Phần Hai Giáo Pháp Uyên Thâm Của Giải Thoát Tự Nhiên Qua Sự Thiền Định Hiền Minh Và Phẫn Nộ: Giai Đoạn Hoàn Thiện Các Hướng Dẫn Về Sáu Bardo

06/10/201012:00 SA(Xem: 14252)
Phần Hai Giáo Pháp Uyên Thâm Của Giải Thoát Tự Nhiên Qua Sự Thiền Định Hiền Minh Và Phẫn Nộ: Giai Đoạn Hoàn Thiện Các Hướng Dẫn Về Sáu Bardo

PHẦN HAI

GIÁO PHÁP UYÊN THÂM CỦA 
GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN QUA SỰ THIỀN ĐỊNH HIỀN MINH VÀ PHẪN NỘ

GIAI ĐOẠN HOÀN THIỆN

CÁC HƯỚNG DẪN VỀ SÁU BARDO

3

Sự Giải Thoát Tự Nhiên của Nền Tảng:
Các Hướng Dẫn dựa trên Kinh Nghiệm về
Tiến Trình Chuyển Tiếp của Cuộc Sống

Kính lễ đến Bậc Bảo Hộ nguyên sơ, Đức Samantabhadra bất sinh,
Đến các Báo Thân Bổn Tôn hiền minh và phẫn nộ, các vị là sự diễn tả sáng tạo bất tận của Ngài,
Đến vô hạn lưu xuất của nhiều Hóa Thân xuất hiệngiải thoát khác nhau,
Đến những Bổn Tôn hiền minh và phẫn nộ của ba hiện thân.
Vì lợi ích của những chúng sanh tương lai của một thời đại suy đồi,
Ta, Padmasambhava, không bị nhiễm ô bởi một tử cung,
Đã kết hợp tất cả thiền định của Đấng Chiến Thắng 
Và đã thiết lập chúng như sáu loại bardo.
Tất cả chúng đều tùy thuộc vào thực hành nền tảng,22
Thế nên Ta hiển lộ sự giải thoát tự nhiên qua thiền định này
Các hướng dẫn dựa trên kinh nghiệm của những giáo lý cốt tủy về các bardo.
Này, con người của tương lai, hãy thực hành trong cách này!
Samaya.

Khi tác giả, Đức Padmasambhava nói Ngài “không bị nhiễm ô bởi một tử cung” có nghĩa Ngài không bị nhiễm ô bởi việc sinh ra từ một tử cung, vì Ngài đã sinh ra từ một hoa sen nở rộ. Khi Ngài nói, “Này, những người của tương lai,” Ngài nhắc đến tất cả chúng ta, những chúng sanh đang lang thang trong sinh tử và vẫn chưa giải thoát.

Giữa tất cả hiện tượng của luân hồiniết bàn, không có gì mà không bao gồm trong sáu bardo, hoặc các tiến trình chuyển tiếp. Cách áp dụng chúng vào thực hành được dạy bằng ba chủ đề chính: (1) hai loại thực hành chuẩn bị làm phát sinh trạng thái thiền định ở những người chưa xuất hiện trạng thái này, (2) những hướng dẫn về chánh hành pháp cho những người đã phát sinh trạng thái thiền định này, và (3) và giai đoạn tiếp theo để nâng cao.

Giai đoạn kết thúc; tiếp theo sau này, có mục đích xua tan che ám, để đem lại ân phước, và để nâng cao thực hành.

Trong các thực hành tiên khởi, có những hướng dẫn để rèn luyện dòng tâm thức bạn: gồm bốn phần; các hướng dẫn về quy ytâm linh tỉnh thức; những hướng dẫn về một trăm âm để tịnh hóa tội lỗi; những hướng dẫn về guru yoga; để cho phép bạn nhận được ân phước; và các hướng dẫn về thực hành Pháp của mandala, làm viên mãn hai tích lũy.

“Một trăm âm tẩy tịnh tội lỗi” ám chỉ mantra một trăm chữ của Đức Phật Vajrasattva. Những hướng dẫn về guru yoga là để nâng cấp sự ban phước cho những người đã hoàn toàn tiếp nhận và đem sự ban phước cho những người chưa được nhận. Liên quan đến thực hành mandala, “hai tích lũy” ám chỉ sự tích lũy công đứctrí tuệ.

Các hướng dẫn để điều phục dòng tâm thức bạn có ba phần: suy niệm về sự khó có được thân người với nhàn rỗithuận lợi, suy niệm về những đau khổ của sinh tử, và thiền định về cái chết và vô thường. Thực hành tiên khởi bảy bậc này là để áp dụng vào thực hành. Trong cách đó, bạn thiền định và thiết lập trên các thực hành tiên khởi cho đến khi phát sinh kinh nghiệm.

Trong các thực hành tiên khởi, phần thứ hai gắn liền với việc hàng phục dòng tâm thức bạn. Các thực hành bảy bậc này gồm phần đầu tiên có bốn bậc và phần thứ hai có ba bậc. Chúng ta nên thực hành “cho đến khi kinh nghiệm xuất hiện”. Ví dụ, bạn nên tiếp tục thiền định về những đau khổ của luân hồi cho đến khi tâm bạn chuyển khỏi sinh tử. Tương tự, hãy tiếp tục thiền định về cái chết và vô thường cho đến khi bạn chắc chắn đạt được về các thực tại này. Nói khác đi, hãy thực hành cho đến khi bạn đạt được kết quả.

Nhiều người trong các bạn có thể cảm thấy rất quen thuộc với Bốn Tư Tưởng Làm Chuyển Tâm. Ngoài ra, một số trong các bạn đã thực hiện tụng niệm một trăm ngàn lần thực hành này sang thực hành khác. Một số trong các bạn có thể đã hoàn tất thực hành tiên khởi thậm chí hai hoặc ba lần, và tâm vẫn chưa thực sự thay đổi. Sự chuyển hóa được thiết kế cho điều này chưa chiếm chỗ; hoặc trong một số trường hợp, sự chuyển hóa có chiếm chỗ nhưng sau đó tâm bạn lại quay lại với cách cũ. Bạn vẫn còn bị sinh tử ám ảnh, vẫn bị tham dục thế gian ám ảnh, v.v... Bám chấp và bám luyến lại tiếp tục. Nói riêng, có những hành giả của Pháp lâu năm lúc đầu có một số chuyển hóa tích cực qua thực hành của họ,; nhưng khi thời gian trôi qua họ bị thoái bộ khiến bây giờ họ chẳng tốt hơn lúc ban đầu.

Trong sự thực hành giai đoạn thực tế, có sáu phần: các hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của lúc sống, bao gồm sự giải thoát tự nhiên của nền tảng (các hướng dẫn thực tế giống như chim én bay vào tổ); các hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng, bao gồm sự giải thoát tự nhiên của nhầm lẫn rối loạn (các hướng dẫn thiết thực giống như cầm một ngọn đèn trên cao trong một phòng tối); các hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của thiền quán an định, bao gồm sự giải thoát tự nhiên của tỉnh giác (các hướng dẫn thiết thực giống như đứa bé đi lạc tìm thấy mẹ của nó); các hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của sự cận tử, bao gồm sự giải thoát tự nhiên của việc nhớ lại sự chuyển di tâm thức (các hướng dẫn thiết thực giống như gửi đi mệnh lệnh của một vị vua đã được niêm ấn), các hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại, bao gồm sự giải thoát tự nhiên của cái thấy (các hướng dẫn thiết thực giống như đứa bé bò vào lòng mẹ); và các hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành (các hướng dẫn thiết thực giống như nước trong ống được hoà với mạch).

Sự thực hành tiến trình chuyển tiếp của cuộc sống giống như chim én bay vào tổ. Nếu bạn theo dõi cách một con chim én chuẩn bị tổ của nó, trước tiên nó khảo sát môi trường để chắc rằng gần đó có nước. Sau đó tìm một vị trí an toàn để xây tổ nhằm đem chim con lên. Khi tìm được nó sẽ xây tổ và đem chim con lên, vì chẳng còn lo lắng về bất cứ thứ gì nũa.

Các hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp thứ hai liên quan đến tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng, bao gồm sự giải thoát tự nhiên của rối loạn nhầm lẫn. Các hướng dẫn này giống như cầm một ngọn đèn trên cao trong một phòng tối. Nếu đi vào một phòng tối tăm, hiển nhiên rất khó di chuyển vì bạn không thể thấy bất kỳ thứ gì; nhưng nếu một người bạn đồng hành giơ lên một ngọn đèn, bạn có thể thấy rõ ràng. Giống như sự loại suy này, với việc thực hành Pháp, điều rất quan trọng là dấn thân thực hànhhệ thống của lắng nghe, suy niệm, và thiền định. Nhờ làm như vậy, các che ám trong thực hành tâm linh của bạn được loại trừ, và bạn trau dồi những phẩm tính của sự tỉnh thức, nội quan (tự suy xét nội tâm) và sự tận tụy.

Thứ ba, những hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của thiền quán an định, bao gồm sự giải thoát tự nhiên của tánh giác, gồm các hướng dẫn thiết thực giống như đứa bé đi lạc gặp được mẹ của nó. Sự loại suy ở đây là của đứa bé lạc mất mẹ. Không biết mẹ ở đâu, nó tìm quanh, trải qua buồn bã và khổ sở. Tuy nhiên, cuối cùng nó gặp được mẹ. Ngay khi người mẹ và đứa con đi lạc gặp nhau, việc đứa con ở bên mẹ là không còn nghi ngờ gì nữa và ngay cả người mẹ cũng vậy. Cả hai phía đều hoàn toàn nhận biết. Tương tự, điều quan trọng là chúng ta thực hành việc lắng nghe, suy niệm, và thiền định theo thủ tục hệ thống. Trong việc làm như thế, chúng ta trước hết phải đạt được sự nhận biết của hai loại không đồng nhất, cụ thể là sự không đồng nhất của cá nhân và sự không đồng nhất của hiện tượng. Nhờ dấn thân vào thực hành như vậy, chúng ta tiến đến việc nhận ra tự tánh mình, và điều này giống như việc loại suy của đứa bé đi lạc nhận ra mẹ của nó.

Sự loại suy này gắn liền với thực hành Atiyoga trong tổng thể. Nhiều người đọc điều này có thể chưa thọ nguyện quy y của đạo Phật, và điều đó cũng tốt. Bạn vẫn được chào đón để đọc giáo lý này. Nếu có khao khát đạt giác ngộ trong chính đời này, bạn được chào đón để đi vào thực hành này. Nếu bạn làm như vậy và thực hành theo hướng dẫn, tôi bảo đảm rằng điều này sẽ lợi ích cho bạn. Tôi đưa ra bảo đảm này, không chỉ dựa trên nền tảng kinh nghiệm của chính tôi hoặc một vài nhận biết mà tôi có, mà do dòng truyền và khởi nguyên của giáo lý này. Các giáo lý này bắt nguồn từ đức Phật Samantabhadra. Và được đức Padmasambhava soạn thảo. Giáo lý dựa trên nền tảng giác ngộ sâu xa của Phật Samantabhadra, Guru Rinpoche, và dòng truyền từ các Ngài đến hiện nay mà tôi nói hoàn toàn chắc rằng, nếu bạn áp dụng giáo lý này vào thực hành, nó sẽ dẫn đến kết quả trong sự giải thoát của chính bạn. Bạn có thể thực hành giáo lý này dù có thọ nguyện quy y hay không. Lý do tôi muốn đưa ra điều này cho tất cả các bạn, vì chúng ta đều là chủ thể cho cái chết. Tất cả chúng ta sẽ chết. Với những người trong chúng ta đã tụ hội để tiếp nhận giáo lý này, chúng ta sẽ đi về đâu khi rời khỏi đây? Chúng ta định đi đến đâu? Có phải chúng ta bắt đầu đến Nga? Có phải chúng ta bắt đầu chiến tranh? Chúng ta có một số chương trình nghị sự lớn? Rõ ràng là không. Chương trình nghị sự của chúng ta là năm độc có trong tâm thức chúng ta, và đó là kẻ thù thật sự. Thực hành này làm chúng ta có khả năng trở thành một chiến binh có thể chiến thắng phiền não của tâm thức của chính chúng ta. Do làm như vậy, chúng ta đạt giải thoát. Nếu muốn đạt giác ngộ, bạn được chào đón để thực hành giáo lý này.

Thứ tư là các hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp lúc cận tử, bao gồm sự giải thoát tự nhiên của việc nhớ lại sự chuyển di tâm thức. Những hướng dẫn thiết thực này giống như việc gửi đi mệnh lệnh được niêm ấn của nhà vua. Nếu một vị vua phái một sứ thần với mệnh lệnh được niêm ấn, thì vị sứ giả chịu trách nhiệm gửi mệnh lệnh này, và làm đúng như mệnh lệnh của nhà vua. Tương tự, khi mỗi người trong chúng ta ở tiến trình cận tử, thậm chí nếu chúng ta chưa đạt được nhận biết trong hai giai đoạn phát triểnhoàn thiện; và ngay cả nếu chúng ta chưa đạt được nhận biết của Đại Viên Mãn; nếu chúng tagiáo lý về sự chuyển di tâm thức này, cũng giống như nhận được mệnh lệnh của nhà vua. Đó là, giáo lý này đủ để mang chúng ta qua tiến trình cận tử trong một cách ích lợi và rất ý nghĩa. Bắt đầu từ bây giờ, chúng ta nên tham gia trong sự quán chiếu trên Bốn Tư Tưởng Làm Chuyển Tâm và chuẩn bị tâm thức để có thể thực sự tận dụng trong thời điểm của tiến trình cận tử. Suy nghĩ về cái chết, chúng ta có thể tự hỏi, “Vậy, bạn cần thị thực không? Bạn có cần một thông hành đi qua biên giới không?” Câu trả lời là, “Không, bạn chuẩn bị đi ngay lập tức, có hay không có thị thực, bạn phải đi ngay.” Tuy nhiên, những gì chúng ta chưa chuẩn bị để làm ngay bây giờ là chết với sự giải thoát, và giáo lý này cống hiến cho chúng ta cơ hội đó.

Kế tiếp là hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại, bao gồm sự giải thoát tự nhiên của cái thấy. Hướng dẫn thiết thực này giống như đứa bé sà vào lòng mẹ. Phép loại suy này gắn liền với rèn luyện từng bước một trong sự nhận biết hai loại không đồng nhất, tiếp nhận hướng dẫn đến bản tánh của tỉnh giác của vị thầy tâm linhtham gia trong hai giai đoạn của Atiyoga – cụ thểXuyên Thấu đến thanh tịnh khởi nguyên và Nhảy-Vọt vào hiện diện tự nhiên. Do làm như vậy, một số người có thể đạt giải thoát trong tiến trình của cuộc sống này, trước khi hấp hối. Người khác có thể đạt giải thoát trong tiến trình cận tử; số khác có thể đạt giải thoát trong tiến trình sau cái chết; và số khác có thể đạt giải thoát vào thời điểm thụ thai. Bất kể người ta đạt được nhận thức, điều này cũng giống như đứa bé sà vào lòng mẹ. Như trong sự loại suy trước đó của đứa bé nhận ra mẹ nó, đây là một nhận thức hoàn toàn thoát khỏi nghi ngờ. Hoặc bạn nghĩ trườn vào lòng đức Phật Samantabhadra, hay bò vào lòng của tánh giác, thì đây là con đường để đi theo.

Hướng dẫn cuối liên quan đến tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành, bao gồm giải thoát tự nhiên của sự trở thành. Các hướng dẫn thiết thực này giống như việc vá lại chỗ bể trong một ống nước. Sự loại suy đó gắn liền với hoàn cảnh hiện tại đang lang thang trong luân hồi của chúng ta, không nhận ra được tự tánh mình. Hiện tại chúng ta bám chấp vào những gì không là “cái tôi” như là “tôi” và những gì không thực sự hiện hữu như thực sự hiện hữu. Do không chống nổi sự nhầm lẫn như vậy, chúng ta có vẻ như cắt rời ống mạch cung cấp sự nối kết giữa đức Phật Samantabhadra với chúng ta. Nhờ dấn thân trong thực hành này, chúng ta tự tái kết nối đến suối nguồn này. Nó giống như đặt một ống nước nối với suối dẫn đến cánh đồng mà bạn muốn tưới. Từ viễn cảnh của vô minh, nó trông giống như thể chúng ta cố gắng tái thiết lập một kết nối giữa đức Phật Samantabhadra với chúng ta. Tuy nhiên, về mặt thực tại, Phật Samantabhadra và chúng ta cùng một bản tánh. Do vậy, tiến trình ở đây là là một nhận biết của tự tánh tương tự như của Phật Samantabhadra. Điều này kết thúc nguyên tắc chung của sáu tiến trình chuyển tiếp.

Như đã nhắc đến trước đây, cái đầu tiên của của sáu tiến trình chuyển tiếp – cụ thể là tiến trình chuyển tiếp lúc sống, bao gồm sự giải thoát tự nhiên của nền tảng – chứa đựng các hướng dẫn thiết thực giống như chim én đi vào tổ nó. Giống như chim én quan sát chung quanh trước khi xây tổ, với những thực hành cao hơn, bao gồm các giai đoạn của phát triển hay hoàn thiện, Xuyên Thấu đến thanh tịnh bổn nguyên, và Nhảy-vọt vào hiện diện tự nhiên, thì sự chuẩn bị là yếu tố cần thiết. Về mặt thực hành thì điều đó có nghĩa gì? Chúng ta cần rèn luyện tốt chính mình trong Bốn Tư Tưởng Làm Chuyển TâmTứ Diệu Đế, bằng việc làm như vậy, khiến tâm chúng ta thoát khỏi luân hồi lôi cuốn. Điều này không có nghĩa rằng khi tiến bộ trong rèn luyện này bạn phải từ bỏ vợ hay chồng mình. Những gì bạn phải từ bỏba độc của tâm, và những gì bạn đang chuyển khỏi là luân hồi. Trong tiến trình, thực ra những việc bạn làm là có một người tình mới, đó là sự giải thoát. Điều này trở thành tình yêu thực sự của bạn.

AN ĐỊNH

Đặt Thân, Khẩu, và Ý trong Trạng Thái Tự Nhiên của Chúng

Với sự thực hành các hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của cuộc sống (các hướng dẫn thiết thực giống như chim bồ câu vào tổ của nó, là sự cắt hết những thêm vào bên ngoài và bên trong), đây là một sự thiết lập ý thức nền tảng, và cái đầu tiên của ba phần là sự đặt thân, khẩu, và ý trong trạng thái tự nhiên của nó.

Mục tiêu của thực hành này là chuẩn bị cho tiến trình cận tử của chúng ta khi cái chết sắp xảy đến, chúng ta đã chuẩn bị tốt cho nó, chúng ta vui vẻ tiếp nhận nó, và sẵn sàng đi đến một cõi Tịnh Độ. Đó là mục đích của giáo lý này. Để đi theo hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của cuộc sống, điểm trọng yếu đầu tiên là đặt thân trong trạng thái tự nhiên của nó.

Đặt thân trong trạng thái tự nhiên của nó. Nếu bạn không biết đặt thân bạn trong một tư thế tốt như thế nào, trạng thái thiền định chân thật sẽ không xuất hiện trong dòng tâm thức bạn, hoặc ngay cả có xuất hiện, nó sẽ có vấn đề; do vậy tư thế thật quan trọng. Khi thân thẳng thì kinh mạch thẳng, khi sinh lực tồn tại thẳng, tánh giác được đặt trong trạng thái tự nhiên của nó; và trạng thái thiền định xảy ra tự nhiên.

Trạng thái thiền định xuất hiện khi đặt tư thế trong cách đó, vì tâm phụ thuộc trên sinh lực trong thân và trên kinh mạch, v.v... Trên việc hiểu biết về tư thế đúng, với tư thế bảy điểm Vairocana, gồm ngồi kiết già, bạn có thể nghĩ, “Ồ, không chỉ là đau đớn, mà đơn giản là tôi không thể,” hoặc “thân tôi yếu kém không thể ngồi được tư thế đó. Vậy điều đó có nghĩa là tôi không có hy vọng thiền định?” câu trả lời là, “Không, không nên thất vọng”. Hãy tiến hành và thực hiện. Có niềm tin, hãy làm tốt nhất khi bạn có thể, và điều này có thể dẫn đến kết quả hoàn toàn tốt. Đừng bỏ cuộc vì bạn không thể ngồi trong tư thế đặc biệt đó.

Thế nên, để đặt thân trong trạng thái tự nhiên về mặt hoạt động thân thể, người mới xuất gia hay hành giả mới tu nên hoàn toàn từ bỏ mọi hoạt động thế gian, bên ngoài, như nghề nông. Bên trong, cũng ngưng thực hành tâm linh như đảnh lễđi nhiễu quanh. Một cách bí mật, hãy thiền định kiên cố và không dao động trong tư thế thích hợp, thân thể hoàn toàn không di chuyển. Đó là vì một khi thân được đặt trong trạng thái tự nhiên của nó, trạng thái thiền định phải xuất hiện.
Bên ngoài, hãy làm đơn giản hóa cuộc sống bạn. Bên trong, trạng thái thiền định xuất hiện tự nhiên như kết quả của việc ngồi trong tư thế đúng.

Adhisara23 [23]thực sự của thân được thấm nhuần bảy thuộc tính thân của Vairocana: hai chân đặt trong tư thế vajrasana (kiết già), tay kết định ấn, xương sống thẳng như một mũi tên, bụng ép vào xương sống, cổ hơi cúi, đầu lưỡi đặt trên vòm miệng, và không tập trung vào bất cứ thứ gì, hai mắt nhìn tâïp trung vào khoảng không giữa đầu mũi. Tư thế không lỗi của thân bạn theo đúng bảy thuộc tính này. Nếu bạn biết cách thiết lập adhisara tự nhiên, trạng thái thiền định sẽ xảy ra tự nhiên.

Đặt khẩu trong trạng thái tự nhiên của nó. Trong việc đặt khẩu trong trạng thái tự nhiên của nó, cũng có ba phần: hãy hoàn toàn từ bỏ mọi đối thoại và nói chuyện vô ích, rối loạn và trụ trong im lặng; bên trong, ngưng lại những hoạt động tâm linh và các chuyển động làm phân tán, trụ trong im lặng; bí mật, hãy ngưng hoạt động tụng niệm và mantra. Đặt ngữ của bạn trong im lặng tự nhiên, giống như đàn bị cắt dây.

Đặt ý trong trạng thái tự nhiên của nó. Trong việc đặt tâm trong trạng thái tự nhiên của nó, cũng có ba phần: trong khi giữ thân và khẩu như trước đó, hãy để tâm bạn tỉnh thức, không tham gia bất kỳ tư duy nào liên quan đến các hình tướng lừa dối trước hay sau của ba thời, hãy đặt tâm thăng bằng không tham dự vào bất cứ tư duy thiện nào như thiền quán Bổn Tôn; bí mật, hãy đặt tâm trong trạng thái tự nhiên của nó bằng cách đặt nó đúng như nó là, kiên định, trong sáng, và tỉnh thức trong không gian trước bạn, trong cách thức hiện hữu của tâm, không đem tâm tham gia vào bất cứ tư duy tinh thần nào của cái thấy và thiền định đòi hỏi sự chấp bám của tâm thức. Hãy thực hành điều này ba ngày.

Trong giai đoạn thực hành này, bạn đừng đem vào tâm bất cứ tư duy nào của cái thấy – cái thấy của Atiyoga hay cái thấy của tánh Không... Đó là, bây giờ bạn không suy niệm hai loại không đồng nhất hoặc tham gia vào sự khảo sát bản tánh lan man của tư tưởng xuất hiện, tồn tại và biến mất. Giờ đây đơn giản hãy để tâm ở trong trạng thái tự nhiên của nó không có bất cứ bám chấp tâm thức nào. Hãy thực hành hướng dẫn trên trong ba ngày.

Một số người trong các bạn có thể tự hỏi làm cách nào để “đặt tâm trong trạng thái tự nhiên của nó đúng như nó là, một cách kiên định, trong sáng, và tỉnh thức trong không gian phía trước, trong cách hiện hữu riêng của tâm.” Nó là tỉnh giác bình thường của hiện tại này, đó là bản tánh của tâm, là thật tánh của luân hồiniết bàn. Nó không phải là vật chất trong bản tánh, và không bị nhiễm ô bởi ba thời: quá khứ, hiện tại, và tương lai. Nó không phải là điều gì đó lợi ích hay làm hại bởi sự khái niệm hóa của ba thời. Trạng thái tự nhiên của tâm này là bản chất của tâm. Nó là trạng thái tự nhiên của riêng nó, không phải điều gì đó được tạo tác và không trở thành như nó là theo một số truyền thống đặc biệt. Ngoài ra đây là bản tánh vốn sẵn, tự nhiên của tâm. Đây là những gì lưu xuất khi tâm được để cho an trụ trong trạng thái tự nhiên không rối loạn của nó. Bản tính này là gì? Bản tánh vốn sẵn của tâm là một với sự hiện diện tự nhiên.

Người ta có thể nói rằng tâm không phải là điều gì đó hiện hữu như một sự vật. Nó không có hình tướng, cũng không có chất liệu vật chất. Bất cứ vị Phật nào cũng chưa từng thấy nó như một sự việc hiện hữu thật sự. Mặt khác, tâm cũng không phải không hiện hữu. Đúng như tâm không phù hợp với quan điểm quá khích của hiện hữu, cũng không phù hợp với quan điểm cực đoan của không hiện hữu, hay chủ thuyết hư vô. Tâm này là nền tảng của tất cả luân hồiniết bàn. Bản tánh nguyên sơ của nó là của Pháp Thân. Những phẩm tính của tâm là hai tướng hiện thân: Báo ThânHóa Thân. Về mặt con đường, có ba phẩm tính được trau dồi trong thiền định: cụ thểcực lạc, trong sáng, và phi khái niệm. Đây là những điểm đặc trưng nổi bật của con đường đến giác ngộ, và tương ứng từng cái một với ba hiện thân của đức Phật. Tuy nhiên, nếu xảy ra bám chấp vào ba phẩm tính này – cực lạc, trong sáng, và phi khái niệm – khi chúng xuất hiện, sau đó những phẩm tính tương tự sẽ chỉ dẫn đến một chu trình sinh tử bất tận. Trái lại, nếu hành giả không phản ứng với bám chấp vào những phẩm tính này, thì cực lạc, trong sáng, và phi khái niệm phát sinh lần lượt với ba hiện thân: Nirmanakaya, Sambhogakaya, và Dharmakaya.

Cái được gọi là tâm của chúng ta, đó là sự tỉnh giác liên tục, bận rộn, và nhớ lại mọi sự, hoạt động như căn bản của toàn bộ luân hồiniết bàn; nên nó được ban danh hiệu là nền tảng. Gốc rễ của mọi hạnh phúc và đau buồn là chính tâm bạn, nên điều quan trọng trước tiênthiết lập tâm. Tâm của người mới tu giống như một con ngựa hoang, nếu bạn săn đuổi nó một cách hung hăng, nó sẽ hoảng sợ và không thể bắt được nó. Do vậy, hãy dụ dỗ nó theo nhiều cách khác nhau và giữ nó nhẹ nhàng, sẽ bắt được nó và có thể đưa vào làm việc. Tương tự, nếu tâm hoang dã này bị kiểm soát một cách hùng hổ, thì niệm tưởng càng tuôn chảy nhiều hơn, các chướng ngại sẽ xuất hiện và sản sinh vô số vấn đề như sự mất quân bình của năng lượng sinh lực của trái tim. Bằng cách nhẹ nhàng đặt tâm trong trạng thái tự nhiên của nó, sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau, sự an định đích thực sẽ xuất hiện trong dòng tâm thức bạn.

Tâm này được gọi là nền tảng là căn bản của hạnh phúcđau khổ. Chúng ta là những người mới tu trong thực hành này. Do vậy, tâm chúng ta như những con ngựa hoang. Ở đây, chúng ta phải chú ý cách tiếp cận quá hăng hái để điều phục tâm. Nếu bạn không có vị thầy tâm linh đã kinh nghiệm hoặc bạn không đi theo một thực hành tốt, thì có thể bạn tiếp cận cố làm tâm yên tĩnh một cách quá mãnh liệt. Nếu bạn làm điều đó với một con ngựa, nó sẽ lồng lên, hí vang, và bắt đầu nhảy chụm bốn vó. Tương tự, tâm phản ứng rất giống vậy khi bị kềm chế một cách quá hăng háiphản ứng với việc gia tăng khích động dựa trên khái niệm. Nếu khăng khăng trong cách tiếp cận hùng hổ này để hàng phục tâm, thay vì thành công, bạn sẽ chỉ tạo ra những vấn đề về thân và tinh thần cho chính bạn. Vì các lý do này nên một con đường tiệm tiến đã được dạy, trước tiên bắt đầu điều phục tâm bằng ý nghĩa của Bốn Tư Tưởng làm Chuyển Tâm và sau đó từng bước đi vào thực hành này. Như đức Padmasambhava trình bày ở đây, bằng việc sự dụng nhiều kỹ thuật đặt tâm khác nhau, an định chân thực sẽ phát sinh trong dòng tâm thức bạn.

Liên quan đến tâm này, chúng ta có thể hỏi, “Tâm này là gì? Nó là điều gì đó mà người khác có? Nó là điều gì đó đặc biệt chăng?” câu trả lời là “không”; tâm này là cái tất cả chúng ta đều có. Nếu nghĩ rằng tâm bạn hoàn toàn an bình, thì hãy kiểm tra lần nữa, nếu tâm bạn thường xuyên bị nô dịch hóa bởi bất kỳ ba độc bám luyến, sân hận, hay ảo tưởng, thì điều này chỉ rõ tâm không an bình. Tâm giống như dòng chảy của một con sông. Đôi khi nó xuất phát dưới sự thống trị của tức giận, bám luyến, kiêu mạn... Tâm được thảo luận ở đây chỉ là dòng chảy đang xảy ra của ý thức, mà đó là chủ thể cho những phiền não này.

Sự Thực Hành An Định Thực Tế

Những hướng dẫn về an định với các dấu hiệu. Trước tiên, hãy trau dồi động cơ của bạn bằng việc nghĩ, “Cầu mong tất cả chúng sanh khắp không gian đạt được tỉnh thức hoàn toàn. Để điều này có thể xảy ra, trong chính cuộc đời này, ngay tại lúc này, và trên chính đệm này, cầu mong con đạt được trạng thái vô song, quý báu này. Để thỏa mãn nhu cầu của chúng sanh, tuy họ có thể được rèn luyện, con sẽ trau dồi Giáo Pháp Đại Thừa. Trong việc kết hợp với guru yoga, hãy đặt thân, khẩu, và ý của bạn trong trạng thái tự nhiên. Nhận thức rằng tư thế thân với bảy thuộc tính của Vairocana phục vụ như căn bản cho mọi đệ tử thiền định. Trong khi duy trì chúng, hãy đặt trước bạn một vật nhỏ như một que hay một hòn sỏi nhỏ. Nhìn chăm chú liên tục vào nó không chớp mắt, và cùng lúc hãy đặt sự chú ý lên nó một cách liên tục, rõ ràng, và sống động, không bị sao lãng bởi bất cứ thứ gì khác. Đừng đẩy mạnh sự tích cực chú ý vào nó. Hãy đặt sự tỉnh thức sống động của bạn chỉ trên sự hỗ trợ thiền quán không dao động không bị sao lãng bởi bất cứ việc thông thường nào. Hãy an trụ trong sáng, nhẹ nhàng giải thoát vào một cảm giác an nhàn, và thư giãn một chút. Trong lúc đó, để tâm thanh thản một cách tự nhiên, không dao động, và kiên định trên thiền quán hỗ trợ đó, không đi vào sự phân tán của tư tưởng. Bản văn sự Chuyển Hóa Lòng Bi vào Con Đường trình bày, “Thiền định trong sự rõ rànghoan hỷ, cắt đứt tâm thức phân tán trong nhiều thời ngắn”. Đừng thọc ngọn giáo của sự chú ý của bạn vào đối tượng thiền quán. Ví dụ, bạn có thể tập trung chú ý vào thiền quán như thể bạn giương dây cung nhắm mũi tên vào mục tiêu. Đó không phải là cách tập trung tâm bạn ở đây vì chứa đựng quá nhiều cố gắng và mãnh liệt. Đúng hơn, chỉ thanh thản tâm bạn một cách nhẹ nhàng trên đối tượng đó. Ngài Dudjom Lingpa minh họa điểm này với chú giải, “Hãy đơn giản thanh thản việc nhìn chăm chú của bạn để không bị mất tỉnh giác của không gian bạn. Đánh mất sự tỉnh giác của không gian bạn khi mắt bạn bắt đầu nhìn quanh và nhìn vào sự vật khác. Hãy tập trung đủ để cái thấy của tánh giác không bị mất, và không nên mạnh mẽ hơn như vậy.

Do có những thời công phu ngắn, bạn chống lại được các vấn đề của sao lãng và khích động; và nhờ có nhiều thời thiền, trạng thái thiền quán không lỗi xuất hiện, vậy hãy rèn luyện theo cách đó.

Với những người mới bắt đầu như chúng ta, rất khó có được một thời công phu thiền quán dài với chất lượng cao; do vậy tốt hơn nên có nhiều thời ngắn mà chúng ta có thể thực hiện trong một ngày. Bằng viẹâc làm như vậy, bạn tránh được các vấn đề về sao lãng, đó là cảm giác tỉnh giác bị chìm đắm (hôn trầm) khi sự trong sáng bị mất. Đây là một vấn đề chủ yếu trong thiền định. Cái thứ hai là khích động (trạo cử) xảy ra khi mất hoàn toàn sự kiểm soát tâm bạn và đầy dẫy những dạng tư duy khác nhau liên quan đến quá khứ, hiện tại, và tương lai. Vào những lúc như vậy tâm giống như một cái vạc tư tưởng sôi sùng sục, và điều này chỉ gây ra mất ngủ. Để tránh hai vấn đề hôn trầmtrạo cử này, nên tu hành nhiều thời ngắn, và trong cách này Đức Padmasambhva nói, trạng thái thiền định không lỗi sẽ xuất hiện. Do vậy, đây chính là cách thiết thực để tránh chướng ngại.

Khi kết thúc thời công phu đừng xả thiền một cách đột ngột; mà đúng hơn là với một cảm giác chu đáo, hãy nhẹ nhàng hòa nhập nó với sự cư xử của bạn và chuyển điều này vào con đường. Hãy để mọi công đức của bạn giống như một người có một chấn động vì sợ bị va chạm, và tận tâm hướng dẫn đời bạn trong một kiểu thiền định. Làm điều đó trong ba ngày.

Một người có chấn động thì không chạy quanh, mà di chuyển một cách rất cẩn thận. Tương tự, khi bạn xả thiền hãy tránh làm một cách đột ngột. Hãy cố gắng duy trì trạng thái thiền định, bao gồm sự chú tâm, tự xem xét nội tâm, chu đáo và hòa nhập nó vào tỉnh giác của bạn sau đó. Ý nghĩa của việc làm như vậy vào lúc kết thúc thời thiền là gì? Do duy trì các phẩm tính chú tâm, tự xem xét nội tâm, và chu đáo, chúng ta có thể dần dần kiểm soát tâm mình suốt thời gian ban ngày. Trên nền tảng đó, chúng ta có thể học cách kiểm soát nó suốt đêm, và cuối cùng qua tiến trình chuyển tiếp sau cái chết. do đó, thực hành này dẫn đến khả năng kiểm soát được tâm vào mọi lúc cả kiếp này và kiếp tới.

Sự quan trọng của việc duy trì trạng thái thiền định này vượt lên thời thiền theo nghi thức không chỉ giới hạn cho thực hành này. Điều này quan trọng cho mọi loại thực hành thiền định: giai đoạn phát triển, giai đoạn hoàn thiện, v.v...Tiến trình cũng giống như sự phát triển. Chúng ta không đột ngột chuyển từ trẻ em thành người lớn. Mà đúng hơn chúng ta phải cẩn thận nuôi dưỡng từ ngày này sang ngày khác, từ năm này sang năm khác, và trưởng thành một cách dần dần, cho đến khi chúng ta được như bây giờ.

Kế tiếp, hãy đặt thân bạn trong tư thế thích hợp và mọi thứ như trước. Về đối tượng thiền quán, hãy chỉ hướng trực tiếp sự chú tâm một cách sống động của bạn, không dao động, đến một bindu trắng, trong suốt, rõ ràng, chói sáng, tại điểm giữa hai lông mày. Kích cỡ khoảng một hạt đậu trắng, nó xuất hiện nhưng không có tự tánh. Thư thả một cách nhẹ nhàng trong hoan hỷtrong sáng, và đăït tâm bạn trong trạng thái tự nhiên của nó. Đừng bị tư tưởng làm gián đoạn. Hãy thiền định đúng như vậy, với nhiều thời ngắn như trước. Dấn thân vào thực hành đó trong ba ngày hay theo kinh nghiệm riêng của bạn. Bất cứ kinh nghiệm nào xảy ra từ lúc này sang lúc khác, hãy quán sát chúng.

Nhóm từ được phiên dịch ở đây như “điểm giữa hai chân mày, nguyên nghĩa ám chỉ lọn tóc xoăn giữa hai lông mày, đó là một dấu hiệu giác ngộ của một vị Phật. Nếu có được, bạn đã thật sự trong hảo tướng. Nếu không có, hãy quán tưởng một bindu trắng tại điểm giữa hai chân mày, ỏ đó sẽ có lọn tóc xoăn khi bạn thành Phật

Khi tự giải thoát chính bạn khỏi sự thúc đẩy bởi các tư duy làm gián đoạn, bạn phải buông xả hoàn toàn các tư duy, cả tốt lẫn xấu. Đừng giảm bớt cố gắng nếu tư duy sao lãng là điều tốt. Đúng hơn nên tránh hoàn toàn việc bị gián đoạn bởi các tư duy. Đối với hướng dẫn “dấn thân vào thực hành đó trong ba ngày hoặc khi chính kinh nghiệm của bạn ra lệnh”: nếu có thể đạt được nhận biết này trong cả một ngày thì điều đó thật tuyệt vời. Nếu có thể đạt trong một giờ thì tốt. Trái lại, có thể bạn cần tiêu tốn cả năm làm thực hành này trước khi kinh nghiệm đích thực xuất hiện, nếu thực sự thành thật về nó. Do đó, có thể bạn muốn tiếp tục trong thực hành này cả năm hoặc lâu đến khi nào kinh nghiệm được truy tìm xuất hiện. Điều này nhắc tôi nhớ lại một kinh nghiệm của chính mình đã xảy ra trong một thời gian dài trước đây ở Ashland. Có người đến thăm tôi ở đó và cho biết sáu tháng trước ông ta đã đạt Phật tánh, nhưng trong khoảng thời gian đó ông đã mất nó – điều đó luôn là một sự thất vọng! Kinh nghiệm đích thực thì không giống như vậy. Nó không phải là một trạng thái cao quý bạn đạt được trong một lúc rồi bị mất đi không để lại dấu vết. Sự cố gắng đạt tới ở đây là tính kiên định khởi lên trong tâm. Nó phải được duy trì và trau dồi, không phải kinh nghiệm như một ánh chớp lóe.

Kế tiếp, hãy thực hành các điểm khác như đã trình bày trước đây. Sau đó hãy quán tưởng thân bạn trống rỗng một cách rõ ràngsống động, giống như một quả bóng căng phồng.33 Tại ngực bạn, hãy quán tưởng một bindu sáng rực có kích thước khoảng một đèn bơ trung bình của bản tánh hợp nhất của tâm và năng lượng cần cho sự sống. Nó có màu xanh dương và cảm nhận của nó là sức nóng. Nó không chạm vào lưng và cũng không đụng vào ngực, mà đúng hơn hãy quán tưởng nó tại vị trí của trái tim. Lập tức hướng ý thức của bạn vào đó. Khi có sự sao lãng, hãy cắt bỏ mọi ý thức tán loạn một cách rõ rànghoan hỷ, hãy quán tưởng đối tượng thiền quán. Nếu tâm thức bạn bị khích động và không thể duy trì đối tượng thiền quán, nguyên tố của năng lượng cần cho sự sống sẽ trở nên ưu thế; vậy hãy ăn những thực phẩm bổ dưỡng, buông xả đối tượng thiền quán một chút, và thư giãn. Trong lúc đó, từng lúc một hãy duy trì sự tỉnh thức, tận tâm, không bị sao lãng bởi sự vật thông thường. Tổng quát, sự giải thoát là quan trọng nhất, do vậy hãy giải thoát tâm bạn một cách tự nhiên và thấy rằng đó là việc không bị dao động.

Trong thực hành này hãy quán tưởng thân bạn trống rỗng rõ ràng ở bên trong, và bên ngoài. Bindu ở ngay giữa thân bạn. Nếu bị khích động, điều này có nghĩa năng lượng sự sống bị dâng lên một số khu vực. Để chống lại điều đó, tác giả nói “ăn thực phẩm bổ dưỡng”. Điều này có nghĩa thức ăn béo bổ. Đừng nên ăn nhiều, mà chỉ ăn một số thực phẩm bổ dưỡng, buông xả đối tượng thiền định một chút, hãy thư giãn. Nhưng không nên nghỉ ngơi mà quên đối tượng.

Bạn nên ngăn cản sự chú ý khỏi dao động, vì nó là điều quan trọng nhất để giải thoát tâm. Sự trình bày, “giải thoát là điều quan trọng nhất” là với những người có nguyên tố gió chiếm ưu thế. Những người này cần làm nhẹ đi một chút, buông lỏng, và giải thoát tâm. Những người với các loại biến dưỡng khác nhau nên lấy điều này vào thực hành thiền quán của họ. Ví dụ, nếu bạn là người có nhiều sức nóng, hãy thiền định ở nơi mát mẻ. Nếu nguyên tố gió chiếm ưu thế, điều quan trọng là hướng nhận biết của bạn xuống phía dưới. Nếu bạn có khuynh hướng lười biếng và dễ hôn trầm, điều quan trọng là hướng sự chú ý của bạn nhìn chằm chằm lên trên. Bất cứ khi nào bạn chuyển hướng đến một thái cực khác, hãy tự cân bằng thái cực đó trong kỹ thuật thiền quán của bạn.

Ngoài ra, nếu chán nản hay buồn phiền khởi lên, tâm thức của bạn bị bóp méo, hãy thiền định về sự bất lợi của samsara, sự khó có được thân người với nhàn rỗi và khả năng, sự vô thường, trau dồi lòng sùng kínhtận tâm với vị thầy tâm linh hay lama của bạn. Hãy bằng lòng, suy nghĩ, “Giờ đây, tôi có được cuộc sống làm người với nhàn rỗi và khả năng. Tôi đã gặp được giáo lý quý báu, và thấy được con đường uyên thâm như vậy.” Hãy suy niệm, “Nếu không nỗ lực bây giờ, tôi sẽ lầm lỡ, và tôi không thích phải nghĩ những gì sau đó.” Hãy trau dồi sự nồng nhiệt và hoan hỷ. Những người nào làm như vậy sẽ tìm thấy an định trong dòng tâm thức họ.

Ở đây tác giả đề cập về những chủ đề chính của Bốn Tư Duy làm Chuyển Tâm. Đó chính là phần cần được làm. Khi tâm thức bạn bị “méo mó”, hay bị bẻ cong, bạn nên làm nó thẳng lại vào khuôn mẫu bằng việc thiền định về những bất lợi của luân hồi.

