười hai.
102- Phép
ẩn dụ được dùng để diễn tả chuyển động nhanh chóng và quả quyết trong một chiều
hướng đặc biệt.
103- Sự
được và mất, vinh và nhục, khen và chê, và sướng và khổ.
104- Đây là
những nguyên âm Phạn ngữ.
105- Một
nghi lễ trong đó cái chết của một Lạt ma cao cấp được diễn tập theo một cách
tượng trưng, với những vật cúng dường và một hình nộm được đưa ra nhân danh vị
Lạt ma để làm vừa lòng các thế lực mà nếu không thì có thể đe dọa thọ mạng của
vị Lạt ma. Một yếu tố chính trong nghi lễ là vũ điệu của năm Dakini, được thực
hiện bởi năm thiếu nữ, là những vị được quay trở lại với những vật cúng dường
hơn là được cho phép hướng dẫn tâm thức của vị Lạt ma tới một cõi thuần
tịnh.
106- Đó là:
“Chừng nào ngài tái sinh trong cõi người?”
107- Các
giáo lý được hệ thống hóa bởi Chetzun Sengge Wangkhyug (thế kỷ mười một tới thế
kỷ mười hai) dựa trên việc thành tựu “thân cầu vồng” của ngài vào năm 125 tuổi.
Chúng được Jamyang Khyentse Wangpo (1820-1892) khám phá.
Thân cầu vồng là thành tựu cao nhất theo viễn cảnh của tiếp cận Đại Viên Mãn
hay Dzogchen, trong đó thân hữu hình của hành giả chuyển hóa thành một thân ánh
sáng cầu vồng, là thân chỉ những bậc có thành tựu tâm linh rất vĩ đại mới được
sử dụng như một sức mạnh dẫn đạo và tồn tại cho tới khi vòng luân hồi không còn
chúng sinh.
108- Bởi
làm như thế sẽ có nguy cơ gây nên cái chết thực sự cùng hậu quả là tâm thức của
bà không thể quay trở lại thân xác.
109- Những viên thuốc được hiến cúng trong những buổi lễ đặc biệt, chúng trao truyền sự ban phước cho những ai sử dụng.
110- Một repa là một yogin chỉ mặc một bộ y phục mỏng bằng vải trắng (như Milarepa).
111- Đây là một bài kệ nổi tiếng từ bản dịch tiếng Tây Tạng của Bodhicharyavatara (Bồ Tát Hạnh), một tác phẩm nổi tiếng của Shantideva xứ Ấn Độ thuộc Phật Giáo Đại thừa.
112- Nghĩa đen: “bằng miệng hay bàn tay.”
113- Theo Chagdud Rinpoche, đây có thể là một ám chỉ người gác cổng hung dữ mà Dawa Drolma có thể gặp trong hành trình trở về cõi người của bà; hạt gạo là một hình thức của sự bảo vệ.
114- Xem chú thích 111 ở trên.
115- Lantza là một loại chữ trang trí được người Tây Tạng dùng trên đầu đề các trang sách và khắc trên những bánh xe cầu nguyện và v.v...; nó là một loại chữ miền bắc Ấn Độ trên đó những chữ được gọi là tiêu đề (uchen) của mẫu tự Tây Tạng được đặt nền tảng. Chữ Wardhu (Wartula Gupta) là loại chữ bắc Ấn Độ khác trên đó những chữ “không tiêu đề” (umed) của Tây Tạng được đặt nền.
116- Một quận ở tỉnh Dagpo miền nam Tây Tạng.
117- Đây là cá nhân cũng được nhắc tới là Jatrul; xem chú thích 7 ở trên.
2. Những Quán chiếu trong Tấm Gương Pha lê
1- Nỗi sợ sư tử, voi
hoang, lửa, rắn, lụt lội, tù đày, kẻ trộm, và những kẻ ăn thịt người.
2- Đó là
Tromge Kundun, Tromge Trungpa, và Drimed Khakyod Wangpo, ba vị Tulku là những
vị được đề cập tới trước tiên trong Chương 1 và là những vị nổi bật trong những
tường thuật của Dawa Drolma.
3- Thuật
ngữ Tây Tạng bardo có nghĩa là “một khoảng cách giữa hai thời điểm”; trong bản
văn này nó đặc biệt ám chỉ khoảng cách giữa cái chết và sự tái sinh, trong
quãng thời gian đó các nghiệp lực trong tính chất của một cá nhân tạo nên những
phóng chiếu tiên báo tái sinh trong tương lai của cá nhân đó.