Nếu nó không khởi lên theo cách đó, hãy quán tưởng trong không gian phía trước thân tướng của Phật Vajrasattva một cách sống động cao khoảng một bàn tay. Mặc dù xuất hiện, Ngài vẫn không có tự tánh. Ngài màu trắng giống như pha lê trang nhã, rõ ràng và có bản tánh của ánh sáng. Hãy tập trung nhận biết của bạn vào ngực Ngài, và quán tưởng một cách sống động và rõ ràng, với nhiều thời ngắn như trước. Liên quan đến điều này Kinh Kết Hợp Thiền Định Về Đức Phật nói đó là lợi ích hoàn toàn không thể diễn tả từ việc nhớ tưởng Phật Vajrasattva. Hãy luân phiên quán tưởng trong hư không phía trước trên thân tướng Đức Bhagavan Shakyamuni (Bạc Già PhạmThiện Thệ - Thích Ca Mâu Ni) tỏa ánh sáng như vàng ròng. Vua của Sutra Samadhi nói rằng cũng có vô số lợi ích trong đối tượng thiền quán này. Hoặc có thể hướng sự chú ý sáng suốt của bạn, đơn giản chỉ không dao động, trong hư không phía trước, trên chữ HRIH trắng với một visarga,34 tại ngực của Đức Arya Avalokiteshvara màu trắng lung linh. Kinh Đan Kết Các Ưu Tú nói rằng điều này cũng có vô số lợi ích.

Với các đối tượng thiền quán này, niệm tưởng sẽ giảm xuống ngang nhau. Thoạt tiên, niệm tưởng sẽ gia tăng, và dễ bị hay đi đến khích động. Đó là dấu hiệu trạng thái thiền quán bắt đầu xuất hiện. Vào lúc đó, bạn có thể trở nên bực tức với thiền định và không chống nổi sự mệt mỏi. Đó cũng là một nguy hiểm khiến bạn có thể đầu hàng, nghĩ rằng, “Sự thiền định chẳng đến với tôi. Niệm tưởng trong thiền định càng ngày càng thô hơn!” Không nên chán nản, hãy áp dụng các hướng dẫn một cách nhẹ nhàng. Sự gia tăng niệm tưởng đó, là sự khởi đầu của thiền định. Trước đây ngay cả dù niệm tưởng khởi lên bất tận cũng chẳng có sự lưu tâm canh giữ nào, nên chúng trôi chảy tự nhiên ra ngoài. Khi sự gia tăng của chúng bị phát hiện bởi sự lưu tâm canh chừng, chúng bị nhận ra. Đây là dấu hiệu đáng mong ước khiến trạng thái thiền định khởi lên, vậy hãy nhẹ nhàng nhận biết những niệm tưởng. Thậm chí nếu bạn ngăn cản, chúng sẽ không ngưng. Không chạy theo chúng, hãy tập trung vào đối tượng thiền quán. Nhờ làm như vậy, niệm tưởng sẽ ngày càng vi tế hơn, và số lượng sẽ giảm xuống.

Sử dụng đối tượng thiền quán trên đây, niệm tưởng dần dần thưa thớt và càng ngày càng vi tế. Trong các giai đoạn bắt đầu tâm có thể xuất hiện nhiều khích động hơn trước khi thiền định. Thật ra, nó hoàn toàn bị khích động, đơn giản vì bạn không nhận ra nó. Giờ đây, lần đầu tiên bạn có được nhận thức về tâm bạn suốt từ đầu đã hỗn loạn biết bao. Bạn thực sự tạo được tiến bộ.

Chữ “nhẹ nhàng” ở đây cũng có nghĩa “từ từ”. Tôi được biết đến vì lời khuyên hãy đi “một cách chậm chậm”, nên người thờ ơ bảo vệ lối sống của họ bằng việc nói, “Ồ, tôi đang thực hành đúng như lời Rinpoche nói, ‘chạâm chậm thôi.” Điều này hoàn toàn không phải tôi muốn nói. Điều tôi thực sự nói là bạn nên dần dần thực hiện trong thực hành với sự kiên nhẫn. Đó là những gì cần làm ở đây. Dấu hiệu ban đầu bên ngoài của sự khích động gia tăng trong tâm giống như dòng suối chảy như thác đổ xuống sườn núi. Thậm chí nếu cố ngăn chận các niệm tưởng này bạn cũng sẽ không thành công. Đó đơn giảncách cư xử của tâm trong những giai đoạn đầu thiền định.

Ngay cả dù bạn đang thiền định về đối tượng như trước, nếu thói quen tư duy bất lợi khởi lên, hãy tập trung trên chính tư duy ép buộc đó như sự hỗ trợ cho thiền định bạn. Bất chấp những xu hướng thói quen bất lợi nào của bám luyến, và sân hận khởi lên, hãy nhận biết chúng; và trong một cách thanh thản hãy giải thoát tâm ngay trên chúng. Mỗi khi niệm tưởng khởi lên, hãy nhanh chóng nhận ra nó và buông xả để nó biến mất một cách tự nhiên. Nếu hai niệm tưởng xuất hiện, hãy nhận biết chúng. Đừng chạy theo bất cứ những gì xuất hiện, hãy để chúng xuất hiện và tan biến. Đôi khi, hãy tập trung trên đối tượng thiền quán; và đôi lúc hãy để niệm tưởng khởi lên và tan biến. Trong lúc đó không tạo tác bất cứ những gì về sự xuất hiện, buông lỏng và tan biến của chúng. Do thực hành luân phiên như vậy, chuỗi ý tưởng thúc ép sẽ ngưng kết nối, và niệm tưởng sẽ bị tan vỡ. Do đó, niệm tưởng có hại sẽ ngày càng ít hơn, và cuối cùng sự an định sẽ xuất hiện. Thiền định trong cách này ba ngày hoặc theo kinh nghiệm của bạn. Nếu sự an định đích thực với các đối tượng đó xuất hiện trong dòng tâm thức các bạn, hãy rèn luyện trong việc tìm kiếm sự tỉnh giác của chúng ta. Tổng quát, vì khó hàng phục thói quen gây hại của khuynh hướng tiềm ẩn, việc sử dụng nhiều phương pháp để đặt tâm trong trạng thái tự nhiên của nó là điều quan trọng.

Trong lúc đang thiền định, nếu tư tưởng bám luyến hay sân hận khởi lên, hãy chú tâm trên chính đối tượng của sự bám luyến hay sân hận đó. Hãy để điều đó là đối tượng thiền định của các bạn. Hãy đặt sự tỉnh giác của bạn ngay trên những niệm tưởng này khi chúng xuất hiện. Trong những giai đoạn đầu của thiền định, dường như niệm tưởng xuất hiện như một dòng chảy liên tục, nhưng khi bạn tiến bộ trong thiền định, những niệm tưởng này dần dần giảm bớt. Chúng trở nên vi tế hơn, số lượng ít hơn và bạn bắt đầu phát hiện khoảng thời gian tạm ngưng hoạt động giữa những niệm tưởng thay vì chúng liên tục. Ở đây hoàn toàn là một chuỗi. Trước tiên, hãy để sự an định đích thực khởi lên. Nỗ lực cho điều đó cho đến khi nó thực sự xuất hiện, và sau đó dấn thân vào giai đoạn kế tiếp của thiền định, đưa đến việc tìm kiếm ra bản chất của giác tánh.

Tất cả các thực hànhchúng ta được giới thiệu, bao gồm thực hành chuẩn bị và rất nhiều kỹ thuật trau dồi sự an định được thiết kế để giúp tâm của chúng ta có được sự kiểm soát. Đó là điểm trọng yếu. Tôi đã đề cập rằng điều quan trọng là không nên nhận cách tiếp cận gây hấn để hàng phục tâm, vì nó rất khích động khi chúng ta làm như vậy. Lý do của điều này là những thói quen của rất nhiều độc chất khác nhau từ vô thủy của tâm bao gồm bám luyến, sân hận, và ảo tưởng. Đây là điều tại sao khi Đức Padmasambhava nói điều quan trọng ở đây là sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để điều phục tâm.

Điểm đặc trưng chính của tất cả rèn luyện này là sự tự-giải thoát, hay sự giải thoát tự nhiên của giác tánh. Có nghĩa những phiền não của tự tâm được giải phóng, hay được tháo gỡ, giống như con rắn khoanh tròn tự tháo ra. Sự giải thoát tự nhiên này xảy ra bởi chính nó, không do một số tác nhân khác. Điều quan trọng là nhận ra sự khác biệt giữa giải thoát tự nhiêngiải thoát bổn nguyên. Về mặt giải thoát tự nhiên, chẳng có vấn đề khó khăn nào để tháo gỡ, và do vậy, không có gì để giải thoát; vì tâm là sự giải thoát bổn nguyên. Về mặt con đường, việc nói về sự giải thoát tự nhiên là điều thích hợp. Tuy nhiên, cuối cùng thì tâm là sự giải thoát bổn nguyên.

Sự rèn luyện trong năng lượng cần cho sự sống. Giữ thân trong tư thế bảy điểm Vairocana, hãy để xương sống đứng thẳng, và chống hai bàn tay xuống đất. Trong lúc làm vậy, thở ra ba hơi dài, một qua lỗ mũi phải, một qua lỗ mũi trái, và một từ chính giữa. Cùng lúc đó hãy quán tưởng những tội lỗi và che ám được tịnh hóa, và các tội lỗi được thải ra khỏi mũi bạn trong dạng các con bọ cạp, và sau đó chúng bị đốt ra tro trong ngọn lửa ầm ầm của lửa trí tuệ bổn nguyên trên không gian phía trước. Điều này loại bỏ độc tố của năng lượng sự sống. Kế tiếp, cùng với hơi thở vào, trong lúc nuốt nước bọt một lần, ép xuống thành tiếng ở dưới rốn; và không có bất cứ suy nghĩ về đối tượng thiền quán nào, hãy để giác tánh bạn nghỉ ngơi trong sự sáng sủa. Khi bạn không thể làm như vậy nhiều hơn, hãy hoàn toàn thở ra. Làm điều đó trong ba ngày.

Trong trường hợp bạn không có ba lỗ mũi và tự hỏi về lỗ mũi thứ ba đó – lỗ mũi ở giữa – điều này đơn giản có nghĩa là bạn thở ra qua hai lỗ mũi. Một số ít hành giả Tây Tạng chọn việc hít vào, và khi họ thở ra, một số những gì hít vào sẽ bay ra ngoài, nên sự quán tưởng có thể dễ dàng hơn với họ. Bản văn đề nghị hình dung tội lỗi “trong dạng các con bò cạp”, nhưng điều này chỉ có thể có một khả năng xảy ra. Chẳng hạn, nếu đặc biệt thích con gián, bạn có thể tưởng tượng những con gián thoát ra khỏi mũi bạn.

Rèn luyện trong sự tụng niệm-vajra bất sinh của ba chủng tự. Thải ra những năng lượng sự sống còn dư ra ngoài, và giữ vị trí như trước. Giờ đây khi hít vào, hãy quán tưởng thân của tất cả chư Phật ba thời được rút vào trong chữ OM trắng. Sau đó đẩy năng lượng sự sống phần trên xuống dưới, kéo năng lượng sự sống ở dưới lên trên, và cả hai gặp nhau ở dưới rốn.

Ở ” của năng lượng sự sống¡giữa “bùa hộ mạng kín phía trên và dưới, hãy quán tưởng tinh túy ngữ của tất cả chư Phật ba thời trong bản tánh chữ AH đỏ rõ ràng, rỗng không, sống động, xuất hiện nhưng không có tự tánh. Hãy đặt nhận biết của bạn ở đây càng lâu càng tốt.

Khi không thể làm lâu hơn nữa, hãy thở ra cùng lúc với quán tưởng tinh hoa của tâm tất cả chư Phật ba thời phát ra trong dạng một chữ HUM màu xanh dương, và suy nghĩ của các Ngài như một dòng chảy liên tục của Hóa Thân lưu xuất vì lợi ích của thế gian.

Trong cách đó, hãy kéo dài sự chú tâm của bạn với sự tỉnh giác không dao động, khi hít vào trong bản tánh của chữ OM, khi giữ hơi trong bản tánh của chữ AH, và khi thở ra trong bản tánh của chữ HUM. Làm điều này vào mọi lúc được gọi là sự tụng niệm-vajra bất sinh. Mỗi ngày có hai mươi mốt ngàn sáu trăm chuyển động của năng lượng cần cho sự sống. Vô lượng công đức kết quả từ việc có cùng số lượng tụng niệm-vajra bất sinh của ba chủng tự đó với sự chuyển động của năng lượng sự sống. Làm điều đó trong ba ngày, sau đó làm liên tục. Tất cả điều đó đã được bàn luận liên quan đến sự đạt được an định với các dấu hiệu.

Dĩ nhiên, sự hô hấp của chúng ta trải qua suốt ngày và đêm. Thay vì lãng phí hơi thở trong việc tham gia nói chuyện phiếm vô ích, v.v..., chúng ta có thể áp dụng sự tụng niệm-vajra vào hơi thở, và điều này đã được nói là có lợi ích to lớn. Người ta thường xuyên hỏi tôi, “À, điều gì xảy ra nếu Ngài thực hiện thở bình?” Câu trả lời của tôi là, “Tại sao bạn không thực hành, và bạn sẽ tìm ra cho chính bạn.”

Rèn luyện trong sự an định với các dấu hiệu. Vị trí của thân bạn như trước. Kế tiếp, trong khi kiên định nhìn chằm chằm vào không gian phía trước bạn, không thiền định về bất cứ điều gì, tập trung kiên định trên ý thức bạn trong không gian phía trước, không dao động. Gia tăng sự kiên định và sau đó nghỉ ngơi trở lại. Thỉnh thoảng hãy ghi nhận, “Ý thức được tập trung đó là gì?” kiên định lập lại tập trung và sau đó ghi nhận nó lại lần nữa. Làm điều đó một cách luân phiên. Thậm chí nếu có vấn đề sao lãng hay hôn trầm, phải loại bỏ chúng. Trong mọi hoạt động của bạn, hãy dựa trên sự tỉnh thức không dao động. Làm điều đó trong một ngày.

Trong các thực hành về an định với những dấu hiệu trước đây, có một đối tượng thiền quán như một cây gậy hay một hòn sỏi, nhưng bây giờ không có đối tượng như vậy. Giờ đây hãy đơn giản để cái thấy chằm chằm và tâm thức tỉnh giác nghỉ ngơi trong không gian phía trước bạn, không nhìn quanh. Dù thế nào đi nữa, có gì ở đó để nhìn? Cùng lúc, điều rất quan trọng, nhất là cho người mới tu là duy trì ba phẩm tính: tỉnh thức, tận tâm, và nội quan (tự xem xét nội tâm).

Gia tăng sự kiên định có nghĩa tập trung, hoặc chú tâm, một cách mãnh liệt hơn. Thỉnh thoảng tập trung trong thiền định và sau đó thư giãn lại. Đừng cố tập trung quá mạnh mọi lúc; đúng hơn là thay đổi luân phiên giữa sự tập trung mãnh liệt và sự thư giãn. Có nhiều cách khác nhau duy trì sự tỉnh thức suốt ngày. Một cách là liên tục kéo dài sự nhận biết của hư không. Cách khác để duy trì sự tỉnh thức là sự tụng niệm-vajra. Bất kể kỹ thuật nào bạn đi theo, điều rất quan trọng là giữa thời công phu bạn đừng loại bỏ tất cả thực hành.

Kế tiếp giữ thân bạn như trước, đưa tầm nhìn xuống dưới, giải thoát tâm bạn một cách nhẹ nhàng, và không thiền định về bất cứ điều gì, hãy từ tốn giải thoát thân và tâm bạn vào trạng thái tự nhiên của nó. Không có bất cứ điều gì để thiền định, và không có bất kỳ sự biến đổi hay pha trộn nào, đơn giản hãy đặt sự chú tâm của bạn không dao động, trong trạng thái tự nhiên, sự trong sáng, các đặc tính của chính nó, đúng như nó là. An trụ trong sự trong sáng, và an nghỉ tâm để nó được buông xảtự do. Thay đổi luân phiên giữa sự quán sát ai đang thiền định bên trong và ai đang giải thoát bên ngoài. Nếu nó là tâm, hãy tự hỏi, “Chính tác nhân đó là gì, cái giải thoát tâm và cái tập trung tâm?” hãy kiên định quán sát chính bạn, và sau đó giải phóng trở lại, thậm chí bạn có thể nhận ra tánh giác. Hãy làm điều đó cũng trong một ngày.

Ý nghĩa của việc đặt tâm “không có bất cứ sự biến đổi hay pha trộn” là gì? Sự biến đổi hay pha trộn của nhận biết bao gồm tư duy thiện và ác, các kế hoạch, và mọi loại đánh giá. Bạn cũng phải thực hành “không dao động”, vậy nếu bạn chỉ ngồi đó với một tâm lang thang, thì bạn không đang thực hành. Hãy để tánh giác của bạn an nghỉ “trong trạng thái tự nhiên, trong sáng tự nhiên của nó,” ngụ ý nếu để sự nhận biết của bạn bị lộn xộn trong lúc thiền định thì bạn không thực hành đúng.

Sau đó hãy làm như trước. Bây giờ luân phiên chú tâm chặt chẽ ý thức của bạn, tập trung toàn bộ vào nó không dao động, và sau đó nhẹ nhàng giải thoát nó. Trong cách đó, hãy thiền định với sự thay đổi luân phiên chặt chẽ và buông xả. Đôi lúc, hãy hướng cái nhìn chằm chằm của bạn liên tục vào bầu trời. Kiên định tập trung sự tỉnh giác của bạn với khao khát không có bất cứ điều gì để thiền định. Hãy buông xả lần nữa. Đôi khi, một cách kiên định, không dao động hướng sự tỉnh giác của bạn vào không gian bên phải bạn; đôi lúc hướng nó vào bên trái, và thỉnh thoảng hướng nó xuống dưới. Trong mỗi thời, hãy xoay tròn cái nhìn chằm chằm chung quanh những hướng đó.

Trong giai đoạn thực hành này, bạn kinh nghiệm một cảm giác của hư không, vậy bạn không cần nói với người khác rằng bạn “cần khoảng không”; bạn sẽ có khoảng không. Khi “hướng cái nhìn của bạn lên bầu trời,” bạn ngước cái nhìn chằm chằm của bạn lên, mà không ngửa đầu ra sau. Chỉ nhẹ nhàng nâng tầm nhìn lên hư không. Tánh nền tảng của sự nhận biết mà bạn đem vào không gian này là Phật tánh, giống như hư không, bao la và không có tự tánh. Đây là giác tánh mà bạn đang dần dần tìm kiếm để nhận ra, và đây là tánh giác mà tự thân nó rất rõ ràng.

Thỉnh thoảng tự hỏi, “Tánh giác của người đang tập trung quan tâm là gì?” hãy để tự thân tánh giác tự quán sát nó đều đặn. Đôi khi hãy để tâm bạn đến và nghỉ ngơi ở giữa ngực, và để mặc cả hai ở đó. Thỉnh thoảng, tập trung nó một cách đều đặn trong sự rộng mở của bầu trời và để mặc nó ở đó. Do đó, bằng việc nâng cái nhìn chằm chằm với nhiều cách thay đổi luân phiên, tâm được đặt trong trạng thái tự nhiên của nó. Như một hướng dẫn về điều này, nếu sự nhận biết an trụ một cách đều đặn, minh bạch, và vững vàng, thì bất cứ nó được đặt ở đâu, sự an định sẽ xuất hiện.

“Sự rộng mở của bầu trời,” ngụ ý phẩm tính bao la của giác tánh không ranh giới hay giới hạn. Thuật ngữ “giải thoát” xuất hiện trong những bối cảnh khác nhau ở luận thư này, và nó có ý nghĩa khác nhau trong mỗi bối cảnh. Nó xuất hiện lần nữa với sự liên quan đến tịnh quang của tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng và cũng trong tiến trình chuyển tiếp của sự thiền quán ổn định, mỗi lúc với ý nghĩa có phần khác nhau.

Giác tánh an trụ liên tục là Phật tánh, hay tathagatagarbha (Như Lai Tạng), có nghĩa phôi thai, hoặc tinh túy của Tathagata, Đức Phật. Đây là sự bao la, bản tánh như hư không của giác tánh chính chúng ta. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện tại của mình, như thể chúng ta nhồi nhét nó vào một đường ống cong queo rồi đem vứt vào thùng rác. Tinh túy của Phật tánh này đưa đến sự bình đẳng của luân hồiniết bàn. Nó là nền tảng của luân hồiniết bàn và siêu vượt ba thời, quá khứ, hiện tại, và tương lai. Do vậy, bản tánh của nhận biết là vượt lên hiện tại. Một số người trong các bạn có thể tự hỏi, “Ngài nói tánh giác đó vượt lên hiện tại, nhưng một chỗ nào đó trong bản văn này có đề cập đến ‘sự nhận biết của hiện tại’ hay ‘tánh giác hiện tiền’. Ngài làm thế nào để hòa hợp hai trình bày này?” có những cách sử dụng khác nhau về thuật ngữ “hiện tại”. Trong trường hợp trước, “hiện tại” ám chỉ những gì đang xảy ra bây giờ, như sự tương phản với quá khứ hoặc tương lai. Trường hợp sau liên quan đến “tánh giác hiện tiền”, có nghĩa tánh giác là sự bổn nguyên không khởi đầu và không kết thúc. Do vậy, giác tánh này là của hiện tại bổn nguyên. Sự phân biệt ở đây là giữa chân lý quy ướcchân lý tối thượng.

Đoạn văn này kết thúc với trình bày, “Do đó, nhờ nâng cái nhìn chăm chú vào nhiều hướng khác nhau một cách luân phiên, tâm được đặt trong trạng thái tự nhiên của nó. Như một chỉ dẫn về điều này, nếu sự nhận biết tồn tại sinh động, liên tục, và ổn định, dù nó được đặt ở bất cứ đâu thì sự an định sẽ xuất hiện. Có những chỉ dẫn nhờ đó bạn có thể biết sự an định đó có khởi lên trong dòng tâm thức mình hay không. Khi đạt được điều đó, bạn sẽ chẳng cần phải nói với mọi người là “hãy cho tôi khoảng không”, và bạn sẽ không bao giờ cảm thấy cô độc. Bạn đặt sự chú tâm của mình ở bất cứ đâu, nó sẽ được thấm nhuần phẩm tính của thanh thản, giống như ngọn lửa đèn cầy không bị bập bùng vì gió.

Trong tiến trình thực hành, bạn có thể kinh nghiệm bất kỳ trong ba phẩm tính sau: hoan hỷ, trong sáng, và phi khái niệm. Nếu không bám chấp vào chúng, chúng sẽ dẫn đến sự thành tựu của ba hiện thân Phật: Pháp Thân, Báo Thân, và Hóa Thân. Nếu phản ứng chấp bám vào các kinh nghiệm này, thì sự hoan hỷ sẽ dẫn đến tái sanh trong cõi dục giới, sự trong sáng sẽ dẫn đến tái sanh trong cõi sắc giới, và khao khát sự phi khái niệm sẽ dẫn đến tái sanh vào cõi vô sắc. Tất cả ba cõi này đều ở trong chu trình sinh tử, nên trong thực hành thiền định không có quan điểm nào để đạt được bất cứ ba trạng thái này. Quan điểm là “đừng bám chấp vào chúng.” Nếu nhận biết trở nên lộn xộn và không tỉnh thức, đó là vấn đề của uể oải hay mơ hồ (hôn trầm); vậy hãy làm nó rõ ràng, gợi cảm hứng nó và nâng cái nhìn chăm chú của bạn lên. Nếu nó bị sao lãng và khích động (trạo cử), điều quan trọng là bạn hãy hạ thấp tầm nhìn xuống và buông xả nhận biết. Nếu samadhi (đại định) khởi lên thì trong đó chẳng có điều gì mà bạn có thể nói, “đây là sự thiền định,” và “đây là sự khái niệm hóa” điều này là vấn đề của sự không biết. Vậy hãy thiền định với sự thay đổi luân phiên của tập trung và buông xả, và nhận biết ai đang thiền định. Hãy nhận thức các thiếu sót của an địnhlập tức loại bỏ chúng.

Như tôi đã đề cập trước đây, sự uể oải làm tâm bị chìm đắm trong đó tính nhạy bén của tâm bị mất đi. Điều này xảy ra khi chúng ta “bị say thuốc” và mất sự sắc bén, hay sinh động của việc chú tâm. Khi sự hôn trầm gia tăng, nó chuyển thành sự ngủ mê giống như bầu trời u ám. Khi sự ngủ mê gia tăng, sự trong sáng giảm xuống; nên chúng có mối liên hệ đảo ngược. Ngoài ra, khi sự mơ hồ bắt đầu, tâm bị mờ tối và sự trong sáng biến đi. Khi tâm bị hôn trầm trong bất cứ những cách này, nó không tỉnh thức, nên bạn phải áp dụng việc nâng cao sự trong sáng của tâm.

Tại sao chủ thể tâm lại trở nên lộn xộn, không tỉnh thức, lỏng lẻo, mơ hồ, và hôn trầm? Nói chung, trước hết chúng ta đã quen thuộc với những trạng thái không lành mạnh của tâm từ thời vô thủy. Mà khi đang trụ trong thiền định bạn cũng có thể bị dẫn đến uể oảihôn trầm. Thứ hai, thời gian và mùa khi bạn thiền định có thể gây ra mệt mỏihôn trầm. Thứ ba, nếu bạn đang thiền định với người mà giới nguyện mật tông của họ bị hư hoại thì điều này sẽ cản trở sự thực hành của bạn bằng việc phát sinh mệt mỏi hay hôn trầm. Thứ tư, chế độ ăn hàng ngày của bạn cũng có thể tạo ra vấn đề này. Thứ năm, nếu tư thế của bạn kém trong lúc hoặc giữa các thời thiền định, cũng có thể gây ra mệt mỏihôn trầm. Cuối cùng, nếu đang thiền định không đúng cách, tự thân sự thực hành sẽ gây ra mệt mỏihôn trầm. Do vậy, bạn có nhiều lý do cho việc mệt mỏi và hôn trầm!

Về phần môi trường sống của bạn, để tránh mệt mỏihôn trầm, điều quan trọng là bạn đừng thiền định trong một vùng trũng, như trong một thung lũng sâu hoặc ở bất cứ nơi nào thấp hoặc kín. Đúng hơn nên thiền định ở một nơi rộng rãi và thông thoáng. Cũng nên tránh nơi bị nhiều ô nhiễm, ví dụ với những người đã sống ở đó và giới nguyện mật tông của họ bị vi phạm. Nếu thấy môi trường có vẻ cản trở sự thực hành của bạn, hãy tịnh hóa nó. Bạn có thể làm điều này với nghi thức đốt hương trầm, hoặc áp dụng các phương tiện tẩy tịnh khác. Hãy cẩn thận việc chính bạn làm ô nhiễm nó. Về phần thời gian cho thiền định, mùa hè có thể là thời gian dễ hôn trầm vì sức nóng, và mùa xuân dễ phát sinh cảm giác lười biếng, dễ dẫn đến mệt mỏihôn trầm. Do vậy, đây là những mùa không tối ưu để thiền định. Ở Tây Tạng thông thường có sự ưa thích thiền định trong mùa thu và đông.

Nói chung, trên căn bản một ngày, thời gian tốt nhất để thiền định là sáng sớm; và tốt thứ hai là buổi chiều tối. Việc thiền định sẽ không tốt trong sức nóng của ngày vì dễ dẫn đến mệt mỏihôn trầm. Về mặt thực phẩm, điều quan trọng là bạn phải có chế độ ăn thích hợp không làm bạn cảm thấy nặng nề, hôn trầm, và buồn ngủ. Bạn cũng có thể ban phước cho thực phẩm bằng việc tụng niệm cầu nguyện hoặc tối thiểu là niệm OM MANI PADME HUM. Bằng bất cứ phương tiện nào, hãy chắc chắn chế độ ăn của bạn là tốt, hãy tịnh hóa thực phẩm với sự ban phước v.v...

Về mặt tư thế, tốt nhất là không nên nằm để thiền định vì dễ xảy ra mệt mỏihôn trầm, vì khi nằm làm bạn cảm thấy buồn ngủ. Hãy ngồi thẳng lưng, không cong xuống. Cuối cùng về tự thân kỹ thuật thiền quán, nhất là người mới bắt đầu, nếu chỉ cố ngồi đó nhìn chăm chú vào không gian, không có đối tượng thiền quán nào, thì tự thân kỹ thuật – là sự thực hành không khéo léo – có thể dẫn đến hôn trầmtâm thức đi rông, do vậy, bạn bị mất hết thời gian. Trong cách này, bạn có thể bị kẹt vào chướng ngại của niệm tưởng lan man, và có thể thực sự ngủ gật. Để chống lại điều này, điều quan trọng là nhận biết cách thực hành đúng. Trong kỹ thuật đặc biệt này, tánh giác của bạn được thực sự nghỉ ngơi trong không gian phía trước; nhưng sự nhận biết của bạn phải được thấm nhuần với ba phẩm tính của tỉnh thức, nội quán, và tận tâm. Nếu thực hành theo cách đó, các vấn đề sẽ được đẩy lui.

Sự mệt mỏi, hôn trầm, và mơ hồ hình thành một chuỗi suy thoái. Đó là chuỗi tương quan khác của khích động, tán loạn, và sai quấy. Khi sự khích động bắt đầu, bạn có thể nhớ lại mọi loại sự việc từ quá khứ. Ký ức tràn ngập tâm bạn, bạn bám chấp vào chúng và bị chúng lôi đi. Bạn không chỉ thực sự nhớ lại sự việc xảy ra trong quá khứ mà còn làm tồi tệ hơn do tạo tác trên chúng. Sau đó tâm thức còn nhảy vào tương lai và suy nghĩ về mọi sự việc cần làm, và sau đó tâm trụ trong sự việc xảy ra ở hiện tại. Tâm lang thang quanh quẩn trong bối rối lo âu suốt ba thời. Khi điều này tiếp diễn, nó có thể dẫn đến một cảm giác lo lắng trong lòng, và sự lo lắng đó có thể kết hợp với một tâm thức mất thăng bằng. Sự chán nản có thể khởi lên, mà bạn có thể cảm thấy trong ngực mình. Đó là những dấu hiệu của khích động.

Khi sự tán loạn khởi lên, tâm bị tấn công tới tấp với những tưởng tượng có xu hướng ép buộc về các sự việc trong quá khứ, hiện tại, và tương lai. Tâm thức bị ở trong sự náo động của khái niệm hóa, và kết quả là mất ngủ. Điều này cũng có thể là kết quả của cảm giác sự căng thẳng trong vai hay trong ngực, và bạn có thể cảm thấy khích động. Nếu tán loạn tiếp tục không giảm bớt, điều này dẫn đến cảm giác hối tiếc, tự lên án, và phạm tội. Ví dụ, khi bạn thấy thiền định của mình tiến bộ kém, có thể bạn kết luận, “Thiền định của tôi vẫn tồi tệ, chẳng đến được đâu. Tôi sẽ chẳng bao giờ đến được đâu cả. Tôi đã lãng phí thời gian ngay từ đầu. Tôi ngu dại đi quanh quẩn như vậy cho điều gì?” Đó là ba giai đoạn. Tất cả ba giai đoạn này của sự khích động, tán loạn, và hối tiếc bao gồm việc tạo thành tư tưởng ép buộc, ở đó tự bản thân tâm thức chỉ làm cho nó tệ hại hơn. Lẽ dĩ nhiên, trong lúc đó, bạn chẳng đạt được sự an định.

Có nhiều cách khác mà bạn có thể tạo ra những vấn đề trong thiền định của mình. Ví dụ, khi sự thiền định có vẻ tiến triển tốt, bạn có thể tự tán thưởng mình với suy nghĩ, “Tôi đang làm thực sự tốt. Thực hành này chắc chắn sẽ dẫn đến thành tựu, vì tôi là một thiền giả tốt như vậy.” Tất cả tư duy như vậy là sự biểu lộ của bám luyến, níu giữ và chấp bám, điều này cản trở thực hành. Chẳng hạn, bạn có thể níu giữ sự hoan hỷ, trong sáng khởi lên trong thiền định. Sự bám giữ như vậy giống như mùi thơm bám vào quần áo ngay cả khi nguồn của mùi thơm đã được lấy ra. Do đó, tâm bám vào đối tượng của kinh nghiệm giống như mùi thơm bám vào quần áo. Sự bám chấp xảy ra một cách đặc biệt khi bạn không biết về những thành tựu cao hơn trên con đường tâm linh. Nếu không nhận biết về những thành tựu cao hơn này bạn bị buộc phải bám chấp, và nhận biết chỉ với kinh nghiệm của mình, suy nghĩ, “Ồ, điều này là tất cả”. Thái độ này làm ngăn trở sự tiến bộ cao hơn trên con đường. Điều này có thể là một lý do tại sao những hành giả Hinayana tự họ ngừng đi theo con đường của Mahayana. Họ bám chấp vào thực hành của riêng mình, suy nghĩ, “Điều này là tất cả,” và họ khước từ xem xét các thực hành cao hơn, sâu hơn. Tương tự, trong bối cảnh của tantra, một số người bám chấp vào hai giai đoạn phát triểnhoàn thiện (tương ứng với Mahayoga và Anuyoga) và suy nghĩ, “Điều này là cao nhất. Chẳng có gì vượt hơn điều này.” Bởi vì thái độ bám chấp vào hai giai đoạn này của thực hành, họ không thể đi vào thực hành của Atiyoga hay Đại Viên Mãn. Do đó, sự bám chấp có thể xảy ra trong một bối cảnh đa dạng, rộng lớn.

Sự chấp bám có thể xảy ra liên quan đến quốc tịch hay chủng tộc của bạn; đó là bạn có thể bám chấp vào nhân dạng của chính mình, suy nghĩ, “Tôi là người Trung Quốc,” “Tôi là người Mỹ,” hoặc “Tôi là người Anh.” Tất cả các trường hợp nhận dạng này đều là biểu hiện của bám chấp và níu giữ. Trong thiền định, bất cứ khi nào bạn cảm thấy mình là một hành giả giỏi, hãy nhận thức điều này là một biểu hiện của bám chấp, níu giữ, và bám luyến. Bất cứ lúc nào có sự bám chấp vào bất kỳ ba phẩm tính hoan hỷ, trong sáng, hoặc vô niệm, thì sự bám luyến và chấp giữ chắc chắn hiện diện. Đây là một chướng ngại.

Các vị thầy tâm linh có thể có thiếu sótgiới hạn. Ví dụ, một vị thầy có thể giữ chắc một quan điểm giáo phái, suy nghĩ, “Bất kỳ giáo lý nào chỉ có giáo lý của Nyingma là tốt.” Các vị thầy của những phái khác của Phật giáo Tây Tạng có thể nghĩ chỉ có giáo lý của Kagyupa, Gelugpa, hay Sakyapa là con đường thuần khiết, và tất cả giáo lý khác đều sai. Tương tự, một số giáo lý hệ phái tuyên bố rằng chỉ có giáo lý Mahayana hoặc Hinayana là hiệu lực. Tuy nhiên, có khả năng rằng việc thiếu sót có thể chỉ do sự thiếu kém trong việc tiếp thu về trí tuệtrí thông minh của đệ tử. Do đó, Đức Padmasambhava khuyên đệ tử và những vị thầy nên tránh rơi vào chủ nghĩa hệ phái và tâm thức chật hẹp. Nếu thấy bạn có vấn đề về hệ phái, thì trước hết, bạn nên tiếp nhận giáo lý. Sau đó với chỉ dẫn của một vị thầy tâm linh chân chính, bạn có thể tự mình thoát khỏi lỗi đó. Cũng là việc thích hợp và có ích khi dâng cúng bài nguyện khẩn cầu đến vị thầy tâm linh và vị Bổn Tôn bạn đã chọn. Đây là những cách hiệu quả để loại bỏ những vấn đềchướng ngại của chúng ta. Tóm lại, mọi vấn đề như vậy đều khởi lên từ một nguồn, đó là sự chấp bám.

Tất cả chúng ta đều là chủ thể của sự bám chấp. Nó không xảy ra chỉ với một hay hai người, tất cả chúng ta phải nhận rachống lại nó. Hãy sử dụng các giáo lý đã tiếp nhận để kiểm tra cách cư xửtâm thức của bạn để thấy phạm vi tâm thức của bạn vẫn là chủ thể của ba độc bám luyến, sân hận, và ảo tưởng. Kiểm soát tâm bạn là công việc của bạn. Công việc của bạn không phải là khảo sát và đánh giá người khác. Trong số các đệ tử của Giáo Pháp, không may có một số người tự họ dành hết thời gian để phán xét người khác. Những đệ tử như vậy đã không áp dụng giáo lý vào thực hành, mà chỉ cho phép mình quan tâm đến tám việc thế gian. Do vậy, cho dù mọi giáo lý đã tiếp nhận, trong thực tế họ trở thành người tệ hơn. Một lần nữa, tôi nhấn mạnh lại rằng công việc của chúng taquán sát cách cư xử của chính mình và thấy tâm chúng ta còn là chủ thể của bám luyến, sân hận, và ảo tưởng biết bao nhiêu. Kiểm soát cư xử của người khác không phải là việc của bạn: như khi họ thức dậy, họ ăn thực phẩm gì, khi nào họ đi ngủ, họ thiền định được bao nhiêu, khi nào họ đi tắm, và mọi thứ. Trong mọi vấn đề như vậy, chúng ta nên nhớ công việc của mình. Một mặt, người Mỹ có quá nhiều tự do, và mặt khác, họ chẳng được tự do. Sự thừa thãi tự do làm họ nói chuyện phiếmnói xấu trong mọi mặt. Mà điều này không phải tự do thực sự. Tôi nghĩ rằng tất cả các bạn cần tự do cho chính mình. Nếu muốn tự do chân chính, hãy dâng hiến chính bạn cho thực hành tâm linh chân chính.

Sự an định hoàn toàn giống như một đèn dầu không bị dao động vì gió. Dù đặt nhận biết ở đâu, nó sẽ hiện diện không dao động; giác tánh là sự rõ ràng sống động không bị nhiễm ô bởi mệt mỏi, hôn trầm, hay mơ hồ, dù đặt nhận biết ở bất cứ đâu, nó đều ổn định và tập trung sắc bén; không dao động bởi tư duy bất định, nó là sự chân thật. Do đó, một trạng thái thiền định thuần tịnh khởi lên trong dòng tâm thức bạn; và trước khi điều này xảy ra, tâm phải được đặt trong trạng thái tự nhiên của nó. Nếu khôngan định chân chính khởi lên trong dòng tâm thức, thì ngay cả khi sự nhận biết được chỉ ra, thứ được đơn thuần đưa ra sẽ như lời nói ngoài miệng về quan điểm và sự nguy hiểm là hành giảthể không chống nổi với chủ nghĩa giáo điều. Do đó, gốc rễ của mọi trạng thái thiền định tùy thuộc vào điều này. Vì lý do này, đừng đưa đến nhận biết quá sớm, mà hãy thực hành cho đến khi có một kinh nghiệm ổn định. Cho đến thời điểm ấy, sự chỉ dẫn liên quan đến việc thực hành có dấu hiệu và không dấu hiệu. Samaya.

Sự nói đến nhận biết là “trí tuệ sắc sảo” và “chân thực” đi đôi với sự so sánh của một ngọn lửa không bị dao động bởi gió. Nhóm từ, “quan điểm chỉ là lời nói đãi bôi” có nghĩa đen là “quan điểm chỉ ở trong miệng bạn” thay vì có hiểu biết chân chính của cái thấy. “Chủ nghĩa giáo điều” xảy ra khi bạn cảm thấy, “Ồ, tôi đã đạt được nó,” và bạn chẳng thể lắng nghe bất kỳ ai khác. Khi bạn nói, “Ồ, chỉ một mình tôi có được nó,” thì những gì bạn thực sự có chỉ là quan điểm trong miệng bạn, không phải sự thấu suốt chân chính. Chủ nghĩa giáo điều như vậy xảy ra giống như khi bạn tiếp nhận giáo lý trên bản tánh của nhận thức mà trước hết không có sự an định đích thực.

SỰ THẤU SUỐT (Thiền quán)

Hiển Lộ Bản Chất Của Tánh Giác

Theo cách đó, trước khi an định đích thực khởi lên trong dòng tâm thức bạn, hãy sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để đặt tâm bạn trong trạng thái tự nhiên của nó. Như một phép loại suy, nếu bạn muốn nhìn sự phản chiếu của các hành tinh và ngôi sao trong một hồ nước; bạn sẽ không thấy chúng nếu nước bị khuấy động bởi sóng gợn. Nhưng bạn sẽ nhìn thấy rõ ràng khi nhìn vào hồ mà nước thì trong trẻo và không chuyển động. Tương tự, khi tâm bị dao động bởi cơn gió của các đối tượng, giống như cưỡi một con ngựa chưa thuần nhảy chụm bốn vó, ngay cả nếu được giới thiệu vào tánh giác, bạn sẽ không nhận ra nó; vì một khi tâm bị quan điểmxu hướng ép buộc, thì sự điều khiển cũng chẳng giúp được; tâm không thấy được bản tánh chính nó.

Theo tập quán của một số truyền thống giáo lý, trước tiên bạn phải được giới thiệu vào cái thấy, và trên nền tảng đó, bạn tìm kiếm trạng thái thiền quán. Điều này làm khó nhận ra tánh giác. Trong truyền thống được giới thiệu ở đây, trước tiên bạn thiết lập trạng thái thiền quán, rồi trên nền tảng đó bạn được giới thiệu vào cái thấy. Mục đích sâu xa này chắc chắn làm bạn nhận dạng được tánh giác. Do đó, trước hết hãy đặt tâm bạn trong trạng thái tự nhiên của nó, sau đó sinh khởi sự an định đích thực trong dòng tâm thức bạn, và hiển lộ bản chất của tánh giác.

Tư thế của thân bạn cũng trong bảy thuộc tính như trước. Kiên định tập trung cái nhìn chăm chú của bạn vào không gian phía trước, vào khoảng không tại mức đầu mũi bạn, không rối loạn hoặc mang tính nhị nguyên. Đây là lợi ích của việc nhìn chăm chú này; ở giữa ngực tất cả chúng sanh có kinh mạch rỗng kati như pha lê, đó là một kinh mạch của trí tuệ bổn nguyên. Nếu nó hướng xuống và bị đóng kín, trí tuệ bổn nguyên bị che ám, và ảo tưởng tăng trưởng. Do đó, trong loài vật, kinh mạch này hướng xuống và bị đóng kín, nên chúng ngu dại và bị lừa gạt. Trong con người, kinh mạch đó hướng nằm ngang và hơi mở ra, nên trí năng con người được sáng suốtý thức được rõ ràng. Ở người đạt thành tựu và trong chư bồ tát, kinh mạch đó mở rộng và hướng lên trên, nên xuất hiện samadhi (đại định) không thể tưởng, trí tuệ bổn nguyên của tri kiến, và nhận thức thấu thị (ngoại cảm) bao la. Điều này xảy ra tùy theo phẩm tính rộng mở của kinh mạch trí tuệ bổn nguyên đó. Do vậy, khi mắt nhắm lại, kinh mạch đó bị đóng kín và hướng xuống, nên ý thức bị mơ hồ bởi ảo tưởng của bóng tối. Bằng việc kiên định tập trung cái nhìn chằm chằm, kinh mạch đó hướng lên và mở ra; khiến tách nhận biết thanh tịnh khỏi nhận thức bất tịnh. Sau đó, samadhi (đại định) vô niệm xuất hiện rõ ràng, và rất nhiều kiến thanh tịnh xuất hiện. Vì thế, cái nhìn chăm chú là quan trọng.