4- Bởi
những tham luyến của ta với chúng, ta bị vướng kẹt trong các hoạt động và những
mối quan tâm, chúng làm luân hồi sinh tử kéo dài mãi.
5- Khái
niệm quy y rất quan trọng đối với Phật Giáo; thực vậy, “giới nguyện quy y” là
bước đi chính thức đầu tiên trong hứa nguyện riêng của một cá nhân đối với Phật
đạo. Ta quy y (nương tựa) “Tam Bảo,” ba lý tưởng hay nguyên lý tâm linh (xem
Chương 1, chú thích 32). Như vậy, việc ban tặng sự nương tựa (quy y) bao hàm
nhiều ý nghĩa hơn là chỉ đơn giản che chở hay bảo vệ người nào đó, bởi nó đòi hỏi
sự hứng khởi và dẫn dắt tâm linh.
6- Những
thân tướng trắng và xanh lá cây của Đức Tara.
7- Một tính
ngữ chỉ Đức Manjushri (Văn Thù), Bồ Tát của trí tuệ.
8- Sodnam
Tzemo, sống từ năm 1142 tới 1182, là con trai của Sachhen Kunga Nyingpo (vị
sáng lập phái Sakya của Phật Giáo Tây Tạng, và vì thế là vị thứ hai trong năm
vị “tổø sáng lập” của phái.
9- Âm thứ
hai của danh hiệu Gyajam là một cách rút gọn của Jamyang, tiếng Tây Tạng của
tên Manjughosha theo Phạn ngữ.
10- Một ẩn
dụ về cảnh tượng hỗn độn và rối loạn.
11- Hai bản
văn được nói tới được sử dụng trong các nghi lễ sám hối trong truyền thống Phật
Giáo Tây Tạng.
12- “Vua
của vận mệnh,” một tính ngữ chỉ Yama.
13- “Bảng
định mệnh” được mô tả là một cây gậy dẹp, trông giống cái mái chèo, được đánh
dấu bằng những nét khắc song song; mỗi vận mệnh của một cá nhân được nối kết
với một dấu được ghi trên một trong những ô vuông biểu thị kết quả. Tấm gương
nghiệp quả phản chiếu rõ ràng những hành vi của ta trong đời trước, để không
làm xáo trộn định luật nghiệp quả bất di bất dịch.
14- Một
phong tục mê tín đã hiện hữu trong một vài miền ở Tây Tạng, cho rằng một người
dùng thuốc độc làm chết một Lạt ma thì trong cách thế nào đó được hưởng công đức
tâm linh của người chết. Nhưng hậu quả thực sự của hành vi này là sự tái sinh
trong địa ngục.
15- Địa
ngục đầu tiên trong tám địa ngục nóng của vũ trụ học Phật Giáo truyền thống. Về
các mô tả những cõi địa ngục và ngạ quỷ được nhắc tới trong chương này, xin coi
The Jewel Ornament of Liberation (Vật Trang sức Quý báu của sự Giải thoát),
H.V. Guenther, bản dịch (Boston: Shambhala, 1986), các trang 55-69; Kun-zang
La-may Zhal-lung, S.T.Kazi, bản dịch (Upper Montclair, N.J.: Nhà Xuất bản
Diamond-Lotus, 1989), các trang 83-139; và Patrul Rinpoche, The Words of My
Perfect Teacher (San Francisco: Harper Collins, 1994), các trang 63-76 (bản
dịch Việt ngữ: Lời Vàng của Thầy tôi).
16- Các ngạ
quỷ là những tinh linh đau khổ bị phiền não vì đói và khát khủng khiếp và
bởi bị phơi bày ra các yếu tố (các đại).
17- Một vị
Phật mà pháp thiền định và thần chú của Ngài đặc biệt hữu hiệu trong việc tịnh
hóa hậu quả của những ác hạnh.
18- Xem
Chương 1, chú thích 62.
19- Theo vũ
trụ học Phật Giáo truyền thống thì Núi Tu Di là ngọn núi trung tâm của hệ thống
thế giới của chúng ta.
20- Ba loại
thiện hạnh thuộc về thân là bảo vệ sinh mạng, bố thí, và đạo đức tính dục; bốn
loại thuộc về ngữ là chân thực, nói năng tử tế, tạo sự hòa hợp bằng lời nói, và
nói những lời có ý nghĩa; và ba loại thuộc về tâm là hài lòng, nhân từ, và thấu
hiểu đúng đắn các chân lý tâm linh.
21- Những
người Tây Tạng tin rằng cờ cầu nguyện gởi theo làn gió những sự ban phước của
những lời nguyện, làm lợi lạc cho tất cả những ai được gió chạm vào.
22- Thần
chú siddhi là một tên khác của thần chú của Đức Liên Hoa Sanh, Om ah hung vajra
guru padma siddhi hung.
23- Một
thiện hạnh phổ biến ở Tây Tạng là khắc sáu chữ của thần chú Om mani padme hung
vào các hòn đá, chúng thường được chất thành ụ đá hay các bức tường.
24- Satsa
là những mô hình tháp (stupa) nhỏ bằng đất sét–các vật kỷ niệm mà những đặc
trưng kiến trúc của chúng tượng trưng cho các phương diện của tâm giác ngộ–hay
những tượng đúc bằng đất sét hình các Bổn tôn; đất sét thường được trộn với tro
lấy từ hài cốt của những người chết để truyền những ân phước cho người chết.
25- Đó là
các hình ảnh, sách, và các dụng cụ là những đồ chứa (Pháp khí) tượng trưng cho
thân, ngữ, và tâm của các bậc giác ngộ.
26- Trong
vũ trụ học Phật Giáo truyền thống, một ngàn hệ thống thế giới tương tự như thế
giới chung của chúng ta tạo thành một vũ trụ có độ lớn bậc nhất; một ngàn vũ
trụ này tạo thành một vũ trụ có độ lớn bậc nhì; và một ngàn vũ trụ này (đó là
một tỉ hệ thống thế giới tương tự thế giới của chúng ta) tạo thành một vũ trụ
có độ lớn bậc ba, một “vũ trụ gấp ba-ngàn lần.”
27- Tam
giới (ba cõi) là dục giới (bao gồm các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người,
bán thần, và các cấp độ thấp của các vị trời), sắc giới vi tế hơn (những cấp độ
trung bình của các vị trời), và vô sắc giới vi tế nhất (cấp độ cao nhất của các
vị trời). Tất cả ba cõi giới đều ở trong vòng luân hồi có điều kiện, vì thế
tượng trưng cho việc không có hạnh phúc hay giải thoát cuối cùng, và vẫn còn
nằm dưới sự thống trị của Thần Chết.
28- Ba mặt
bằng của sự sống là cách diễn tả khác về vòng luân hồi; đó là thế giới địa
ngục, thế giới trên mặt đất, và các cõi trời.
29- “Lục
địa phương nam” (Nam Thiệm Bộ Châu) trong bốn lục địa bao quanh núi Tu Di chính
là thế giới của chúng ta, đại khái tương đương với “Trái Đất.”
30- Khi
chết, những bậc có chứng ngộ cao cấp này làm đảo lộn nghiệp của nhiều người mà
thông thường chúng sẽ gây nên cái chết của họ.
31- Một
loại cây trồng ở một trong những nơi gọi là địa ngục lân cận và tạo thành nguồn
gốc chính yếu của sự đau khổ cho chúng sinh trong địa ngục đó. Xem Kazi,
Kun-zang La-may Zhal-lung, các trang 93-94.
32- Theo
nghĩa đen: “Pháp ngữ được phiên dịch [của Đức Phật].” Kinh điển Phật Giáo Tây
Tạng, thường gồm 108 pho sách, trong số những kinh điển được công nhận là các
giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
33- Ta đoán
chừng con gái bà có khuynh hướng sân hận và sát sinh.
34- Những
“đứa trẻ” này là những phóng chiếu của những yếu tố tích cực và tiêu cực trong
tính chất riêng của ta.
35- Một ám
chỉ cho những hình thức hành hạ thể xác khắc nghiệt mà ông ta, là người chỉ
huy, đã chịu trách nhiệm khi ra lệnh.
36- Một
nhân vật trọng yếu trong phái Nyingma của Phật Giáo Tây Tạng cuối thế kỷ mười
chín và đầu thế kỷ hai mươi.
37- Đó là
giới tu sĩ; màu vàng là màu được dành cho trang phục của các nhà sư và ni cô ở
Tây Tạng.