Trong tất cả luận thư ngoài các quyển Tantra Mặt Trời Rộng Mở Trong Sáng Của Đại Viên MãnGiáo Pháp Uyên Thâm Của Sự Xuất Hiện Tự Nhiên Của Hiền Minh Và Phẫn Nộ Từ Nhận Biết Giác Ngộ Liên Quan Trong Việc Tìm Kiếm Tâm, kinh mạch kati trống rỗng như pha lê được giữ bí mật, và không có sự thảo luận về kinh mạch đặc biệt của trí tuệ bổn nguyên này. Kinh mạch này không giống như kinh mạch trung ương, kinh bên phải, kinh bên trái, hoặc bất kỳ kinh mạch nào của năm luân xa (chakra); và tuyệt đối không giống bất cứ kinh mạch nào. Hình dáng của nó giống như một hạt tiêu gần như mở ra, bên trong không có máu hay bạch huyết, và trong suốt, rõ ràng. Một kỹ thuật đặc biệt để mở kinh mạch này được giữ kín trong các hướng dẫn về sự giải thoát tự nhiên, gắn liền với lỗ mở ở dưới, đại cực lạc, và dục vọng. Các thừa thấp hơn thậm chí không có tên của kinh mạch này.

Vì thế, trong lúc duy trì kiên định cái nhìn chăm chú, hãy đặt sự nhận biết một cách không dao động, vững vàng, trong sáng, rỗng không, và tập trung, không có bất cứ thứ gì để thiền định trong phạm trù của không gian. Khi định lực tăng trưởng, sự kiểm soát ý thức được ổn định. Sau đó nhẹ nhàng buông xả và nghỉ ngơi. Hãy thực hành điều đó (đặt sự nhận biết) một cách đều đặnquán sát ý thức trong lúc đó không dao động. Bản tánh của tâm là gì? Hãy để tự nó quán sát không dao động. Nó là một cái gì đó trong sángvững chắc, hoặc nó là một sự rỗng không chẳng có gì? Có cái gì đó để nhận biết không? Hãy nhìn đi nhìn lại nhiều lần, và tường thuật kinh nghiệm của bạn cho tôi! Vì thế, hãy tham gia vào việc quán sát bản tánh của nó. Làm điều đó trong một ngày.

Tham gia trong việc Tìm kiếm Tâm

Thực hiện adhisara và cái nhìn chăm chú như trước. Đặt tâm bạn kiên định trong không gian phía trước, và để nó hiện diện ở đó. Hãy khảo sát kỹ: điều gì mà bạn đã đặt ở đây hôm nay? Hãy xem nếu người đang đặt và tâm được đặt là một hay hai. Nếu là hai, thì phải có hai tâm, vậy một phải ở trong Phật tánh, trong khi cái kia đi lang thang trong sinh tử. Vậy hãy quán sát dứt khoát liệu nó có hiện hữu như là hai hay không. Nếu nó không hơn một, vậy cái một đó có phải là tâm? Hãy quán sát: thực tại của cái được gọi là “tâm” là gì? Tìm thấy nó bằng việc đi tìm ở các đối tượng bên ngoài là điều không thể.

Người ta dường như có một đam mê tìm kiếm một số sự việc chứ không phải những người khác. Tất cả chúng ta đều có cha mẹ, nhưng chúng ta có khuynh hướng không để ý đến cha mẹ mình. Một số trong chúng tavị thầy tâm linhchúng ta có khuynh hướng phớt lờ vị thầy của mình. Đó là những nguyên nhân để giác ngộ, mà chúng ta có khuynh hướng bỏ qua điều đó. Khi thực sự đi tìm Phật tánh, chúng ta lại tìm kiếm ở bên ngoài. Vậy chúng có thể ở đâu? Chúng ta nhìn ra bên ngoài trong mọi hướng và trong nhiều cách khác nhau để tìm những phẩm tính của Phật tánh. Mà những gì chúng ta thực sự tìm kiếm là chính chúng ta.

Khi hướng nhận biết của bạn vào không gian phía trước, điều này dường như có ai đó đang hướng nó. Dường như có một tâm được tập trung, và dường như có một nơi ở đó tâm được tập trung. Do đó, nếu tâm này bị hướng dẫn như thế nó có trở thành một loại sự vật hay không? Nếu vậy thì loại sự vật đó là gì? Ý nghĩa việc hướng tâm bạn vào không gian phía trước là gì? Nó có giống như đặt một đồ vật, giống như một cái bàn ở phía trước bạn hay không? Loại sự vật bạn đang đặt ở đó là gì?

Loại câu hỏi đưa ra ở đây hoàn toàn tương tự với việc nghiên cứu về một cá nhân không có nhân dạng. Trong sự nghiên cứu hiện tại, bạn hỏi những câu hỏi như, “Tâm có màu sắc không? Nó có hình tướng không? Nó là loại sự vật gì? Nó là một sự vật hiện tại được đặt phải không?” Theo đuổi một loạt các câu hỏi đó, bạn hỏi, “Cái gì ở đó đang đặt tâm?” Nếu có hai tâm – một được đặt và cái kia là người đặt, thì một trong chúng hoàn toàn giác ngộ, trong khi cái kia vẫn lang thang trong samsara hay sao? Nếu có hai, tại sao lại ngưng ở đó? Hay là có cái thứ ba quán sát cả hai? Bạn dừng lại ở đâu trong sự đi ngược lại bất tận này?

Đây là điểm trọng yếu: sự tìm hiểu dựa trên kinh nghiệm vào những vấn đề này cho đến khi bạn đi đến sự hoàn toàn tin chắc. Ngay cả nếu bạn thực hành thiền định này một ít, nếu không đạt được tri kiến nào đó bạn sẽ không đạt được khả năng trong rèn luyện này. Một số người thực sự tiêu tốn nhiều năm dấn thân vào thực hành nghe, suy nghĩ, và thiền định: tuy vậy họ vẫn không đạt được tri kiến nào đó. Lý do là cách nghiên cứu của họ không được kiên quyết.

Liên quan đến việc tâm được đặt và cái để đặt tâm, bạn phải tìm ra loại hiện tượng của tâm này là gì. Nó có phải là một vật? Là một vật chất? Nó có thực hay không? Nếu là một vật vậy nó có màu gì? Nó có hình dáng không? Trong tiến trình của loại tìm hiểu này, bạn cũng hoàn toàn tự hỏi bản tánh mình. Cái “Tôi” này ám chỉ điều gì? Bản tánh của “Tôi” là gì? Chư Phật và bồ tát trong quá khứ chẳng từng tìm thấy tâm trong bất cứ đối tượng bên ngoài nào, nên dường như tâm không hiện hữu trong cách như vậy. Về mặt này, tâm là bất sinh; nó liên tục, và không giữ nguyên tình trạng. Những đối tượng bên ngoài bao gồm năm nguyên tốtoàn bộ môi trường. Chẳng nơi nào có thể tìm thấy tâm ở đó.

Hãy để người đang suy nghĩ, “Tâm giống như gì?” quán sát chính ý thức này và tìm kiếm nó. Hãy kiên định quán sát ý thức của thiền giả và tìm kiếm nó. Quán sát: trong thực tại cái được gọi là “tâm” có hiện hữu không? Nếu có, nó phải mang một hình dáng, vậy loại hình dáng nó có là gì? Hãy nhìn một cách không che đậytìm ra nó. Hãy nhìn một cách kiên quyết để thấy loại hình dáng mà nó có, hoặc nó là hình cầu, hình vuông hay bán nguyệt, hoặc một hình tam giác, v.v... Nếu bạn nói nó hoàn toànhình dáng, vậy hãy chỉ cho tôi thấy hình dáng đó! Nếu bạn nói chẳng có gì để chỉ, hoặc nói với tôi liệu nó có một hình dáng mà không thể chỉ ra hay không? Hãy nhận dạng tánh rỗng không của hình dáng.

Nhìn một cách không che đậy có nghĩa nhìn trực tiếp, không thiền định. Đức Padmasambhava nói, “Nếu có thể tìm thấy một hình dạng cho tâm, hãy cho Ta xem nó là gì!” Có lẽ bạn có thể thực sự tìm thấy. Có thể tất cả chư Phật và bồ tátquá khứ chẳng tìm thấy mà bạn sẽ có khả năng tìm thấy. Nếu vậy, thật tuyệt diệu! Về phần tâm, “hình dáng rỗng không” có nghĩa chẳng có hình dáng nào được tìm thấy với loại tìm hiểu này. Nó không có nghĩa là tâm có một hình dáng trống rỗng.

Tương tự, chính bạn hãy kiểm tra để thấy nó có bất cứ màu sắc, quy mô, chiều kích nào không. Nếu bạn nói nó không có các điều đó, vậy quán sát xem nó có phải là một rỗng không chẳng có gì hay không. Nếu bạn nói tâm là một rỗng không chẳng có gì, vậy làm thế nào một rỗng không chẳng có gì có thể biết cách thiền định ra sao? Nếu nói rằng không thể tìm thấy nó thì có lợi ích gì. Nếu nó hoàn toàn không có gì, vậy cái gì sinh ra sân hận? Có phải không có một ai đó nghĩ rằng tâm chẳng được tìm thấy không? Hãy kiên định nhìn thẳng vào đó. Nếu bạn không phát hiện nó là gì, hãy kiểm tra cẩn thận xem sự nhận biết khi tự hỏi nó ở đâu có phải là chính bản thân của tâm hay không. Nếu đúng vậy, thì nó giống như cái gì? Nếu nó hiện hữu, thì phải có một vật chất và màu sắc, mà chúng có sẵn chưa? Nếu nó không hiện hữu, bạn cũng giống như một xác chết vô ý thức; nhưng không có ai ở đó để suy nghĩ sao? Vì thế, trong phạm vi giới hạn của hiện hữu và không hiện hữu; hãy quán sát kiên định xem nó như thế nào. Trong cách đó hãy rút nhận biết của bạn vào trong và hướng thẳng vào nó.

Trong tìm hiểu này, bạn rơi vào một cực đoan nếu kết luận rằng tâm thực sự hiện hữu và có những tính chất nào đó như hình dáng, màu sắc, chiều kích, v.v... Cực đoan khác là kết luận tâm chẳng có gì. Nhiệm vụ khó khăn là định vị con đường của bạn giữa hai thái cực này. cái đầu tiên là cực đoan vĩnh cửu bám chấp vào tâm như một đối tượng hay đồ vật đang tồn tại. Nhưng khi bạn đổi hướng khỏi cực đoan đó, bạn lại giống như rơi vào thái cực đối nghịch của chủ nghĩa hư vô, suy nghĩ rằng tâm đơn giản là chẳng có gì. Nếu kết luận tâm là không có gì, vậy ai là người nghĩ ra điều đó. Nếu nó chẳng có gì, vậy làm sao cái không có gì có thể kết luận là nó không hiện hữu?

Đối với những khác biệt trong trí thông minh, một số người có thể tường thuật rằng họ chẳng tìm thấy gì trong phạm vi của hiện hữu và không hiện hữu. Hãy để họ khảo sát kỹ lưỡng cái tâm suy nghĩ rằng chẳng có gì được tìm thấy. Có điều gì đó là tĩnh lặng? Có một sự trong sáng không? Có một tĩnh lặng rỗng rang không? Hãy khảo sát! Nếu họ tường thuật rằng có một sự tĩnh lặng, đó là sự an định, vậy điều đó không phải là tâm. Hãy tìm ra tánh giác, và đáp ứng với bản tánh của nó.

Nếu họ nói nó là một sự rỗng không, đó là một khía cạnh, vậy hãy để họ tìm kiếm tánh giác. Nếu họ nói có một ý thức là một loại của tĩnh lặng và của trong sáng, mà không thể diễn tả, thì họ đã nhận dạng nó được một chút, vậy họ nên đi đến sự chắc chắnnhận ra nó. Hãy để giai đoạn thực hành tâm linh này kéo dài trong một ngày hoặc đến chừng nào cần thiết.

Vì bạn là người đang tìm hiểu bản tánh của tâm, nếu kết luận nó là một sự rỗng không, bạn đã đạt được nhận thức của một số khía cạnh về nó. Tuy nhiên, bạn cần đi sâu hơn. Bạn cần đạt được sự chắc chắn lớn hơn trong nhận thức của bản tâm. Bản văn nói điều này có thể làm trong một ngày. Điều đó là tốt. Nếu làm trong một tháng thì thật tốt. Bạn có thể kết thúc phận sự trong nửa giờ. Nếu thật sự sắc bén, bạn có thể kết thúc trong một giây hay trong khoảng thời gian khảy ngón tay. Trái lại, nếu là người chậm chạp thật sự, bạn có thể tiêu tốn cả đời cố thực hiện nó và vẫn không thành công.

Nhận Dạng Tánh Giác

Tất cả các đệ tử của bạn ngồi trước bạn trong tư thế bảy thuộc tính của Vairocana. Bây giờ hãy đặt nhận biết của bạn ngay trong không gian phía trước một cách kiên định không thay đổi, chú tâm không dao động, và trong sáng không có một đối tượng thiền định. Trong lúc làm như vậy, do sự khác biệt trong trí năng, ở một số người sẽ xuất hiện một thực tại dựa trên khái niệm phi cấu trúc, không thiền định, phi khái niệm trong dòng tâm thức họ. Một số khác sẽ có một sự kiên định trong nhận biết. Một số người sẽ có một ánh sáng rực rỡ tự nhiên, vững chắc của tánh Không, đó không phải là một sự trống rỗng không có gì cả; và sẽ có một nhận biết đó là tự thân tánh giác, nó là bản tâm. Một số người sẽ khởi lên một cảm giác của rỗng không minh bạch. Một số người khác, các hình tướng và tâm sẽ hoà nhập: hình tướng sẽ không bị bỏ quên bên ngoài và nhận biết sẽ không bị bỏ quên bên trong. Điều này sẽ xuất hiện một cảm giác rằng chúng trở nên bình đẳng bất khả phân. Chắc chắn những loại kinh nghiệm này sẽ xảy ra.

Giai đoạn rèn luyện này được dự định dành cho các đệ tử đầy đủ phẩm tính, đã hoàn toàn đạt được một số thấu suốt quyết định vào bản tâm, cho dù điều này có thể kéo dài bao nhiêu. Điều này ngụ ý rằng họ đã thiết lập một nền tảng thích hợp của sự trau dồi an địnhthiền quán, và do vậy đã chuẩn bị tốt cho giai đoạn thực hành kế tiếp hướng đến việc nhận dạng tánh giác.

Trong giai đoạn của thực hành này, không có mục tiêu để tập trung tâm và không có đối tượng tạo ra của thiền định hỗ trợ. Chẳng có bất cứ tạo tác nào. Sự khác biệt trong trí thông minh có thể ám chỉ các trình độ thông minh sắc bén khác nhau, sự trong sáng của nhận biết, hay của thanh tịnh. Cũng có những khác biệt trong cách kinh mạch kati bị đóng lại, mở ra một phần, hay hoàn toàn mở ra. Tuy nhiên, điểm cốt lõi là tất cả đệ tử chẳng giống nhau.

Với chúng ta bây giờ, hình tướngnhận biết dường như bị tách rời. Nhưng trong giai đoạn thực hành này, với một số người, hình tướng và tâm hòa nhập. Dường như chẳng còn việc tánh giác ở bên trong, và hình tướng bị tách rời ở bên ngoài.

Vào lúc đó, vị thầy tâm linh nên đưa ra hướng dẫn sau: Nào, bây giờ nên quát sát vững chắc tâm thức này khi đã đặt tâm kiên định không dao động. Này, một khi an định các niệm tưởng ép buộc trong tâm bạn ngay nơi chúng ở, và tâm không biến đổi, có phải đó là một vững chắc bất động hay không? À, điều này gọi là “an định”, nhưng nó không phải là bản tánh của tâm. Bây giờ hãy quán sát kiên định chính bản tánh của tâm bạn là sự tĩnh lặng. Có một tánh Không rực rỡ đó là không có gì, đó là không trau chuốt trong bản tánh của bất cứ vật chất, hình dáng, hay màu sắc nào hay không? Điều đó được gọi là “bản chất rỗng không”. Có phải có một sự huy hoàng của tánh Không, đó là sự bất tận, trong sáng, tinh khiết, êm dịu, và tỏa sáng, như nó là hay không? Điều đó được gọi là “tánh quang minh”. Bản tánh cốt tủy của nó là sự bất khả phân của tánh Không tuyệt đối, không xây dựng bằng bất cứ thứ gì, và trong sự liên tục, sống động rực rỡ của nó như tánh giác là sự chói lọi và tỏa sáng như nó là.

Sự nhận biết ngay lúc này, không lay chuyển, không thể diễn tả trực tiếp bằng lời, được đặt tên là “tánh giác”. Đó là cái tự suy nghĩ nên được đặt tên là “tâm”. Đó là cái luôn lưu tâm đến mọi thứ; nên được đặt tên là “tỉnh thức”. Mặc dù không nhìn thấy, nhưng nó là cái thấy đặc biệt, là trong sáng, kiên định, không thiền định, và vững chắc, nên nó được đặt tên là “thấu suốt”. Nó là cái tạo ra phân biệt giữa mọi hiện tượng cụ thể, giống như tách các lớp của một cái nấm, nên nó được đặt tên là “trí tuệ phân biệt”. Tất cả thuật ngữ như sugatagarbha,35 (Như Lai Tạng) “tinh túy duy nhất”, “bản tánh tuyệt đối,” “trí tuệ bổn nguyên,” “trung đạo,” “chân lý tối thượng,” “Mahamudra – Đại Ấn,” “Atiyoga – Đại Viên Mãn,” và “tánh Không” đều là tên của một thứ mà thôi. Tánh giác vững chắc này hiện hữu, nó là cái thấy hình tướng bằng mắt, kinh nghiệm âm thanh bằng tai, ngửi mùi bằng mũi, nếm bằng lưỡi, v.v... Mọi kinh nghiệm sự vật như vậy chỉ là sự nhận thức hiện tại của giác tánh. Tuy nhiên, vì chúng ta có điều này, và nó xuất hiện đa dạng như không thích, bám luyến, căm thù, v.v... và vì nó biết, nhớ lại, nhận thức được, chúng ta được đặt tên là “chúng sanh”.

Chúng ta phải biết rằng mọi hoạt động tinh thần, mọi nhận thức, và mọi trách nhiệm tâm linh của chúng ta được thực hiện bằng tâm. Trí tuệ phân biệt là khả năng phân biệt giữa các sự vật, để phạm trù hóa, và một trong những khả năng khác là để phân biệt các giai đoạn khác nhau của con đường.

Mặc dù đó là sự lưu tâm nhận biết trực tiếp, liên tục, nó không thể nhận ra chính nó, nên được đặt tên là “vô minh bẩm sinh”. Nó vô minh ra sao? Mặc dù mắt thấy mọi sự ngoài kia, nó không thể thấy chính bản thân nó. Tương tự, tâm không thấy, không biết, và không nhận thức chính nó, nên điều này gọi là “vô minh”. Ý thức xuất hiện đến chính nó được gọi là “tánh giác” và “trí tuệ bổn nguyên”. Tóm lại, nó chỉ là sự trong sáng này, ý thức kiên định đó là sự bình thường, hiện diện tự nhiên ngay chính lúc này.

Chúng ta có khuynh hướng không nhận thấy lỗi lầm của mình, hoặc, thậm chí nếu có thấy, chúng ta có khuynh hướng muốn che giấu chúng. Nếu bản thân chư Phật không che dấu lỗi của các Ngài và nếu Chúa Jesu không cố gắng che giấu lỗi lầm, vậy bạn có thực sự nghĩ rằng mình có thể che giấu lỗi lầm hay không? Người khác có thể tìm thấy lỗi lầm trong chúng ta, và họ có thể phỉ báng các Phật tửPhật giáo. Người phỉ báng người khác chỉ phô bày lỗi lầm của chính họ. Điều này không phải là nói chúng ta không có khuyết điểm; chúng ta thực sự có vì vẫn còn trên con đường. Chúng ta vẫn chưa thành Phật, và vì vậy buộc phải có lỗi lầmgiới hạn. Tuy nhiên, những người tiêu tốn thời gian tìm kiếm lỗi người khác và sau đó loan truyền, chỉ đem lại ô nhục trên chính họ. Ngoài ra, nếu chúng ta làm như vậy và tiêu tốn thời gian tìm kiếm lỗi người khác, đây là sự ô nhục của chính chúng ta. Nếu đi theo con đường Hinayana và thấy lỗi người khác, chúng ta có thể thu rút vào thực hành của chính mình vì lợi ích đạt giải thoát. Nhưng nếu đi theo con đường Mahayana và chúng ta nhận thấy lỗi của người khác, thì phản ứng thích hợp là lòng bi. Nếu đi theo con đường Kim Cương Thừa, dấn thân vào các giai đoạn phát triểnhoàn thiện, thì chúng ta phải trau dồi kiến thanh tịnh, thấy người khác trong khía cạnh thiêng liêng của họ. Trong trường hợp này, thì lỗi lầm của người khác không thành vấn đề, vì kiến thanh tịnh này làm bão hòa toàn bộ nhận thức thế gian của chúng ta.

Ngoài ra, nếu đang tham gia trong thực hành Atiyoga, cái thấy của chúng ta là vượt lên phạm vi của thanh tịnhbất tịnh. Với cái thấy này, chúng ta kinh nghiệm một tính bình đẳng, hay “vị bình đẳng,” của mọi hiện tượng. Khái niệm thanh tịnhbất tịnh thực sự không khởi lên. Về mặt lỗi lầm, chúng ta nên hướng vào chính mình, vì sự tìm kiếm lỗi người khác là sự ô nhục của chính chúng ta. Đức Dalai Lama thường phân biệt giữa tư cách đạo đức danh giá và đáng hổ thẹn. Tìm kiếm lỗi lầm trong người khác là đáng hổ thẹn. Về mặt đạo đứcphi đạo đức, tìm kiếm lỗi người khác và lăng mạ họ là vô đạo đức. Các hành giả của Giáo Pháp làm như vậy là bỏ rơi mục đích nguyện quy y, cũng như tôn giáo họ đang theo, với những người đứng ở vị trí cao thì sự ô nhục càng lớn; với những người ở vị trí trung bình, đây là sự ô nhục trung bình; và với người ở vị trí thấp, thì đây là sự hổ thẹn nhỏ. Trong mọi trường hợp, nó là một sự hổ thẹn. Ngay khi chúng ta hướng vào người khác và nói “bạn nên làm điều này,” chúng ta đã hoàn toàn đi quá xa. Nếu muốn tìm kiếm lỗi lầm, hãy tìm lỗi của chính mình và làm việc trên chính chúng ta.

Khi nghe về tánh giác hay trí tuệ bổn nguyên, người ta dễ nghĩ rằng, “À, loại tâm thức đặc biệt này là gì? Loại sự việc kỳ diệu này là gì? Nó ở đâu? Giá trị của nó là gì? Tôi phải tiêu tốn bao nhiêu để có được nó?” Trong việc so sánh với tánh giác, thậm chí một tỷ tỷ Mỹ kim cũng chẳng có gì đặc biệt; vì nó chỉ là tờ giấy. Ngược lại, tánh giác là nguyên nhân của sự toàn giác. Giác tánh được nói đến chỉ là sự tự nhiên, sự nhận biết bình thường không có bất cứ sự biến đổi, không có bất kỳ tạo tác nào. Nó không có khởi đầu, bất sinh, bất diệtvô trụ. Không nhận biết bản tánh của nó, chúng ta đi vào bám chấp nhị nguyên, bám chấp vào chính mình, bám chấp vào người khác, bám chấp vào nhân dạng chính cá nhân mình, bám chấp vào nhận dạng các hiện tượng khác. Kết quả của điều đó, là chúng ta tiếp tục lang thang trong chu trình sinh tử.

Nó không đặt nền tảng trong bất kỳ hình dạng hay màu sắc nào, nên thoát khỏi cực đoan của thuyết vĩnh cửu (thường kiến). Trong lúc nó không hiện hữu, nó là một sự đều đặn, trong sáng, quang minh tự nhiên không do tạo tác bởi bất kỳ ai, nên nó thoát khỏi cực đoan của thuyết hư vô (đoạn kiến). Nó không bắt nguồn từ một thời điểm nào đó, cũng không xuất hiện từ các nguyên nhânđiều kiện nào đó, nên nó thoát khỏi cực đoan của việc sinh ra. Tâm không chết hay dừng lại ở một thời điểm nào đó, nên nó thoát khỏi cực đoan của cái chết. Trong lúc nó không hiện hữu, năng lực sáng tạo không ngăn ngại của nó xuất hiện trong mọi cách, nên nó thoát khỏi cực đoan của tính duy nhất. Mặc dù xuất hiện trong nhiều cách, nó giải thoát khỏi bất kỳ bản tánh vốn sẵn nào, nên nó thoát khỏi cực đoan của tính vô số. Vì thế, nó được gọi là “cái thấy thoát khỏi các cực đoan”.

Nó được nói là “thoát khỏi thành kiến và thiên vị”. Chỉ riêng điều này được gọi là “tâm của Đức Phật.” Tâm của một chúng sanh, tâm đó trở thành một vị Phật, tâm đó lang thang trong sinh tử, và tâm đó kinh nghiệm hạnh phúcđau khổ, tất cả đều chỉ là điều này. Nếu điều này không hiện hữu, thì không ai kinh nghiệm luân hồi hay niết bàn, hoặc bất kỳ hạnh phúc hay đau khổ nào, mà điều đó ngụ ý một cực đoan hôn trầm của đoạn kiến.

Khi nói tánh giác đó thoát khỏi thành kiến ngụ ý rằng nó không có chiều kích trong không gian, và không thiên vị ngụ ý rằng nó siêu vượt không gianthời gian. Nghĩa là, nó không cư trú trong quá khứ, hiện tại, hay tương lai, cũng không trong bất cứ phương hướng Đông, Tây, Nam, Bắc nào v.v...

Nếu bạn nhận biết bản tâm, đó là tâm của một vị Phật. Nếu không nhận ra bản tánh của nó, nó là tâm của một chúng sanh. Đó chỉ là vấn đề của phương diện nào. Như một sự loại suy, một người có thể được nhận dạng theo nhiều cách khác nhau tùy theo phương diện họ bị quan sát.

Chỉ riêng điều này chẳng ai tạo ra, mà là sự tự-hiện, bổn nguyên, và tự phát, nên nó được gọi là “trí tuệ bổn nguyên”. Giác tánh này không bắt nguồn từ hướng dẫn thâm sâu của một vị thầy tâm linh, cũng chẳng khởi nguyên từ trí thông minh sắc bén của bạn. Nguyên thủy và khởi nguyên, đặc tánh tự nhiên của tự-tâm hiện hữu giống như vậy, trước khi nó bị che ám bởi vô minh bẩm sinh, nhưng bạn không nhận biết hay biết chắc nó, nên bạn không thỏa mãn, và không tin. Do vậy, cho đến nay bạn vẫn còn trong nhầm lẫn. Nhưng giờ đây hãy chấp nhận nó như chủ nhân giàu có. Hãy biết bản tánh của chính bạn. Hãy biết những thói xấu của bạn. Điều đó được gọi là “nhận dạng tâm”.

“Vô minh bẩm sinh” này là điều tất cả chúng ta đều có, và nó ngăn cản việc tìm kiếm sự thỏa mãnchúng ta đang tìm. Nó cản trở chúng ta khỏi niềm tin; và làm chúng ta vẫn trụ trong sự không rõ ràng và nhầm lẫn. “Chủ nhân giàu có” ám chỉ chính bạn, Phật tánh của bạn, tánh giác của bạn. Bạn là chủ nhân của sự giàu có này, viên ngọc như của giác tánh chính bạn. Khi bản văn nói, “hãy biết bản tánh bạn” và “hãy biết thói xấu của bạn,” là đề nghị chúng ta không hành động giống như con mèo dấu phân của nó. Hãy nhận biết lỗi lầm của bạn và để chúng được hoàn toàn rõ ràng với chính bạn.

Nếu tâm là trống rỗng có nghĩa là không có gì, hoặc bổn nguyên không hiện hữu, vậy ai tạo ra người lang thang trong sinh tử và ai kinh nghiệm đau khổ? Một khi người ta thành Phật, do đâu xuất hiện trí tuệ bổn nguyên của tri kiến, lòng bi của khoan dunghoạt động giác ngộ của hành vi? Tất cả những điều đó được kinh nghiệm và tạo tác chỉ bởi tánh giác liên tục này, đó là sự trong sáng, nhận biết, và rỗng không bất phả phân. Cụm từ, “sự không nhiễm ô, con mắt duy nhất của trí tuệ bổn nguyên”36 ám chỉ điều này. Cụm từ “trong chốc lát mọi hiện tượng đều được thấm nhập và giữ gìn bởi trí tuệ bổn nguyên” và “sự đa dạng của hiện tượng với sắc tướng khởi lên từ tâm” ám chỉ riêng điều này. “Nó là sự kinh nghiệm đối tượng của phân biệt, tự-nhận thức, trí tuệ bổn nguyên” và đó là những trích dẫn có thẩm quyền khác.

Mọi hiện tượng của luân hồiniết bàn được lĩnh hội bằng việc hiểu biết ý nghĩa cái một này. như một loại suy, nếu nhận ra một giọt nước là ẩm ướt, bạn biết rằng tất cả nước đều ẩm ướt. Tương tự, do biết bản tánh của nhận biết, bạn nhận ra bản tánh của toàn bộ luân hồiniết bàn.

Hãy nhận biết rằng giờ đây bạn có được một cuộc sống làm người với nhàn rỗithuận lợi. Bạn đã gặp được giáo lý cốt tủy nếu áp dụng vào thực hành sẽ có khả năng dẫn bạn đến thành tựu giác ngộ viên mãn chỉ trong một đời. Ngoài ra có rất nhiều bậc thánh đến Mỹ mà bạn co cơ hội được gặp. Tự bạn hãy khởi lên suy nghĩ, “Bây giờ là lúc tin tưởng vững chắcáp dụng điều này vào thực hành.” Nếu thấy chính bạn vẫn lãng phí thời gian và không thực hành, hãy tự nhắc nhở; suy nghĩ, “Được rồi, nói thêm là không cần thiết và có thể có hại! Giờ đây mọi thứ đã được sắp đặt cho thực hành, không lẽ bây giờ quay trở lại, bỏ tất cả việc này và chỉ làm điều dại dột, lãng phí thời gian?”

Một số người có thể gặp được giáo lý này lại không có hiểu biết cơ bản về Phật giáo; và với những người này, giáo lý có thể có phần lạ lùng. Bạn có thể tự hỏi, “Bản văn này cho điều gì?” Nếu không có một nền tảng trong lý thuyếtthực hành, sẽ là điều tốt nếu bạn thiết lập điều đó. Cốt tủy của điều đó là hiểu biết ý nghĩa của thuật ngữ samsara, chu trình sinh tử là gì. Trình bày một cách ngắn gọn, hiện nay chúng ta là người, nhưng khó tránh khỏi bị tái sinh thành loài khác, ví dụ như một loài vật. Chúng ta không thích nghe hay suy nghĩ về điều đó, nhưng nếu tích lũy các nguyên nhân cho nó, thì dù có thích hay không, điều đó sẽ xảy ra. Chúng ta có thể bị tái sanh vào địa ngục , thậm chí còn tệ hơn một con vật; hoặc có thể bị tái sanh như tinh linh, mà chúng ta cũng chẳng thích chút nào. Nó không phải là vấn đề chúng ta thích gì; nếu dấn thân vào việc bất thiện, chúng ta dễ bị những tái sanh không may mắn như thế. Nếu tránh việc xấu, nhờ đó chúng ta có thể tránh được kết quả của việc xấu, đó là những dạng tái sanh khốn khổ.

Thậm chí trong cõi người, về mặt phẩm tính của cuộc sống cũng rất đa dạng giữa con người. Trong cuộc sống con người, điều giá trị là có được cuộc sống với nhàn rỗithuận lợi. Trái lại, được tái sanh là một bán thiên là vô giá trị. Họ có nhiều quyền năng nhưng không ích lợi và sinh ra việc không thực sự thỏa mãn. Tương tự, chư thiên có rất nhiều khoái lạc, nhưng khi đối diện với cái chết, họ kinh nghiệm một nỗi lo lắng to lớn vì thấy họ sắp trở lại các cõi thấp. Đó là sáu trạng thái của chúng sanh hiện hữu, điều quan trọng là nhận ra các nguyên nhânđiều kiện dẫn đến tái sanh trong sáu cõi. Giáo lý về chủ đề này được tìm thấy trong tất cả truyền thống của Phật giáo Tây Tạng: Sakya; Gelu, Kagyu, và Nyingma. Tất cả giáo lý đều hoàn toàn chi tiết và thấu đáo về chủ đề này, và bàn luận về những gì là vô thườngvĩnh cửu. Điều này gây ra câu hỏi, “Có thể giải thoát chủ thể chúng sanh khỏi thọ tái sanh nhiều lần trong sinh tử hay không?” câu trả lời là “có”. Điều đó có thể, tùy thuộc lòng từ của Đức Phậtgiáo lý Ngài đã ban.

Đi theo một số thực hành trong phạm vi Phật Pháp, có thể đạt giải thoát trong hai hay ba a tăng kỳ. Theo một số giáo lý khác, có thể đạt giải thoát trong năm hay sáu năm. Trong các giáo lý đạo Phật, có một số lớn các hướng dẫn đa dạng, được truyền dạy theo khả năng của cá nhân. Những người có khả năng sắc bén có thể sử dụng các giáo lýthực hành hùng mạnh, thâm sâu hơn, trong lúc người có khả năng chậm hiểu hơn chọn một con đường chậm hơn. Khuôn khổ căn bản của của giáo lý này là Tứ Diệu Đế, và nền tảng là Bốn Tư duy làm Chuyển Tâm. Một phương diện trọng yếu của nền tảng này là thọ quy y. Nếu bạn không biết bản tánh của thọ quy y thì khó có thể tìm hiểu ý nghĩa của việc đi vào thực hành này.

Tôi cũng muốn nói chuyện về vấn đề các bài nguyện khẩn cầu được làm bởi những vị thầy tâm linh và các hành giả khác của Giáo Pháp. Nếu chỉ có một người hoặc một cộng đồng nhiều người có nghiệp phải kinh nghiệm một số nghịch cảnh, liệu việc cầu nguyện có bất cứ lợi ích nào cho họ hay không? Nếu có, liệu có tùy thuộc vào ai đang cầu nguyện hay không? Đó là, nó hiệu quả chỉ với người thực hiện khẩn cầu như vậy nếu có năng lực tâm linh hay thanh tịnh to lớn hay không? Tôi không thể phán đoán năng lực cầu nguyện của một người trên những người khác. Điều tôi biết bây giờ là Tam BảoĐức Phật, Giáo Pháp, và Tăng Đoàn – thực sự có năng lực có thể giúp con người vào những lúc không may, bằng việc tẩy trừ các che ám của họ và v.v... Thế nên, vì năng lực của Tam Bảo, chắc chắnlợi ích trong việc dâng cúng các cầu nguyện cho hạnh phúc của người khác. Đây là chân lý của cầu nguyện của mọi người, không chỉ dành cho các vị thầy tâm linh, nên việc cầu nguyện cho người khác là rất đáng giá. Một cách cụ thể, bạn có thể tự hỏi liệu có bất kỳ lợi ích nào trong việc cầu nguyện cho những đau khổ từ tai họa tự nhiên v.v... hay không? Câu trả lời của tôi là việc cầu nguyện cho những người đang đau khổ, là người lạ, người thương mến, thân nhân, hoặc bất kỳ ai khác đều chắc chắnlợi ích. Cầu nguyện cho lợi ích của họ góp phần làm nhẹ bớt đau khổ của họ. Năng lực của các bài nguyện này xuất phát từ Tam Bảo, nhưng những cầu nguyện của bạn có thể ảnh hưởng góp phần cho lợi ích này. Những cầu nguyện như vậy có thể hiệu quả trong việc tẩy trừ những che ám tạm thời, cũng như các che ám tâm linh sâu hơn. Cũng nên nhớ trong tâm rằng việc cầu nguyện cho lợi ích người khác cũng là lợi ích cho chính người thực hiện cầu nguyện. Liên quan đến điểm này, tôi khuyến khích các bạn dẹp bỏ nghi ngờ sang một bên, và biết rằng các cầu nguyện như vậy là rất có công đứclợi ích.

Trong phần trước của bản văn, Đức Padmasambhava đã bàn luận về bản tánh của nhận biết bằng chính lời của Ngài. Trong phần sau Ngài sao lưu lại những lời của Ngài bằng sự trích dẫn kinh điển từ các tantra và luận thư vĩ đại, có thẩm quyền nhất về Atiyoga. Chủ tâm của Ngài là giúp thấm nhuần tự tin, xác quyết, lòng tin trong người đọc. Nói khác đi, Ngài phô bày rằng sự hiện diện của Ngài không chỉ là sự tạo tác của chính Ngài, mà dựa căn bản trên sự thấu suốt sâu thẳm nhất của Đức Phật.

Tantra Ba Diễn Đạt Của Giải Thoát Bằng Sự Quán Sát trình bày:

Ôi, Đức Thế Tôn của Bí Mật, xin lắng nghe! Bản tánh thanh tịnh của giác tánh trí tuệ của bạn, tánh Không thanh tịnh này không đặt cơ sở trong bản tánh của bất cứ vật chất hay màu sắc nào, là Đức Phật Samantabhadra (Phổ Hiền). Nếu bản tánh của trí tuệ nhận biết của bạn chỉ là cực lạctánh Không thì nó sẽ không là sự hoàn toàn rỗng không;37 mà đúng hơn, tánh giác trí tuệ của riêng bạn là sự biện biệttrong sáng bất tận, là Phật Samantabhadra. Bản tánh rỗng rang của tánh giác bạn không đặt nền tảng vào bất cứ vật chất nào, và sự hiện diện rõ ràng, phân biệt hiện nay của trí tuệ nhận biết của bạn là hiện diện bất khả phân; nên đây là Đức Phật Dharmakaya (Phật Pháp Thân). Giác tánh của bạn hiện diện như một kết tập vĩ đại của ánh sáng rõ ràngtánh không bất khả phân, là sự bất sinhbất diệt, nên là Đức Phật Bất Biến Quang. Nó có thể được nhận biết.

Ở đây, Vajrapani (Kim Cương Thủ) là bậc được khẩn cầu như “Đức Thế Tôn của sự Bí Mật”. Trình bày về bản tánh của nhận biết ở trên là có lợi chỉ cho những người đã hoàn toàn có một số thấu suốt vào các thực hành trước về việc tìm ra bản tánh của tâm. Do đó, nếu đã tìm thấy bản tánh của tâm và đã đạt được sự thấu suốt về mặt đó, bạn được ưu tiên cho giáo lý hiện tại này. Nếu không tìm kiếm bản tánh của tâm, giáo lý này sẽ không có ích cho bạn.

Bằng việc nhắc đến bản tánh của nhận biết như “sự thanh tịnh rỗng rang” và như sự bất tận, biện biệttrong sáng, Đức Padmasambhava tránh sử dụng cả hai thái cực của thuyết hư vôvĩnh cửu. Khi cố gắng dấn thân vào thực hành này, một số hành giả Tây Tạng và Phương Tây ngồi nhìn chằm chằm vào không gian phía trước với đôi mắt lồi ra như thể sắp thấy điều gì ở đó. Họ tự hỏi, “Khi nào tôi thấy nó? Nó ở đâu?” và hy vọng có thể tìm thấy điều gì đó làm họ hiểu ra điều gì. Họ sẽ không thành công, cái nhìn chằm chằm là để hướng ra không gian phía trước, nhưng không phải là có điều gì đó để thấy ngoài kia. Đúng hơn là cách nhìn chăm chú là phần đơn giản của kỹ thuật, cuối cùng sẽ dẫn đến sự thấu suốt vào sự bất khả phân của không gian bên ngoài và không gian bên trong. Sự hợp nhất của không gian bên ngoài và bên trong thường được nhắc đến trong thuật ngữ của sự loại suy của một đứa bé gặp được mẹ nó.

Và:

Ôi, Đức Thế Tôn Bí Mật, xin ban sự chú tâm trọn vẹn của Ngài cho con! Giác tánh trí tuệ rõ ràng của bạn là vị Phật, nên không cần tìm kiếm Phật ở đâu khác. Tánh giác rõ ràng, lung linh của bạn là liên tục, rõ ràng nên với Đức Phật Dharmakaya, không có thiền định nào phải được thành tựu. Tánh giác của chính bạn, Dharmakaya là không sinh, không chết, nên về mặt hành động không có đạo đức hay đồi bại.

Trích dẫn trên củng cố thêm sự khẳng định trước đó rằng tánh giác của bạn không là điều gì đó mà bạn sở hữu hoặc có được bởi vì bạn có tâm linh rất sắc bén, hay vì bạn có một vị thầy giỏi. Khi bạn đọc, “nên với Phật Dharmakaya (tánh giác của bạn), không có thiền định nào để thành tựu,” bạn có thể nghĩ, “Tốt, vậy tôi không cần thực hành. Tôi giỏi như tôi là.” Đó là một kết luận thích hợp nếu bạn ở tại giai đoạn này của thực hành, nhưng nếu không, bạn không nên nghĩ rằng mình có thể thay việc thiền định bằng sự tiêu tốn thời gian trên điện thoại, máy fax, hoặc máy tính.

Và:

Ôi Đức Thế Tôn! Chính sự rõ ràng, trong sáng liên tục này, và tánh giác hiện tiền của các bạn là vị Phật. Vì nó bất khả phân với tánh giác rõ ràng liên tục của các bạn, với Dharmakaya thì không có gì để thiền định trên đó. Bạn có thể nhận biết rằng giác tánh rõ ràngtrong sáng này của các bạn là vị Phật.

Làm thế nào chúng ta nhận ra tánh giác của chính mình như vị Phật? Một số trong chúng ta có thể nghĩ về Đức Phật như được mô tả trong các thangka (tranh cuộn). Đức Phật được mô tả theo cách đó là thường Nirmanakaya (Hóa Thân), hiện thân của Đức Phậtthân tướng, màu sắc, v.v... Ngược lại, Dharmakaya, bản tánh của giác tánh bạn, không có thân tướng. Nếu có thì sẽ là thân tướng gì? Khi bạn thẩm soát bản tánh của giác tánh mình, bạn có thể tìm ra nó có một thân tướng hay không? Nếu thật sự có một thân tướng, nó có một màu sắc hay không? Nếu có, thật tốt. Nhưng nếu không, nó là một sai lầmnhận ra tánh giác riêng bạn thật sự có một thân tướng với các hiện thân của Đức Phật. Phải nhớ rằng ba bậc loại suy sau đây về mặt trời gắn liền với Dharmakaya, Sambhogakaya, và Nirmanakaya. Mặt trời giống như Dharmakaya, là suối nguồn của những lưu xuất. Tia sáng chiếu ra từ mặt trời giống như Sambhogakaya, và kết quả sự xua tan bóng tối giống như Nirmanakaya.