38- Đó là
không dẫn những người khác đi theo bà dựa vào những công đức của nghiệp tích
cực của bà.
39- Một
trung tâm tu viện và chính trị quan trọng ở tỉnh Tsang miền nam Tây Tạng và trụ
sở của phái Sakya của Phật Giáo Tây Tạng.
40- Những
tích tập công đức trên bình diện thông thường và tích tập giác tánh nguyên sơ
trên bình diện tối thượng.
41- Đức
Manjushri, Avalokiteshvara, và Vajrapani (các Bồ Tát của trí huệ, lòng bi mẫn,
và năng lực tâm linh theo thứ tự tương ứng) là những Bồ Tát thuộc “ba bộ”–đó là
thuộc về thân, ngữ, và tâm của tất cả chư Phật.
42- Lợi lạc
cho bản thân và những người khác trong khoảng thời gian ngắn hạn và dài hạn.
43- Ngay cả
một dính dáng tiêu cực do một hành động có hại hay ý định xấu ác đối với người
nào đó cũng tạo nên một mối liên hệ ích lợi.
44- Đây là
những đối nghịch của các thiện hạnh được đề cập trong chú thích 20 ở trên: các
hành vi thuộc thân là sát sinh, trộm cắp, và tà dâm; các hành vi thuộc ngữ là
nói dối, lăng mạ, vu khống, và nói tầm phào vô ích; và các hành vi thuộc tâm là
tham muốn, ý định xấu, và các tà kiến liên quan tới các chân lý tâm linh.
45- Một
thành phố lớn (tiếng Trung Hoa gọi là Ta-chien-lu) ở biên giới Hoa-Tạng, trước
đây là địa điểm chính qua đó trà Trung Quốc được nhập khẩu vào lãnh thổ Tây
Tạng.
46- Các ngạ
quỷ với các che chướng nội tại là những chúng sinh mà các tri giác chủ quan của
họ bị bóp méo đến nỗi mặc dù họ có thể tìm được thực phẩm hay thức uống, nhưng
những thứ này trở thành lửa, rác rưởi, hay chất độc khi ăn vào.
47- Một
tantrika là một hành giả của con đường Mật thừa, tức là Phật Giáo Kim Cương
thừa.
48- Điều
này ám chỉ những người đã cùng thọ nhận những quán đảnh thực hành Kim Cương
thừa từ cùng những vị Lạt ma; việc này được coi là mối ràng buộc không gì chặt
chẽ hơn có thể có giữa những con người.
49- Địa
ngục Kim Cương là cõi mà chúng sinh rơi vào do vi phạm trầm trọng các thệ
nguyện samaya của họ.
50- Chư
Phật đã xuất hiện trong quá khứ, chư Phật đang xuất hiện trong hiện tại, và chư
Phật sẽ xuất hiện trong tương lai.
51- Thuộc
thân, ngữ, và tâm.
52- Ở đây
tính nhị nguyên thông thường giữa tích cực và tiêu cực được thay thế bằng các
nguyên lý cao hơn của thực hành tâm linh.
53- Như
những dòng dưới đây làm rõ nghĩa, vị thánh này là vị Thầy tâm linh chính yếu
của Yeshe Dorje.
54- Tám địa
ngục nóng, tám địa ngục lạnh, các địa ngục lân cận, và những địa ngục nhất
thời.
55- Từ Phạn
ngữ của danh hiệu Yeshe Dorje.
56- Bởi Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni đang ngồi dưới một cây đa (hay cây bồ đề) khi Ngài giác
ngộ nên hột của loại cây này được quý trọng và dùng làm hột chuỗi tràng.
57- Ở Tây
Tạng, người ta thường bảo trợ cho những người tụng đọc Kinh điển lớn tiếng và
hồi hướng công đức của việc tụng đọc cho hạnh phúc của người bảo trợ.
58- Một
đồng cỏ bao la gần nhà Dawa Drolma.
59- Tức là
Đức Phật.
60- Trong
thực hành của Phật Giáo Tây Tạng, danh hiệu Lạt ma của một người thường được
dùng trong câu “------thấu biết tất cả!” như một hình thức của thần chú. Ở đây người
này đặt vị Thầy của mình ngang hàng với Dorje Chang (Phạn ngữ: Vajradhara, Kim
Cương Trì), Đức Phật Pháp Thân của chân lý tối hậu.
61- Năm độc
thuộc cảm xúc là tham luyến, sân hận, vô minh, tự phụ, và ganh tị.
62- P’howa,
hay “chuyển di tâm thức,” là một kỹ thuật Kim Cương thừa có thể được thực hiện
vì lợi lạc của bản thân hay của những người khác. Nó làm cho tâm thức lìa bỏ thân
xác vào lúc chết trong cách thức thiện xảo và hữu hiệu nhất để trợ giúp cho
tiến bộ tâm linh của ta.
63- Xem
Chương 1, chú thích 22.
64- Bằng
cách tôn kính các vị này, ta thâu thập các tích tập công đức và giác tánh
nguyên sơ (trí tuệ).
65- Đó là
những phối ngẫu của các Lạt ma.
66- Bốn cấp
độ hỉ lạc phát sinh liên tiếp trong thiền định là hỉ lạc được định danh, hỉ lạc
siêu phàm, hỉ lạc đặc biệt, và hỉ lạc đồng-xuất hiện (hay hỉ lạc siêu vượt hỉ
lạc [thông thường]).
67- Năm
hành vi có nghiệp quả trầm trọng tới nỗi nếu không được tịnh hóa, kẻ mắc phạm
hành vi đó bị tái sinh lập tức trong một cõi địa ngục vào lúc chết, mà không
kinh qua trạng thái bardo thông thường xảy ra giữa sự chết và tái sinh. Những
hành vi đó là giết cha, giết mẹ, giết một vị A la hán (xem Chương 3, chú thích
32), vì ác tâm mà làm một vị Phật chảy máu, và gây chia rẽ không thể hàn gắn trong
cộng đồng Phật Giáo.
68- Đó là
hành vi đạo đức chấp nhận một vài hình thức hành xử là đạo đức và từ bỏ những
hình thức hành xử khác là vô đạo đức.
69- Ma mốt
là những thiên nữ hung dữ.
3. Núi Potala
1- Xem Chương 1, chú
thích 55.
2- Tám phẩm
tính là tính chất mát, ngọt, thanh, dịu, trong, không có các chất bất tịnh, dễ
tiêu hóa và làm cổ họng êm dịu.
3- Năm-lớp
tường tương trưng cho năm bộ Phật chính yếu của Kim Cương thừa. Tương tự, mỗi
cách kiến trúc đặc biệt của những tòa lâu đài này tượng trưng cho một yếu tố riêng
biệt hay phẩm tính của thực hành và chứng ngộ tâm linh.
4- Bánh xe
Pháp (Pháp luân) là một biểu tượng tốt lành bằng vàng với tám nan hoa tượng
trưng cho Bát Chánh Đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định.
5- Makara
là một sinh vật thần thoại sống trong nước có phần giống một con cá sấu, được
dùng làm một chủ đề trong kiến trúc Phật Giáo.
6- Xem
Chương 1, chú thích 91.
7- Thân
tướng một vị Phật được mô tả theo truyền thống là có thân tướng toàn hảo được
tô điểm với ba mươi hai tướng chính và tám mươi tướng phụ, là các biểu hiện bên
ngoài của những phẩm tính tâm linh sâu xa.
8- Theo
truyền thống, loài linh dương lốm đốm đen này được cho là hiền lành và bi mẫn
khác thường.
9- Đó là tư
thế cạnh bàn chân phải đặt lên đùi trái và cạnh bàn chân trái đặt trên đùi
phải.
10- Thành
ngữ truyền thống “chuyển Pháp luân” biểu thị hoạt động ban tặng Giáo lý đạo
Phật.
11- Điều
này ám chỉ phương pháp truyền thống trong việc chia thời gian hai-mươi-bốn
tiếng thành sáu “thời,” mỗi thời bốn tiếng.
12- Đức
Phật tiên đoán rằng sau khi Ngài nhập Niết Bàn, Giáo Pháp của Ngài sẽ tồn tại
trong thế giới này hơn mười thời kỳ, mỗi thời kỳ là năm trăm năm. Mỗi thời kỳ
kế tiếp sẽ bao hàm một sự tiếp cận nông cạn và mờ nhạt hơn trong việc nghiên
cứu và thực hành những giáo lý này, cho tới khi chỉ còn lại những dấu vết, tiếp
sau đó các giáo lý sẽ biến mất khỏi thế giới này cho tới khi Đức Phật Maitreya
(Di Lặc) kế tiếp xuất hiện để khai thị Giáo Pháp một lần nữa.