Về mặt này, sự tỏa sáng và những tia sáng không khác biệt với mặt trời; đúng hơn, chúng cùng bản tánh như mặt trời. Cái này là lưu xuất của cái kia. Tương tự, tánh giác riêng bạn như Dharmakaya, như vị Phật, lưu xuất vô số thân tướng tự nhiên, tự phát vì lợi ích của chúng sanh. Từ một viễn cảnh tối thượng, Đức Phật được xem là vô tướng; và từ bối cảnh tương đối, Đức Phật được xem nhưthân tướng, bao gồm Sambhogakaya và Nirmanakaya. Nirmanakaya bao gồm nhiều thân tướng khác nhau của Đức Phật được phú cho ba mươi hai biểu tượng và tám mươi dấu hiệu của một vị Phật, và có trí tuệ hiện tượng tính và bản thể tính. Thuật ngữ Tây Tạng cho Đức Phật bao gồm hai âm tiết, chữ đầu tiên là sang, có nghĩa tỉnh thức hoặc làm tan biến. Một vị Phật đã tỉnh thức và làm tan biến mọi cảm xúc phiền não, như tham, sân, và si. Chữ thứ hai gye có nghĩa phát triển hay làm thỏa mãn, ngụ ý rằng một vị Phật đã hoàn thiện mọi phẩm tính xuất sắc của giác ngộ.

Người có thể thực sự tìm hiểu ý nghĩa và sự sâu xa của giáo lý này là những người đã đạt được sự thấu suốt đích thực vào giai đoạn phát triểnhoàn thiện, ngụ ý một mức độ cao về sự trưởng thành tâm linh và thấu suốt. Vào lúc nghe những trình bày này về sự nhận ra vị Phật và tánh giác, bạn có thể bị sửng sốt. Nếu vậy, bạn nên biết rằng sẽ có nhiều bàng hoàng sắp xảy đến! Chẳng hạn, trong tiến trình chuyển tiếp của trạng thái-mộng, bản văn sẽ giải thích thậm chí bạn hoàn toàn không hiện hữu ra sao; và sau đó bản văn sẽ khảo sát tỉ mỉ những khía cạnh khác của thực tại gắn liền với trạng thái-mộng. Vậy hãy chuẩn bị.

Và một đoạn văn từ Tantra Ngọn Đèn Của Trí Tuệ Bổn Nguyên trình bày:

Ôi Đức Thế Tôn của Bí Mật, Xin lắng nghe! Vị Phật hoàn toàn viên mãn trụ ở giữa trái tim bạn. Dharmakaya của sự nhận biết liên tục, trong sáng an trụ với hạnh của trí tuệ bổn nguyên tự phát. Đức Thế Tôn Bí Mật, Dharmakaya ở giữa tim bạn không đặt nền tảng trên dấu hiệu, nên nó hiện diện như tánh Không.38 Nó an trụ như sự nhận biết rõ ràng, liên tục. Nó hiện diệnchướng ngại không bị che ám. Vì nó tự phát, nên hiện diện liên tục như một nền tảng không thiên vị của hình tướng. Đức Thế Tôn của Bí Mật, sự hiện diện rỗng rang của Dharmakaya, không đặt nền tảng trên các dấu hiệu, là bản tánh thanh tịnh của ý thức nhận biết chính bạn. Nó không đặt nền tảng trên bất cứ vật chất hay màu sắc nào, nên nó là sự thanh tịnh này, sự hiện diện rỗng rang.

Và:

Đức Thế Tôn của Bí Mật, Dharmakaya, an trụ ở giữa tim bạn như sự nhận biết liên tục, rõ ràng, chính là tánh giác này của bạn, mà bản tánh vốn liên tục, trong sáng, và rõ ràng. Ôi Đức Thế Tôn của Bí Mật, giác tánh chính bạn, không có sinh diệt, trong sáng trong sự bình đẳng của ba thời. Thân của Đức Phật không có trước hay sau, nên trí tuệ bổn nguyên là trong sáng không che ám. Trí tuệ bổn nguyên của tri kiến không thiên vị,39 nên với đôi mắt của trí tuệ bổn nguyên, ý nghĩa của mọi hiện tượngtrong sáng vô song.

Và:

Đức Thế Tôn của Bí Mật, sự hiển lộ của Dharmakaya hiện hữu dựa vào thân bạn. Ngài an trụ giữa trái tim bạn. Sự trong sáng của Ngài là sự trong sáng lưu xuất từ mắt bạn. Vị Phật an trụ trong trái tim bạn, và dù bị bao phủ bởi thân thể bằng máu, thịt, Ngài vẫn không bị ngăn che. Do đó không bị che ám bởi thân, Ngài hiện diện trong sángchướng ngại trong ba thời. Đó là phẩm tính bất sinh bất diệt của giác tánh bạn.

Sự trình bày “trong sáng lưu xuất từ mắt bạn” gắn liền với kinh mạch nối trái tim đến mắt. Sự trong sáng này là một loại tánh sáng, và vì nó vượt lên ba thời quá khứ, hiện tại, và tương lai, nên nó bất sinhbất diệt.

Chỗ của giác tánh là trái tim bạn, vậy xét trong mộ nghĩa nào đó, bạn mang thai với Dharamkaya của chính bạn. Nếu tìm kiếm giác tánh tại vùng tim, bạn không thể thấy nó, vì tánh giác không đặt nền tảng trên hình tướng, cũng không hiện hữu như một thực thể vật chất. Sự xác nhận chỗ của tánh giác tại trái tim là sự ẩn dụ. Trong lúc ngụ ở trái tim, nó là tánh giác tương tự này, hoặc Dharmakaya, làm tỏa sáng toàn bộ luân hồiniết bàn, bao gồm các giấc mộng của bạn. Cho tính chất ẩn dụ của trình bày này rằng tánh giác cư trú ở trái tim, bạn không nên lo lắng tánh giác bị mất khi bị thay tim. Giác tánh không trọ trong trái tim theo nghĩa đen, cũng không trọ trong não, như được người phương Tây hiện đại thường suy nghĩ.

hiện diệnchướng ngại, không bị cản trở bởi năm thân của các dấu hiệu.40 Điều này là phẩm tính không chiều kích của thân Đức Phật. Về mặt hành động, nó là sự hiện diện phi chướng ngại, không bị che ám bởi những xu hướng ngủ ngầm của đạo đức hay đồi bại. Vì ánh sáng rực rỡ của trí tuệ bổn nguyên không có bên ngoài hay bên trong, đây là tính bất nhị trong mối liên quan của đối tượng và trí tuệ bổn nguyên. Không bị chướng ngại bởi các lỗi lầm của vô minh, nó là sự hiện diệnchướng ngại.

Và:

Đức Thế Tôn của Bí Mật, tính tự phát hiện diện ở giữa trái tim bạn như một tập hợp quang minh của tánh giác chính bạn. Nó là nền tảng liên tục của hình tướng cho mọi thứ; vì tánh giác lưu xuất từ mắt bạn, các thân tướng xuất hiện để có thể được thấy một cách liên tục. Vì tánh giác lưu xuất từ mũi bạn, mùi được ngửi một cách liên tục. Sự nhận biết của người ý thức được mùi là Dharmakaya. Tùy theo nhận biết của bạn lưu xuất ra, sinh dục của nam và nữ tiếp xúc nhau, và hỷ lạc khởi lên liên tục. Sự nhận biết của người kinh nghiệm hỷ lạc cũng là Dharmakaya. Hãy biết bản tánh của nó!

Chương 119 của Tantra ngang bằng với hư không, kết hợp với ý nghĩa cuối cùng của Đại Viên Mãn trình bày:

Dhramakaya này, thoát khỏi các thái cực, không phải không hiện hữu, mà là tỉnh thức và nhạy bén. Nó không là thuyết hư vô, mà là sự nhận biếttrong sáng. Nó không là thuyết vĩnh cửu, nhưng không có vật chất. Nó không là sự nhị nguyên, mà là không có đôi. Nó không là một hợp nhất, nhưng tỏa khắp mọi thứ.

Sự trình bày Dharmakaya là “không có đôi” có nghĩa nó không có bạn đồng hành. Bản tánh của nhận biết, Dharmakaya có thể nhận dạng. Nó là Dharmakaya trải qua mọi loại kinh nghiệm này – thị giác, thính giác, vị giác, xúc giác, kinh nghiệm đại lạc của giới tính, v.v... Tuy nhiên, đừng đơn giản đánh đồng nó với nhận thức nhảy quanh như con khỉ từ cửa sổ này sang cửa sổ khác. Chúng không giống nhau. Bạn có thể nói về nhận biết quá khứ, hiện tại, và vị laitrạng thái nhận biết của bạn trong ngày và đêm. Pháp Thân không giống như tất cả các trạng thái nhận biết chỉ xảy ra ở một số thời gian này chứ không phải ở thời gian khác, nhưng các trạng thái đó có thể được xem như phẩm tính của Pháp Thân. Bản tánh của Dharmakaya chính là bản tánh của toàn bộ luân hồiniết bàn. Nó không hiện hữu như một vật chất, cũng như khôngthân tướng. Đúng hơn, Dharmakaya là hiện thân của trí tuệ bổn nguyên. Đừng đúc kết thực tại quy ước với thực tại tuyệt đối thành một, vì chúng không giống nhau. Những hướng dẫn của thực tại quy ước có thể dẫn chúng ta đến chân lý tuyệt đối, nhưng không nên nghiên cứu về thực tại quy ước bằng con đường của các hướng dẫn về thực tại tuyệt đối. Kinh nghiệm hiện tại ngay bây giờ của chúng ta ở đây là quy ước, và chúng ta bắt đầu từ những kinh nghiệm này cho đến lúc rốt ráo. Nếu đơn giản đánh đồng thực tại quy ước với thực tại tối hậu, bạn sẽ chẳng hiểu được cái này hoặc cái kia.

Sự Trong Sáng, Tự Nhiên, Bất Sinh, trình bày:

Nếu bạn biết thực tại của nhận biết bất biến, liên tục này, đó là hiện tại bổn nguyên, đó là sự thiền định của Vajrasattva.

Và:

Vì tự-tâm không sinh hay diệt nên nó hiện diện không khởi đầu và không kết thúc. Do đó, vì tâm bất biến trong ba thời, nó không có thực chất và tỏa khắp, và do vậy nó giống hư không. Thoát khỏi các cực đoan của lấy, bỏ,41 thoát khỏi hiện hữu, không có khái niệm, nó không phải không hiện hữu, và thoát khỏi tính hư vô (đoạn kiến). Thoát khỏi các thái cực của hiện hữu và không hiện hữu, nó là sự tự-hiện. Vì bản tánh của nhận biếtkhông sinh, không diệt, nó là một hiện thân của trong sáng tự nhiên. Thanh tịnh và tỏa sáng, nó không có bên ngoài hay bên trong, nên nó là sự tự-nhận biết của Dharmakaya.

Thảo luận này tiếp tục với đầy đủ chi tiết. Tất Cả Thành Tựu Tối Cao trình bày:

Ôi bậc vĩ đại, xin lắng nghe! Bản tánh của con là như vầy: sự hiện hữu của con không hơn một thực thể; sự phô diễn của con bộc lộ trong khía cạnh nhị nguyên; nguồn gốc của con xuất hiện như chín yana (thừa); sự tổng hợp của con được tổng hợp như Đại Viên Mãn; cuộc sống của con là tinh thần của tỉnh thức; nơi an trụ của con là để an trụ trong bản tánh tuyệt đối của thực tại; sự trong sáng của con là trong sáng trong không gian của nhận biết; sự tỏa khắp của con là để tỏa khắp vũ trụ hữu tình và vô tình; và nguồn gốc của con là để xuất hiện như toàn bộ hiện tượng thế gian. Về phần sự phô diễn của con, con không có các dấu hiệu của vật chất. Về phần cái thấy của con, con thoát khỏi các đối tượng được chú tâm. Về phần ý thức của con, không có lời nào để mô tả nó. Tinh túy này, không khởi lên từ nguyên nhân, thoát khỏi mọi lựa chọn ngôn từ.

Chín yana là chín phương tiện tâm linh trong phạm vi Phật giáo, khởi đầu với Sravakanaya và lên đến tột bậc là Đại Viên Mãn. Có sự phân loại khác về tám, chín, và mười yana, nhưng tất cả đều chỉ cùng hệ thống của thực hành Pháp. Nếu mô tả đầy đủ chi tiết, chúng có chín yana, nhưng tất cả có thể tổng hợp như Đại Viên Mãn. Hãy nhớ rằng mọi sự liên quan đến “không gian của nhận biết” việc sử dụng chữ “không gian” mang tính ẩn dụ. “Toàn bộ vũ trụ vô tình và hữu tình” bao gồm toàn bộ luân hồiniết bàn. “Các đối tượng của chú tâm” là những gì bạn có thể thấy hay thể hiện cụ thể. Ý thức đơn giản là không thể diễn tả được, vì nó vượt lên mọi chọn lựa của ngôn từ. Tất Cả Thành Tựu Tối Cao tiếp tục:

Nếu muốn nhận thức thấu đáo thực tại đó với sự tin chắc, hãy khảo sát nó khi bạn trống rỗng. Thực tại đó là sự bất sinh của tự thân-thực tại. Dựa trên sự khảo sát, tự bản thân-tâm thức là không có sự ngừng dứt; và tự thân-thực tại giống như hư không, là sự ẩn dụ của không gian. Tự thân-thực tại đó là không có đối tượng, được minh họa bằng tính không khách quan. Nó không thể diễn tả bằng lời nói, mà để thốt ra lời nói không thể diễn tả, nó được bộc lộ trong bản tánh của thực tại không khách quan. Nếu ý nghĩa cuối cùng của điều này không được nhận biết, thì bất cứ thuật ngữ nào về thực tại được bộc lộ, bạn sẽ không gặp được tôi; chuyển hướng ngược với tôi, tôi bị che ám; và không đạt được bản tánh của Giáo Pháp.

Và:

Bản tánh của Tâm Linh Tỉnh Thứctinh hoa của mọi hiện tượng không có ngoại lệ. Bất sinh và nguyên sơ, nó không có sự che ám; không có con đường để tiến hành, không có khó khăn cạm bẫy, bổn nguyên tự phát, không cần phải nỗ lực.
Thảo luận này tiếp tục một cách chi tiết. Danh Sách Vajra Trích Dẫn Kinh Điển Về Trí Tuệ trình bày:

Ý nghĩa của bản thân-thực tại là không khác hơn trí tuệ bổn nguyên, trong sáng, tự-hiện. Đừng tìm kiếm viên ngọc như ý quý báu này; chính bản thân bạn đã có nó.

Tất Cả Thành Tựu Tối Cao trình bày:

“Trí tuệ bổn nguyện tự-hiện” là sự tự-xuất hiện, và khởi lên không có nguyên nhânđiều kiện. Nó là trí tuệ bổn nguyên trong sáng bất tận.

Và:

Tinh túy đó, không có nguyên nhân hay điều kiện, chi phối mọi sự và là mọi sự.

Và:

Mọi hiện tượng là tôi, vậy nếu bản tánh này của tôi được nhận biết, thì sẽ biết được mọi hiện tượng.

Và:

Tôi là người phát hiện mọi thành tựu, Tâm Linh của Tỉnh Thức. Tâm Linh Tỉnh Thức là tất cả thành tựu tối cao. Chư Phật ba thời được tạo bởi Tâm Linh Tỉnh Thức. Hiện tượng của thế gian hữu tình và vô tình được tạo ra bởi sự tỉnh thức của tâm linh.42

Mọi thảo luận như vậy trong sutra và tantra chỉ nhắc đến tâm liên tục, trống không, và trong sáng này của hiện tại. Việc không biết bản tánh này của bạn là nền tảng của sự nhầm lẫn; nó là “vô minh”. Nó được gán cho là “sự vô minh là nền tảng nhầm lẫn của chúng sanh trong tam giới.” Biết được bản tánh này của chính bạn được gán cho là “Nền tảng Samantabhadra của giải thoát.” Khi sự hiện diện này như tánh sáng và tánh Không trung lập hợp với đạo lý, thì được đặt tên là “nền tảng.”

Tất cả chúng sanhnhân loại, loài chó, và mọi loài khác – đều có Phật tánh, vì chúng tachúng sanh hữu tình, do vậy tất cả chúng ta đều có loại tâm đã được bàn luận ở đây.

Nền tảng của luân hồi, niết bàn, và mọi hạnh phúc, đau khổ đều không khác hơn chính ý thức nhận biết hiện tiền này. Tùy theo sự hướng dẫn của vị thầy tâm linh, các đệ tử biết được bản tánh của họ, tin tưởng vào nó và đi đến sự tin chắc, nền tảng là sự giải thoát trong chính nơi chốn của nó. Do vậy, đây là hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của cuộc sống được gọi là “sự giải thoát tự nhiên của nền tảng.” Hãy biết điều này trong cách đó. Đây là chương đầu tiên để thành tựu sự an định và được giới thiệu vào tính thấu suốt của trí tuệ bổn nguyên của giác tánh. Samaya.

Đã niêm ấn, niêm ấn, niêm ấn.

4

Sự Giải Thoát Tự Nhiên của Nhầm Lẫn:
Các Hướng Dẫn dựa trên Kinh Nghiệm
về Tiến Trình Chuyển Tiếp Của Giấc Mộng

Chủ đề phổ biến thứ hai, tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng, bao gồm các hướng dẫn thiết thực, có thể so sánh với việc giơ cao một ngọn đèn trong phòng tối. Các hướng dẫn này gắn liền với khuynh hướng tiềm tàng và dẫn đến việc chuyển hóa thanh tịnh quang vào con đường. Trong chủ đề này có ba phần: (1) các hướng dẫn về huyễn thân vào ban ngày và sự giải thoát tự nhiên của hình tướng, (2) các hướng dẫn về giấc mộng vào ban đêm và sự giải thoát tự nhiên về sự nhầm lẫn, và (3) các hướng dẫn kết thúc về thanh tịnh quang và sự giải thoát tự nhiên về ảo tưởng

CÁC HƯỚNG DẪN VỀ THÂN HUYỄN

Ở đây có hai phần: huyễn thân bất tịnhhuyễn thân thanh tịnh.

Huyễn Thân Bất Tịnh

Trong một nơi cô tịch hãy ngồi trên một đệm dễ chịu và trau dồi tâm linh tỉnh thức, suy nghĩ, “Cầu mong tất cả chúng sanh khắp hư không đạt được Phật quả viên mãn! Với mục tiêu đó con sẽ thiền định trên sự giải thoát tự nhiên về hình tướng qua các hướng dẫn về thân huyễn.” Sau đó dâng hiến khẩn cầu, “Xin ban phước để con có thể thực hành huyễn thân. Xin ban phước để con có thể nhận ra samadhi (đại định) như-huyễn.”

Thân của chính bạn là một huyễn thân bất tịnh, và có thể thấy chính bạn có huyễn hay không bằng cách áp dụng giáo lý này vào thực hành. Lý do của việc đi vào nơi cô tịch là để bạn thoát khỏi quấy rầy. Nhưng điều gì quấy rối bạn? Bạn tự quấy rối chính bạn, nếu không tự mình lo âu thì bạn hoàn toàn ổn định. Nói khác đi, sự nhấn mạnh không ở hoàn cảnh mà là cách bạn phản ứng với hoàn cảnh. Tâm chúng ta bị khích động và lo âuchạy theo các đối tượng của năm giác quan. Nếu có thể kiểm soát điều đó, chúng ta hoàn toàn đạt được sự tĩnh mịch. Nếu vấn đề thực sự nằm trong năm đối tượng của giác quan, chúng cũng sẽ có khả năng quấy rối xác chết. Do đó, sống trong một nơi không bị quấy rầy có nghĩa là bạn dừng lại việc quấy rối chính bạn.

Điểm quan trọng đầu tiên của thực hành là trau dồi một động cơ đúng đắn. Việc chỉ ngồi ở đó với động cơ hoàn toàn của thế gian mà tiến hành thiền định là không đủ. Đúng hơn, giữa các khả năng có một động cơ đạo đức, không đạo đức, hay trung lập, điều cần thiết là phát sinh một động cơ đạo đức, đặc biệt là động cơ của Tỉnh thức Tâm linh vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Khi bạn đem đến cho tâm chúng sanh khắp không gian, hãy nhớ rằng tất cả chúng sanh đều mong muốn hạnh phúc mà không biết cách gieo trồng hạt giống hạnh phúc. Tất cả chúng sanh đều mong muốn thoát khỏi đau khổ nhưng không biết làm cách nào tránh các nguyên nhân gây đau khổ.
Sự giải thoát tự nhiên của hình tướngsự giải thoát tự nhiên của mọi sự xảy đến với năm giác quan của bạn. Có thể dâng hiến bài nguyện khẩn cầu đến vị thầy tâm linh của bạn hay đến chư Phật, Pháp, và Tăng Đoàn khi bạn muốn.

Nó cũng giống như vầy: mọi hiện tượng đều không hiện hữu, nhưng chúng xuất hiện để hiện hữu và được thiết lập như đa dạng các sự vật, giống như trắng và đỏ. Điều đó là vô thường lại bị bám chấp là vĩnh cửu, và không thực sự hiện hữu lại chấp là thực sự hiện hữu. Mặc dù người ta nói rằng điều này gây ra sự trói buộc của tất cả chúng sanh là như một ảo ảnh, vì bám chấp vào sự hiện hữu thực sự của hình tướng lừa dối, hiện tượng giờ đây xuất hiện như hiện hữu thật sự. Khởi nguyên này xuất hiện từ tính không có thực, giờ đây chúng xuất hiện ngay cả dù chúng không hiện hữu, và vào lúc cuối chúng sẽ trở thành không có gì. Hãy suy niệm rằng vì những điều này, đó là không có tính vĩnh cửu, ổn định, hoặc bất biến, không có tự tánh, chúng giống như ảo giác.

Hiện tượng được định rõ là đạo đức, không đạo đức, tốt, xấu, v.v.... Mặc dù chúng là huyễn và không thực sự hiện hữu, chúng ta lại chấp vào chúng như có thực hay thực sự hiện hữu. Thế gian này có phải khởi nguyên từ điều gì đó có thật hay không? Không, nó xuất phát từ tính không có thực. Bản tánh đích thực của thực tạinhư huyễn; đây không phải là điều gì đó mà chúng ta giả tạo thêm vào trên hiện tượng. Thậm chí dù hiện tượng xuất hiện như thể chúng hiện hữu thực sự, chúng cũng không thực sự hiện hữu trong cách đó. Đúng hơn, chúng giống như hình ảnh trên một màn ảnh truyền hình: mặc dù bạn thấy mọi loại sự vật trên màn hình, cũng không có thực tại tương ứng bên trong máy truyền hình.

Sau đó hãy buộc một gương thật rõ cao khoảng một sải tay (cubit) treo phía trước bạn. Hãy tắm rửa và nhìn vào gương hình dạng của bạn với các đồ trang sức. Hãy tán thưởng nó v.v..., và thấy nếu có một trạng thái tâm thích hay không thích. Nếu có, hãy tự suy nghĩ, “Mỗi lần khởi lên vui thích vì tán thưởng thân này, cũng giống như một phản chiếu trong gương, bạn đã nhầm lẫn. Thân này chỉ là một hình tướng tùy theo sự kết tập liên quan phụ thuộc vào các nguyên nhânđiều kiện, mà trong thực tại nó chưa từng hiện hữu. Tại sao lại bám chấp vào nó như là chính bạn và vui thích trong nó?: hãy thiền định trong một thời gian dài về sự phản chiếu của thân trong gương.

Một cubit là khoảng cách từ khuỷu tay đến đầu ngón tay bạn, nhưng điểm quan trọng ở đây đơn giản là có điều gì đó yểm trợ cho một gương. Vì bạn có thể có nhiều gương khắp nhà, nên hoàn toàn không cần lo về vị trí. Tuy nhiên, nếu không có gương treo tường, thì hãy làm như bản văn đề nghị. Sau khi tắm rửa, dù bạn là nam hay nữ, hãy mặc quần áo sang trọng, lịch sự; trang sức quý giá, v.v... sau đó nhìn bạn phản chiếu trong gương. Hãy cố nhìn những phần đẹp nhất của bạn. Nếu bạn là một đứa bé có thể sẽ tự vui đùa khi làm trò xấu trong gương. Khi quán sát phản ứng của tâm thức bạn, phải nhớ rằng không có nền tảng thích hay không thích vì không có bản chất, hoặc thực tại trong sự phản chiếu này. Nếu thực sự kinh nghiệm một số vui thích khi tự tán thưởng mình, hãy nhận ra bản tánh nhầm lẫn của phản ứng này. Giống như sự phản chiếu trong gương xảy ra đối với một kết tập liên quan phụ thuộc vào các nguyên nhânđiều kiện, do vậy sự thật này có phải là của chính thân chúng ta. Trong trường hợp phản chiếu trong gương, các nguyên nhânđiều kiện liên hệ phụ thuộc này là gì? Trong sự phụ thuộc vào một gương, là vị trí của thân bạn ở trước nó và sự quán sát phản chiếu xuất hiện của gương. Tương tự, có những nguyên nhânđiều kiện mà cũng từ đó thân xuất hiện, và trên nền tảng của thân có sự bám chấp tinh thần vào một cái tôi. Mặc dù chúng ta bám chấp vào bản ngã, trong thực tại lại chẳng có bản ngã.

Nếu thử thực hành điều này một hay hai lần vì tò mò và sau đó quên nó thì không đủ. Để thực hành này được hiệu quả, chúng ta cần thiền định trong một thời gian dài về sự phản chiếu của thân trong gương. Điều này có hiệu lực mạnh mẽ trên sự bám luyến của chúng ta, thân thể chúng ta, v.v... Chẳng hạn, từ lúc chúng ta còn rất bé, nhiều người trong chúng ta trở nên quen thuộc với sự khen thưởng của cha mẹ mình, và chúng ta học tập sự tán thưởng chính mình theo cách tương tự như vậy. Kết quả là chúng ta trở nên thèm khát nhiều tán thưởng, chấp nhận, và khen tặng, và sợ người khác xem thường, không tôn trọng, và phản đối. Bị lưỡng lự giữa hy vọngsợ hãi liên quan đến sự chấp nhậnphản đối của người khác, chúng ta không e dè làm bất cứ cái gì có thể nhằm có được sự kính trọng của họ. Chúng ta ăn mặc chải chuốt chỉnh tề, cố gắng xuất hiện trong cách thể hiện tốt nhất của chính mình v.v... Trong cách này, chúng ta hoàn toàn tự mình làm mắc bẫy vào tám mối quan tâm thế gian. Sự thèm muốn xảy ra khi chúng ta hy vọng đạt được điều gì đó, và sợ hãi phát sinh với suy nghĩ không có được nó. Hoặc nếu hoàn toàn có nó, chúng ta sợ bị mất và hy vọng có thể giữ được nó. Tất cả mối hy vọngsợ hãi này, thương và ghét xuất phát từ việc bám chấp vào những gì là vô thường mà cho là vĩnh cửu. Ngoài sự nhầm lẫn đó, chúng ta hy vọng lớn lao vào samsara. Nếu mọi người sống vĩnh cửu như chúng ta quan niệm, thì không có ai chết và thế giới này không đủ lớn để chứa tất cả những người bất tử này. Các đối tượng của bám luyến, sân hận, hy vọngsợ hãi tất cả đều khởi lên từ ảo tưởng này, có tác dụng trong trạng thái thức và trong giấc mộng.

Sau đó thốt ra những lời lăng mạ và vạch ra nhiều khuyết điểm, nếu thấy có sự bất mãn hãy suy niệm, “Mọi ca tụng và lăng mạ giống như các khuynh hướng tiềm tàng, và vì thân không có bản chất nên thái độ thích hay không thích là nhầm lẫn.” Hãy thiền định một cách rõ ràng về sự phản chiếu trong gương như đối tượng tâm linh của bạn. Thay đổi luân phiên giữa ca tụng, lăng mạ và đánh đồng chúng. Đó là thời công phu thứ nhất.

Kế tiếp để rèn luyện trong ngữ giống như một tiếng dội, hãy đi đến bất kỳ nơi nào không có bạn đồng hành, ở đó không có tiếng dội. Hãy la lớn những lời tốt đẹpxấu xa. Khi những lời đó vọng trở lại hãy hướng vào tiếng dội hay âm thanh đó, không chấp bám vào việc không có tiếng ồn. Cũng thực hành về ngữ của bạn giống vậy, như một tiếng dội.

Về việc rèn luyện trong ý thức như một ảo ảnh, hãy xem xét hay hình dung một ảo ảnh. Giống như tìm kiếm mà không thể tìm thấy nó, sự tụ hội các tư duy để chuyển tâm cũng không có một tự tánh, giống như một ảo ảnh. Đó là thời công phu thứ hai.

Sau đó hình dung rằng sự phản chiếu trong gương hòa tan vào thân bạn, và thiền định về thân bạn khi nó xuất hiện và vẫn không có tự tánh. Vào lúc đó, hãy suy niệm như vầy, “Đấng Bhagavan (Bạc già Phạm- Như Lai), bậc Đại Uyên Bác đã bàn luận về mọi hiện tượng dưới dạng mười loại suy, mọi hiện tượng được hợp thành cũng giống như một ảo ảnh, giống như một giấc mộng, ảo tưởng, giống như một sự phản chiếu, giống như một thành phố của gandharvas (càn thát bà), như một tiếng dọâi, như sự phản chiếu của mặt trăng trong nước, giống như bọt nước, giống như một ảo giác của mắt, và giống như một bóng ma. Chúng không thực sự hiện hữu.” Vào lúc đó, nếu có bạn đồng hành, hãy để họ nói với bạn; hoặc nếu không có hãy tưởng tượng trong tâm thức tự tán thưởng mình và biểu hiện nhiều sự tôn trọng đến chính bạn. Nếu tư tưởng vui thích khởi lên, hãy làm chúng bình đẳng trong sự không hiện hữu thực sự. Sau đó hãy tưởng tượng bị lăng mạ, bị cướp đoạt và đánh đập. Nếu trạng thái tâm linh bất mãn khởi lên hãy làm chúng bình đẳng trong sự không hiện hữu thực sự. Hãy thiền định trên điều này như không còn cách nào khác hơn việc tán dương hoặc lăng mạ phản chiếu trong một gương. Khi bạn thực sự được ca ngợi hay lăng mạ, hãy xem chúng như nhau như thể sự phản chiếu trong gương. Nếu bám luyến hay sân hận khởi lên, hãy rèn luyện trong các đối tượng thiền định trước đó trong một thời gian dài. Do đó, nếu tất cả tám mối quan tâm thế gian xuất hiện trong dòng tâm thức bạn cũng giống như một ảo giác, bạn được thông thạo trong thực hành huyễn thân bất tịnh. Đó là thời công phu thứ ba.

Sự rèn luyện trên tương đương trong giai đoạn phát triển, trong đó trước tiên bạn hình dung đã chọn Bổn Tôn trong không trung phía trước, và sau đó quán tưởng Ngài tan hòa và trở nên bất khả phân với thân bạn. Vào lúc đó, thân bạn tự nhiên xuất hiện trong thân tướng của Bổn Tôn đã chọn. Giáo lý về sự phản chiếu trong gương này cũng gắn liền với mỗi kinh nghiệm trong cuộc sống hàng ngày của bạn.

Huyễn Thân Thanh Tịnh

Mục đích của các giai đoạn thực hành khác nhau về yoga giấc mộng, bao gồm giai đoạn đầu tiên của việc thấy rõ giấc mộngdựa trên nền tảng đó, tham gia trong thực hành về sự lưu xuất và chuyển hóa là gì? Có phải nó đơn giảncho phép chúng ta thỏa mãn các dục vọng liên quan đến tám mối quan tâm thế gian hay không? Dĩ nhiên câu trả lời là không. Lý do của rèn luyện này là biết được các nguyên nhân của sự đau khổ liên tục của chúng ta. Do đó, mục tiêu của giáo lý này chuyển hóa tương tự như mục đích của Tứ Diệu Đế và Bốn Suy Niệm Làm Chuyển Tâm.

Huyễn thân bất tịnh không chỉ là chính thân chúng ta; đúng hơn là rèn luyện này gắn liền với toàn bộ môi trường và mọi sự vật trong đó, các thành phố, nhà cửa của các bạn, v.v... Nó không chỉ bao gồm môi trường vô tình mà còn bao gồm mọi chúng sanh trong vũ trụ. Tại sao chúng ta cần giáo lý này? Vì chúng ta có khuynh hướng bám chấp vào nhân dạng cá nhân mình cũng như sự giống nhau của các hiện tượng khác. Trong cách này, chúng ta bám chấp vào những gì không hiện hữu như đang hiện hữu; và ngoài ra còn có hai loại bám chấp: bám chấp vào nhân dạng cá nhân và bám chấp vào một hiện tượng đồng nhất. Để chống lại khuynh hướng tâm thức lừa gạt này, Đức Phật đã dạy mười loại suy về mọi hiện tượng đang tồn tại giống như ảo giác, như tiếng dội, như ảo ảnh, như sự phản chiếu v.v...

Nếu chúng tathể đạt được một nhận biết thực sự về sự không hiện hữu thực sự của hiện tượng, thì thật tuyệt diệu; nhưng ở mức tối thiểu, chúng ta phải có được một số hiểu biết về tính thiếu thực chất của hiện tượng. Một cách để làm điều này là thiền định về thân bạn và hiện tượng khác đều có tính chất huyễn ảo. Trong khi hiện tượng thực chất chẳng hơn sự phản chiếu trong gương, chúng ta lại phản ứng với chúng bằng việc bám chấp vào tính không hiện hữu đó như đang hiện hữu. Trên căn bản đó phát sinh thương và ghét. Đó là phản ứng chủ yếu của chúng ta với hiện tượng kinh nghiệm thế gian của mình; và hai phản ứng bám luyến, thù ghét này phát sinh toàn bộ năm độc. Do không chống nổi năm độc này, chúng ta lang thang trong sáu cõi khác nhau của hiện hữu. Vậy mục đích hay ý nghĩa khác nhau của các loại suy này là gì? Là làm chậm lại để chúng ta có thể nhận ra bản tánh của chính sự hiện hữu chúng ta và các hoạt động của chúng ta giống như một ảo ảnh hay tiếng dội. Tóm lại, sự bất thiệnnguyên nhân của sinh tử vô tận. Trước tiên chúng ta phải nhận ra sự bất thiện đã vi phạmnhận biết các hậu quả có hại của nó. Để chống lại các nguyên nhân này, điều quan trọng là sám hối các vi phạm và tịnh hóa chúng bằng phương tiện của bốn năng lực chữa bệnh. Điều này dần dần dẫn đến việc giải thoát khỏi sinh tử.

Tập trung vào bản tánh huyễn ảo của hiện tượng, hãy thấy chúng giống như một giấc mộngna ná với thực hành trong giai đoạn phát triển, trong đó bạn quán tưởng hay hình dung chính mình là bất cứ vị Bổn Tôn nào đã chọn, như Đức Phật Vajrasattva, Avalokiteshvara, Padmasambhava, Sakyamuni, hoặc bất kỳ thân tướng nào của Đức Phật. Trong thực hành như vậy, hãy quán tưởng chính bạn đang sống trong một cõi tịnh thổ của trí tuệ bổn nguyên; và trong cõi tịnh độ đó bạn hình dung một nơi mà các Bổn Tôn nam và nữ đang trụ, tất cả các Ngài thanh tịnh trong bản tánhhiện hữu như một ảo ảnh. Trong thực hành này, bạn xem chính mình và người khác đều hoàn toàn thanh tịnhhiện hữu phi thực chất, và thấy mọi hiện tượng, hữu tình và vô tình như xuất hiện mà vẫn không thực sự hiện hữu. Đó là bản tánh chung của giai đoạn thực hành phát triển. Mục đích của thực hành này là gì? Sự rèn luyện như vậy gieo trồng hạt giống cho sự thành tựu toàn giác vì lợi ích của chính mình và người khác.

Trau dồi tâm linh tỉnh thức như bạn đã làm trước đó, và ngồi trong tư thế xếp bằng. Vị thầy tâm linh phải ngồi trên một ngai, mặc trang phục của Phật Vajrasattva. Các đệ tử nên cầm một viên pha lê ngang mắt họ và nhìn chăm chú vào thân Đức Phật Vajrasattva. Nhờ làm như vậy, thân của Phật Vajrasattva bao gồm năm loại ánh sáng cầu vồng sẽ xuất hiện trong hai, ba hay nhiều chỗ. Hãy thiền định về thân rực rỡ đó, tuy xuất hiện nhưng không có tự tánh, như đối tượng tâm linh của bạn. Đó là thời công phu thứ tư.

Trong thực hành này, nếu có thể, vị thầy tâm linh của bạn ngồi xếp bằng và mặc trang phục của Phật Vajrasattva. Nếu không thể, vị thầy tâm linh có thể được thay thế bằng một bức họa, tượng, hay một hình vẽ của Phật Vajrasattva. Nếu bạn không có bất cứ thứ gì, bạn có thể chỉ quán tưởng Đức Phật Vajrasattva. Do cầm một viên pha lê ngang mắt trong lúc nhìn vào thân Phật Vajrasattva, bạn có thể thấy Đức Phật Vajrasattva trong một vài nơi như kết quả của quá trình khúc xạ. Nếu có thể vô số chư Phật hiện diện chỉ trên một vi trần thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi có một số vị Phật xuất hiện với một mắt của bạn. Về mặt tất cả chư Phật có thể thích hợp trên một vi trần, không phải là tất cả chư Phật đến từ mọi hướng và tất cả đều cố tụ hội trên một vi trần. Đúng hơn là tất cả chư Phật có thể hiện diện chỉ trên một vi trần, vì bản tánh của một vi trần cũng giống như bản tánh của toàn bộ luân hồiniết bàn. Nó là điều mà trong ngữ cảnh nói rằng tất cả chư Phật có thể thích hợp trên một vi trần. Vậy bản tánh sự nhận biết của chính chúng ta là gì? Có phải bản tánhtương tự như mọi thứ khác hay là điều gì đó tách biệt? Nếu bạn cho rằng bản tánh sự nhận biết của chính mình là điều gì đó tách biệt, vậy thì mọi thiền định gắn liền với sự bổn nguyên, vị trí, sự biến mất của ý thức và mối tương quan với ba thời, v.v... của nó sẽ bị sai lạc.

Sau đó hãy để thân linh thiêng này, một thân xuất hiện nhưng không có tự tánh, xuất hiện rõ ràng như đối tượng tâm thức bạn; hãy quán tưởng nó tan hòa vào chính thân bạn và quán tưởng rõ ràng thân bạn giống như vậy. Khi thiền địnhrèn luyện chính bạn trong cái thấy toàn bộ thế giới hữu tình và vô tình giống như vậy, bạn đã tinh thông trong thực hành của thân thanh tịnh. Trong tiến trình chuyển tiếp khi các thân tướng hiền minh và phẫn nộ xuất hiện, chắc chắn bạn sẽ giải thoát. Vì thế, phần chánh của thực hành tiến trình chuyển tiếp của cuộc sống chỉ là điều này, và thực hành chuẩn bị cho tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng và của tự thân thực tại tùy thuộc vào cái một này; vậy hãy cố gắng trong điều này một cách kiên trì nhất. Ngoài ra, huyễn thân bất tịnh là cốt yếu cho thực hành chuẩn bị của tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành, do đó cả hai huyễn thân này là thực hành chính của tiến trình chuyển tiếp. Đây là sự giải thoát tự nhiên của hình tướng qua những hướng dẫn về huyễn thân. Samaya.

Nhờ rèn luyện chính bạn trong cái thấy toàn bộ thế gian hữu tình và vô tình như không tự hiện hữu, nó không đơn giản là bạn thêm điều này vào thế gian. Trái lại, thực hành này chỉ hoạt động như chất xúc tác để có được sự thấu suốt vào bản tánh của thực tại. Nó bắt đầu như một tiến trình tưởng tượng, nhưng lại dẫn đến một nhận biết trực tiếp về thực tại.

Nếu bạn đạt được nhận biết trong thực hành của huyễn thân thanh tịnh này, thì trong tiến trình chuyển tiếp sau khi chết, chắc chắn bạn sẽ đạt giải thoát. Tốt nhất là bạn có thể giải thoát khi thân lưu xuất hiền minh xuất hiện, và nếu không thì bạn sẽ giải thoát khi các hình tướng phẫn nộ xuất hiện. Cách khác, nếu bạn lão luyện trong thực hành này, chắc chắn bạn sẽ giải thoát trong tiến trình chuyển tiếp sau khi chết. Do đó, sự thực hành hiện nay về huyễn thân thanh tịnh có thể được xem là thực hành chuẩn bị cho các tiến trình chuyển tiếp khác.

Điều này kết thúc sự mô tả tóm tắt về huyễn thân thanh tịnh. Vào lúc đó nếu bạn thấy chưa thực sự hiểu bản văn và luận giảng này, tôi đề nghị bạn học những mô tả khác chi tiết hơn về chủ đề này. Nền tảng của yoga giấc mộng là các thực hành trước đó về huyễn thân thanh tịnhbất tịnh. Lý do của điều này là trong trạng thái-mộng rất nhiều khuynh hướng ngủ ngầm khác nhau xuất hiện như nội dung của giấc mộng. Chúng ta không có bất cứ sự kiểm soát nào trong lúc đang nằm mộng. Vì thế, nhờ sự rèn luyện trong thực hành như huyễn này vào ban ngày, chúng ta thiết lập một nền tảng cho sự đạt được việc kiểm soát tâm và điều đó cũng dẫn đến việc kiểm soát trong tiến trình mộng. Nếu thiếu cả hai điều đó chắc chắn chúng ta sẽ không kiểm soát được khi thực sự đi vào tiến trình chuyển tiếp sau khi chết.

Một số người nói với tôi rằng họ muốn học thực hành này vì muốn có thể dạy cho người khác. Đó là một cạm bẫy khi lắng nghe giáo lýáp dụng vào thực hành để bạn có thể trở thành một vị thầy. Động cơ đúng là áp dụng giáo lý vào thực hành để có thể là nguyên nhân đưa đến sự giải thoát khỏi đau khổsinh tử cho chính bạn và người khác. Nếu thực hành giống như vậy, thì khi kinh nghiệm đích thực khởi lên trong dòng tâm thức bạn, bạn sẽ là một vị thầy thật sự. Điều này xảy ra không do ước muốn là một vị thầy, mà do trau dồi động cơ ở trên.

NHỮNG HƯỚNG DẪN BAN ĐÊM VỀ GIẤC MỘNG
SỰ GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN CỦA SỰ NHẦM LẪN

Ở đây có ba phần: (a) hiểu rõ trạng thái mộng, (b) lưu xuất và chuyển hóa, (c) xua tan những che ám đến giấc mộng.

Giấc mộng được gây ra bởi khuynh hướng tiềm tàng, vì thế hãy xem tất cả những hình tướng ban ngày như giấc mộngnhư ảo ảnh. Theo sự trình bày trong sự viên mãn của trí tuệ, việc đạt được hiểu biết sâu sắc là “Mọi hiện tượng đều giống như một giấc mộngảo ảnh.” Nói cụ thể nó là điều chủ yếu để thực hành các hướng dẫn về hình tướng ban ngày và huyễn thân. Vào lúc này, hãy hình dung mạnh mẽ rằng môi trường, nhà cửa, thành phố, bạn đồng hành, việc nói chuyện, và mọi hoạt động của bạn đều là giấc mộng; và thậm chí nói lớn lên rằng: “Đây là một giấc mộng.” Hãy tiếp tục hình dung điều này chỉ là giấc mộng.

Sau đó khi đi ngủ vào buổi tối, hãy trau dồi Tâm Linh của Tỉnh Thức với suy nghĩ, “Vì lợi ích của tất cả chúng sanh khắp không gian, tôi sẽ thực hành samadhi-như huyễn, và sẽ đạt được Phật quả viên mãn. Với mục tiêu đó, tôi sẽ rèn luyện trong giấc mộng.” Sau đó khi bạn nằm hãy nằm nghiêng về vai phải, đầu quay về hướng bắc, tay phải áp dưới má, và tay trái đặt lên đùi. Hãy quán tưởng rõ ràng thân bạn như thân Bổn Tôn đã chọn.

Bổn Tôn đã chọn của bạn có thể là Phật Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa), Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni), hay vị thầy tâm linh đầu tiên của bạn, như là Đức H.H. Dalai Lama, H.H. Dudjom Rinpoche, hoặc H.H. Karmapa. Tất cả các vị này đều là những tulku đích thực, nên tôi nghĩ rằng điều này thật hoàn toàn thích hợp. Ngài Thinley Norbu Rinpoche, một trong những con trai của H.H. Dudjom Rinpoche, đã bình luận rằng khái niệm của người Mỹ về một tulku khác với truyền thống khái niệm của đạo Phật. Người Mỹ hiểu tulku (hoá thân) là người nhận tái sanh như một tulku và sau đó sống cuộc sống phục vụ người khác. Rồi ngay sau khi chết, vị này chuyển sang kiếp sau và thọ tái sanh trở lại lần nữa. Sau đó họ sống một cuộc sống như tulku, chết đi, và không để lãng phí bất cứ thời gian nào, lại chuyển đến một cuộc sống khác. Thật là vội vàng, hối hả, gấp gáp – một cách tiếp cận kiểu giao thông vào giờ cao điểm đến quả vị tulku. Ngài Trinley bình luận rằng ngược lại với điều đó, quan điểm của đạo Phật là Dharmakaya (Pháp Thân) lưu xuất dễ dàng và vô lượng như các Sambhogakaya (Báo Thân), giống như những tia sáng chiếu ra từ mặt trời. Tất cả điều này xảy ra một cách tự nhiên và vô hạn. Quan điểm đó rất khác biệt với sự chuyển di thẳng một cách vội vàng của vị tulku nhỏ vượt thời gian, nhảy vọt từ kiếp này sang kiếp khác. Có những tulku đích thực, hiện thân thanh tịnh từ Sambhogakaya một cách dễ dàng. Đức Phật Sakyamuni là một tulku rất vĩ đại. Do đó, chư Phật đơn giản là thân lưu xuất của Sambhogakaya và Dharmakaya.

Cũng có các vị khác lập nguyện vị tha nhận tái sanh và cuộc sống hướng dẫn phục vụ, và bạn cũng có thể nói họ là những tulku. Ngày nay nhất là ở phương Tây, khi chúng ta nghe về một lama hóa thân cùng lúc thành hai hay ba người khác nhau cùng thời gian, chúng ta nghĩ, “Điều này thật ngạc nhiên. Làm sao có thể xảy ra điều này?” Chúng ta hỏi những câu như vậy vì có cái thấy đơn giản và chật hẹp về ý nghĩa của một tulku. Vậy bạn có ngạc nhiên về hay hoặc ngay cả ba tia sáng chiếu ra từ mặt trời cùng lúc hay không? Giống như những tia sáng mặt trời, các vị tulku là vô số.

Nếu sự quán tưởng của bạn không được rõ ràng, hãy thiết lập một suy nghĩ tự hào, “Tôi là vị Bổn Tôn đã chọn.” Hãy hình dung rằng đầu bạn được tựa vào lòng của vị thầy tâm linh đầu tiên của bạn; và tập trung sự chú tâm một cách sống động vào Đức Orgyen Padma nơi cổ họng bạn, có kích cỡ bằng khớp ngón tay cái của bạn; với vẻ mặt rực rỡ tươi cười, tuy xuất hiện nhưng không có tự tánh. Cúng dường cầu khẩn trong tâm, “Xin ban phước để con có thể hiểu rõ trạng thái mộng. Xin ban phước để con có thể nhận ra trạng thái mộng như trạng thái mộng.” Nằm xuống theo vị trí sư tử ngủ và phát sinh khao khát mạnh mẽ nhận ra trạng thái mộng như trạng thái mộng; và trong lúc làm như vậy, chìm vào giấc ngủ mà không bị gián đoạn bởi bất cứ tư tưởng nào khác. Thậm chí nếu bạn không hiểu rõ nó vào lần thử đầu tiên, hãy lập lại nhiều lần, và tha thiết thực hành với lòng khao khát mạnh mẽ.

Khi thức dậy vào buổi sáng, hãy suy niệm rõ ràng và mạnh mẽ, “Không có bất cứ một giấc mộng nào trong tối hôm qua còn lại khi tôi thức giấc. Tương tự, không có bất kỳ hình tướng ban ngày nào sẽ xuất hiện vào tối nay trong giấc mộng của tôi. Không có khác biệt giữa các giấc mộng ban ngày và đêm, nên chúng là ảo ảnh, là giấc mộng.” Đó là một thời công phu.

Nếu bạn vẫn không hiểu rõ trạng thái mộng thậm chí sau khi đã thực hành nhiều lần, thì với những thực hành trước hãy hình dung chính bạn như vị Bổn Tôn đã chọn, vị anh hùng duy nhất, và quán tưởng một cách rõ ràng, sống động tại cổ họng bạn là vị Bổn Tôn đã chọn lặp lại một lần nữa, có kích thước bằng ngón tay cái của bạn. Hướng ý thức vào nó không thúc ép và rơi vào giấc ngủ trong lúc mường tượng rằng bạn sẽ biết được trạng thái mộng như trạng thái mộng. Đó là thời công phu thứ hai.

Nếu bạn thấy làm như vậy vẫn khó hiểu rõ trạng thái mộng, hãy hình dung tại cổ họng bạn một hoa sen bốn cánh, với chữ OM ở chính giữa, AH ở phía trước, NU bên phải, TA ở phía sau, và RA ở bên trái. Trước tiên hướng sự quan tâm của bạn vào chữ OM ở giữa; sau đó khi trở nênbuồn ngủ hãy tập trung sự nhận thức của bạn vào chữ AH phía trước. Khi rơi vào giấc ngủ, hãy chú tâm vào chữ NU ở bên phải. Khi đã ngủ hoàn toàn, hãy tập trung vào chữ TA ở phía sau. Khi bị rơi nhanh vào giấc ngủ hãy tập trung vào chữ RA ở bên trái. Trong lúc ngủ hãy tập trung chú tâm vào chữ OM ở giữa, và với sự canh chừng giấc mộng không bị gián đoạn bởi bất cứ niệm tưởng nào khác, hiểu rõ trạng thái mộng với sự nhận biết giấc ngủ của bạn. Đó là thời công phu thứ ba.

Nếu những chủng tử tự không rõ ràng và bạn vẫn không hiểu rõ trạng thái mộng theo cách đó, hãy tập trung sự chú tâm của bạn một cách rõ ràngsống động vào một bindu ánh sáng tại cổ họng bạn; và với sự canh chừng giấc mộng lúc rơi vào giấc ngủ và nhờ vậy hiểu rõ trạng thái mộng. Đó là thời công phu thứ tư.

Thiền định luân phiên giữa các đối tượng thiền quán, và thực hành với một hiểu biết mạnh mẽ rằng các hình tướng ban ngày là những giấc mộng. Thậm chí tối thiểu trong vòng một tháng hành giả sẽ hiểu rõ trạng thái mộng.

Thoạt tiên sẽ có nhiều giấc mộng hơn, sau đó chúng sẽ trở nên rõ ràng và rồi chúng sẽ được hiểu rõ. Trong trường hợp của một hoàn cảnh đáng sợ, thật dễ nhận ra “Đây là một giấc mộng.” Thật khó hiểu rõ nó một cách tự phát, nhưng nếu hiểu được thì đây là sự ổn định. Nếu không hiểu rõ nó trong bất cứ cách nào, thì có thể bạn vi phạm giới nguyện tantric, vậy hãy áp dụng việc thọ quy y, trau dồi tâm linh tỉnh thức, hồi phục qua sám hối mantra một trăm âm, cúng dường ganachakra, tránh nhiễm ô, và thiền định theo những cách trước. Nhờ làm như vậy, trạng thái mộng sẽ được hiểu rõ chỉ trong vòng hai hay ba tháng, và cuối cùng bạn sẽ có thể hiểu rõ nó một cách thường xuyên.

Một ác mộng có thể hoạt động như chất xúc tác để hiểu rõ giấc mộng như giấc mộng. Như một loại suy, khi người Tây Tạng hoảng sợ vào lúc Trung Quốc xâm lăng Tây Tạng, nhiều người đã cầu nguyện, “Ôi, Guru Rinpoche, Guru Rinpoche, xin quan tâm đến con! Tara, xin quan tâm đến con! Con thọ quy y!” Nhưng khi mọi sự tốt đẹp, Guru Rinpoche không còn trong tâm họ. Tara không còn trong lòng họ, và Đức Phật cũng chẳng có trong tâm họ. Điều này cũng tương tự như trong trường hợp giấc mộng. Khi kinh nghiệm ác mộng thật dễ nhận ra đây là một giấc mộng, nhưng một nhận biết mạnh mẽ như vậy lại khó đối với giấc mộng bình thường. Tuy nhiên, nếu bằng phương tiện thực hành tha thiết, kéo dài bạn sẽ thật sự nhận ra trạng thái mộng như vậy, đây là một thành tựu nhiều ổn định hơn.

Phục hồi giới nguyện bị đứt qua sám hối thường bao gồm nghi lễ tịnh hóa các giới luật mật tônghành giả vi phạm. Sự tịnh hóa như vậy cũng có thể được hoàn thành nhờ tụng niệm mantra một trăm chữ và cúng dường tiệc ganacakra. Ngoài ra, hành giả phải hết sức tránh những việc bất thiện. Nói khác đi, điều này tùy theo việc vi phạm một hứa nguyện tantric, vậy hãy áp dụng bất kỳ hoặc tất cả các thực hành trước để tịnh hóa vi phạm đó và sau đó quay trở lại thực hành. Một khi hiểu rõ giấc mộng, bạn rèn luyện trong sự chuyển hóa và lưu xuất của giấc mộng, đó là giai đoạn kế tiếp của thực hành này.

Rèn Luyện Trong Sự Lưu Xuất Và Chuyển Hóa Của Giấc Mộng

Trong lúc hiểu rõ trạng thái mộng, hãy suy niệm, “Vì bây giờ là thân giấc mộng, nên có thể chuyển hóa nó trong bất kỳ cách nào.” Bất kể những gì xuất hiện trong giấc mộng, sự xuất hiện của ma quỷ, con người, loài chó, khỉ, v.v..., hãy thiền địnhchuyển hóa chúng thành vị Bổn Tôn đã chọn. Thực hành nhân rộng chúng bằng sự lưu xuất và thay đổi chúng thành bất cứ những gì bạn thích. Đó là thời công phu thứ năm.

Mọi chủ thể và đối tượng trong giấc mộng đều có thể chuyển hóa. Trong giai đoạn này của thực hành, bạn có thể có một trăm thứ và chuyển hóa chúng thành một, hoặc chỉ có một thứ và nhân nó lên hàng trăm lần. Đây là thực hành mà Ngài Milarepa đã làm trong lúc thức, khi Ngài lưu xuất vô số thân tướng của một đối tượng nào đó. Trong một chuyện kể cá nhân, chính Ngài hiện thân trong sừng một con trâu Yak, mà không cần làm sừng trâu yak trở nên lớn hơn hay làm cho Ngài nhỏ đi. Đó là một biểu hiện rằng Ngài đặc biệt thành thạo trong loại thực hành này.

Trong lúc biết rõ trạng thái mộng, bằng việc phát sinh tha thiết mạnh mẽ đi đến cõi Abhirati ở phía đông hay cõi tịnh độ Orgyen ở hướng tây, bạn có thể đi đến đó và cầu thỉnh Giáo Pháp. Để hàng phục những ma quỷ xuất hiện v.v... hãy thực hành chính bạn hiện thân như một garuda (Kim Xí Điểu) hoặc Hayagriva hay tương tự, và chuyển hóa chúng thành bất cứ cách nào bạn muốn. Ngoài ra, hãy thực hành cô đọng nhiều thứ thành một, và nhân lên một thứ thành nhiều thứ. Đó là thời công phu thứ sáu.

Trên việc nhận biết trạng thái mộng về những gì nó là, bạn có thể phát sinh khao khát đến một cõi tịnh độ; hoặc đơn giản bạn có thể thấy môi trường hiện tại của bạn hoàn toàn như một cõi tịnh độ. Bất kể kinh nghiệm hay hiểu biết nào bạn có trong giai đoạn thực hành phát triển đều có thể áp dụng ở đây. Trong lúc mộng bạn có thể quán tưởng năm gia đình Phật, Vajrasattva, Padmasambhava, hoặc Amitabha đang hiện diện ở cõi Abhirati hay bất cứ cõi tịnh độ nào khác.

Cái thấy qua giấc mộng: Hiểu rõ trạng thái mộng và đi đến một bờ sông lớn. Hãy suy niệm, “Vì tôi là một thân tâm thức trong giấc mộng, chẳng có gì để dòng sông cuốn đi.” Bằng việc nhảy xuống sông bạn sẽ được mang đi bởi dòng chảy của cực lạctánh Không. Thoạt tiên, vì sự chấp bám của ngã chấp bạn sẽ không dám nhảy, nhưng điều này sẽ không xảy ra một khi bạn đã quen thuộc dần với nó. Tương tự, nhờ thấy mọi thứ như lửa, vách núi và loài thú ăn thịt, mọi sợ hãi sẽ khởi lên như samadhi (đại định). Điểm then chốt cho tất cả điều đó là rèn luyện trong các hình tướng ban ngày, thân huyễn, và liệu trước một cách mạnh mẽ về trạng thái mộng. Khi sắp ngủ, điều quan trọng là hướng sự chú tâm của bạn đến bất cứ những gì đang cảm thấy rõ tại cổ họng, hãy là vị thầy tâm linh của bạn, vị Bổn Tôn đã chọn, các chủng tự, hoặc bindu, và điều then chốt là không để bị gián đoạn bởi các khuynh hướng tiềm tàng. Đó là thời công phu thứ bảy.

Trong lúc mộng, bạn phải nhớ rằng mọi sự xảy ra đều không có thực chất hơn một giấc mộng. Ở đây thực sự không có việc nhảy vào dòng nước lũ; không có việc nhảy; cũng không có nước để nhảy vào. Với nhận biết đó, bạn nhảy vào dòng sông. Thực hành này không chỉ áp dụng cho việc nhảy vào dòng sông mà còn vào bất cứ hoàn cảnh nguy hiểm nào dính dáng đến bất kỳ bốn nguyên tố nào. Trong trạng thái mộng, bạn có thể gặp loài thú nguy hiểm hay bất cứ hoàn cảnh đáng sợ nào, bao gồm việc thấy mình trong hỏa ngục, địa ngục lạnh, hoặc trong cõi ngạ quỷ. Do vậy, trong bất kỳ hoàn cảnh khủng khiếp nào, hãy nhận biết trạng thái của chính bạn như thân tâm thức, và nhận ra mọi khía cạnh của giấc mộng là chẳng hơn một giấc mộng. Với nhận biết này hãy đi vào những gì nhìn có vẻ như một hoàn cảnh nguy hiểm. Tôi gấp rút nhấn mạnh rằng đây là một thực hành giấc mộng. Đừng nghĩ rằng bạn sẽ đi đến Cầu Cổng Vàng (Golden Gate Bridge) và nhảy xuống, với suy nghĩ, “Ồ, chẳng thực sự có người nhảy,” như vậy bạn sẽ tự kết liễu đời mình và sẽ gặp khó khăn tối thiểu trong năm trăm kiếp sau đó. Ngoài ra, trong trạng thái mộng này nếu thực hành đúng bạn sẽ được cuốn đi bởi dòng chảy cực lạctánh Không, sẽ chẳng giống như việc xảy ra nếu bạn nhảy khỏi Cầu Cổng Vàng.

Xua Tan Những Chướng Ngại Của Giấc Mộng

Ở đây có bốn phần: (i) sự xua tan qua lúc thức, (ii) xua tan qua tính hay quên, (iii) xua tan qua nhầm lẫn, và (iv) xua tan qua rỗng không.

Xua tan qua Tỉnh thức. Ngay khi mới nhận ra “Đây là một giấc mộng!” họ thức dậy và đây là sự xua tan của nhận thức đó.43 Để xua tan điều đó, hãy duy trì sự chú ý của bạn ở vị trí tim và phía dưới, và tập trung tâm bạn trên một bindu màu đen có kích cỡ bằng hạt đậu, được gọi là “chủng tự của bóng tối,” trên lòng hai bàn chân. Điều đó sẽ xua tan nó.

Xua tan qua tính Hay Quên. Điều này đòi hỏi phải cảm thấytrạng thái mộng, nhưng đột nhiên trở nên nhầm lẫn và để cho giấc mộng đi tiếp như thông lệ. Để loại bỏ điều đó, hãy rèn luyện trong thân Huyễn vào ban ngày, và tập làm quen với sự hình dung trạng thái mộng. Sau đó, lúc sắp đi ngủ, hãy làm với khao khát “Cầu mong tôi biết được trạng thái mộng như trạng thái mộng, và không bị nhầm lẫn.” Ngoài ra hãy trau dồi sự chú tâm, suy nghĩ, “Cũng thế, khi tôi thấy rõ trạng thái mộng, cầu mong tôi không bị nhầm lẫn.” Điều này sẽ xua tan nó.

Xua Tan Qua Nhầm Lẫn: Nếu giấc mộng của bạn chỉ là các hình tướng lừa gạt của những khuynh hướng tiềm tàng có hại, sự nhận biết của bạn trở nên lộn xộn và không bao giờ hoàn toàn nhận ra trạng thái mộng. Do đó, vào ban ngày hãy hình dung giấc mộng một cách mạnh mẽ và làm nổi bật thân huyễn.44 Hãy áp dụng tịnh hoá chướng ngại, thực hành mong muốn và sám hối, và cúng dường ganachakra. Nhờ thực hành mãnh liệt pranayana với năng lượng sự sống và tiếp tục với toàn bộ điều này, khó khăn sẽ được xua tan.

Xua Tan Qua Sự Mất Ngủ: Nếu giấc ngủ bị xua tanđề phòng mạnh mẽ, và bạn bị rối vì ý thức không chịu ngủ, chống lại việc này bằng cách quán tưởng một bindu màu đen ở giữa ngực bạn. Phát sinh sự đề phòng không cưỡng ép và chỉ trong một thoáng, và nhờ giải phóng sự nhận biết của bạn, không thiền định về giấc ngủ, bạn sẽ rơi vào giấc ngủ và thấy rõ trạng thái mộng.
Xua Tan Qua Sự Lười Biếng: Trước tiên, đối với việc không ảo tưởng (trong chu trình sinh tử) và sự xuất hiện của tinh linh, bạn có thể làm một ít thực hành trong nhập thất v.v... Bạn cũng có thể thấy rõ trạng thái mộng; nhưng sau đó khi không tách khỏi sự thỏa mãn dục vọng, bạn bị nhiễm trong sự tiêu khiển vô ích. Với một tính khí yếu đuối bạn trở nên hoàn toàn bình thường, và vì lười biếng, bạn làm hỏng sự thực hành tâm linh của mình. Không có kiến thanh tịnh về bất cứ Giáo Pháp nào và những thực hành được thực hiện bởi người khác, bạn xét đoán chúng bằng những tiêu chuẩn của mình, và tâm bạn rơi vào sự nhai lại, “Tôi cũng đã làm điều đó và bây giờ tôi cũng giống như vậy. Những người khác cũng giống như tôi.”

Loại thái độ này rất phổ biếnTây Tạng và cũng thường thấy ở phương Tây. Vào lúc bắt đầu thực hành, người ta nhiệt tình lắng nghe giáo lý và nôn nóng thực hành. Nhàm chán samsara, họ tích cực để đạt giải thoát, tiêu tốn thời gian trong nhập thất, và họ có thể thực sự có một số nhận biết. Kết quả là một số người cảm thấy họ hoàn toàn đặc biệt, nghĩ rằng họ trở thành hành giả thực sự. Dù bạn là người Tây Tạng hay phương Tây đều rất dễ rơi vào bẫy rập này.

Những vấn đề này xuất hiện vì người ta vẫn dính líu rất nhiều vào tám mối quan tâm thế gian và điều này làm họ mắc kẹt trong những tiêu khiển vô ích như trước. Sự giải độc cho điều này là thiền định về Tứ Diệu Đế và Bốn Suy Niệm làm Chuyển Tâm. Vấn đề trên xảy ra đặc biệt khi người ta đòi hỏi một ít danh tiếng, khi họ có được một danh hiệu cho chính họ như những thiền giả đã kinh nghiệm. Nó đặc biệt quan trọng cho những vị thầy phải cẩn thận về mặt này, vì nó là hầm hố mà họ có thể dễ dàng rơi vào.

Sự nhắc đến có một tính khí yếu đuối và trở nên hoàn toàn bình thường có nghĩa bạn thụt lùi trong thực hành tâm linh của mình. Người Tây Tạng có thể nói, “Tôi đã tiêu tốn nhiều năm trong tu viện đại học, và sau đó trong một trung tâm thực hành, và tôi đã có những kinh nghiệm như vậy, nhưng tôi cũng chỉ như vậy.” Rồi sau đó họ có thể xét đoán người khác bằng những tiêu chuẩn của họ, nghĩ rằng, “Những người khác cũng chẳng thực hành nhiều hơn tôi, vậy họ cũng chẳng cao hơn tôi được.” Đó là tính tự cao tự đại và không biết xấu hổ trong loại thái độ này, và sự giải độc cho nó là hãy trở lại sự thực hành chuẩn bị.

Về điều đó, hãy thiền định trên sự khó đạt được cuộc sống làm người với nhàn rỗithuận lợi, về cái chết và vô thường. Điều quan trọng nhất là bạn hãy thiền định về những khiếm khuyết của chu trình sinh tửtừ bỏ cuộc sống này về mặt tinh thần. Bằng việc áp dụng chính bạn trong nhập thất đơn độc v.v.., sự nhận biết dựa trên kinh nghiệm trước đây của bạn sẽ phục hồi và sẽ hiểu rõ trạng thái mộng trở lại.

Khi dấn thân tha thiết vào thực hành lần thứ hai hãy chắc rằng bạn sẽ không rơi vào bẫy rập tương tự như trước. Điều này có thể xảy ra rất dễ dàng, như đã minh họa trong một giai đoạn cuộc sống của Ngài Milarepa. Milarepa, một bậc đại giác ngộ, xin được ở trọ tại nhà một vị tu sĩ và được nhận vào nhà vào ban đêm. Ngài Milarepa ngủ ở tầng dưới và vị tu sĩ ngủ ở tầng trên. Đêm đó vị tu sĩ ngủ thiếp đi, ông ta nghĩ, “ Ngày mai ta sẽ giết thịt con bò của ta. Khi nó bị giết thịt ta sẽ làm như thế này và như thế kia với thịt, xương, da, và đầu của nó.” Vị tu sĩ hoạch định mọi chi tiết, ngoại trừ việc ông ta sẽ làm với cái đuôi của con bò, vì điều đó ông ta đã quên. Vị tu sĩ này đã hoàn toàn nổi tiếng, và ông ta mặc quần áo sang trọng của một vi tu sĩ cao cấp, một vị thầy của nhiều đệ tử.

Khi vị tu sĩ thức dậy vào buổi sáng, ông rửa mặt và niệm bài nguyện buổi sáng. Nhìn vào Milarepa và thấy Ngài xem ra vẫn còn ngủ, vị tu sĩ đập vào Ngài Milarepa một cách kiêu căng và nói, “Này, anh kia, tại sao bây giờ vẫn còn ngủ? Tại sao không dậy và thực hành đi?” Ngài Milarepa hé mắt một chút và trả lời một cách chếnh choáng, “Vấn đề là tối qua tôi đã nằm mơ rằng tôi sắp giết một con bò, và tôi mơ tưởng đến việc sẽ làm với mỗi phần của con bò. Nhưng lại chưa nghĩ đến việc tôi phải làm gì với cái đuôi của nó. Đó là điều tại sao tôi ngủ quên.” Đây là một ví dụ về một người mà toàn bộ cách sống có vẻ là một hành giả của Giáo Pháp, trong khi bên trong họ lại hoàn toàn vướng mắc vào tám mối quan tâm thế gian.

Nếu không tôn kính vị thầy tâm linh thì sẽ không hiểu rõ trạng thái mộng; nếu giới nguyện mật tông bị suy thoái, cũng chẳng hiểu rõ trạng thái mộng; nếu khôngquen thuộc sẽ chẳng hiểu rõ được nó, và nếu không có các điểm then chốt của những hướng dẫn thiết thực sẽ chẳng hiểu rõ nó. Do vậy phải biết rõ phương pháp để chữa những vấn đề này.

Có nói rằng nhờ rèn luyện trong tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng này, vì tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại và sự trở thành cũng giống như trạng thái mộng, những tiến trình chuyển tiếp này sẽ được hiểu rõ. Ngoài ra, có nói rằng nếu trạng thái mộng được hiểu rõ bảy lần, tiến trình chuyển tiếp (sau khi chết) sẽ được nhận biết. Đây là những hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng được gọi là “sự giải thoát tự nhiên của nhầm lẫn”. Samaya.

Sự nhắc đến việc nhận biết trạng thái mộng bảy lần ngụ ý hành giả có thể nhận thức trạng thái mộng trên căn bản đều đặn. Nếu duy trì khả năng đó suốt quãng đời còn lại của bạn thì sẽ có nhiều cơ hội rất tốt để bạn có thể nhận biết tiến trình chuyển tiếp sau khi chết. Trái lại, nếu ai đó nhận biết trạng thái mộng bảy lần hoặc thậm chí trên một nền tảng đều đặn và sau đó ngừng thực hành, thì không chắc rằng họ sẽ có khả năng nhận biết tiến trình chuyển tiếp sau khi chết.

SỰ ỔN ĐỊNH TIẾN TRÌNH CHUYỂN TIẾP CỦA GIẤC MỘNG VÀ NHỮNG HƯỚNG DẪN VỀ CHUYỂN HÓA TRẠNG THÁI MỘNG VÀO THANH TỊNH QUANG: SỰ RÈN LUYỆN TRONG GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN CỦA NHẦM LẪN.

Nhập thất nghiêm ngặt và ở trong bóng tối khoảng một tháng. Ăn thực phẩm nhẹ và bổ dưỡng, và xoa bóp... Sau đó đến ngày thứ mười lăm hãy thắp một đèn dầu suốt đêm. Cúng dường ganacakra đến các vị thầy tâm linh của bạn, vị Bổn Tôn đã chọn, và các dakini, rồi bày một nghi lễ cúng dường torma với thịt. Có một bạn đồng hành kinh nghiệm cùng với bạn.

Thực phẩm bổ dưỡng ở đây ám chỉ thực phẩm hoàn toàn phong phú nhưng đừng ăn nhiều. Giai đoạn thực hành này cho những người đã nâng cao trong rèn luyện này, người đã hoàn toàn thành tựu an định và thành thạo trong việc nhận biết trạng thái mộng.

Kế tiếp với thực hành chánh, vào lúc bắt đầu trau dồi tâm linh tỉnh thức, suy nghĩ, “Cầu mong tất cả chúng sanh khắp hư không đạt được Phật quả viên mãn. Với mục đích đó, con sẽ thiền định về thanh tịnh quang, sự giải thoát tự nhiên của nhầm lẫn”, cầu nguyện, “Vì lợi ích của tất cả chúng sanh khắp hư không, xin ban phước cho con để ảo giác có thể xuất hiện như thanh tịnh quang, xin ban phước cho con để con có thể thấy rõ thanh tịnh quang.” Nằm xuống trong tư thế sư tử ngủ, đầu quay về hướng bắc. Nín hơi thở một cách nhẹ nhàng, gập cổ xuống và nhìn chăm chú một cách kiên định lên phía trên. Tập trung sự chú ý của bạn một cách rõ ràngsinh động vào một bindu có hình dáng của ánh sáng trắng tại ngực bạn. Với sự nhận biết rõ ràng, sinh động trong bản tánh của ánh sáng, hãy rơi vào giấc ngủ; và trong trạng thái mộng thanh tịnh quang sẽ xuất hiện giống như bản chất của không gian trong sáng, rõ ràng và trống không, thoát khỏi trí năng.

Nếu đã hoàn toàn thành tựu chỉ và quán giờ đây bạn có thể thấy rõ thanh tịnh quang qua thực hành như vậy. Tuy nhiên, nếu bạn không có kinh nghiệm căn bản trong chỉ và quán, thì việc thành công trong thực hành này là đáng ngờ.

Một người có khả năng siêu việt là người lập tức nhận ra giác tánh không che đậy. Sự nhận biết hiện tiền trong giấc ngủ sâu trong sáng được gọi là “thanh tịnh quang.” Thanh tịnh quang của tiến trình chuyển tiếp khởi đầu xảy ra bên lề của cái chết xuất hiện với tất cả chúng sanh từ loài rệp trở lên. Vào lúc đó tịnh quang sẽ được nhận ra như đứa bé bò vào lòng mẹ nó, và chắc chắn rằng trong chốc lát sự thiền định của Dharmakaya sẽ xuất hiện. Do vậy cái đơn độc này là then chốt nhất của sáu tiến trình chuyển tiếp. Để nhận ra điều này, điều đặc biệt quan trọng là bạn nhận ra sự nhận biết của tiến trình chuyển tiếp trong lúc sống, vì sự nhận biết đó là then chốt cho sự hiểu rõ thanh tịnh quang này trong tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng.

“Một người có khả năng siêu việt” là người lập tức nhận ra bản tánh của sự nhận biết ngay khi vị thầy của họ chỉ ra. Người như vậy đã trau dồi thực hành trong nhiều kiếp, nên bây giờ tâm linh của họ đã chín muồi. Vị thầy tâm linh của bạn hành động như một chất xúc tác để mở ra nhận biết này, giống như người vén màn cửa sổ để ánh sáng nhanh chóng tràn vào.

Thanh tịnh quang không xảy ra trong tiến trình cận tử chỉ với các Phật tử, mà xảy ra cho mỗi chúng sanh. Trong lúc mọi chúng sanh đều có cái nhìn thoáng qua của thanh tịnh quang bên lề cái chết, dù họ có nhận ra hay không lại là vấn đề khác. Tôi tin rằng, thanh tịnh quang của giấc ngủ xảy ra khi bạn ngủ say. Nó xuất hiện trong khoảng thời gian ngắn sau khi mọi hình tướng ban ngày biến mất và trước khi bất kỳ hình tướng nào của giấc mộng khởi lên. Tương tự, thanh tịnh quang xuất hiện trong giây lát khi bạn sắp thức dậy và sau khi hình tướng của trạng thái mộng đã trôi qua và chỉ trước khi các hình tướng của trạng thái thức xuất hiện – khi một số năng lực của hình tướng ban ngày bắt đầu khởi lên nhưng hình tướng thực tế chưa xuất hiện.

Có ba kinh nghiệm tương tự. Trước tiên, như các lama của quá khứ đã thường nói, trong khoảng thời gian ngắn sau khi một niệm ngưng lại và trước khi niệm kế tiếp xuất hiện, thanh tịnh quang xuất hiện, nhưng có thể hay không thể nhận ra. Thứ hai, trong khoảng thời gian ngắn sau lúc chấm dứt hình tướng ban ngày và trước khi hình tướng của giấc mộng xuất hiện, có thể nhận ra sự xuất hiện của thanh tịnh quang. Thứ ba, trong khoảng thời gian ngắn sau lúc hình tướng của cuộc sống này biến mất và trước khi hình tướng của tiến trình chuyển tiếp khởi lên, thanh tịnh quang xuất hiện. Tất cả ba điều này là cơ hội để nhận ra thanh tịnh quang; nếu được nhận ra vào bất cứ lúc nào của những cơ hội này, thì cũng giống như đứa bé sà vào lòng mẹ.

Việc phân biệt giữa nền tảng và những gì phụ thuộc vào nền tảng đó là điều quan trọng. Nền tảng là sự rèn luyện trong tiến trình chuyển tiếp lúc sống, cụ thểthực hành vào lúc thức, vị lama chỉ cho bạn bản tánh của sự nhận biết. Bạn thực hành điều này, trau dồi nó, bạn có được khả năng và nhận biết trong nó; và trên nền tảng đó bạn có thể đi vào rèn luyện gắn liền với tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng. Trong bối cảnh đó, điều này là sự nhận biết của thanh tịnh quang. Do đó, sự rèn luyện trước trong tiến trình chuyển tiếp lúc sống là then chốt cho thực hành sau này, sự rèn luyện nâng cao trong tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng.

Để hiểu rõ thanh tịnh quang trong bản tánh của tự thân thực tại, bạn, người nhận ra giác tánh không che đậy, nên đặt vị trí của thân như trước, hãy điều phục nhận biết của bạn, và trong sự sống động, rõ ràng và rỗng không hãy tập trung nhận biết của bạn nơi ngực rồi ngủ thiếp đi. Khi giấc ngủ bạn bị khích động đừng làm mất cảm giác trong sáng và rỗng không bất khả phân. Khi ngủ nhanh chóng nếu sự sống động của ánh sáng và rỗng không bất khả phân của giấc ngủ sâu được nhận biết, thanh tịnh quang được thấy rõ. Người nào giữ nguyên không làm mất kinh nghiệm thiền định trong mọi lúc trong khi ngủ không có giấc mộng xảy đến hoặc các khuynh hướng tiềm tàng là người an trụ trong bản tánh thanh tịnh quang của giấc ngủ. Đó là thời công phu thứ nhất.

Như trước, loại thực hành này dành cho người có khả năng siêu việt. Trong thực hành này dường như không có bất kỳ sự phân biệt dựa trên kinh nghiệm nào giữa bạn như vị thiền giả (người đang hướng dẫn sự nhận biết của bạn), đối tượng của sự nhận biết, và sự nhận biết được hướng đến. Loại phân ranh giới giữa tác nhân, đối tượng của hành vi, và công cụ của hành vi hầu như cùng nhau biến mất.

Những người có thể trụ trong thiền định trong giấc ngủ không mộng đều có khả năng an trụ trong sự nhận biết của bản tánh thanh tịnh quang của giấc ngủ. Với người bình thường, nhiều giấc mộng xảy ra trong quá trình của ban đêm và phát sinh bởi các khuynh hướng ngủ ngầm, hoặc các dấu vết của tâm thức. Các điều này xuất phát từ sự kích hoạt của ba độc, lần lượt từ việc thiếu nhận biết của hai loại không đồng nhất.

Khi có một số giấc mơ xấu, ngay khi thức dậy chúng ta có khuynh hướng cáu kỉnhkhông vui. Lý do cho tính khí xấu này là chúng ta bám chấp vào những nội dung của giấc mộng đó như có thật, và điều này làm ảnh hưởng liên tục suốt ngày. Tương tự, chúng ta cảm thấy vui vẻ khi thức giấc từ một giấc mơ vui thích, và tùy theo sự bám chấp vào giấc mơ đó, chúng ta có thể duy trì tính khí tốt với phần còn lại của ban ngày. Dù là giấc mộng tốt hay xấu, chúng đều không có bản chất hoặc thực tại trong chúng.

Trong suốt toàn bộ tiến trình mộng, ngay cả chủ thể là người chúng ta đang mơ đều không hiện hữu thật sự. Nếu những người nằm mộng chúng ta không hiện hữu thật sự, không cần phải nói thêm rằng các đối tượng được kinh nghiệm trong giấc mộng cũng không có thật. Điều này gắn kết mật thiết với thực hành nhìn chăm chú vào gương trước đó, trước tiên ca tụng rồi sau đó sỉ vả sự phản chiếu của chính bạn trong gương, nhìn xem cách phản ứng của bạn trong cả hai trường hợp. Sau đó trong cuộc sống hằng ngày, hãy xem cách bạn phản ứng như thế nào khi được ca tụng và bị lăng mạ. Nếu bạn phản ứng như trước với sự sung sướngphẫn nộ, điều này đơn giản là do bám chấp, và đó chính là những gì kéo dài mãi mãi sự hiện hữu của chính bạn trong samsara. Sự bắt buộc của nó khiến thực hành tâm linh của chúng ta hoạt động như một đối trị với ba độc, chỉ như vậy mới có lợi ích cho chúng ta. Nếu không áp dụng những giáo lý này như phương thuốc chữa trị phiền não của tâm thức chúng ta, thậm chí nếu học hàng trăm bộ giáo lý của đạo Phật cũng chẳng có lợi ích. Ngay cả nếu chúng ta gặp được mười ngàn hay một trăm ngàn vị thầy và nhận được nhiều giáo lý tâm linh, cũng chẳng có lợi ích. Ngay cả nếu chúng ta gặp được Đức Padmasambhava hoặc Đức Phật Sakyamuni, vẫn không có lợi ích. Có bao nhiêu vô số hóa thân của chư Phật đã từng xuất hiện? Mà chúng ta vẫn còn ở đây, vẫn còn trong ảo tưởng, vẫn bị đau khổphiền não của mình do không áp dụng giáo lý vào thực hành một cách hiệu quả. Sự thậtchúng ta vẫn đau khổ, vẫn là chủ thể cho các độc của tâm do không thích hợp với một số giới hạn hay lỗi lầm về phía chư Phật, mà đúng hơn là chính vì giới hạn của chúng ta. Giống như đức Phật nói, “Bây giờ hãy đi về hướng đông,” mà chúng ta lại quay lưng về hướng đông mà đi về hướng tây. Vậy bạn mong đợi điều gì? Ngay khi bạn định hướng việc áp dụng vào thực hành, thì bất cứ những gì bạn nghe, mọi thực hành của việc nghe giáo lý, suy niệm, và thiền định đều sẽ là lợi ích của bạn.

Sự hòa nhập với thanh tịnh quang của các nguyên tố: Thoạt tiên, khi bạn ngủ thiếp đi với trán được che ấm, đất sẽ tan hòa vào nước. Vào lúc đó, hãy rèn luyện trong cảm giác mạnh mẽ của trong sáng và rỗng không, tập trung chú tâm nơi ngực. Sau đó khi ý thức chìm đắm, nước tan hòa vào lửa; và lúc đó đừng đánh mất cảm giác mạnh mẽ của trong sáng và rỗng không. Khi tâm thức bị khích động, lửa tan hòa vào gió, cũng vậy, hãy rèn luyện trong cảm giác mạnh mẽ của trong sánh và rỗng không. Việc ngủ thiếp đi nhanh chóng tương ứng với gió tan hòa vào ý thức, và vào lúc đó cũng chú tâm một cách rõ ràng và mạnh mẽ nơi ngực bạn, không đánh mất cảm giác trong sáng và rỗng không trước đó. Kế tiếp, trạng thái sáng suốt không mộng tương ứng với ý thức tan hòa vào thanh tịnh quang, vào lúc đó giấc ngủ của bạn vẫn còn rõ ràng trong trong sáng và rỗng không đó là bất sanh và không có ký ức. Nếu bạn nhận ra sự trong sáng và rỗng không vào lúc đó, là sự thoát khỏi trí năng nên được gọi là “sự nhận ra thanh tịnh quang.” Điều đó tương tự với sự tan hòa của ý thức vào thanh tịnh quang vào lúc chết, nên đây là sự rèn luyện cho trạng thái trung gian giữa cái chết và tái sanh. Đó là thời công phu thứ hai.

Khi đi vào trạng thái bất sanh và không có hồi ức, bạn đừng nhớ lại bất cứ điều gì và không tư duy về bất cứ loại nào. Sự rèn luyện nhận biết thanh tịnh quang này trong tiến trình ngủ là một chuẩn bị để có thể nhận ra thanh tịnh quang trong tiến trình cận tử. Điều này giống như trại huấn luyện lính, trong đó người lính được đào tạo và luyện tập cho nhu cầu khi thực tế gặp kẻ địch.

Hãy rèn luyện trong điều đó lặp lại nhiều lần. Sau khi đi vào giấc ngủ một ít, hãy có bạn đồng hành khơi bạn dậy và hỏi, “Bạn có thấy rõ thanh tịnh quang chưa?” Nếu chưa, bạn sẽ lập lại điều này nhiều lần. Điều này được gọi là “thanh tịnh quang của nhận biết,” và nó là thanh tịnh quang cao nhất trong mọi loại thanh tịnh quang.

Nếu không thấy rõ nó bằng bất kỳ phương tiện nào, hãy rèn luyện trong cái thấy thanh tịnh quang của kinh nghiệm. Vị trí của thân bạn như trước, biểu thị một mục tiêu bằng việc chú tâm vào bản tánh bất nhị, rõ ràng, sống động của vị thầy tâm linh đầu tiên của bạn và Ngài Padma Orgyen ở giữa hoa sen bốn cánh nằm bên trong ngực bạn. Ngủ thiếp đi như trước, với sự tỉnh giác rõ ràng và mạnh mẽ, không đánh mất cảm giác đó cho đến khi ý thức bạn tan hòa vào thanh tịnh quang, trước tiên, vào lúc ngủ sâu, vẫn còn trong sự rỗng không và trong sáng một cách mạnh mẽ, không có sự hồi ức và sau đó thay vì nằm mơ, hãy để thân tướng của Đức Orgyen Padma xuất hiện rõ ràng nơi ngực bạn. Sau đó một cái thấy rõ ràng về toàn thân bạn, rồi đến giường bạn, lều thiền định, rồi môi trường chung quanh sẽ xuất hiện như thể bạn thấy nó trong lúc ban ngày. Vì cái thấy này là rất thanh tịnh, Núi Tu Di cùng với bốn góc của thế gian xuất hiện một cách rõ ràng. Cái thấy như vậy được gọi là, “cái thấy thanh tịnh quang.” Bằng việc hợp nhất điều đó với thanh tịnh quang của nhận biết, thanh tịnh quang nền tảng được nhận ra, và chắc chắn rằng trong tiến trình chuyển tiếp đầu tiên bạn sẽ trở thành một vị Phật. Đó là thời công phu thứ ba.

Nếu vẫn không thấy rõ nó trong cách đó, hãy quán tưởng thân bạn như vị Bổn Tôn đã chọn, và trong sự trong sáng tinh khiết giữa bụng bạn, giống như một trái bóng căng phồng hãy quán tưởng kinh mạch trung ương trong sáng dưới dạng ánh sáng, xuất hiện nhưng không có tự tánh. Tại ngực bạn hãy quán tưởng tinh túy thanh tịnh của một bindu có màu đỏ rực rỡ với ánh sáng chói lọi, bên trong kinh mạch trung ương, đi thẳng từ đầu bạn đến dưới rốn, được hình dung trong dạng ánh sáng lung linh; và hình dung rằng vì sự rực rỡ của nó, toàn bộ phần thân bên trong bạn có bản tánh của ánh sáng chói lọi, rõ ràng. Do duy trì sự nhận biết mạnh mẽ, rõ ràng và rỗng không đó, không làm mất nó từ lúc bạn ngủ thiếp đi cho đến khi đi vào giấc ngủ sâu, thanh tịnh quang sẽ được thấy rõ. Thậm chí nếu không thấy rõ nó trong lần thử đầu tiên, với bạn đồng hành hãy quán tưởng đối tượng thiền quán đó lặp lại nhiều lần; và bằng việc thay đổi luân phiên các đối tượng thiền quán này, sẽ thấy rõ được một trong những loại thanh tịnh quang.