13- Hầu hết
các quan điểm triết học ngả về một thái cực: hoặc hướng vềø thuyết vĩnh cửu
(khẳng định một cách ngây thơ sự hiện hữu của các sự vật giống như chúng xuất
hiện) hoặc hướng về thuyết hư vô (cũng như phủ nhận một cách thơ ngây rằng các
sự vật hoàn toàn không hiện hữu). “Trung Đạo” của Đức Phật tránh những thái cực
này bằng cách xác nhận tính tương thuộc như tiến trình giải thích cho sự xuất
hiện của các hiện tượng trong ý nghĩa quy ước, trong khi cùng lúc xác nhận rằng
những hiện tượng này không có bất kỳ tự-tánh chân thực nào.
14- Đó là
một thân thể ở trong trạng thái tái sinh may mắn.
15- Sáu
toàn thiện (cũng được biết trong Phạn ngữ là paramita – ba la mật) là những
phẩm tính tạo thành cốt tủy của con đường Đại thừa Phật Giáo: bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, kiên cố thiền định, và trí tuệ siêu việt.
16- Bốn
phương pháp ảnh hưởng tích cực tới người khác (tứ nhiếp pháp) là bố thí rộng
rãi những gì cần thiết, nói năng vui vẻ, thực hiện những hoạt động lợi lạc cho
người khác, và hành động phù hợp với những phong tục và sự mong đợi của người
khác.
17- Trí tuệ
phát khởi từ việc nghe giáo lý, quán chiếu, và thiền định (văn, tư, tu).
18- Sự
chánh niệm, tỉnh giác, chú tâm, và thực hành tâm linh.
19- Đây là
những giới nguyện tạm thời, thường được dùng trong hai mươi bốn giờ, thường
dùng chung với nghi lễ chay nyungnay. Tám giới nguyện là tránh sát sinh, trộm
cắp, nói dối, thực hiện hoạt động tính dục, ăn không đúng thời (trước khi mặt
trời mọc và sau giờ ngọ), dùng mỹ phẩm trang điểm hay đồ trang sức, ngồi chỗ
cao hay trên ngai, và ca hát, nhảy múa, hoặc chơi âm nhạc.
20- Thân,
ngữ, và tâm bạn.
21-Xem
Chương 1, chú thích 103.
22-Thuộc thân,
ngữ, và tâm.
23- Câu kệ
này, một trích dẫn từ kinh điển, là một lời cầu nguyện nổi tiếng của Phật Giáo
Tây Tạng.
24- Một lời
nguyện ước nổi tiếng.
25- Cõi
thuần tịnh được kết hợp với phương tây, được biết trong tiếng Tây Tạng là
Dewachan, hay Cõi Cực Lạc.
26- Kinh
Saddharma-pundarika, hay Kinh Hoa Sen (Kinh Pháp Hoa), hiện có vài bản dịch Anh
ngữ.
27- Kinh
Arya-karandavyuha (Kinh Đại thừa Trang Nghiêm Bảo vương). Một bộ kinh liên quan
tới Bồ Tát Avalokiteshvara và thuyết giảng lợi ích của việc thực hành được kết
hợp với vị Bồ Tát này và thần chú Om mani padme hung.
28- Những
cư dân gây đau khổ cho các ngạ quỷ và làm tăng trưởng nỗi khổ của họ.
29- Các
Thanh Văn và Phật Độc Giác là các vị thực hành và chứng ngộ con đường Tiểu thừa
của thực hành Phật Giáo, thì khác biệt với các Bồ Tát là những vị đạt được Phật
Quả nhờ con đường Đại thừa. Các vị trời, nhạc sĩ cõi trời, và v.v.. là những
loại chúng sinh chưa giác ngộ ở trong luân hồi sinh tử có điều kiện; Ishvara
(Tự tại thiên) và Maheshvara (Đại Tự tại thiên) là những vị trời mạnh mẽ.
Vajrapani (Kim Cương Thủ) là Bồ Tát của năng lực tâm linh.
30- Một đà
ra ni là một loại thần chú, một thể thức tiêu biểu giống như văn xuôi đề cập
tới những phẩm tính của một Bổn tôn đặc biệt hay phương diện của sự giác
ngộ.
31- Xem
Chương 2, chú thích 67.