Thậm chí sau khi dòng tư tưởng đã ngừng và bạn đã ngủ, bản tánh của thanh tịnh quang là hiện tượng rỗng không và trong sáng của trạng thái mộng, giống như ở giữa hư không trong sáng, vẫn tồn tại không che đậy không đối tượng. Khi bạn sắp thức dậytiếp tục chuyển thành samadhi (đại định). Cái thấy thanh tịnh quang bao gồm cái thấy hình tướng hiện diện như thể bạn đang nhận thức chúng vào ban ngày, ngay cả dù đang ngủ. Cảnh vật và những thứ khác được thấy rõ ràng. Bạn có thể nghĩ mình chưa ngủ và sẽ thấy rõ ràng đồ vật trong nhà. Nếu điều đó được hợp nhất với thanh tịnh quang của nhận biết thì đây là điều tốt nhất và bạn sẽ chắc chắn đạt giải thoát trong tiến trình chuyển tiếp. Trong các hướng dẫn quan trọng về sáu tiến trình chuyển tiếp, điều này được gọi là, “thanh tịnh quang giải thoát tự nhiên của ảo tưởng.” Samaya.

Trong thực hành này, sự nhận biết xuất ra ngoài thân bạn như vậy, và bạn nhìn xuống thấy thân bạn, phòng bạn, và môi trường chung quanh một cách sống động như thể thấy vào lúc ban ngày. Kinh nghiệm này xảy ra trong lúc bạn ngủ, tương tự với kinh nghiệm trong tiến trình chuyển tiếp sau cái chết, trong đó ý thức rời khỏi thân và có thể nhận thức môi trường chung quanh. Trong thực hành ban đêm này bạn có thể thấy toàn bộ môi trường rất rõ ràng nên rất dễ nghĩ rằng bạn hoàn toàn chưa ngủ. Nhưng bạn có thể thức giấc, và trên sự thức dậy bạn có thể xác nhận hồi ức rằng bạn đã ngủ. Bây giờ chúng takết luận của cả hai giải thích về tiến trình chuyển tiếp của lúc sống và tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng.

5

Sự Giải Thoát Tự Nhiên Của Nhận Biết
Những Hướng Dẫn Dựa Trên Kinh Nghiệm
Về Tiến Trình Chuyển Tiếp Của 
Thiền Quán Ổn Định

Trong chủ đề chung thứ ba này, tiến trình chuyển tiếp của thiền quán ổn định – được gọi là “sự giải thoát tự nhiên của nhận biết,” với những hướng dẫn thiết thực có thể so sánh với một phụ nữ trẻ nhìn chăm chú vào gương và thấy rõ ràng những gì chưa thấy rõ – là chủ đề được dạy. Trước đó, sự nhận biết được chỉ ra và trình bày như “đơn giản là đây”, kết quả trong tâm kiên trì thấy rõ như trong sángnhận biết. Do bám chấp vào nó như điều đó bạn không thể giải thoát. Do vậy, ở đây là các hướng dẫn để nâng cao thiền quán ổn định qua việc nhận dạng sự nhận biết bằng cách thực hành đó là không bám chấp và siêu vượt lên trí năng. Duy trì sự nhận biết qua sự khảo sát cẩn thậngiải thoát, nên được gọi là “các hướng dẫn về sự giải thoát tự nhiên của nhận biết.”

Chướng ngại nền tảng để đạt giải thoát là bám chấp. Chẳng hạn, trong thực hành Hinayana, vẫn còn chấp bám vào nhân dạng cá nhân làm cản trở sự thành tựu tâm linh tỉnh thức của hành giả. Loại bám chấp giới thiệu trong giáo lý này là bám chấp vi tế vào tự thân sự nhận biết, và sự giải thoát tự nhiên của nhận biết xảy ra khi sự bám chấp này ngưng lại. Về phần phép loại suy, hãy hình dung một phụ nữ trẻ đẹp đáng yêu nhìn vào gương, tự trang điểm đẹp đẽ đẹp nhất mà cô có thể. Cô muốn người khác nghĩ cô ta rất trẻ đẹp. Nhờ nhìn vào gương cô ta có thể phát hiện bất cứ thiếu sót nào trong vẻ ngoài của cô, và sau đó có thể sửa lại chúng. Tương tự, giáo lý này trình bày cho chúng ta cách làm thế nào để nhìn vào gương của tánh giác và nhận thức những gì trước đó không thấy rõ.

Trước giai đoạn này của thực hành, vị thầy tâm linh của bạn nên chỉ ra các đặc tính quan trọng nhất của giác tánh. Nhưng sau đó chính những phẩm tính này có thể trở thành đối tượng của bám chấp vì ngay cả nếu bạn nhận ra bản tánh của sự nhận biết, bạn vẫn sẽ chấp vào nó. Bây giờ giai đoạn này của thực hànhý định dẫn dắt bạn vượt lên bám chấp đó trong cách siêu vượt lên trí năng. Giữa các tín đồ đạo Phật, không chỉ hành giả của Hinayana chịu thua sự bám chấp. Ngay cả trong thực hành của Vajrayana, khuynh hướng bám chấp có thể bị duy trì trong nhiều cách, chẳng hạn như trong giai đoạn phát triển.

Có lần, một vị lama ở Tây Tạng với danh hiệu Kushok Abu, người mà một số người xem là một hóa thân của Ngài Khyentse Yeshe Dorje. Ngài là một đại lama với sự giác ngộ thâm sâu siêu phàm. Vị lama này bình luận rằng nếu người ta thực hành giai đoạn phát triển với sự bám chấp, hình dung chính họ như các Bổn Tôn phẫn nộ với miệng mở rộng, nhe nanh, v.v... điều này chỉ dẫn đến việc tái sanh như một quỷ vương. Tương tự, nếu thiền định về các vị hộ Pháp với bám chấp, điều đó cũng có thể dẫn đến tái sanh như ma quỷ. Vấn đề ở đây không nằm trong sự quán tưởng mà trong sự bám chấp. Giai đoạn hoàn thiện có thể hoạt động như một giải độc cho sự bám chấp có khả năng xảy ra trên giai đoạn phát triển. Trái lại, giai đoạn phát triển là sự giải độc cho tính cực đoan của đoạn kiến (chủ nghĩa hư vô), có thể xuất hiện trên giai đoạn hoàn thiện.

Tương tự, có những kỹ thuật khác nhau, có dấu hiệu và không có dấu hiệu để phát triển an định (thiền chỉ). Nhờ chuyển từ phương pháp có dấu hiệu đến không dấu hiệu, sự bám chấp được tiêu trừ. Trong tiến trình đó bạn phải chắc không kết thúc trong một loại hôn trầm, vì chẳng có bất cứ lợi ích nào. Trong mọi thực hành khác nhau này, vấn đề thiết yếu là bám chấp, là chướng ngại chính cho việc giải thoát tự nhiên của bạn. Một số trong các bạn có thể tự hỏi, “Việc khao khát giải thoátgiác ngộđáng giá không? Có tư tưởng vị tha, mong muốn phục vụ người khác, có tư duy bi mẫn là đáng giá không? Và có hay không việc bám chấp vào một phần của tiến trình tâm linh này?” Tôi không có bất cứ câu trả lời nào cho điều đó. Bạn nên từ từ tìm kiếm.

Nhóm từ “duy trì sự nhận biết qua việc khảo sát cẩn thận” có nghĩa duy trì nhận biết liên tục của tự thân sự nhận biết qua sự quán sát và khảo sát kỹ lưỡng. Theo trích dẫn của Ngài Dudjom Lingpa, “Đừng bao giờ để nhận biết của bạn rời khỏi không gian.” Nói khác đi, là luôn giữ sự nhận biết của bạn trong không gian phía trước. Do vậy điều này được gọi là hướng dẫn về sự giải thoát tự nhiên của nhận biết.

THIỀN ĐỊNH BÌNH ĐẲNG CỦA BA BẬC KHÔNG GIAN

Chỉ có sự nhận biết được chỉ ra như trước và biết bản tánh của bạn là chưa đủ. Như một phép loại suy, vì để cho con ngựa hoang của hành giả đi rong tự do trong nhiều năm, chủ nhân của nó không nhận ra, và một khi được người chăn gia súc chỉ ra cho họ nhận ra con ngựa của mình cũng vẫn chưa đủ. Phải dùng phương pháp để bắt giữ con ngựa hoang này, sau đó khuất phục và bắt nó làm việc. Tương tự, chỉ nhận ra tâm hoang dã này là chưa đủ. Người ta nói rằng, “Ồ, vào lúc này, khi tiến trình chuyển tiếp của thiền quán ổn định xuất hiện với tôi, quan điểm nhầm lẫn của sự sao lãng bị loại bỏ, và không dao động, không bám chấp, tôi đi vào lãnh vực thoát khỏi các cực đoan.”

Bạn có thể được vị thầy tâm linh của mình chỉ ra bản chất của tánh giác bạn như đã mô tả trước đây, nhưng chỉ được chỉ ra nó và có một số cái nhìn thoáng qua về nó là chưa đủ. Trong lịch sử của Phật giáo Tây Tạng ở phương Tây, người đầu tiên nuôi dưỡng nhiều ngựa hoang của phương Tây là Ngài Chogyam Trungpa Rinpoche. Không chỉ cho người ta cỏ Ngài còn cho một số trong họ thuốc lá và rượu. Khi làm vậy Ngài cũng có vẻ đi theo đường của họ. Ngài có vẻ thích thuốc lá, phụ nữ, rượu, v.v... Do làm như vậy, Ngài bộc lộ bản tánh cho chính họ, và mở ra con đường cho các đại lama khác – bao gồm Ngài Gyalwa Karmapa, Đức Dalai Lama, và nhiều vị đại lama khác – để vây bắt những con ngựa hoang ở phương Tây này. Cơ hội để tôi được giảng dạy bây giờ không phải do năng lực của tôi, mà do sự chuẩn bị đã hoàn tất của Ngài Chogyam Trungpa Rinpoche và các vị đại lama khác đã giảng dạy ở phương Tây này.

Để hiểu chiến lược của Ngài Chogyam Trungpa Rinpoche, hãy tưởng tượng một vùng trong đó trời mưa khác thường mà khi người ta uống nước từ cơn mưa đó sẽ trở nên điên loạn. Có một vị vua không uống nước đó, và không bị điên; nhưng bởi mọi người đều điên trong khi vị vua này thì không nên họ không nghe lời ông ta. Do ông ta trái ngược với mọi người nên họ không cảm nhận được mối liên hệ với ông ấy. Vị vua nhận ra điều này, biết rằng ông cần phải lãnh đạo họ, và cũng biết rằng ông không làm được điều ấy cho đến khi nào ông tỏ ra giống họ và tất cả đều điên. Vì vậy ông uống nước, tỏ vẻ bị điên loạn giống họ, và sau đó họ đã nghe lời ông. Họ bảo rằng, “Ồ, ông ấy cũng giống chúng ta”. Đó chính là chiến lược của Ngài Chogyam Trungpa Rinpoche; Ngài tỏ ra bị điên giống tất cả chúng ta để có thể dẫn dắt chúng ta một cách hiệu quả, và người ta sẽ nghĩ rằng, “À, ngài là một trong chúng ta. Ngài cũng giống chúng ta mà thôi!”

Giống như một cây kiếm không thể tự cắt chính nó và mắt không thể tự thấy chính nó, chúng ta không thể nhận ra bản tánh riêng mình. Tại đây trong phương Tây và ở nơi khác, các vị thầy của đạo Phật đã tham gia nhiều hoạt động đa dạng rộng rãi, một số đã gợi ra nhiều chỉ trích. Xét về một khía cạnh, nhiều phê bình đó hoàn toàngiá trị; nhưng từ một khía cạnh khác, những người nói về lỗi của người khác, người mà phê bình, xem thường, và lăng mạ cũng có thể nói là thiển cận. Đó là, họ chỉ thấy các biểu hiện cư xử bên ngoài mà không thấy những gì đang diễn tiến bên trong. Họ không thấy nguồn xuất phát của hành động đó, và không thấy lý do bên trong của cách cư xử nên họ khinh thường. Họ không thấy loại cư xử này liên hệ ra sao với hoàn cảnh hiện nay ở phương Tây, đặc biệt là ở Mỹ. Họ cũng không có đầy đủ thấu suốt trong sự áp dụng của phương tiệntrí tuệ vào nhiệm vụ của chư Bồ Tát; vì chư Bồ Tátthể tham gia trong các hoạt động đa dạng và rộng rãi để phục vụ chúng sanh được hiệu quả trong những hoàn cảnh khác nhau.

Kết quả cốt lõi ở đây thật sự là karma của riêng bạn, quá trình lịch sử của hành động và công đức của cá nhân bạn. Những gì bạn thấy và bạn phán đoán ra sao chủ yếu được xác định bởi các yếu tố này: karma và công đức của chính bạn. Nếu thiếu karma thanh tịnh hay công đức, bạn sẽ không thể thấy những gì đang thực sự diễn tiến, vì hậu quả lâu dài của hành động người khác có thể phát sinh khác biệt hơn những gì bạn mong đợi. Điều này giống như cố dùng tay che mặt trời; bạn chỉ có thể che chắn một khoảng không gian rất nhỏ dưới mặt trời, nhưng không thể che được tự thân mặt trời. Thậm chí dù toàn bộ thế gian hợp lại nâng cao một người thiếu karma thanh tịnhcông đức là điều không thể có. Một cách từ từ, dần dần, khi chúng ta tiến bộ trong thực hành của mình, những điều này sẽ trở nên ngày càng rõ ràng hơn. Điều duy nhất có thể làm chúng ta thoái lui là sự che ám do chính chúng ta gây ra.

Về mặt tìm kiếm lỗi lầm, đừng tìm kiếm lỗi lầm của các vị thầy trước đã viên tịch hoặc những vị mà bạn đã được rèn luyện. Nếu bạn muốn tìm lỗi của một vị thầy, tôi đề nghị bạn nên tìm nơi tôi. Với những người nhẫn tâm, bạn có thể nói về lỗi lầm của người khác và lăng mạ họ. Nếu có một ít lòng nhân từ, bạn có thể nói, “Ôi, tội nghiệp thay,” và cảm thấy một ít lòng bi cho người khác vì lỗi lầm của họ. Mặt khác, bạn có thể trau dồi kiến thanh tịnh về người khác, nhưng điều này rất khó, có lẽ quá khó nên hoàn toàn không thể bàn đến được.

Về những người tiêu tốn thời gian của họ để tìm lỗi người khác, lăng mạ, tỏ thái độ xem thường và khinh rẻ người khác thì họ là gì? Họ là chư Phật chăng? Chắc chắn là không. Họ là chư Bồ Tát chắc? Đừng hòng! Chư Phật và Bồ Tát rất bi mẫn, và các Ngài không tự cho phép lăng mạ, phỉ báng và bày tỏ sự coi thường người khác. Điều đó không thể xảy ra. Vậy những người tìm kiếm lỗi người khác thì chính họ có bị che ám không? Chắc chắn có. Và vì họ là chủ thể cho sự che ám và ảo tưởng chính họ, họ không chỉ thấy bất tịnhbất tịnh mà còn thấy thanh tịnhbất tịnh. Họ thấy mọi sự đều bất tịnh vì sự che ám của chính họ. Đây là do vô minh của chính họ, là sự che ám xuất hiện từ ảo tưởng. Đây là cách họ thấy thế gianphản ứng với thế gian như vậy.

Hãy nhớ rằng chư Phật không đi lăng mạ người khác, các Ngài không phỉ báng hay khinh rẻ chúng sanh. Điều đó đơn giản không có trong bản tánh các Ngài. Bất cứ trong chúng ta khi nào trong tiến trình lăng mạ, phỉ báng hay làm bẽ mặt người khác, không quan tâm đến các phẩm tính của người khác, chính trong hành động lăng mạ người khác, bằng cách đó chúng ta bộc lộ các lỗi lầm của mình. Chính hành động lăng mạ, khinh thị, vu khống, v.v... là con đường làm bộc lộ lỗi lầm của chính chúng ta. Nếu chúng ta siết chặt một con rắn thì sự phóng chất độc của nó, bình thường bị che giấu sẽ lòi ra. Cũng giống như thế, ngay khi chúng ta thóa mạ ép buộc ai đó thì lỗi lầm của chính chúng ta sẽ bộc lộ. Là một Phật tử, việc tiếp tục xu hướng lăng mạ và phỉ báng người khác như vậy là không được. Khi chúng ta bắn mũi tên khinh miệt đến người khác, kẻ bị trúng thương trước tiên là chính chúng ta. Những lời nói gay gắt giống như một con dao hai lưỡi. Hãy nghĩ rằng, “Tôi đang có một cây gươm thật sắc”, bạn sẽ giương cao lưỡi kiếm của lời nói, nhưng khi bạn hạ kiếm xuống để đánh ai đó, lưỡi kia của ngọn kiếm sẽ chẻ đôi bạn.

Những người mới bắt đầu phải thực hànhthiền định với sự chú tâm kiên định. Con ngựa hoang chưa bị thuần hóa cần được thuần phục với lòng nhiệt tình một cách kiên trì. Nếu bạn dao động, bạn sẽ mất kiểm soát con ngựa, té xuống và tự làm bản thân bị thương. Tương tự như thế, nếu người mới bắt đầu theo đuổi những suy nghĩ bình thường, họ sẽ bị hạ cấp xuống trạng thái đau khổ của tồn tại và sẽ bị tổn thương; vì thế cần duy trì thiền định với sự tập trung không dao động.

Khi thấy được bản chất của nhận biết do người thầy tâm linh chỉ ra, bạn sẽ có một số hiểu biết; nhưng chỉ có như vậy thì chưa đủ. Cái hiểu này được xem giống như một miếng vá: bạn khâu nó lại, nhưng nó rất dễ dàng rớt ra. Cái hiểu ban đầu này cần được duy trì. Sự giải thoát tự nhiên của nhận biết này chính là cái hiểu của nhận biết của chính bạn. Tới khi nào hiểu được nhận biết hiện tại của chính minh, ta không đặt hy vọng vào các chúng sanh khác. Giải thoát nằm ở sự nhận biết của chính ta; vì thế đừng hy vọng vào người khác sẽ đem đến giải thoát cho mình.

Đặc biệt là ở phương Tây này, khi nói đến thiền định, người ta nghĩ đến cái gì đó phải thật đặc biệt. Khi bạn thực hành thiền định, bạn mong được thấy, được cầm, cảm giác, ngửi hoặc nếm cái gì đấy rất đặc biệt. Những quan điểm ấy là sai lạc. Trong thực hành thiền định thực tế, bạn đặt các nếm trải của sinh tử luân hồi sang một bên và để cho chúng như thể chúng là, bạn không làm gì đặc biệt cả. Do tính chất tự nhiên của sự tỉnh thức vượt lên trên sự sinh ra, trụ và diệt, vậy thì làm sao thiền định thực sự có thể là làm hành động gì đó được? Chẳng có gì để thiền định về, và cũng chẳng có nền tảng nào để thiền định. Bản chất của điều này là kết quả. Tự thân của kết quả tâm linh chuyển thành con đường. Có một kết quả hoặc thực hành tâm linh tột độ hay không? Để chuyển kết quả vào con đường, bạn thực hành mà không có hy vọng thành tựu bất cứ điều gì. Bạn có thể hỏi, “Vậy thì tôi sẽ thành Phật chăng? Nếu tôi thực hành, chẳng phải điều này dẫn tôi đến Phật quả sao?” Bạn chuyển kết quả đó là Phật tánh vào con đường. Nhiều người vỗ tay trong tranh luận về điểm này và kết quả là tay họ trở nên rất, rất đỏ. Ngoài ra, một số người có thể hỏi, “Bạn có trở thành một vị Phật như kết quả của con đường thực hành này hay không? Trong thực tế kết quả có đến sau thực hành này hay không?” Câu trả lời của tôi cho điều này là, “Bạn có thỏa mãn với sự chuyển hóa kết quả vào con đường hay không?”

Lấy phép loại suy về các bậc cha mẹ. Cha mẹ nuôi dưỡng con cái bằng việc cho ăn và chăm sóc chúng trong mọi cách. Bằng tiến trình dần dần này, đứa bé trưởng thành. Khi cha mẹ đang nuôi dưỡng đứa bé, thì có bất kỳ người nào đến với họ và nói, “Đứa bé này phải con của các bạn hay không”? Hay bất cứ điều gì xảy ra nếu có ai đó ở ngoài gia đình đến và nói, “Đứa bé này là của bạn à”? đứa bé đó của họ là hoàn toàn đúng. Tương tự, bản tánh chính chúng ta là kết quả; mà trong tiến trình thực hành của mình, chúng ta đem bản tánh mình đến trưởng thành, giống như cha mẹ đem con họ đến trưởng thành bằng việc chăm sóc chúng. Nó hoàn toànbản tánh của chúng ta, và ai đó nói với chúng ta nó là như vậy hay không như vậy đều hoàn toàn chẳng thay đổi được bất cứ điều gì. Điều đó đúng như cách nó là.

“Thiền định” là tên khác cho sự không thiền định về bất cứ điều gì; và về mặt ý nghĩathiền quán thăng bằng trong sự thiền quán ổn định của ba bậc không gian đã dạy trong Tantra Ba Diễn Đạt Của Giải Thoát Tự Nhiên Bằng Sự Quán Sát:

Ôi Đấng Thế Tôn Bí Mật, đó là những hướng dẫn để thực tế hóa Dharmakaya: không gian bên ngoài là không gian trống rỗng xảy ra ở giữa này; không gian bên trong là kinh mạch rỗng, trống không kết nối đến mắt và trái tim; không gian bí mật là cung điện quý báu của chính tim bạn. Hãy hướng sự nhận biết đến mắt bạn, hướng mắt bạn vào khoảng không gian ở giữa, và nhờ để cái nhìn chăm chú của bạn vào đó; trí tuệ bổn nguyên xuất hiện thoải mái. Khi ý thức được hướng đến mắt bạn, chỉ có nhận biết phi khái niệm sẽ xuất hiện, không bị che ám bởi bất cứ quan niệm ép buộc nào.

Thực hành chính của thiền định được gọi là “sự thiền định của ba bậc không gian” là sự thực hành trong khi thân ở tư thế bảy thuộc tính Vairocana. Tự tâm rỗng không bên trong này tập trung vào con đường nối liền với kinh mạch rỗng, trống không. nhận dạng lỗ mở đỉnh đầu được gọi là “ánh sáng trói buộc chất dịch” bắt buộc hướng sự nhận biết của bạn đến mắt. Hãy để đôi mắt nhìn chăm chú cố định vào không gian bên ngoài trong sạch này; và cũng tập trung sự nhận biết vào không gian phía trước bạn. Không thiền định về bất cứ gì, chỉ không dao động, hãy để nó được ổn định, minh bạch và bình thản.

Thực hành này hoàn toàn giống với thực hành Nhảy-qua. Bạn có thể học hỏi ý nghĩa của thực hành này chỉ bằng việc kinh nghiệm nó cho chính bạn. Giống như bạn phải nuôi dưỡng con bạn để chúng trưởng thành, bạn cần nuôi dưỡng chính bạn qua thực hành này. bằng việc đọc các giáo lý này vào lúc ban đầu bạn có thể có một số hiểu biết; nhưng chỉ điều đó là không đủ.

Trước tiên hãy thực hành trong một thời ngắn và khi quen thuộc hãy thực hành thời công phu dài hơn và dài hơn nữa. Khi kết thúc thời công phu, đừng đứng dậy đột ngột mà hãy đứng lên chậm rãi không làm mất cảm giác thiền định; và tiếp tục không làm mất cảm giác của nhận biết, không dao động và không bám chấp. Khi bạn ăn, uống, nói năng, và tham gia vào mỗi hoạt động hãy làm như vậy không đánh mất sự canh chừng của việc chú tâm không dao động. Nếu điều này xảy ra trong thiền quán bình đẳng mà không xảy ra sau đó, nhờ hòa nhập điều này với thực hành tâm linh của bạn và mọi hoạt động đi, đứng, nằm, ngồi, thì bất kể những gì bạn làm sẽ xuất hiện như thiền định.

Sự nhận biết từ thực hành như vậy không là điều bạn có thể giải thích cho người khác giống như tài sản vật chất. Tuy nhiên, nếu một người tuyên bố là có nhận biết và đã quán sát kỹ lưỡng, thì sau một lát, trong thực tế người này có được nhận biết hay không sẽ trở nên rõ ràng.

bản tánh của karma là rất vi tế nên điều quan trọng ở đây là sự đặc biệt cẩn thận. Khi đạt được Phật quả, chúng ta có thể nói đã vượt lên sự phân biệt giữa thiền định và không thiền định, vì nó sẽ là sự thật. Cho đến lúc đó, điều quan trọng là rất cẩn thận với những tuyên bố như vậy về chính mình, dẫn giải rằng, “Ồ tôi đã thiền định mọi lúc. Với tôi không có sự khác biệt giữa thiền định và hậu thiền định,” Thậm chí một người ngu có thể nói điều này dễ dàng và nếu bạn vội vã tuyên bố như vậy về thành tựu tâm linhnhận biết của mình, bạn chỉ làm hổ thẹn chính bạn.

Có những giai đoạn khác nhau của thực hành. Chẳng hạn, bạn có thể thiền định tốt vào ban ngày nhưng ban đêm lại không được. Đó là, khi ngủ thiếp đi, bạn rơi vào giấc ngủ sâu và vào trạng thái mộng thông thường, nên bạn không thực hành. Điều đó giống như một người thanh thiếu niên. Hoặc trong hoàn cảnh bình thường bạn có thể có khả năng thực hành tốt, nhưng khi vấn đề phát sinh thực hành của bạn bị tan vỡ. Điều này giống như một đứa bé yếu đuối. Đứa bé đi loanh quanh và dường như khỏe mạnh nhưng ngay khi gặp phải khó khăn, sự yếu đuối của nó trở thành hiển nhiên. Về sự tiến bộ này, trước tiên hãy kiểm soát tâm để bạn có thể có được kinh nghiệm đích thực trong lúc thực hành theo nghi thức thiền định. Nếu có thể thiết lập một nền tảng ở đây, bạn có thể có khả năng đem kinh nghiệm này vào trạng thái hậu thiền định. Nếu có thể duy trì trạng thái hậu thiền định này trong lúc và sau nghi thức thiền định suốt ngày thì điều này lần lượt sẽ giúp bạn chuyển hóa giấc ngủ của bạn vào trạng thái thiền định. Nếu có được một số nhận biết, điều này sẽ giúp bạn kéo dài việc thực hành ngay cả khi đối mặt với những vấn đề, nghịch cảnhchướng ngại nghiêm trọng. Điều đó lần lượt cho quyền bạn chuyển hóa tiến trình chuyển tiếp sau khi chết. Đó là mục đích của thực hành hiện nay. Đây là con đường tiệm tiến và nhờ việc thiết lập một nền tảng và phát triển nó một cách dần dần, sự thực hành mở rộng suốt toàn bộ đời bạn, ngày và đêm, thậm chí vượt lên cuộc sống này. Tương tự, về truyền thống Zen (Thiền), có nói rằng một khi vị thầy nhận đệ tử, người đệ tử đó được nuôi dưỡng từ lúc bé trở đi. Điều này thật sự đáng khâm phục. Tương tự, thực hành này cần được duy trì suốt mọi giai đoạn ở trên.

Có một luận thư trình bày: “Khi thiền định, hoàn toàn không thiền định về bất cứ cái gì, vì trong bản tánh tuyệt đối của thực tại, chẳng có gì để thiền định trên đó.” Quyển Thành Tựu Viên Mãn Tối Cao Trình Bày:

Ồ, đây là sự bộc lộ của chính tôi, bậc hoàn toàn thành tựu, rỗng rang: thân người là bất sinh, và quan niệm là samadhi. Thiền định và phi thiền định không lệ thuộc vào hoàn cảnh. Đối tượng của thiền định là mọi hiện tượng chỉ như chúng xuất hiện. Không có bất cứ cách đặt sự nhận biết vào bất kỳ chỗ nào, hãy để nó trong trạng thái của chính nó, không biến đổi, là sự thiền định.

Và:

Ôi Đấng anh hùng Vajra, trở nên quen thuộc với thực tại. Nếu suy ngẫm thực tại, sự nhận biết huyền bí không xuất hiện, thì những ai bám chấp và quen thuộc với lời nóiâm thanh sẽ không gặp sự truyền miệng của chính Ta, bậc thành tựu viên mãn.
Và:

Đừng áp đặt tâm bạn vào bất cứ thứ gì và đừng thiền định. Đừng biến đổi thân, khẩu, ý của bạn mà hãy buông lỏng chúng. Không quan tâm đến các hành tinh, chòm sao, ngày âm lịch, và thời gian,45[45] đừng ràng buộc tâm bạn và hãy tự tại với mantra và mudra (thủ ấn).

SỰ TỰ-GIẢI THOÁT 
KHỎI MỌI THỨ XUẤT HIỆN SAU THIỀN ĐỊNH

Theo sau sự thiền định bình đẳng như vậy, điều quan trọng là được hướng dẫn. Sau khi thiền định, hãy thực hành việc không làm mất cảm giác của thiền định bình đẳng và nói riêng bất cứ niệm tưởng nào khởi lên, hãy lặp lại việc để chúng xuất hiện và tan biến. Mỗi một niệm tưởng đều tan hòa vào trạng thái của giải thoát tự nhiên. Hãy giải thoát mỗi niệm tưởng ngang bằng nhau trong trạng thái của không bám chấp. Ngoài ra, đặc tính tự nhiên của niệm tưởng là an trụ bổn nguyên trong giải thoát tự nhiên. Khi một niệm xuất hiện trước như sân hận, và sau đó xuất hiện như lòng bi, cái sân hận trước đó chẳng đi bất cứ đâu. Nó giải thoát vào sự giải thoát tự nhiên, không được giải thoát bởi bất kỳ ai. Sự thù hận chưa từng tồn tại bất di bất dịch. Ngoài ra, sự sinh ra thù hận là sự tự-hiện và là hình tướng tự nhiên của năng lực sáng tạo của trí tuệ bổn nguyên. Do vậy, vì nó không thể nói rằng “nó xuất hiện từ đây”, bản tánh của thù hận là bất sinh. Trong lúc đó, sự thù hận này không có chỗ trụ. Nếu có và nếu mọi thù ghét đều xuất hiện từ thời vô thủy cho đến nay chúng được bàn bạc và đo lường, điều này không thể có, vì để nó có thể thích hợp vào vũ trụ với hàng ngàn thiên hà. Bản tánh của sự thù ghét là bất sinh và không có vị trí, nên dù khởi lên nó vẫn chưa từng được đặt nền tảng trong thực tại. Do đó, sự thù ghét xuất hiện ngày hôm qua rồi hôm nay đi đâu? Sự thù ghét đến từ hôm nay sẽ xuất hiện vào ngày mai ở đâu và nó sẽ hiện hữu ở đâu? Sự thù ghét ở đâu mà xuất hiện ở hôm nay ngay bây giờ? Khi tình thương phát sinh thì thù ghét đi đâu?

Tất cả chúng đều xuất hiện từ năng lực sáng tạo của trí tuệ bổn nguyên tự hiện, nên chúng là không thêm không bớt ngay cả nếu chúng bị loại bỏ. Chúng giải thoát tự nhiên ngay trong đặc tính của chính chúng nên không bị hủy hoại hay giải thoát bởi các đối trị khác. Nhìn một cách không che đậy, sự thù ghét là hiện diện bổn nguyên như sự tự-giải thoát và dễ dàng giải thoát vào trong chính trạng thái của nó. Ngay bây giờ không có nền tảng thêm vào của giải thoát; bằng việc nhận dạng thù ghét như trí tuệ bổn nguyên tự hiện và nhờ chuyển hóa tự thân thù ghét vào con đường của thiền định thực tế. Thì mọi hình tướng xuất hiện đều là thiền định. Do đó không cần tìm kiếm ở đâu khác để thiền định, vướng mắc của tâm thức bám chấp xảy ra trong thiền định sẽ sáng tỏ ngay nơi chúng bị vướng mắc.

Như vậy, đúng như sự thù ghét chắc chắnbất sinh và tự giải thoát, biết rằng bất cứ dấu hiệu tinh thần nào khởi lên bao gồm tám vạn bốn ngàn phiền não tinh thần, tất cả chúng đều bất sinh và tự giải thoát. Do đó không có quan điểm loại bỏ niệm tưởng và trau dồi tính phi khái niệm. Nếu một thân cây tre rỗng ở bên trong thì mọi thân tre đều rỗng bên trong; nếu một mấu tre đặc thì tất cả mấu tre đều đặc. Nếu biết rằng một giọt nước thì ướt, bạn biết rằng tất cả giọt nước đều ướt. Tương tự, nhờ biết rằng ví dụ một của niệm tưởng là bất sinh và tự giải thoát, bạn biết được rằng mọi niệm tưởng đều bất sinh và tự giải thoát. Việc xác quyết một ví dụ của ý thức tinh thầnbất sinh và tự giải thoát được gọi là “sự xác quyết trên nền tảng chỉ trên một ví dụ”. Nếu người ta không chấp nhận ví dụ đó của ý thức, thì hãy tìm kiếm điều gì khác, vì chẳng có gì để nhận dạng: nên được gọi là “sự nhận dạng trên nền tảng của chính mình.” Vì đặc tính của nó được bộc lộ như sự tự giải thoát nên nó được gọi là “xây dựng tự tin trên nền tảng của giải thoát.”

Trong việc xây dựng tự tin trên nền tảng của giải thoát có bốn con đường giải thoát lớn. Bất chấp niệm tưởng nào khởi lên đăïc tính của chúng vẫn là giải thoát bổn nguyên, tự giải thoát, giải thoát tức thờihoàn toàn giải thoát. Khi một niệm tưởng bám luyến đột ngột khởi lên, đặc tính của nó vẫn là giải thoát bổn nguyên nên giờ đây không có nền tảngï thêm vào của giải thoát. Nó tự giải thoát chính nó, không được giải thoát bởi bất kỳ ai khác, nên không có sự giải độc nào khác để giải thoát nó. Khi một niệm tưởng tự nó quán sát lập tức, nó không có tự tánh và chẳng có gì để thấy; vì nó lập tức giải thoát, nó thay đổi. Vì niệm tưởng khởi lên xảy ra bởi chính nó nên nó cũng hoàn toàn giải thoát; thế nên bây giờ không cần cố gắng để giải thoát nó.

Nếu một niệm tưởng khởi lên, nó là sự giải thoát bổn nguyên, nếu hai niệm tưởng khởi lên, chúng đều tự giải thoát, giải thoát lập tứchoàn toàn giải thoát. Vì cho đến nay, điểm trọng yếu của cách thức giải thoát của chúng chưa được tìm hiểu, nên niệm tưởng bám chấp theo cách thông thường; và kết quả là bạn lang thang trong chu trình sinh tử và chẳng có thời gian khi bạn giải thoát. Bây giờ, với bốn loại giải thoát, bạn đã biết được vấn đề. Một khi vị thầy tâm linh của bạn chỉ ra nó và sự chắc chắn giải thoát đã xuất hiện, những gì bạn phải làm bây giờ với thiền định là cần sử dụng việc vô hiệu hóa về bám chấp tâm thức phải không? Bất cứ những gì xuất hiện hãy để chúng đi như sự tự giải thoát. Đừng thiền định; hãy để sự nhận biết tự do lang thang. Hãy đặt sự nhận biết của bạn một cách bình đẳng.

Có bốn loại giải thoát không khởi nguyên từ các hướng dẫn thâm sâu của vị thầy tâm linh. Bạn không phát hiện chúng bởi những người can đảm, tốt bụng. Bạn không tình cờ phát hiện chúng bởi người rất may mắn. Đặc tính của tất cả chúng sanh vẫn là bốn loại vĩ đại này, nhưng không nhận ra chúng là sự giải thoát. Bị trói buộc bởi sự không thể bám chấp, họ vẫn còn lang thang trong chu trình sinh tử. Trong lúc lang thang họ chưa từng tách khỏi bốn con đường giải thoát lớn. Việc tách rời họ khỏi chúng là điều không thể, và chúng cũng sẽ không như vậy. Trong khi đặc tính của họ là giải thoát, mà vì bám chấp nên họ là chủ thể của nhầm lẫn và tiếp tục kinh nghiệm đau khổ.

Chẳng hạn ngay cả khi họ chịu kinh nghiệm đau khổ của địa ngục Avici (A TỳVô Gián) họ chịu đựng mà không nhận biết rằng đặc tính của họ vẫn tồn tại trong bốn loại đại giải thoát. Nếu biết được đặc tính bẩm sinh của niệm tưởng đau khổgiải thoát thì họ sẽ chẳng bị bất kỳ đau khổ nào nữa. Đối với người bị ba loại vô minh che ám, họ không biết cách thức giải thoát của chúng.

Dù bạn tiếp nhận giáo lý truyền miệng này hoặc học tập bản văn viết, thì điều quan trọng nhất là áp dụng giáo lý này vào thực hành. Vì đây là giáo lý Atiyoga nên việc cố thực hành chúng là vô ích nếu chính bạn không tận tâm với các thực hành chuẩn bị.

Hãy nhấn mạnh việc thực hành của bạn hơn là suy nghĩ về việc bạn làm thế nào để có thể phổ biến giáo lý này cho người khác. Kể với người khác về giáo lý này là không lợi ích hoặc đảm nhận vai trò của một vị thầy tâm linh nếu bạn chỉ có hiểu biết dựa trên khái niệm và có thể bạn thực sự gieo trồng hạt giống cho việc tái sanh thấp. Hãy áp dụng giáo lý vào thực hành, có kinh nghiệm trong chúng và sau đó bạn có thể giảng dạy từ chính sự nhận biết của bạn. Nếu không đủ phẩm tính để dạy điều này, thậm chí nếu bạn nghĩ mình hành động vì lòng vị tha hay lòng bi thì bạn đang tạo sai lầm. Hãy thận trọng khi gán những động cơ cao quý cho chính bạn. Nếu bạn nghĩ có thể phục vụ cho Giáo Pháp hiệu quả hơn vác vị đại lama – như Đức H.H. Dalai Lama, H.H. Dudjom Rinpoche, Gyalwa Karmapa, v.v... – bạn cần suy nghĩ lại. Trái lại, nếu bạn tham gia trong thực hành này đơn thuần vì lợi ích chúng sanh thì điều đó là tốt. Nhưng hãy nhớ rằng rất khó có được động cơ thoát khỏi tám mối quan tâm thế gian và tất cả dấu vết của sự tự cho mình là trung tâm

Giữa hai loại của Tâm linh Tỉnh Thứctâm linh khao khát tỉnh thứctâm linh mạo hiểm hướng đến tỉnh thức. Bây giờ với chúng ta nên tập trung thật sự vào cái trước. Tâm linh mạo hiểm hướng đến tỉnh thức đòi hỏi nền tảng vững chắc trong việc lắng nghe, tư duy, và thiền định, cũng như rèn luyện tất cả sáu hoàn thiện (lục ba la mật). Điều này thật không dễ dàng. Hãy nuôi dưỡng chính bạn như cha mẹ nuôi con. Hãy tự chăm sóc, cho chính bạn ăn bằng thực hànhcuối cùng khi đến lúc trưởng thành tâm linh bạn sẽ có khả năng làm bất cứ điều gì cần thiết. Nếu bạn thật sự muốn phục vụ Giáo Phápchúng sanh, hãy sử dụng những gì bạn đã có để đáp ứng lý tưởng cao thượng và tôn quý này, cụ thểsử dụng thân, khẩu, ý của bạn. Ví dụ, với thân, bạn có thể cúng dường đảnh lễtham gia vào các thực hành sùng kính khác nhau. Về mặt phục vụ chúng sanh hãy thực hành hoàn thiện thứ nhất, sự hoàn thiện của rộng lượng (bố thí ba la mật). Hãy bố thí và giúp ích theo cách mà bạn có thể, hoặc vật chất hay cách khác. Sau đó thực hành dần dần hết năm hoàn thiện khác. Hãy trau dồi và thực hành các hoàn thiện trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ. Phát triển qua rèn luyện trong các thực hành này một cách dần dần, tích lũy công đức và tịnh hóa dòng tâm thức bạn. Đó chính là cách phục vụ chúng sanh thiết thực bằng phương tiện của thân, khẩu và ý bạn. Song, nếu không có bất cứ kinh nghiệm thực sự nào về Đại Viên Mãn, những khó khăn sẽ xuất hiện từ việc cố giảng dạy nó. Trái lại, nếu áp dụng giáo lý này vào thực hành, sự nhận biết sẽ dần dần xuất hiện, và bạn sẽ ở vị trí chia sẻ giáo lý này với người khác.

Một nguồn kinh điển khác về bốn loại đại giải thoát là Tantra Nguyên Thủy về Âm Thanh Thấm Nhuần:

Tánh giác (sự nhận biết) của chính bạn thoát khỏi sự khái niệm hóa nên nó có bốn loại đại giải thoát. Vì nó giải thoát bổn nguyên (là quan điểm không thay đổi bất cứ thứ gì), đó là không có nền tảng thêm vào. Vì nó tự giải thoát (là quan điểm không nghiên cứu tra xét) nên không có sự giải độc. Vì nó giải thoát lập tức (là quan điểm hãy để nó trong trạng thái của riêng nó), nó biến mất ngay nơi nó được thấy. Vì nó hoàn toàn giải thoát, nên không có nỗ lực.

Sự giải thoát bổn nguyên hiện nay có nghĩa chẳng có gì đặc biệt để làm và không có gì cần thay đổi , vì sự nhận biếtgiải thoát bổn nguyên giống như mặt trời hiện diện từ ban sơ, ngay cả dù nó có thể bị mây tạm thời che phủ. Vì sự nhận biết tự giải thoát nên không cần giải độc khác như thiền định. Tuy nhiên, cho đến khi chúng ta vẫn còn đang trên con đường, những kỹ thuật thiền địnhcần thiết; nói một cách thực tế chúng ta cần phải sử dụng chúng.

Về mặt giải thoát tự nhiên của sự nhận biết, không phải nhận biết biến mất “ngay nơi nó được thấy” mà đúng hơn là ngay lúc nhận ra bản tánh của nhận biết, mọi bất tịnh và che ám biến mất lập tức. Điều này giống như sự tương tự của sợi dây mà tưởng là con rắn. Ngay khi bạn thấy nó thực sự là một sợi dây, toàn bộ hình tướng của con rắn lập tức biến mất. Vì thế, không có gì cần tác động vào tâm để làm mất tác dụng những bất tịnh và làm nó biến mất. Chẳng có điều gì làm chúng biến mất hay bất cứ thứ gì ngăn cản chúng khỏi biến mất. Sự nhận biết là “hoàn toàn giải thoát,” vì sự giải thoát tuyệt đối, hoàn toàn của nó về mặt bên trong và bên ngoài và về mặt ba thời – quá khứ, hiện tại và tương lai. Do đó không cần nỗ lực sử dụng thân, khẩu và ý để giải thoát nó.

Chuỗi Ngọc Trai trình bày:

Vì nó giải thoát bổn nguyên nên cao quý vĩnh viễn. Vì nó tự giải thoát nên hoàn cảnh khách quan bị cạn kiệt. Vì nó giải thoát lập tức nên hình tướngthanh tịnh. Vì nó giải thoát khỏi các cực đoan nên bốn lựa chọn được tịnh hóa. Vì nó giải thoát khỏi tính độc nhất nên vô số trở nên trống rỗng.

Trong sự tự giải thoát của nhận biết, nguyên nhânhoàn cảnh hoàn toàn biến mất. Trong sự giải thoát tức thời của nhận biết, hình tướngthanh tịnh bổn nguyên. Sự thanh tịnh như vậy không xảy ra sau một lúc nào đó và cũng không đến từ bất cứ đâu khác hơn là chính bản tánh của nhận biết. Sự nhận biết giải thoát khỏi mọi thái cực của thường kiến, đoạn kiến v.v.. “Bốn lựa chọn” là hiện hữu, không hiện hữu, cả hai hiện hữu và không hiện hữu, và chẳng hiện hữu cũng không phi hiện hữu. Sự nhận biết giải thoát khỏi bất cứ bốn lựa chọn này. Vì nó là bản tánh duy nhất của toàn thể luân hồiniết bàn, nên sự nhận biết là “vô số trở nên trống rỗng.”

Do đó, vì mọi âm thanhsắc tướng vẫn trong bốn loại giải thoát, chúng không bị trói buộc bởi bất cứ thứ gì. Mọi sự đều tự hiện từ trạng thái của chính nó và tự-giải thoát. Bất cứ những gì xuất hiện đều thoát khỏi ba thái cực, sinh, trụ và diệt, nên tự thân thực tại là sự tự-xuất hiện. Do đó, chỉ tùy theo vị thầy tâm linh chỉ ra điều này, một khi biết tự thân thực tại là tự-xuất hiện bạn sẽ nhận ra sắc tướngý thức như tự thân thực tại.

Trong bốn loại giải thoát, chẳng có gì bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì, nhưng trong chu trình sinh tử, chúng ta bị ràng buộc bởi sự tự bám chấp, bám chấp vào bản ngã cá nhân và bám chấp vào hiện tượng. Tuy nhiên, về mặt bản tánh riêng chúng việc nhắc đến bốn loại giải thoát, mọi âm thanhsắc tướng đều không bị ràng buộc bởi bất cứ thứ gì cũng chẳng có gì giải thoát chúng; nên sự giải độc là không cần thiết.

Tôi đã quan sát rằng nhiều người trong các bạn khi thiền định giống như một cây cung căng thẳng tìm mục tiêu và hướng mũi tên đến mục tiêu. Tâm các bạn đầy căng thẳng và bạn cố giữ chắc. Mặt khác, sự trang nghiêmkiên nhẫn như vậy là tốt. Bạn bị mê hoặc với đối tượng thiền định của mình giống như con nai bị thôi miên bởi âm thanh của đàn guitar. Trái lại, quá nhiều căng thẳngnỗ lực trong thực hành có thể tạo ra vấn đề. Bạn quá căng thẳng, cố bám chặt vào đối tượng mà nó xuất hiện thay đổi bất thường. Để chống lại việc căng thẳng, sinh động thái quá. Hãy nhẹ nhàng một chút trong thiền định. Hãy để tâm bạn được nhiều khoảng không hơn.
Hãy nhớ phép loại suy về việc thuần hóa con ngựa hoang trước đây. Nếu bạn hùng hổ nắm chặt dây cương buộc ngựa và kéo mạnh trong lúc nhăn mặt và cố giữ con ngựa, thì nó cũng sẽ phản ứng hung hăng. Điều này sẽ chỉ làm cả hai thêm mệt. Một cách tiếp cận khéo léo hơn là thuần phục con ngựa này một cách nhẹ nhàng, nên con ngựa này cũng sẽ phản ứng nhẹ nhàng. Tôi nghĩ đó là trí tuệ trong cách tiếp cận này vì chính bản chất của việc kỷ luật và cái chịu kỷ luật đều là sự nhận biết. Do đó, nếu bạn chọn cách tiếp cận nhẹ nhàng và dễ dàng này, tôi nghĩ sẽ có ít vấn đề hơn.

Bất kể những gì xuất hiện đều giải thoát trong chính trạng thái của nó, nên hình tướng thoát khỏi sự xác nhận và phủ nhận, như đã được trình bày trong tantra nguyên thủy về Sự Thể Nhập Của Âm Thanh:

Vì thế, mọi sự đều là tự thân thực tại, và tách khỏi điều này thì chẳng có gì để chấp nhận và chẳng có điều nhỏ nhất nào bị bỏ qua. Bất cứ những gì xuất hiện đều là tự thân thực tại, và tách khỏi điều này chẳng có tự thân thực tại nào được tính toán trước. Bất kể những gì được làm, tính không khái niệm xuất hiện. Không lấy hay bỏ, nó là sự tự-hiện.
Quyển Khảm Châu Báu trình bày:

Khi thể nhập ý thức chiếu sáng trên đối tượng, sắc tướng là sự tự-hiện. Vào lúc đó hãy để ý thức được tự do.

Tánh Giác Tự-Hiện trình bày:

Ý nghĩa của việc chẳng có gì để thiền định là không loại bỏ bất cứ thứ gì. Nếu không bám chấp hay bám luyến, bạn phát hiện sự không thể vượt trội. Không có sự loại bỏthoát khỏi một đối tượng là bị loại bỏ, không có người loại bỏ đối tượng vậy làm thế nào có bất cứ gì bị loại bỏ?

Đồi Châu Báu trình bày:

Ôi, Ngữ Vajra, với ý thức rỗng không của Ngài quán sát trí tuệ bổn nguyên của mọi hình tướng. Tất cả hình tướng của mỗi loại xuất hiện để giúp đỡ nó – kỳ lạ thay!

Ý thức của bạn là ý thức rỗng không, vì nó không có bất cứ loại thực chất, bản chất hay cốt tủy nào. Hình tướng được biểu lộ sáng tạo của nhận biết, mà đúng hơn là chúng xuất hiện để trợ giúp nhận biết. Điều này giống như mối tương quan giữa bùn và hoa. Bùn không cản trở hoa mà đúng hơn là giúp hoa nở.

Bất cứ những gì xuất hiện, nó đều bất động từ nền tảng của nó – ha, ha! Với nhận biết rỗng không của bạn quán sát hình tướng hoàn toàn giải thoát. Chúng vĩ đại như sự giải độc của chính chúng. – ngạc nhiên thay! Các phiền não tinh thần giải thoát trên chính chúng – ha ha! Với tánh giác rỗng không của bạn, quán sát bản chất không thực46 đó là giải thoát bổn nguyên. Không cần nỗ lực, kết quả được thành tựungạc nhiên thay! Do biết một điều, tất cả luân hồiniết bàn đều tịnh hóa trong tính bất nhị – ha ha!
Một lần nữa Tánh Giác Tự-Hiện trình bày:

Đừng bám chấp hình tướng. Đừng khẳng định không hiện hữu. Đừng loại bỏ hiện hữu. Đừng thành tựu Phật quả. Đừng thực hành thiền định. Đừng trau dồi cái thấy. Đừng ngưng lại với hình tướng lừa dối. Đừng kinh nghiệm hình tướng thanh tịnh.

Luận thư này cũng trình bày:

Với cái thấy hãy quán sát trí tuệ bổn nguyên tự-hiện. Nó vượt lên đạo đứcđồi bại, thiền định và cái thấy – ngạc nhiên thay! Không lay chuyển nền tảng, bất cứ hành động nào của thân bạn thực hiện, chúng đều thoát khỏi đạo đứcđồi bại, lợi ích và gây hại – ha ha!

Trong cách kinh nghiệm này, bất cứ hành động nào của thân bạn thực hiện, nền tảng vẫn không lay chuyển. Điều này có thể hiểu dưới dạng đại dương. Ngay cả dù mặt biển có thể chuyển động thành sóng nhưng dưới đáy sâu lại không chuyển động. Tương tự, hành động của thân giống như sóng trên mặt biển trong khi bản tánh của nhận biết giống như dưới đáy biển.

Hãy quán sát loại đặc tính hiện diện của sự vật. Các hình tướng này không thay đổi vẻ ngoài hoặc đổi màu sắc của chúng, bất cứ hạnh phúc hay đau khổ nào bạn diễn trong đời sống, trong thực tại chẳng có thay đổi – ha ha! Hãy quán sát trí tuệ bổn nguyên đại rỗng không, đó là suối nguồn của mọi sự. Đa dạng các hoạt động tưởng tượng và hồi ức xuất hiệnngạc nhiên thay! Bất cứ những gì được làm đều giải thoát, không sinh ra, trong sự phát triển bất tận – ha ha!

“Loại hiện diện” này đơn giản ám chỉ bản chất của hiện tượng. Hình tướng không thay đổi theo bất kỳ cách nào về mặt bản tánh thực sự của chúng. Toàn bộ trích dẫn này ám chỉ bản tánh của sự nhận biết. Dĩ nhiên, trên bình diện quy ước hay tương đối, có sự hoan hỷ, phiền muộn và nhiều thay đổi; nhưng bản tánh của nhận biết vượt lên bất cứ sự thay đổi như vậy. Các hoạt động đều xuất hiện tự nhiên; chúng tự-hiện.

Thành Tựu Tối Cao Toàn Khắp trình bày:

Hãy không sao lãng khỏi cái thấy của niệm tưởng giải thoát trong trạng thái của chính chúng; hãy để mặc chúng trong bản chất của chúng không nỗ lực. Mọi sự đều tự-hiện và giải thoát trong chính trạng thái của chúng.

Vì thế, mọi hiện tượng hình tướngý thức chẳng bị điều gì trói buộc và chẳng được giải thoát bởi điều gì. Khi bạn nhận ra chúng xuất hiện từ trạng thái bổn nguyên thoát khỏi ràng buộc và giải thoát ra sao thì bất cứ chỗ nào cũng chẳng có lấy hay bỏ. Do biết rằng bất cứ những gì xuất hiện đều là bản tánh của tự thân thực tại, tách khỏi điều đó thì chẳng có thiền định cao quý nào để thực hành. Một niệm xấu không bị loại bỏ. Bất cứ những gì xuất hiện đều thoát khỏi sự trói buộcgiải thoát. Trí Tuệ Viên Mãn Trình Bày, “sắc tướng thì không trói buộckhông giải thoát... toàn giác là không trói buộckhông giải thoát.” Hãy nhận ra điều đó và được giải thoát. Kết quả giống như đi đến một hòn đảo đầy châu báu và vàng, mọi sự đều giải thoát trong đại rỗng không của tự thân thực tại. sự thiền định bám chấp đối tượng được giải thoát trong chính trạng thái của nó và bạn sẽ thành Phật không có tiến trình chuyển tiếp.

Hãy nhớ rằng tất cả điều này gắn liền với bản tánh của nhận biết. Từ viễn cảnh đó, tất cả trình bày này vẫn đứng vững. Chẳng có thiền định tối ưu nào được thực hành để ngửi, thấy, hay nắm giữ vào điều gì đặc biệt. Một khi bạn đạt được toàn giác cũng giống như trên một hòn đảo chỉ có vàng và ngọc quý, mọi thứ bạn thấy ở đó đều cùng bản chất. Ở đây, trong nhận thức giác ngộ đó, mọi sự bạn thấy xuất hiện đều như tự thân thực tại nên không có hình tướng thông thường.

Có ba cách thành Phật. Cách tốt nhất là do nhận ra ý nghĩa của bốn loại đại giải thoátthành Phật trong chính kiếp sống này, như các kết tập của bạn (uẩn) cùng với các nhiễm ô của nó đều biến mất. Cách trung bình là trở thành Phật trong lúc cận tử bằng phương tiện của các hướng dẫn về chuyển di, hoặc thành Phật trong tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại nhờ năng lực của chân lý biểu lộ thích hợp. Tối thiểuthành Phật nhờ được giải thoát vào một cõi tịnh độ của Nirmanakaya trong tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành, hoặc chọn lựa một nơi sinh tốt, nhận tái sanh, gặp được Giáo Pháptrở thành Phật. Ở đây là những hướng dẫn về con đường tốt nhất để thoát khỏi sự khao khát samadhi trong tiến trình chuyển tiếp của thiền quán ổn định, về việc nhận ra bốn loại đại giải thoáttrở thành một vị Phật. Đó là những hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của thiền quán ổn định được gọi là “sự giải thoát tự nhiên của nhận biết.” Samaya.

Đã niêm, đã niêm, đã niêm.

Để thành tựu Phật quả trong “cách tốt nhất” là đạt được thân cầu vồng, đặc biệt là “thân cầu vồng đại chuyển di,” trong đó bạn hoàn toàn chuyển hóa ngay cả việc chẳng để lại móng tay sau khi chết. Năng lực của chân lý trở thành hiển nhiên bằng phương tiện của hai giai đoạn phát triểnhoàn thiện. Chìa khóa để thoát khỏi sự khao khát samadhi là giải thoát bám chấp. Vị đệ tử tốt nhất là một “người làm ngay lập tức”, là người có được nhận biết ngay khi bản tánh của sự nhận biết được chỉ ra. Loại người nào là người làm ngay lập tức hoặc là người sẽ đạt thân cầu vồng của đại chuyển di? Đó là người trải qua tiến trình nhiều kiếp, trước tiên đã rèn luyện theo sutra (kinh điển) rồi sau đó theo tantra (mật tông) và cuối cùng theo Đại Viên Mãn. Nhờ phương tiện rèn luyện lâu dài từ kiếp này sang kiếp khác, người như vậy đã chín muồi tâm linh và sẵn sàng đi đến hoàn toàn tỉnh thức.

Người này giống như một garuda (kim xí điểu) lập tức sẵn sàng bay ngay khi mới nở, trái với các loài chim khác phải phát triển và tập luyện đôi cánh trước khi chúng rời khỏi tổ. Vì thế, người làm ngay lập tức cũng giống như kim xí điểu trong khi phần lớn người bình thường chúng ta giống như các loài chim thông thường phải thực hành dần dần. Phải rèn luyện trong sáu hoàn thiện: bố thí, trì giới, v.v.. Nếu hành giả đi theo toàn bộ lộ trình của con đường qua ba vô số a tăng kỳ cuối cùng lên tới thành tựu tột bậc trong giải thoát viên mãn. Tất cả chúng ta ở đây phải rèn luyện dần dần, chúng ta cần tham gia trong rèn luyệnthực hành với thân, khẩu, ý. Theo cách này dòng tâm thức chúng ta sẽ dần dần chín muồi.

Có những luận thư phi thường với các giáo lý uyên thâm về Đại Viên Mãn như là Bảy Kho Tàng Của Longchen Rabjampa, và có những lama phi thường đã đến đây để cống hiến các giáo lý này. Nhờ tiếp nhận các giáo lý như vậy, nhờ đọc các quyển sách từ tác phẩm chính yếu ngày càng phát triển về Đại Viên Mãn được phiên dịch sang ngôn ngữ phương Tây, và nhờ thiền định dần dần, cái thấy của Đại Viên Mãn sẽ được nhận biết.

Những lợi ích của việc tịnh hóa tâm thức phiền não của chúng ta như tham, sân và ảo tưởng là gì? Lợi ích trước tiênchúng ta sẽ không bao giờ quay trở lại chu trình sinh tử này. Sự giải thoát của chúng ta sẽ không thể thay đổi. Người ta thường nói chúng ta hiện nay là chủ thể của mara, quỷ vương của các kết tập tâm sinh lý của sắc tướng, cảm nhận v.v... Khi tâm chúng ta được tịnh hóa, sẽ chiến thắng các kết tập của mara. Chúng ta thoát khỏi đau khổ và các kết tập. Kết quả của việc tịnh hóa tâm thức phiền nãochúng ta sẽ thấy mọi giáo lý và các vị thầy tâm linh của chúng ta như các bậc hoàn toàn thanh tịnh. Niềm tin của chúng ta trong Giáo Pháp sẽ tăng trưởng to lớn. Chúng ta sẽ thực sự thấy vị thầy tâm linh của mình là một vị Phật. Cái thấy thanh tịnh này không phải là điều gì đó giả tạo hay gian khó. Kết quả khác là khi chúng ta tham gia với chúng sanh khắp thế gianquán sát họ nỗ lựchạnh phúc biết bao nhưng không tìm thấy, họ mong ước thoát khỏi đau khổ và không tìm thấy nó ra sao và phần đông họ tiếp tục gieo trồng hạt giống đau khổ và kết quả của vụ mùa là đau buồn – chúng ta sẽ kinh nghiệm lòng bi vô lượng cho tất cả chúng sanh. Có một số biểu hiện chứng tỏ như một kết quả của việc tịnh hóa dòng tâm thức phiền não tinh thần của chúng ta.

Trái lại, giờ đây khi tâm chúng ta vẫn còn là chủ thể của rất nhiều phiền não tinh thần, chúng ta dao động giữa bám luyến và thù ghét, gây hấn, cạnh tranh v.v... Lòng bi đích thực không phát sinh và chúng ta tiếp tục tham gia trong các hoạt động bất thiện nhiều lần. Tới mức độ như chúng ta tiếp tục theo đuổi khuynh hướng bất thiện, chúng ta giống như Angulimala, người xâu các ngón tay của tất cả những người bị ông ta giết thành chuỗi. Nếu tiếp tục trong những khuynh hướng bất thiện thì giáo lý Đại Viên Mãn sẽ chẳng lợi ích gì cho chúng ta.

Người có ít hiểu biết về Phật giáo có thể tiếp nhận giáo lý này, chừng nào họ còn làm như vậy với mục đích thực hành. Nếu động cơ của bạn đơn giản là tò mò thì giáo lý này sẽ chuyển thành chất độc với bạn. Để minh họa cho điều này, có lần có hai người đến một vị lama để được chỉ dẫn tâm linh. Vị lama ban cho họ giáo lý về Đại Viên Mãn. Một người hiểu được âm thanh của giáo lýnhập thất để áp dụng giáo lý vào thực hành. Người kia nghe được giáo lý Đại Viên Mãn rồi bỏ đi với ấn tượng rằng vị lama đã nói không có khác biệt giữa đạo đứcđồi bại. Nghĩ rằng không cần phải từ bỏ hay đi theo bất cứ gì nên ông ta hoàn toàn không kềm chế, cư xử của ông ta trở nên bất thiện không thể kềm chế. Lỗi lầm của ông ta là suy nghĩ rằng không có khác biệt giữa điều thiện và bất thiện. Sự việc ông ta có nhận thức hoàn toàn sai lầm về giáo lý là nghiệp của ông; kết quả của điều đó là ông tham gia vào tất cả mười hành động bất thiện và các thứ khác. Cuối cùng hai người này gặp lại nhau và so sánh các nhận thức về việc họ đã làm liên quan đến những gì họ nghĩ là đầy đủ với hướng dẫn của vị lama. Họ thấy quan điểm của họ hoàn toàn không tương thích với nhau nên quyết định trở lại vị lama để tìm ra chân lý. Họ đến vị lama và giải thích tình hình. Vị lama nói người đi nhập thất là đúng và người hành động không kềm chế là sai. Vào lúc đó, người bị nói là hoàn toàn sai trở nên rất giận, ông ta tự bào chữa là cùng nhận được giáo lý như người kia, và ông rất siêng năng mà giờ đây lại nói ông ta làm mọi thứ đều sai nên ông ta bỏ đi. Cuối cùng, ông ta tái sanh làm loài vật. Vị hành giả kia trở thành Phật.

Lời răn dạy của câu chuyệnlời khuyên của tôi là bạn nên thực sự thực hành, và nên nhớ rằng hành động của bạn sẽ có nghiệp quả tương ứng. Điều quan trọng là vô cùng chu đáo về hành động của chúng ta. Giống như người thứ nhất trong câu chuyện, chúng ta cần chu toàn về hành vi của mình. Điều quan trọng là thật sự thực hành, thực sự trau dồi lòng bi; và điều rất quan trọng là chúng ta không phạm sai lầm. Việc tôi tiếp tục trở lại chủ đề này không vì tôi nghĩ các bạn khờ dại khiến tôi phải tự lập lại. Thật ra tôi lập lại điều này với hy vọng rằng thực hành của bạn sẽ tiến xa hơn. Lý do cho việc nhấn mạnh lại những điểm này là từ kinh nghiệm của cá nhân tôi. Trước đây đã lâu khi tôi giảng dạy ở Berkeley, tôi giảng về bản tánh của karma, sự bất lợi của chu trình sinh tử, v.v... Sau một lúc các đệ tử yêu cầu tôi ngưng giảng loại chủ đề này vì họ không muốn nghe nhiều về samsara. Tôi nghĩ, “Tốt thôi, đây là một đất nước tự do. Nếu họ không muốn nghe, thế là xong.” Tuy nhiên, khi tôi tiếp tục theo dõi, một số đệ tử vẫn không hiểu. Đừng cố đưa lý do để che đậy những chủ đề không thích, hãy đối mặt với chúng. Đó là cách phản ứng tốt nhất.



6

Giải Thoát Tự Nhiên Của Sự Quan Tâm Về Chuyển Di:
Các Hướng Dẫn Dựa Trên Kinh Nghiệm Về
Tiến Trình Chuyển Tiếp Của Cận Tử

Trong chủ đề phổ biến thứ tư, tiến trình chuyển tiếp của cận tử (các hướng dẫn thiết thực giống như việc gửi đi mệnh lệnh đã đóng dấu của nhà vua), sự giải thoát tự nhiên của quan tâm về chuyển di đã được dạy. Đó là hướng dẫn thiết thực để trở thành một vị Phật vào lúc chết cho người nào sẽ chết có tâm thức bình thường, cho người không rèn luyện trong chu trình trước đó của Xuyên Thấu, hay trong thân huyễn, giấc mộngthanh tịnh quang, người chưa nhận ra bốn loại đại giải thoát và nhất là những người đã nhận được hướng dẫn này nhưng không có thời gian để thiền định. Có những nhân viên nhà nước, chủ nhà và người rối trí đã nhận được hướng dẫn thiết thực uyên thâm nhưng không áp dụng vào thực hành, đã bỏ rơi các hướng dẫn này trên giấy và chỉ nghe Giáo Pháp. Sự giải thoát tự nhiên của quan tâm về chuyển di này là một phương pháp quan trọng, hùng mạnh để thành Phật không cần thiền định.

Chúng ta không cần tìm kiếm “chủ nhà” và “người sao lãng” ở đâu khác. Giáo lý này là của chúng ta. Chúng ta sao lãng vì kẹt trong tám mối quan tâm thế gian và chỉ hiểu biết một cách khái niệm về Giáo Pháp. Chúng ta bỏ rơi giáo lý trên giấy hay băng ghi âm và sau đó quên đi. Ở Tây Tạng, một cách truyền thống giáo lý chắc chắn không được ghi chép và nhìn chung người ta cũng không ghi chú. Việc ghi chép giáo lý để thuận tiện cho thực hành của mình là tốt; nhưng nếu không biết cách áp dụng giáo lý vào thực hành, thì các ghi chép như vậy chỉ trở thành kho trữ. Do vậy, giáo lý về sự quan tâm đến chuyển di này là rất quan trọng.

Mỗi người sinh ra đều chắc chắn sẽ chết, và không một ai nói được khi nào cái chết sẽ xảy đến, nhưng vì nó sẽ sớm xảy ra, nên mọi lúc hãy lắng nghe và chú tâm đến cái chết.

Ngay khi sinh ra, bạn đã bị cái chết ghi dấu. Chẳng còn nghi ngờ gì về cái chết. Có cái gì hoàn toàn chắc chắn khi nào cái chết sẽ xảy ra không? Sự thực là chúng ta chắc chắn sẽ chết và hoàn toàn chắc chắnchúng ta không biết khi nào sẽ chết. Nhìn chung, chúng ta sống như thể có hàng ngàn năm để đi, như thể cái chết là một viễn cảnh rất và rất xa xôi. Trong lúc đó thậm chí chúng ta có thể tự tin rằng nếu thực sự chết chúng ta sẽ được sinh vào một cõi tịnh độ hoặc cái chết sẽ là điều gì đó hoàn toàn ngẫu nhiên giống như việc đi đến một cánh cửa kế tiếp hay giống như đi từ California đến Oregon. Nhưng nó không giống như vậy.

Hãy khảo sát các dấu hiệu xa về cái chết, dấu hiệu gần của cái chết, dấu hiệu không chắc chắn và dấu hiệu chắc chắn của cái chết phù hợp với sự giải thoát tự nhiên của các dấu hiệu: những dấu hiệu của cái chết.

Về mặt “các dấu hiệu của cái chết” – xa, gần, v.v... – chúng ta thực sự không cần một thầy bói hay một người đặc biệt nào biết rõ về nhiều dấu hiệu khác nhau của cái chết. Chẳng cần thiết phải như vậy. Chúng ta có thể chỉ nhìn vào chính tiến trình của tuổi tác. Nếu chú ý đến tiến trình của tuổi tác thì đó là một dấu hiệu của cái chết. Khi chúng ta già, chúng ta phải biết rằng cái chết sắp xảy đến; đây là dấu hiệu gần của cái chết. Bệnh tật là một dấu hiệu của cái chết. Đặc biệt, khi chúng ta già, chúng ta có thể biết rằng một chân của mình đã bước qua ngưỡng cửa của cái chết. Chúng ta không cần sự chuyên nghiệp, tất cả điều chúng ta cần là sự chân thật.

Nghiêm chỉnh áp dụng phương tiện lừa gạt cái chết phù hợp với các dấu hiệu của cái chết. Nếu bạn thực hiện sự chuyển di khi các dấu hiệu của cái chết chưa hoàn tất hay không áp dụng phương tiện đánh lừa cái chết, điều này gây ra hành động sai lầm của việc giết một Bổn Tôn, và bạn không để ý đến sự bất thiện của việc phạm tội tự tử. Vì điều này thậm chí là việc làm còn xấu hơn quả báo lập tức, bằng mọi phương tiện thực hiện thông thường hay đặc biệt của phương tiện lừa gạt cái chết ba lần hay nhiều hơn phù hợp với Sự Giải Thoát Tự Nhiên Của Sợ Hãi: Lừa Gạt Cái Chết. Nếu phương tiện của lừa gạt cái chết được thực hiện ba lần mà dấu hiệu của cái chết không thay đổi thì cái chết là chắc chắn, do vậy hãy bắt đầu chuẩn bị cho sự chuyển di.

“Lừa gạt cái chết” có nghĩa làm điều gì đó ngăn cản sự nguy hiểm của cái chết sắp xảy ra, nên nó có nghĩa là cứu một mạng sống. Hãy áp dụng các biện pháp lừa gạt cái chết khi bạn thấy các dấu hiệu gần hoăïc xa của cái chết. Cách bạn lừa gạt cái chết là nhờ tham gia vào thực hành Giáo Pháp để tăng tuổi thọ bạn. Các thực hành như vậy bao gồm việc phóng sanh cá hay loài vật khác sắp bị giết và đó cũng là các thực hành Giáo Pháp khác được thực hiện để trường thọ.

Có nói rằng thậm chí nếu bạn là một người đã vi phạm năm hành động quả báo lập tức (ngũ vô gián tội), với sự chuyển di vào lúc thích hợp bạn sẽ tái sanh trong trạng thái của cuộc sống thuận lợi hoặc được giải thoát, nên lợi ích của nó rất to lớn. Về sự chuyển di có hai phần: rèn luyệnáp dụng.
Nếu bạn thực hành trung thực giáo lý về chuyển di này cùng với bốn năng lực cứu chữa và sự thực hành tịnh hóa Vajrasattva, thì ngay cả nếu bạn đã vi phạm những tội ác khủng khiếp đều có thể được tịnh hóa và bạn sẽ được tái sanh thuận lợi hoặc đạt được giải thoát.

RÈN LUYỆN

Như phép loại suy, một người đàn ông nghi ngờ kẻ thù bên ngoài của ông ta nên mặc áo giáp, chuẩn bị cung tên và luyện tập trước khi kẻ thù hiện diện để bất cứ khi nào kẻ thù xuất hiện, ông ta sẵn sàng chiến đấu. Tương tự, vì không biết khi nào bạn sẽ chết nên hãy rèn luyện ngay bây giờ, vào lúc bạn chết nó là điều quyết định để bạn sẵn sàng áp dụng hướng dẫn này vào hành động.

Sự thực hành chuyển di có thể làm vào lúc được dạy hoặc bạn có thể tham gia khi được hướng dẫn đặc biệt về chuyển di. Vì trong hướng dẫn lúc khởi đầu là suy niệm về sự khó được cuộc sống làm người với nhàn rỗi, thuận lợi và sự đau khổ của chu trình sinh tử. Nhờ làm như vậy sẽ không còn ảo tưởng với sinh tử và phát sinh quan điểm mong ước thoát khỏi nó. Trên nền tảng đó hãy nghiêm chỉnh nhớ lại rằng dù bạn đã có được điều gì đó khó có, nó sẽ chẳng tồn tại lâu vì bạn sẽ chết.

Sau đó ngồi xếp bằng theo tư thế bodhisattva trên một đệm thoải mái và khóa lỗ mở luân hồi. Thân bạn thẳng đứng che hai đầu gối bằng hai bàn tay trong ấn xúc địa và duỗi hai vai. Kế tiếp quán tưởng chữ HUM màu xanh dương đậm tỏa sáng tại ngực bạn và một bản sao của chữ HUM đi xuống ống hậu môn và đóng hoàn toàn lỗ mở của địa ngục. Một bản sao khác xuất hiện và đi đến lỗ mở của sự trở thành,47 nó đóng lại lỗ mở của ngạ quỷ. Tương tự, quán tưởng một chữ HUM đóng lại lỗ mở súc sinh trong ống tiểu và các chữ HUM tỏa sáng tại rốn, miệng, hai lỗ mũi, sau đó hai mắt và hai lỗ tai, mỗi lỗ hoàn toàn được đóng kín. Hãy quán tưởng chữ HAM màu trắng lộn ngược tại lộ mở Brhama trên đỉnh đầu bạn và đóng nó lại.

Chính giữa thân bạn hãy quán tưởng kinh mạch trung ương thẳng đứng giống như ruột của con cừu thịt bơm căng, với đầu dưới của kinh xuống tới dưới rốn và đầu trên lên tới lỗ mở Brhama (lỗ mở Phạm Thiên – giữa đỉnh đầu tương ứng với huyệt Bách Hội). Kinh mạch có màu trắng óng ánh vàng, nó đi thẳng qua giữa thân. Tại chỗ cuối ở dưới rốn nơi ba kinh mạch hội tụ là một bindu màu trắng rực rỡ của bản tánh sự nhận biết. Nó trong suốtrõ ràng, nhịp đập cùng với hơi thởâ và rung rinh như thể vừa mới đứng dậy. Trong không gian trên đỉnh đầu bạn, hãy quán tưởng vị thầy tâm linh của bạn đang hiện diện với vẻ mặt mỉm cười của Phật Vajradhara. Kéo năng lực thân thể của bạn lên trên và tập trung nó, đóng kín hậu môn một cách mạnh mẽ, trợn mắt nhìn lên trên, ép lưỡi lên vòm họng và kết ấn kim cang quyền (ngón tay cái đặt dưới gốc ngón tay đeo nhẫn rồi nắm chặt bốn ngón tay lại). Trong lúc kéo mạnh năng lực bên trong của bạn từ dưới rốn lên trên, miệng nói “HIG KA, HIG KA”. Tùy theo năng lượng sự sống ở dưới, bindu được kéo lên một cách tự động qua kinh mạch trung ương. Do vậy, với bảy HIG KA nó được kéo lên rốn, sau đó với bảy HIG KA lên đến ngực, rồi bảy lần nũa tới cổ họng, kế tiếp bảy lần nữa đến điểm giữa hai chân mày, rồi với bảy HIG KA nó lên tới chữ HAM tại lỗ mở Brhama. Hãy quán tưởng bindu đi xuống trở lại, lướt nhẹ nhàng xuống dưới rốn, tại đó nó được nghỉ. Hãy buông lỏng một chút với cảm giác đó.

Dấu hiệu thành công trong chuyển di nhờ làm bảy lần như vậy bao gồm sự kiện một chất nhờn ấm chảy ra tại lỗ mở Brahma, có cảm giác châm chích, ngứa ngáy, tê cóng, sưng phồng và mềm đi trên đỉnh đầu và sự tiết huyết tương và máu tại lỗ mở Brahma. Vào lúc đó, vị thầy tâm linh nên cẩn thận kiểm tra lỗ mở Brahma. Khi chọc với một lông công hay cọng cỏ nó sẽ ngập hoàn toàn, điều này chứng tỏ bạn đã rèn luyện trong chuyển di. Tuy nhiên, nếu không ngưng ở đó mà tiếp tục thực hành sẽ làm giảm tuổi thọ của bạn; vậy hãy ngừng sự quán tưởng và adhisara. Xoa bóp đỉnh đầu của bạn với bơ hay dầu ngũ cốc.

Nếu không xảy ra dấu hiệu theo cách đó, nếu bạn cố gắng kéo mạnh bindu nhiều lần, dấu hiệu sẽ xảy ra. Nếu nó không đến lỗ mở Brahma ngay cả dù đỉnh đầu bạn đã phồng lên, nhức đầu v.v... Vì thế, hãy quán tưởng chữ HAM tại lỗ mở Brahma và bindu xuất ra từ lỗ mở Brahma không bị cản trở và chạm vào chân vị thầy tâm linh của bạn. Sau đó quán tưởngquay trở lại xuống lỗ mở Brahma rồi đi xuống nghỉ ở dưới rốn. Do làm như vậy bảy lần lỗ mở Brahma sẽ mở ra. Máu hay bạch huyết sẽ chắc chắn tiết ra và một cọng cỏ có thể nhét vào lỗ mở. Kế tiếp nếu lỗ mở Brahma không được đóng lại với chữ HAM thì bạn sẽ bị giảm thọ, nên việc đóng nó lại là điều quan trọng. Từ giờ trở đi điều quan trọng là bạn không niệm HIG KA hay thực hiện adhisara, mà chỉ thực hành di chuyển bindu qua kinh mạch trung ương và đóng lỗ mở Brahma với chữ HAM. Đó là sự rèn luyện trong chuyển di.

Vì HIG KA là mantra để kết thúc cuộc sống,49[49] hãy kéo bindu lên cho đến khi bạn thành công trong chuyển di, nhưng sau khi thành công đừng kéo nó lên với HIG KA. Nếu nỗ lực mạnh mẽ thực hiện chuyển di quá nhiều bạn sẽ luôn gần như bị hôn mê, ý thức sẽ bị ép lên trên và bạn sẽ bị chóng mặt v.v... Nếu xảy ra điều đó hãy đấm mạnh vào lòng hai bàn chân bằng nắm tay của bạn, xoa bóp trên đỉnh đầu và quán tưởng mạnh mẽ một stupa (bảo tháp) bằng vàng, nặng trên mỗi bàn chân bạn. Nhờ làm vậy nhiều lần các triệu chứng này sẽ an định. Phần lớn điểm then chốtsự quán sát trong thực hành.

Sự bàn luận trước đây liên quan đến “rèn luyện về chuyển di” được thực hành tốt nhất khi bạn không bị bệnh và trước khi các dấu hiệu của cái chết xảy ra. Samaya.

Tây Tạng khi người ta cảm thấy họ chẳng mấy chốc sẽ chết thì việc cho đi mọi thứ của họ là điều rất phổ biến. Những người giàu có bắt đầu phân phát tất cả tài sản của họ cho người khác và thậm chí những người nghèo cũng cúng dường mọi thứ lên Tam Bảo. Bất kể đất đai, nhà cửa, gia súc và các sở hữu khác mà họ có sẽ được dâng cúng cho tặng trong những tháng và tuần lễ cuối cùng trước khi họ chết. Ngay cả các tu sĩ thường có chỗ ở trong tu viện họ cũng sẽ cho đi trước khi chết. Nếu họ sắp chết, của cải sẽ chẳng làm được điều tốt nào.

Khi người Tây Tạng đến Ấn Độ như dân tị nạn phần lớn đều kiệt sức nghèo khó. Nhiều tu viện tị nạn tạm thời được đặt ở Buxa phía đông Ấn Độ, khi họ thấy cái chết sắp xảy ra, họ muốn cho đi một ít gì họ có để làm một cúng dường trà quan trọng cho các vị tu sĩ khác. Mục đích của điều này là chiến thắng mọi bám luyến vào của cải vật chất. Các vị tu sĩ sắp chết thường không cho họ hàng mà thường cho các tu sĩ khác, Tam Bảo, vị thầy tâm linh của họ v.v... Cho đi mọi thứ làm giảm bám luyến của hành giả, làm dễ giải thoát khỏi sinh tử.

Đây là lợi ích hiển nhiên của hành động thiện về bố thí trước khi bạn chết. Tuy vậy, nếu chưa làm được thì sau khi bạn chết người khác có thể thực hiện công đức nhân danh bạn, nhưng rất khó có lợi ích thật sự. Lý dodòng tâm thức của người chết đang lang thang đây đó trong samsara và dòng tâm thức của người đang thực hành sùng kính có thể bị sao lãng. Kết quả là có hai người lang thang và người này làm lợi ích cho người kia là khó có. Ngoài ra ý thức của người đã chết đang lang thang đây đó cũng có khả năng thấu suốt. Họ có thể thấy tâm của người đang tụng niệm nghi lễ cho lợi ích của người chết. Nếu ý thức của họ thấy người đang tụng niệm sùng kính mà tâm họ lại đi rông khắp nơi thì họ có thể phản ứng một cách tiêu cực. Người đã chết có thể mất lòng tin và kết quả là họ có thể đi xuống cõi thấp.

Chỉ có lợi ích trong việc thực hiện công đức trước khi bạn chết. Chẳng có bất cứ thiệt thòi nào và nó chỉ giúp ích bạn. Có thể có một vị lama rất vĩ đại làm lợi ích cho một người đã chết nhưng vẫn khó khăn. Hãy nhìn vào chính bạn và khảo sát điều này dựa trên kinh nghiệm. Bạn có lợi ích từ vị thầy tâm linh của mình trong lúc đang nằm mộng hay không? Nếu không, thì sẽ hoàn toàn khó khăn sau khi bạn chết và trong tiến trình chuyển tiếp. Vậy việc cống hiến nghiêm chỉnh chính bạn trong đạo đức là điều tốt nhất là công đức bố thí ngay trước khi bạn chết. Nếu bạn có thể làm điều đó thì thật tuyệt vời.

SỰ ÁP DỤNG

Trước tiên, động cơ là rất quan trọng, hãy trau dồi động cơ Mahayana, Tâm Linh của Tỉnh Thức. Đừng nghĩ giáo lý về chuyển di tâm thức là việc gì đó mà bỏ qua. Trái lại, thực hành này có thể hoạt động như một nguyên nhân cho trạng thái toàn giác cho chính bạn và người khác.

Nếu các dấu hiệu của cái chết đã đầy đủ và chúng không biến mất ngay cả khi đã thực hiện phương tiện lừa gạt cái chết được ba lần, vào lúc đó tâm thức được chuyển di. Điều này có bốn phần: sự chuyển di của Dharmakaya, Sambhogakaya, Nirmanakaya và sự chuyển di thông thường.

Điều này đòi hỏi phải xem xét các dấu hiệu của lúc gần chết, và nếu bạn tham gia trong thực hành kéo dài sinh mạng mà vẫn không hoạt động ngay cả sau khi đã cố làm ba lần, thì bạn sắp chết. Bây giờ là lúc áp dụng giáo lý này vào hành động. Trong truyền thống Tây Tạng không có hệ thống hỗ trợ cuộc sống và không có các thủ tục bệnh viện đặc biệt nào để duy trì cuộc sống của người sắp chết. Khi người ta thấy gần chết họ sẽ áp dụng thực hành này.

Sự Chuyển Di Dharmakaya

Than ôi, giờ đây khi tiến trình chuyển tiếp của cận tử sắp xảy đến với tôi, tôi phải bỏ lại bám luyến, tham dục, và bám chấp mọi thứ và tôi phải dấn thân không dao động vào kinh nghiệm rõ ràng của các hướng dẫn thiết thực. Giác tánh bẩm sinh chính tôi sẽ được chuyển di lên phạm vi của không gian.

Cho đến nay, thậm chí chúng ta chưa thực hiện được tính tư lợi của chính mình huống chi quan tâm đến người khác, vì rơi vào bám luyến, thèm khát và bám chấp mọi kiểu sự vật. Chúng ta có thể đã tiếp nhận các hướng dẫn cốt tủy của Giáo Pháp nhưng lại thực hiện quá nhẹ nhàng. Mặc dù chúng ta có thể đã thọ quy y nhưng việc thọ quy ythể không thực sự hay không có ý nghĩa với chúng ta. Bên lề cái chết nó là điều bắt buộc để từ bỏ các bám luyến của chúng tađi vào kinh nghiệm rõ ràng của các hướng dẫn thiết thực về chuyển di.

Mắc bệnh tật chết người hoặc thấy các dấu hiệu đầy đủ của cái chết là biểu hiện của tiến trình chuyển tiếp của cận tử. Các hướng dẫn thiết thực về tiến trình chuyển tiếp lúc cận tử giống như một thiếu nữ đáng yêu nhìn vào gương để thấy những gì không rõ ràng trở nên rõ ràng. Ở đây có hai phần: có người khác gây ra sự quán tưởng và chính bạn tạo ra sự quán tưởng.

Nếu bạn biết hệ thống xa lộ trong một vùng nào đó và đột nhiên kẻ thù bạn lộ diện, bạn sẽ biết cách đào thoát ra sao. Tương tự, những gì không rõ ràng ở đây trở nên rõ ràng qua giáo lý này. Tốt nhất là bạn có thể tự tạo quán tưởng cho thực hành chính mình, còn nếu không thể thì có thể nhờ người khác giúp đỡ tạo quán tưởng.

Có người khác tạo quán tưởng. Chính bản thân bạn có thể biết các dấu hiệu đầy đủ của cái chết, hoặc ngay cả nếu không thể biết thì thầy thuốc và điều dưỡng có thể biết điều này tùy theo triệu chứng của bạn. Nếu sự chú tâm của bạn rõ ràng, bạn cũng có thể khảo sát các dấu hiệu cận kề của cái chết; và nếu bạn sắp chết và nếu vị thầy tâm linh của bạn sống gần đó hãy mời Ngài đến cùng tham gia với bạn.

Tây Tạng, các lama đôi lúc trực giác được một người sẽ chết trong khoảng thời gian nào đó. Với kiến thức đó người ta có thể chuẩn bị phù hợp. Ở Tây Tạng việc mời vị thầy tâm linh của người đó đến trợ giúp qua sự chuyển di lúc cận tử cũng phổ biến.

Cho đi bất cứ những gì bạn có đến vị thầy tâm linh đầu tiên của bạn, thậm chí không có một khoảnh khắc bám luyến nào. Nếu bám luyến dù một vật nhỏ nhất sẽ ném bạn vào trạng thái khốn cùng của sinh tử, như đã trình bày trong Chuyện Kể Về Ba Tai Họa Lớn Của Tu Sĩ. Ngay cả nếu không có quyền cho trong thực tế, hãy giải thoát một cách tâm thức bằng sự cúng dường trong tâm bạn. Đặc biệt đừng để vật gì ở gần làm khởi lên bám luyến hay thù hận. Đó là ý nghĩa của nhóm từ “Tôi phải rũ bỏ bám luyến, thèm khát và bám chấp bất cứ thứ gì của chính tôi.” Vào lúc đó hãy phát sinh sự từ bỏ sạch sẽ như đã trình bày trong Tantra Của Sự Hợp Nhất Mặt TrờiMặt Trăng, “Với hoan hỷ và cho tặng, làm vui lòng vị thầy tâm linh của bạn, tăng đoàn và các đối tượng đặc biệt để tích lũy công đức.”50[50] 

Điểm trọng yếu ở đây là thậm chí không có một khoảnh khắc bám luyến nào vì bám luyến và chấp bám là các nguyên tố ban đầu làm kéo dài mãi mãi những gì đang xảy ra của chúng ta trong samsara. Không chỉ tự thân sự bám luyến làm bất lợi vào lúc chết, mà nếu có bám luyến thì bạn cũng đã châm mồi cho thù hận. Chẳng hạn, khi bạn gần chết nếu thấy người mà bạn ghét lấy của cải của bạn, bạn có thể thấy rất tức giận và thất vọng vì bạn chẳng thể làm được gì, và điều đó dẫn đến thù hận. Chết đi với trạng thái tâm thức thù hận là rất có hại, nên điều quan trọng là phải thoát khỏi bám luyến và thù hận. Tối thiểu vào lúc chết hãy buông xả, thậm chí nếu bạn không thể hoàn toàn trừ tiệt bám luyến trước đó. Ít nhất hãy tạm thời thoát khỏi nó trong tiến trình cận tử. Nếu bạn có thể hoàn toàn trừ tiệt bám luyến thi thật tuyệt với vì nó sẽ dẫn đến sự giải thoát chính bạn.