32- Một A
La Hán (nghĩa đen: “bậc đã chiến thắng kẻ thù [nội tại]”) đã đạt được một phần
cấp độ giác ngộ bằng cách đi theo cách tiếp cận Tiểu thừa của thực hành Phật Giáo.
Ngài (nam hay nữ) đã chứng ngộ sự không hiện hữu của bản ngã của nhân cách cá
nhân, và vì thế đã siêu vượt đau khổ và các nguyên nhân của đau khổ trong tương
lai. Mặt hạn chế là cấp độ chứng ngộ này chỉ đem lại sự giải thoát cá nhân khỏi
vòng luân hồi, và không có lòng bi mẫn cùng phương tiện thiện xảo để giải thoát
những người khác
4. Yulokod
1- Xem Chương 2, chú
thích 40.
2- Một sự
ám chỉ chuyến du hành của bà tới cõi thuần tịnh của Đức Avalokiteshvara
3- “Con
kính lễ Đức cao quý Tara.”
4- Xem
Chương 3, chú thích 2.
5- Vàng,
bạc, san hô, ngọc trai, và lam ngọc hay bích ngọc.
6- Nhờ sự
thấy, nghe, xúc chạm, hay tưởng nhớ.
7- Lõi cây
đàn hương.
8- Một mật
danh được guru (Đạo sư) ban cho một hành giả trong một lễ quán đảnh để đi vào
một trong những kỹ thuật thiền định chính thức của Phật Giáo Kim Cương thừa.
9- Trong
thuật ngữ chuyên môn của Kim Cương thừa, sự phát khởi hỉ lạc trong thiền định
được mô tả là xảy ra trong mười sáu giai đoạn khác nhau. Hình ảnh một thiếu
niên hay thiếu nữ mười sáu tuổi được dùng để cô đọng tiến trình này.
10- Những
tâm thái vô lượng (tứ vô lượng tâm) là từ, bi, hỉ, và xả.
11- Một ám
chỉ truyền thuyết những thân tướng trắng và xanh lá cây của Đức Tara xuất hiện từ những giọt nước mắt của Đức
Avalokiteshvara, Bồ Tát của lòng bi mẫn, để đáp lại nỗi khổ của chúng sinh.
12- Tức là
với ngón cái giữ đầu ngón áp út co xuống lòng bàn tay và ngón trỏ, ngón giữa,
và ngón út duỗi thẳng.
13- Tức là
với lòng bàn tay hướng ra ngoài, các ngón chỉ thẳng.
14- Tất cả
những vị này là các Đạo sư Phật giáo hiến mình cho các thực hành thiền định Tara.
15- Không
nhận diện được; có lẽ là một miền nào đó ở châu Á.
16- Đức
Avalokiteshvara, Tara, và Padmasambhava.
17- Đó là
tiến tới sự suy tàn giống như mặt trời chìm xuống đại dương.
18- Một từ
tập hợp chỉ các lực lượng đối kháng lại niềm vui và hạnh phúc của chúng sinh và
sự hưng thịnh của Phật Pháp.
19- Dấu hiệu
bánh xe Pháp (Pháp luân) trên lòng bàn chân và lòng bàn tay là một trong ba
mươi hai tướng chính của sự toàn thiện vật lý tô điểm cho thân tướng của một vị
Phật.
20- Tên
Dawa Drolma (Tara Mặt Trăng) bằng tiếng Phạn.
21- Xem
Chương 2, chú thích 1.
22- Ngũ
trược (năm suy hoại): suy hoại do suy giảm thọ mạng, phát triển những cảm xúc
phiền não, phát triển sự đối kháng các giáo lý tâm linh, phát triển sự tranh
chấp và xung đột, và bảo thủ những quan điểm tâm linh.
23- Tức là
sự tái sinh trong cõi người được coi là sự hỗ trợ hay nền tảng lý tưởng để
thành tựu giải thoát tâm linh.
24- Giòng
này có vẻ sai lạc trong bản thảo và đã được sửa lại theo đề nghị của Chagdud
Rinpoche. Rinpoche cảm thấy đoạn văn sau đây dễ được chấp nhận hơn: “Nếu các
bạn lầm lạc nhân và quả, các bạn sẽ phải chịu đau khổ không ngừng dứt.”
25- Trong
Phật Giáo Kim Cương thừa, các nghi lễ phức tạp hơn cho phép một hành giả tu tập
những kỹ thuật thiền định đặc biệt bao gồm bốn cấp độ quán đảnh.
26- Xem Một
Trăm Ngàn Bài Ca của Milarepa, bản dịch của Garma C.C. Chang (Boulder:
Shambhala, 1977), quyển 2, từ trang 357 tới 361, “Tseringma và Thực hành
Mudra,” về các chi tiết của cuộc gặp gỡ giữa Milarepa và thiên nữ Tseringma.
Việc nhắc tới kinh mạch trung ương có liên quan với các thực hành yoga cao cấp
trong Phật Giáo Kim Cương thừa.
27- Đó là
chú của Dawa Drolma, ngài Drimed Khakyod Wangpo; xem Chương 1.
28- Một thị
kiến thuộc nghiệp là một trạng thái của tri giác được tác động lên những chúng
sinh bình thường do bởi nghiệp của họ.
29- Cá nhân
này, cũng được đề cập tới trong Chương 1, thực sự là hóa thân của cậu của Dawa
Drolma, không phải là liên hệ huyết thống của bà. Đó là Tromge Trungpa, vị đã
tiên đoán cho Chagdud Rinpoche là thực hành thiền định chính của ngài Chagdud
sẽ là thiền định Tara. Tromge Trungpa mất năm Chagdud Rinpoche được hai mươi ba
tuổi, đó là năm 1953 hay 1954.
30- Xem
Chương 1, chú thích 44.
5. Cầu thang đưa tới Giải thoát
1- Đây là một ám chỉ Đức
Padmasambhava, sự sinh ra kỳ diệu của Ngài từ một hoa sen được tưởng nhớ trong
Lời Khẩn nguyện Bảy-Giòng. Xem Chương 1, chú thích 2.
2- Bài kệ
này là một lời cầu nguyện nổi tiếng dùng để tán thán Đức Avalokiteshvara, Bồ
Tát hiện thân lòng bi mẫn của tất cả chư Phật. Giòng thứ hai ám chỉ Đức Phật Amitabha
(A Di Đà), Pháp Vương của Liên Hoa bộ; Đức Avalokiteshvara thường được miêu tả
với Đức Phật Amitabha an trụ trên đỉnh đầu Ngài.
3- Là một
nữ Bổn tôn, Đức Tara là mẫu mực của nguyên lý tánh Không là bản tánh nền tảng
của mọi hiện tượng. Tánh Không có thể được coi là “suối nguồn” của tất cả chư
Phật (bởi Phật Quả được thành tựu nhờ hoàn toàn chứng ngộ tánh Không) và phạm
vi trong đó những phẩm tính được biểu lộ nhờ sự chứng ngộ khai mở đó.
4- Mười
thời kỳ mười-hai giờ của ngày và đêm – nói cách khác là trọn năm ngày.
5- “Vua và
các thần dân” ám chỉ một nhóm hai mươi lăm người Tây Tạng đã trở thành các đệ
tử thân thiết của Đức Padmasambhava khi Ngài lưu trú ở Tây Tạng. Nhóm này gồm
có vua Tây Tạng, T’hrisrong Detzan mà trong thời gian trị vì của nhà vua, Đức
Padmasambhava đã tới Tây Tạng, và những vị khác (các ngài là những người Tây
Tạng nên dĩ nhiên là thần dân của nhà vua), bao gồm hoàng hậu, Đức Yeshe
Tsogyal, các tể tướng trong triều đình, các Đạo sư Phật giáo cư sĩ hoặc tu
sĩ.
6- Đó là
tích tập công đức, tịnh hóa các hậu quả của những ác hạnh, và tăng trưởng các
phẩm tính tích cực của ta.
7- Hư Không
Tạng Bồ Tát, một trong tám Bồ Tát chính yếu, thiền định của Ngài đặc biệt hiệu
quả trong việc tịnh hóa những hậu quả của các ác hạnh dẫn tới việc tái sinh trong
các cõi thấp.
8- Sự tỉnh
giác mọi sắc tướng đều là thân tướng của Bổn tôn, mọi âm thanh là thần chú, và
mọi tư tưởng và hoạt động tinh thần là sự phô diễn của giác tánh nguyên
sơ.
9- Thân,
ngữ, và tâm.
10- Xem
Chương 2, chú thích 67.
11- Xem
Chương 1, chú thích 103
12- Xem
Chương 3, chú thích 10.