Ví dụ nếu bạn bị tai nạn xe cộ và thấy mình bị chấn thương nghiêm trọng, bạn không thể viết di chúc mới hay tài sản của bạn với hơi thở sắp chết của mình. Những gì có thể làm là hãy cho đi trong tâm thức mọi thứ bạn có, bao gồm không chỉ của cải vật chất mà còn họ hàngmọi người chung quanh bạn. Hãy buông bỏ bám luyến mọi thứ. Một cái chết đột ngột như vậy cũng có thể xảy ra nếu bạn ở trong lực lượng vũ trang và bị giết trong chiến đấu. Nếu bạn chết ở nước ngoài, việc cho đi mọi tài sản của bạn trong thực tại là không thực tế. Tuy vậy bạn có thể cho đi trong tâm thức và đó là những gì nên làm.

Khi bạn sắp chết điều quan trọng là đừng để bất cứ thứ gì trong tầm mắt làm gợi lên sự bám luyến. Chẳng hạn đừng để người mà bạn bám luyến nhiều ở gần quanh khi bạn chết. Nếu có người mà bạn không thích hoặc oán giận v.v... thì vào lúc đó họ nên tránh xa. Bạn bè hay người khác mà bạn ít thương hay ghét nên giúp bạn. Nếu thấy thứ gì mà bạn nhiều bám luyến họ có thể dời thứ đó đi để tạo môi trường thực sự trung hòa không kích động sự bám luyến hay thù ghét cho bạn. Trong thực tế việc ở cùng với những đồ vật này mà bạn thiếu tự chủ là điều không tốt, nên đây là một phương pháp bảo vệ bạn.

Kế tiếp, một khi vị thầy tâm linh của bạn đã đến nếu trước đó giới nguyện của bạn bị sứt mẻ hãy sám hốisửa chữa lại bất cứ vi phạm nào, nếu bạn chưa có hứa nguyện hãy xây dựng một nền tảng bằng cách thọ quy y và nhận hứa nguyện.

Nếu vi phạm bất cứ hứa nguyện tantric nào liên quan đến vị thầy tâm linh của bạn hoặc bất kỳ người nào khác, thì bây giờ là lúc để sám hốisửa chữa. Ngoài ra nếu bạn đã nhận bất kỳ giới luật hoặc hứa nguyện nào khác như giới luật tu viện của người mới xuất gia (sa di giới), cụ túc giới (tỳ kheo giới), bồ tát giới hay giới luật và hứa nguyện tantric, bạn nên sám hối bất kỳ sự vi phạm nào và sửa chữa chúng.

Kế tiếp, nếu trước đó bạn đã rèn luyện chuyển di, thân bạn trong tư thế thiền định và có vị thầy tâm linh dẫn dắt bạn trong quán tưởng chuyển di trước đó nhiều lần. Biểu hiệu của sự thành công là ngay khi bạn ngừng thở, đỉnh đầu sưng phồng lên hoặc chắc chắn sẽ có biểu hiện thành công như máu hay bạch huyết.

Các biểu hiện thành công chuyển di bao gồm không chỉ đỉnh đầu phồng lên mà còn một cảm giác châm chích trên đỉnh đầu và tóc trên đỉnh đầu có thể nhổ ra dễ dàng không cần dùng sức hoặc tóc có thể rụng. Nếu có những dấu hiệu này bạn chẳng cần làm gì hơn, vì sự chuyển di đã thành công.

Nếu các biểu hiện này xảy ra, không cần thực hiện sự quán tưởng về chuyển di, còn nếu không có, vị thầy tâm linh nên để môi ngài sát lỗ tai bạn hoặc dùng một khúc tre hay một tờ giấy cuộn lại đặt vào lỗ tai bạn. Sau đó Ngài sẽ dẫn dắt bạn trong việc quán tưởng phù hợp với Sự Giải Thoát Qua Việc Nghe Trong Tiến Trình Chuyển Tiếp, bằng việc đọc chậm rãi vào tai bạn với những lời khởi đầu của tiến trình chuyển tiếp của thanh tịnh quang của tự thân thực tại lần lượt qua tiến trình chuyển tiếp. Nhờ làm như vậy chắc chắn sẽ thành công.

Vị thầy tâm linh có thể sử dụng bất cứ thứ gì như một mảnh giấy cuộn tròn lại hay một ống dẫn để truyền tiếng nói vào tai người sắp chết. Vào lúc này việc đọc Sự Giải Thoát Qua Việc Nghe Trong Tiến Trình Chuyển Tiếp là phổ biến, cũng được biết là Tạng Thư Sống Chết. Điều rất quan trọng là người đọc phải nói thật chậm rãi và rõ ràng để người sắp chết có thể nghe được. Nếu bạn nói quá nhanh có thể gây nhầm lẫn và khích động cho người sắp chết. Trong thực tế, một vật gì đó như ống dẫn có thể không cần thiết khi người sắp chết có thể nghe được rõ ràng giọng nói của bạn. Trái lại, bạn có thể nói lớn hơn bình thường để người sắp chết có thể nghe được giọng nói của bạn rõ ràng.

Như một phép loại suy, nếu vị vua gửi thông điệp cho người đáng tin cậy, việc người đó quên là không thể có; mà nếu người đó quên thì sự trừng phạt của nhà vua sẽ theo sau. Do vậy, vì sợ hãi ông ta bảo đảm thông điệp phải được nhận. Tương tự, trong trường hợp này vì sợ trạng thái khốn khổ trong sinh tử hãy nhớ chắc trong tâm các hướng dẫn thiết thực và bạn sẽ chắc chắn phát hiện tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại.
Nếu vị thầy tâm linh của bạn không hiện diện, hãy để người bạn tâm linh có cùng dòng truyền hướng dẫn bạn trong quán tưởng, hoặc một trong các huynh đệ vajra mà giới nguyện của họ vững chắc và những người mà kiến và hạnh tương hợp với bạn.

Thuật ngữ “người bạn tâm linh” đồng nghĩa với “lama” hoặc “vị thầy tâm linh”. Thậm chí nếu vị thầy tâm linh của bạn không hiện diện và nếu có người khác cùng dòng truyền thì bạn có thể mời người đó giúp trong tiến trình chuyển tiếp này. Bạn cũng có thể gọi Pháp hữu, huynh đệ vajra giúp đỡ nhất là những người có phẩm tính giới luật đạo đức cao. Nếu không có những người này và chẳng có Pháp hữu nào ở chung quanh, thì chỉ cần người nào có thể đọc được bản văn để giúp bạn. Điều này sẽ giúp được bạn và chắc chắn có còn hơn không. Nếu đạo đức của người đó thanh tịnh thì tốt hơn; nhưng nếu thậm chí không có thì điều quan trọng nhất là khi bạn sắp chết bạn nghe được lời nói rõ ràng, do vậy cần một người có thể đọc một cách rõ ràng.

Tantra Về Sự Hợp Nhất Của Mặt TrờiMặt Trăng trình bày:

Vào lúc đó, hãy kết hợp các hướng dẫn thiết thực của vị thầy tâm linh vào dòng tâm thức bạn. Thực hiện lập lại sự quán tưởng với những điểm này. Nên có vị thầy tâm linh, huynh đệ Giáo Pháp ruột thịt hoặc huynh đệ vajra hướng dẫn ý thức bạn quán tưởng.

Đó là có sự hướng dẫn quán tưởng của người khác.

Tự mình tạo quán tưởng. Nếu vị thầy tâm linh, Pháp hữu hay huynh đệ vajra không thể kết hợp với bạn hoặc nếu bạn chết trong nhập thất và bạn là người có kinh nghiệm tốt không cần người khác tạo quán tưởng, bạn có thể tự mình tạo quán tưởng bằng thực hành trước đó. Nếu bạn là người thấu suốt thanh tịnh quang, đã rèn luyện trong cái thấy của tánh Không và đã hoàn toàn nhận ra tánh giác thì sự chuyển di Dharmakaya là tốt nhất. Thế nên, giống như trước, không nên có một thứ gì gợi lên bám luyến hay thù ghét. Nếu thân bạn còn khả năng hãy ngồi theo tư thế bảy thuộc tính hoặc ngồi thẳng lưng. Nếu không được, hãy nằm nghiêng về bên phải, đầu quay về hướng bắc và tha thiết phát sinh Tinh Thần Tỉnh Thức vài lần, suy nghĩ, “Bây giờ tôi sắp chết. Do vậy trong tam giới của sinh tử nói chung và trong thời buổi suy thoái này nói riêng, tôi vui mừng vì có thể chuyển di tâm thức trong khi có bạn bè với các hướng dẫn thâm sâu như vậy. Giờ đây tôi phải nhận ra thanh tịnh quang của cái chết như Dharmakaya, tôi phải gửi vô lượng lưu xuất của tôi để rèn luyện người khác tùy theo nhu cầu của họ, và tôi phải phục vụ nhu cầu của chúng sanh cho đến khi sinh tử luân hồi trống rỗng.”

Tư thế nằm nghiêng về bên phải là tư thế của Đức Phật khi Ngài nhập niết bàn. Sự chuyển di Dharmakaya này cho người có kinh nghiệm trong tất cả giai đoạn nâng cao của thực hành. Người này chết đi với sự hướng dẫn của bạn bè về lý thuyếtthực hành. Trong cách này người đó thành tựu sự quan tâm của chính họ và người khác. Sự hoàn thành mối quan tâm của chính bạn là thực sự nhận ra bản tánh của Dharmakaya. Để hoàn thành mối quan tâm của người khác người ta phải liệu trước việc gửi vô số hóa thân để phục vụ nhu cầu của chúng sanh cho đến khi chu trình sinh tử trống rỗng.

Tây Tạng khi các hành giả già của Giáo Pháp kề cận cái chết, họ thường đặc biệt hạnh phúc khi thấy cái chết đến gần. Dĩ nhiên, lý do mà họ hài lòng là vì họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho tiến trình chuyển tiếp này. Về những người như vậy, có nói rằng, “Cái chết không phải là chết, mà là sự vượt qua của một vị Phật nhỏ.” Cũng giống như nói rằng về cái chết của loại người này là một kinh nghiệm giác ngộ. Trái lại, phần lớn chúng ta không chuẩn bị kỹ và nếu không chuẩn bị chu đáo thì hoàn cảnh hoàn toàn rất khác biệt. Nhiều người trong chúng ta sống như thể cái chết còn cách xa hàng ngàn năm mà không có bất kỳ quan tâm thực sự về hành động của chúng ta và các hậu quả. Loại cái chết của cách sống này là rất khác biệt.

Khi còn trẻ tôi đã chứng kiến nhiều lần các vị hành giả già của Giáo Pháp đã có kinh nghiệm hoan hỷ khi nhận ra họ đang đối diện với cái chết. Họ đã chuẩn bị cho cái chết suốt giai đoạn sống của họ bằng thiền định về vô thường, bản tánh của luân hồiđau khổ, thực tại của tánh Không v.v... Nhiều vị lama và hành giả già của Giáo Pháp chết theo cách này. Thỉnh thoảng có người nghe về việc họ hoan hỷ vào lúc chết cũng cố bắt chước họ, dù rằng chính bản thân người đó chẳng chuẩn bị. Song, khi họ chết thật sự họ sẽ trở nên quẫn tríđau khổ còn hơn người bình thường. Do đó, cái chết là điều gì đó phải được chuẩn bị. Tất cả các rèn luyện, lắng nghe, suy nghĩthiền định về Giáo Pháp của chúng ta nên chuẩn bị cho tiến trình chuyển tiếp này.

Kế tiếp hãy suy nghĩ không sao lãng, “Sự kiện tôi đã dâng hiến chính tôi đến vị thầy tâm linh và đã tìm kiếm hướng dẫn thâm sâu là cho mục đích đó,” và đi vào kinh nghiệm trong sáng một cách không dao động của các hướng dẫn thiết thực.

Sau đó tâm thức không thay đổi, thoát khỏi nền tảng của bất cứ thứ gì và bất kỳ gì làm chuyển di nó, hãy để mặc sự nhận biết của bạn trong một thời gian dài không tạo tác, kiên định không dao động, sống động, rõ ràng không che đậy, rỗng không và kiên quyết. Nếu hơi thở của bạn ngưng lại khi bạn đang trong kinh nghiệm đó thì thanh tịnh quang của nền tảng và thanh tịnh quang của con đường bây giờ được trau dồi, sẽ gặp nhau như cây cầu uốn cong bắc qua dòng sông. Đây là “sự gặp nhau của mẹ và con” của thanh tịnh quang.

Điều này cũng giống như sự tụ hội của hai dòng sông. Trong phép loại suy của một cây cầu bắc qua dòng sông, tất cả chín thừa của Giáo Pháp giống như dòng sông và Đại Viên Mãn giống như cây cầu bắc qua đó. Do đó, Đại Viên Mãn được gọi là bindu duy nhất, bản tánh thật sự của tánh giác, tinh túy (bản chất).

Sự định nghĩa các đặc tính của nền tảng, con đường và kết quả là như sau. Bản tánh của con đường là cái của chuyển tiếp, của thay đổi và của dao động. Bản tánh của con đườngthoát khỏi mọi dạng bám chấp, thèm khát và đeo đuổi. Bản tánh của kết quả là tỏa khắp một cách phổ quát và siêu việt. Nó là bản chất tinh túy của luân hồiniết bàn và trong nó chẳng có mười địa bồ tát hay năm con đường.

Đó là sự định nghĩa các đặc tính của kiến, thiền và hành. Cái thấy (kiến) là bản tánh duy nhất của tánh bất nhị của luân hồiniết bàn. Định nghĩa đặc tính của thiền là tất cả hạnh phúcđau khổ, hy vọngsợ hãi của chúng ta đều bình đẳng trong một vị. Bản tánh của hành là sự nhận biết không che đậy, chẳng lấy hay bỏ. Sự nhận biết không che đạây hay không thiền định này là sự nhận biết của chính chúng ta, là bản tánh của chúng ta và chẳng thể tìm kiếm ở đâu khác. Thậm chí không thể tìm kiếm nơi chư Phật. Ngoài ra, trong việc nhận ra bản tánh sự nhận biết của chính bạn, bạn nhận ra rằng tâm của tất cả chư Phật trong mười phương, ba thời và tâm bạn là bất khả phân. Nhận ra điều này là nhận ra ý định của tất cả chư Phật và với nhận biết này bạn đạt được trạng thái vô uý tuyệt đối, không bao giờ quay trở lại luân hồi.

Nghe về sự giải thoát không thể đảo ngược từ chu trình sinh tử này, một số người có thể cảm thấy một ít hoảng sợ, suy nghĩ rằng, “Một khi tôi đã hoàn toàn thoát khỏi chu trình sinh tử, rồi sau đó thì sao? Tôi sẽ bị lạc!” Đừng lo lắng, bạn sẽ không bị lạc. Sự nhận biết này là để thỏa mãn quan tâm của chính bạn và đáp ứng tự nhiên sự quan tâm của người khác. Bây giờ bạn có thể phục vụ nhu cầu của vô lượng chúng sanh, giống như tia sáng mặt trời chiếu ra khắp mọi nơi. Mặt trời không có ý định chiếu ra tia sáng để làm điều gì; mà đơn giản bản chất của mặt trời là chiếu ra các tia sáng này một cách tự phát. Tương tự, một khi thành Phật, bạn không cần phát sinh một ý định đặc biệt nào để phục vụ nhu cầu của chúng sanh, đúng hơn là sự phục vụ của bạn tuôn chảy không chướng ngại và tự phát. Do vậy, đừng lo nghĩ về việc bị lạc lối vì điều đó chỉ làm trượt vào chủ nghĩa hư vô (đoạn kiến). Chẳng có gì để buồn trong sự nhận biết như vậy. Chẳng có nền tảng để hoảng sợ. Ngoài ra, dù sao đi nữa cũng rất khó đạt được như vậy.

Dharmakaya bất sinh, phi chướng ngại cao nhất đã đạt được, và trong chốc lát bạn sẽ giải thoát. Riêng điều này nên lập lại nhiều lần với nhận biết dựa trên kinh nghiệm trong sáng. Do đó, điều này được gọi là “sự chuyển di Dharmakaya nguyên thủy,” và nó là sự chuyển di tốt nhất trong tất cả chuyển di.

Với những người chưa nhận ra nó và người thiếu nhận biết dựa trên kinh nghiệm, thậm chí nếu họ áp dụng sự chuyển di Dharmakaya cũng giống như phô bày một đồ vật cho người mù, hoặc chỉ ngôi sao cho con chó. Điều quan trọng là việc quán tưởngchuyển di phải thích hợp với khả năng tâm thức của hành giả.

Nếu thành công trong chuyển di Dharmakaya thì dấu hiệu bên ngoài là bầu trời trở nên trong sáng; dấu hiệu bên trong là vẻ rực rỡ của thân không biến mất trong một thời gian dài và có nước da trong sáng; dấu hiệu bí mật bao gồm sự xuất hiện của chữ AH trắng và một chữ HUM xanh dương đậm. Đó là sự chuyển di Dharmakaya. Samaya.

Trong việc thành công về chuyển di, bầu trời trở nên rất trong sáng thanh bình. Dấu hiệu khác đã xảy ra nhiều lần với các hành giả lớn tuổi của Giáo Phápxác chết không có mùi hôi và vẫn giữ được nước da sáng bóng như lúc sống trong một thời gian dài sau khi chết. Những dấu hiệu như vậy đã xảy ra nhiều lần trong quá khứTây Tạng lẫn Ấn Độ. Chẳng hạn, năm 1958, cả hai ngữ và thân lưu xuất của Ngài Dudjom Lingpa vẫn hoạt động. Nhân một dịp chúng gặp nhau và cùng chết thậm chí dù không bệnh tật. Ngay sau khi chết dù trong mùa đông lại xảy ra sấm sét là rất bất thường trong mùa đó. Ngoài ra còn có động đất, và người ta thấy có bông tuyết giống như hoa rơi xuống từ bầu trời. Những ngày sau đó, bầu trời trở nên hoàn toàn thanh bìnhtrong sáng. Đó là những dấu hiệu chắc chắn của một bậc vĩ đại nhập niết bàn.

Gần đây hơn ở Buxa, Ấn Độ, nơi khu định cư của nhiều tu sĩ tị nạn, có một vị lama là hóa thân hiện nay còn rất trẻ tên là Drugpa Kyabgon. Khi Ngài viên tịch vào năm 1961 hay 1962, Ngài vẫn ngồi thẳng trong tư thế nhập định sâu trong hai tuần sau khi viên tịch và chẳng có bất cứ mùi nào. Ngoài ra khi H.H. Dudjom Rinpoche viên tịch trong hai tuần có những dấu hiệu như sự xuất hiện của cầu vồng và bindu được chứng kiến bởi hàng ngàn người từ các nước khác nhau.

Sự Chuyển Di Sambhogakaya

Nếu bạn thực hành chủ yếu về giai đoạn phát triển và nhất là có một ít thấu suốt về tánh Không, thì sự chuyển di Sambhogakaya là thích hợp. Nếu bạn có thể ngồi thẳng trong tư thế trước đó và thực hiện quán tưởng chuyển di được làm trước lúc rèn luyện. Nói cụ thể, tại đỉnh đầu của bạn hãy quán tưởng vị thầy tâm linh của bạn ngồi trên một hoa sen, mặt trờimặt trăng trong thân tướng Sambhogakaya như Đức Vajrasattva, Vajradhara vĩ đại hoặc Đức Avalokiteshvara. Một cách cụ thể, hãy quán tưởng Ngài trong thân tướng vị Bổn Tôn đã chọn mà bạn sùng kính trong giai đoạn phát triển. Bên trong thân bạn, hãy quán tưởng rõ ràng một bindu trắng hoặc chủng tử tự của Bổn Tôn mà bạn đã chọn – như chữ AH trắng, chữ HUM màu xanh dương đậm, hay chữ HRIH đỏ – tại phần cuối của kinh mạch trung ương trong suốt, tinh khiết phía dưới rốn bạn. Tốt nhất nếu bạn quán tưởng rõ ràng các lỗ mở đều được đóng lại với chữ HUM.
Khi quán tưởng bindu trắng hay chủng tử tự của vị Bổn Tôn bạn chọn, hãy chắc chắn rằng nó được quán tưởng bên trong thân bạn, không phải thân của vị thầy tâm linh. Tốt nhất là bạn có thể đóng lại mọi lỗ mở dẫn đến nhiều trạng thái khác nhau của luân hồi với chữ HUM, nhưng nếu không thể làm toàn bộ quán tưởng đó cũng chẳng sao.

Nếu quán tưởng chúng không được rõ ràng, đừng chú ý đến các lỗ mở mà hãy tập trung chú tâm một điểm vào bên trong kinh mạch trung ương. Hãy đẩy mạnh năng lực thân thể của bạn lên trên; đóng lại mạnh mẽ các lỗ mở ở dưới, trợn mắt nhìn lên trên, ép lưỡi vào vòm miệng; kéo năng lượng sự sống ở dưới lên trên và tập trung ý thức của bạn vào bên trong kinh mạch trung ương. Kêu to “HIG KA, HIG KA,” kéo nó dần dần lên trên và khi nó đến lỗ mở Brahma hãy quán tưởng lỗ mở Brahma được che phủ với chữ HAM đang mở ra. Từ bên trong sự tinh khiết, màu trắng của nó (bindu), hãy quán tưởng ý thức của bạn bắn lên như một mũi tên và được thấm nhập vào ngực vị Bổn Tôn bạn chọn. Tập trung nhận biết của bạn ngay ngực vị Bổn Tôn đã chọn. Không được để nó đi xuống, hãy kéo nó lên và hòa nhập nhiều lần. Sau đó cũng để vị Bổn Tôn bạn chọn trong bản tánh không khách quan. Nếu hơi thở của bạn chết trong kinh nghiệm đó, bạn sẽ đạt được trạng thái của một Vidyadhara bất khả phân với vị Bổn Tôn bạn chọn và bạn sẽ trở thành Phật như một Sambhogakaya.

Trong quán tưởng trên bạn đẩy bindu trắng, đó là bản tánh của ý thức bạn lên ngực vị Bổn Tôn bạn chọn. Trong giai đoạn rèn luyện trước lúc thực hiện, bạn nói HIG khi ý thức đi lên và sau đó với KA bạn để ý thức đi xuống trở lại. Khi bạn thật sự sắp chết, tốt nhất đừng nói KA, chỉ nên nói HIG vì chỉ cần bắn ý thức bạn lên như mũi tên không cần kéo nó xuống. Đây là chuyến đi một chiều. Bạn đẩy nó lên và nó hòa nhập vào của vị Bổn Tôn bạn chọn hoặc vị thầy tâm linh, tan hòa ở đó không quay lại.

Theo cách đó, nếu bạn thành công trong chuyển di Sambhogakaya, dấu hiệu bên ngoài là bầu trời tràn đầy cầu vồng và ánh sáng; dấu hiệu bên trong bao gồm sự xuất tiết máu hay huyết tương và sự xuất hiện của vài giọt sương hay sự phồng lên tại lỗ mở Brahma trên đỉnh đầu của bạn; và dấu hiệu bí mật bao gồm việc xảy ra một hay năm loại xá lợi và sự xuất hiện của thân tướng Bổn Tôn, các dấu hiệu bàn tay của Ngài v.v... Đó là sự chuyển di Sambhogakaya. Samaya.

Thực hành trên đặc biệt dành cho những người đã rèn luyện thành thạo trong giai đoạn phát triển. Trong thực hành như vậy, bạn xem toàn bộ môi trường của bạn như cõi tịnh độ, loại bỏ bám chấp và các hình tướng thông thường. Bạn cũng thấy hình tướng bên trong và tất cả chúng sanh đều thanh tịnh, tuy xuất hiện nhưng không có tự tánh. Kiến thanh tịnh này là đặc điểm chủ yếu của giai đoạn phát triển và nó là điều cốt lõi để áp dụng thực hành này trong tiến trình cận tử cho sự chuyển di Sambhogakaya. Giáo lý này được áp dụng trong suốt tự thân tiến trình cận tử hoặc nếu bạn không thành công vào lúc đó, thì trong lúc kinh nghiệm tiếp theo sau khi chết lúc các hình tướng hiền minh và phẫn nộ xuất hiện. Thực hành này không dành cho mục đích cường điệu.

Sự Chuyển Di Nirmanakaya

Về phần tư thế của thân; do nằm nghiêng về bên phải năng lượng sự sống sẽ di chuyển từ lỗ mũi trái. Vào lúc đó hãy cầu nguyện một Nirmanakaya có thể xuất hiện trước bạn, như Phật Sakyamuni vĩ đại, Phật Maitreya, Phật Dược Sư, hoặc thân tướng của Đức Orgyen Padma, vị thầy tâm linh và bạn bè của bạn hoặc hình, tượng của một trong những người đó. Bày biện đồ cúng dường phong phú đến các vị đó. Nếu khônghình thức thực sự hãy quán tưởng nó một cách rõ ràng và tạo cúng dường lưu xuất trong tâm. Sau đó, bạn và người khác nên cầu nguyện, “Giờ đây trong việc phụ thuộc vào cái chết, cầu mong con thọ tái sanh như một Nirmanakaya vì lợi ích của tất cả chúng sanh, và cầu mong điều này là sự phục vụ to lớn cho thế gian. Cầu mong chính Nirmanakaya đó được phú cho các dấu hiệu của thân và biểu tượng giác ngộ, và cầu mong không có chướng ngại cho cuộc sống và hoạt động giác ngộ của con.”

Khi bạn cầu nguyện một Nirmanakaya ở phía trước, có thể là bất cứ đại diện khác nhau nào của thân, khẩu, ý của chư Phật. Việc đặt bất cứ biểu trưng nào về các vị đó là thích hợp. Chẳng hạn, nếu thấy chính bạn sắp chết trong bệnh viện thì việc có một biểu tượng của thân, khẩu, hay ý của chư Phật có thể không thực tế và không đơn giản khi bày biện bất kỳ cúng dường nào. Trong trường hợp đó, đừng lo lắng hay bối rối. Nếu bạn không có vật chất để cúng dường hoặc bàn thờ để đặt cũng chẳng sao. Hãy cúng dường thân, khẩu và ý của bạn và đừng bối rối. Điều đó là tốt. Việc chỉ lựa chọn cúng dường thân, khẩu và ý của bạn là điều tốt. Vì vô số kiếp trong quá khứ bạn đã kiên trì bám chấp vào thân, khẩu, ý như là “của tôi”. Chừng nào còn sự nhận dạng mạnh mẽ hay cảm giác về “thân, khẩu, ý của tôi,” triển vọng về việc cúng dường chúng là không cần bàn cãi. Trong tiến trình cận tử của một kiếp, nếu bạn có thể thành thật cúng dường thân, khẩu, ý của bạn thì có lợi ích to lớn trong đó hay không?

“Cầu mong con thọ tái sanh như một bậc Vidyadhara vĩ đại, phục vụ như biểu tượng của các Đấng Chiến Thắng trong ba thời.” Hãy phát sinh trong tâm thức một khao khát chân thực như vậy. Ở dưới rốn, hãy quán tưởng một nguồn Giáo Pháp ba góc và bên trong kinh mạch trung ương tinh khiết, trong suốt là một bindu trắng và đỏ, sắp bốc lên. Đóng lại lỗ mở ở dưới bằng việc rút nó lại và kéo lên trên. Năng lượng sự sống không lay chuyển ở dưới đẩy bindu lên trên và do nói “HIG KA, HIG KA,” nhiều lần khi bạn có thể, hãy rút nó lên trên. Nó đến lỗ mở ở lỗ mũi trái với nhận biết đi kèm năng lượng sự sống, và trong một chốc lát, giống như một mũi tên chúng hòa nhập vào ngược của vị Nirmanakaya ở phía trước bạn. Hãy để năng lượng sự sống và sự nhận biết như chúng là, không cần gom chúng lại. Lập lại điều này nhiều lần cho đến khi bạn thành công trong việc để ý thức ra đi. Sau khi ý thức ra đi trong kinh nghiệm đó chắc chắn sau này bạn sẽ được tái sanh như một Nirmanakaya để phục vụ nhu cầu của chúng sanh.

Nguồn Giáo Pháp có hình dạng như một hình tứ diện. Bindu màu hồng như màu của hoa dâu nở. Hãy quán tưởng sự nhận biết của bạn hòa nhập vào ngực của vị Nirmanakaya ở phía trước hoặc vào vị thầy tâm linh của bạn. Sự nhắc đến “việc tống ra từ lỗ mũi trái” là khác thường. Một số giáo lý về chuyển di tâm thức chỉ nói đến việc hướng sự nhận biết lên trên qua đỉnh đầu. Nếu bạn có thể làm được điều này thì thật tốt. Tuy nhiên, bản văn này giới thiệu sự lựa chọn khác và cũng không mâu thuẫn với các phương pháp khác về mặt kết quả cuối cùng của thực hành.

Theo cách đó nếu thành công trong chuyển di Nirmanakaya, các dấu hiệu bên ngoài bao gồm sự xuất hiện trong bầu trời có mây và cầu vồng như một cây như ý giống như một cái lọng mở rộng, và mưa hoa từ bầu trời; những dấu hiệu bên trong bao gồm sự xuất hiện của máu, huyết tương, dịch phục hồi hoặc những giọt sương từ lỗ mũi trái; và các dấu hiệu bí mật bao gồm sự xuất hiện của nhiều xá lợi nhỏ, sọ không bị vỡ mà còn nguyên (ngay cả khi thân được hỏa thiêu) và xuất hiện biểu tượng tay của các Bổn Tôn. Đây là sự chuyển di Nirmanakaya. Samaya.

Dịch phục hồi là bodhicitta trắng và đỏ đã được mô tả trong tantra. Về một số trường hợp xảy ra ở Tây Tạng, chất dịch trắng và đỏ này chảy ra từ lỗ mũi của hành giả sắp chết. Ngoài ra, khi thân của hành giả này được hỏa thiêu, sọ không bị cháy và không bể, và có thể có những biểu tượng tay của Bổn Tôn thực sự xuất hiện trên chính hộp sọ.

Sự Chuyển Di Mãnh Liệt

Các hướng dẫn trước áp dụng cho cái chết dần dần, nhưng trong trường hợp chết đột ngột thì không có thời gian cho thực hành thiền định như vậy; do vậy “sự chuyển di lập tức” là điều quan trọng. Ngoài ra, vì không biết hoàn cảnh về cái chết của bạn sẽ là gì, ngay bây giờ bạn phải luân phiên giữa thực hành rèn luyện chuyển di và sự chuyển di tức thời.

Như thế, trong chương này, có tiêu đề “Giải Thoát Tự Nhiên Của Sự Quan Tâm Về Chuyển Di: Các Hướng Dẫn Dựa Trên Kinh Nghiệm Về Tiến Trình Chuyển Tiếp Của Cận Tử,” sự chuyển di Dharmakaya, Sambhogakaya và Nirmanakaya đã được dạy. Tất cả các điều này làm người sắp chết có khả năng thành thạo về tiến trình cận tử. Nhưng bạn có thể chết đột ngột như trong một tai nạn, trong trường hợp đó bạn chẳng thể làm được gì với thân thể hoặc các sở hữu của bạn vào lúc chết. Do vậy điều rất quan trọng là hãy chuẩn bị khả năng này ngay bây giờ. Tất cả chúng ta chắc chắn sẽ chết và cái chết sẽ tách rời chúng ta khỏi mọi thứ mà chúng ta nhận dạng: thân thể, của cải của ta v.v... Do đó việc buông bỏ bám luyến và cho đi mọi thứ ngay bây giờ là có lợi. Buông bỏ hoàn toàn thân thể, tài sản của bạn và mọi thứ khác để có cảm giác chúng chẳng còn thuộc về bạn. Không liệu trước bất cứ phần thưởng, biết ơn hoặc sự yêu mến nào – “tôi thương bạn”, một cái ôm, một nụ hôn, một ít quà tặng hoặc bất kỳ điều gì khác – hãy dâng cúng không có bất cứ bám luyến có điều kiện nào. Chẳng có ai tiếp nhận sự dâng cúng này. Đức Phật Sakyamuni không ra từ đám mây và nói, “Cám ơn” hoặc “Đồ của Ta đâu?” và đem đồ cúng dường đi. Mục tiêu của sự dâng cúng này là giải thoát mọi bám chấp vào mọi thứ mà bạn nhận dạng. Bám chấp này giống như thần chết được mô tả với miệng há rộng, nhe nanh, hai bàn tay ôm chặt sinh tử luân hồi. Việc có vị thần chết thực sự hiện hữu hay không lại là một vấn đề khác. Nhưng việc bám chấp thực sự được mô tả rõ với miệng mở rộng và hai bàn tay giữ chặt ba cõi dục giới, sắc giớivô sắc giới. Ngoài ra, sự chấp bám rất tham lam háo hức, nó bám chấp vào mọi loại hiện tượng. Vì vậy thậm chí nếu chúng ta không thể hoàn toàn loại bỏ sự bám chấp của mình, điều quan trọng là ngay bây giờ chúng ta có thể bắt đầu làm mọi thứ để giảm bớt bám chấp.

Chúng ta có thể hỏi liệu mình thực sự có bất cứ năng lực nào hoặc làm chủ trên thân thể chúng ta, để tài sản hoặc những thứ bên ngoài mà chúng ta có mối kết nối trực tiếp hay không. Không chỉ chúng ta thiếu sự làm chủ thực sự trên thân thể mình mà cũng chẳng thể kiểm soát được ý thức của chúng ta. Hãy quán sát tâm bạn và chính bạn thấy. Có phải tâm này hoàn toàn dưới sự kiểm soát hoặc nó vận hành dưới năng lực ảnh hưởng của chính nó? Trong tiến trình của cuộc sống bạn, sự kiện xuất hiện không đơn giản tùy theo bạn muốn mà phụ thuộc vào hành động trước của bạn hay karma. Chẳng hạn, bạn có thể có ý định tốt nghiệp trung học hoặc đại học, nhưng được hay không? Nếu không, bạn có thể đã có ý định nhưng kết quả của chính hành động bạn đã xen vào và điều này xác định nhiều sự kiện trong cuộc sống của chúng ta. Loại công việc chúng ta được, loại công việc chúng ta mất, chúng ta đi đâu, chúng ta ở đâu – tất cả điều này bị ảnh hưởng bởi hành động chúng ta đã làm trong quá khứ. Do đó, vì không có sự tự kiểm soát trong quá trình sống của chúng ta, làm sao chúng ta có thể tìm thấy sự tự kiểm soát như vậy sau khi chết?

lý do này, điều quan trọng là chuẩn bị ngay bây giờ cho tiến trình cận tử và làm mọi điều có thể để giảm bớt sự bám chấp của chúng ta vào bất cứ loại hiện tượng nào. Chúng ta phải có khả năng thấy cho chính mình rằng sự bám chấp vào thân, khẩu và ý có giúp ích gì cho chúng ta hay không. Tất cả chúng ta ở đây đều được giáo dục, tất cả chúng ta đều được đến trường ở nhiều trình độ khác nhau. Tất cả chúng ta đều được học cách suy nghĩ ra sao, do vậy chúng ta có khả năng thẩm xét chủ đề này cho chính mình. Chúng ta phải có khả năng nhận dạng sự bám chấp của mình và thấy trên nền tảng của kinh nghiệm chính mình, với sự thông minh của mình liệu có bất cứ lợi ích nào trong việc bám chấp hay không. sự bám chấp là nguyên nhân gốc rễ cho sự tái sanh liên tục trong chu trình sinh tử này được biết là samsara. Nó thực sự là cái còng tay; dù còng tay bằng vàng hay bằng sắt, nó đều trói buộc chúng ta.

Có những người được biết như hành giả lại hoàn toàn vi phạm Phật Pháp. Tuy nhiên, người như vậy thường có rất nhiều bám luyến đến truyền thống Giáo Pháp, dòng truyền của họ, hay môn phái và có ác cảm, coi thường hoặc chống đối các dòng truyền khác. Đây không phải là cách Đức Phật trình bày Giáo Pháp của Ngài, và cũng không phải là mục tiêu mà Ngài dạy Giáo Pháp. Đôi khi tôi cũng nghe người ta bình luận, “Ồ, như vậy và như vậy là một lama tốt, nhưng ông ta không thực sự biết được thế giới thực.” Hãy nhìn những vị đại lama của quá khứ, như Ngài Milarepa, Guru Rinpoche, và Tsongkhapa. Nhiều người trong các Ngài là khất sĩ sống dựa vào bình bát. Vậy các Ngài có rơi vào phạm trù của lama tốt nhưng không biết thế gian hay không? Loại đánh giá này đơn giản là lớp vỏ che đậy tính suy nghĩ tự phụ của chính mình là thông minh, hoặc nhiều tri kiến hơn chư Phật.

Có nhiều hoàn cảnh dẫn đến cái chết của chúng ta, nhưng chúng ta chẳng có ý niệm cái nào thực sự tấn công mình. Do vậy, điều quan trọng là hãy luân phiên thực hành các rèn luyện chuyển di trước đó và thực hành hiện nay, điều này được gọi là “sự chuyển di tức thời.”

Nó giống như vầy: hãy nhớ mạnh mẽ trong tâm, “Nếu bị chết bất thình lình, tôi phải tập trung trên đỉnh đầu tôi.” Quyết định này là quan trọng chủ yếu. Chẳng hạn, vào buổi chiều của ngày 22 âm lịch, nếu có quyết định chân thực hãy nghĩ rằng bạn thức dậy ngay khi mặt trăng mọc, khi mặt trăng mọc vào giữa đêm, bạn sẽ thức dậy. Nó cũng giống như vậy. Ngoài ra, ngay bây giờ hãy nhanh chóng quyết tâm tập trung chú ý trên đỉnh đầu bạn bất cứ khi nào nỗi sợ hãi xuất hiện. Kế tiếp trong trường hợp “chết đột ngột”, như té xuống từ sườn núi cao, dốc, tư tưởng sẽ khởi lên, “Tôi sắp chết!” Ngay khi xảy ra điều này, tốt nhất là nhớ lại vị thầy tâm linh của bạn hoặc vị Bổn Tôn đã chọn trên đỉnh đầu bạn. Nếu khôngthời gian làm điều đó thì điều quan trọng then chốt là hướng sự tập trung vào đỉnh đầu bạn. Lý do tại sao sự chú ý của chúng ta trở nên tập trung vào lúc đó, là khi kinh nghiệm nỗi sợ hãi to lớn chúng ta thường đột ngột kêu lên “Mẹ ơi!” Do vậy, vào lúc đó chúng ta cũng phải chắc chắn nhớ lại vị thầy tâm linh của mình hoặc hướng sự nhận biết lên đỉnh đầu. Vì thế, điểm này là rất thâm sâu.

Trong thực hành này, bạn tập trung trên đỉnh đầu mình và ngay cả nếu không thể quán tưởng rõ ràng, hãy hình dung bạn cũng như thân lưu xuất của Đức Phật, hãy là Đức Phật Amitabha, vị thầy tâm linh của bạn hoặc bất cứ vị nào khác. Quyết tâm này là quan trọng cốt yếu.

Vào ngày 22 âm lịch, một tuần sau khi trăng tròn, mặt trăng mọc rất trễ vào ban đêm. Bản văn này được viết ở Tây Tạng, ở đó chưa có đồng hồ đeo tay, nên tác giả không thể đơn giản nói, “Nếu bạn muốn thức dậy vào hai giờ sáng, hãy liệu trước, rồi thức dậy vào lúc đó.”

Trong tiến trình cuộc sống bạn, ngay khi nghĩ rằng bạn có thể sắp chết, hãy tập trung chú ý vào đỉnh đầu bạn. Nếu có thể làm điều đó trước khi bạn chết, điều đó sẽ góp phần cho sự giải thoát của bạn. Hoặc thậm chí sau khi nhận ra bạn vừa mới chết, nếu hướng sự nhận biết lên đỉnh đầu bạn, đến vị thầy tâm linh hoặc hóa thân khác của Đức Phật, điều đó cũng sẽ dẫn bạn đến giải thoát. Thế nên, điều quan trọng là nhớ lại sự tập trung này trước hoặc ngay sau khi chết. Hãy quyết tâm rằng nếu thấy chính bạn có nguy cơ sắp chết, bạn phải hướng sự nhận biết lên đỉnh đầu bạn. Nếu không làm được và nếu chẳng nhớ lại thực hành Pháp trong tiến trình cận tử, hầu như bạn sẽ chỉ kinh nghiệm sự sợ hãi, hy vọng, và rối loạn vào lúc chết. Ngay cả bây giờ, khi cuộc sống người ta không xấu và kinh nghiệm ít đau khổ, nhiều người diễn tả rằng họ cảm thấy rối loạn. Nếu bạn rối loạn khi không đối mặt với cái chết và khi không kinh nghiệm nhiều đau khổ, làm sao bạn cho rằng có thể chịu đựng khi thật sự sắp chết? Nó sẽ diễn tiến xấu đi. Người phương Tây có tính cách đồi bại, nuông chiều trong sự rối loạn này hơn là làm điều gì đó chống lại nó.

Khi nhận ra bạn sắp chết, điều có lợi íchquán tưởng vị thầy tâm linh trên đỉnh đầu hoặc bất cứ vị nào khác là đối tượng của niềm tin bạn, như Đức Avalokiteshvara, Phật Sakyamuni, hoặc bất kỳ hóa thân nào của Đức Phật. Ngoài ra, đây cũng là lúc để nhớ lại các giáo lý thiết thực bạn đã tiếp nhận liên quan đến tiến trình cận tử. Khi cái chết sắp xảy đến với bạn, điều quan trọng nhất là suy nghĩ về người mà bạn có niềm tin nhiều nhất.

Tây Tạng khi tai họa xảy ra, việc người ta kêu lên trong đau khổ, “lama kyeno!” là rất phổ biến, có nghĩa “vị thầy tâm linh biết hết!” Đây là sự kêu cầu các bậc giác ngộ này hiện diện. Đúng vào lúc khủng hoảng hãy kêu cầu bất cứ bậc giác ngộ nào mà bạn có niềm tin. Trái lại, ở phương Tây nếu người ta kêu lên trong đau buồn đến “tam bảo”, có thể họ ám chỉ đến nhà cửa, xe cộ và bạn gái của họ.

Không có quan điểm trong việc kêu lên “Ôi, Trời!” hoặc “Ôi, Lama!” hay “Ôi Tam Bảo” nếu đó là lời vô nghĩa với bạn. Điều quan trọng là biết ý nghĩa của đối tượng bạn sùng kínhquen thuộc với những phẩm tính xuất sắc của đối tượng quy y. Tới mức khi bạn nhận biết các phẩm tính này và kêu cầu các đối tượng quy y đúng vào lúc khủng hoảng hoặc vào lúc chết thì lúc đó sẽ có ân phước thực sự. Nếu phát triển sự quen thuộc với thực hành này trong tiến trình sống của bạn, điều này chắc chắn sẽ là phản ứng tự nhiên của bạn vào lúc chết.

Tương tự, chẳng hạn khi bạn hoàn toàn bị ngập trong biển lửa, hoặc bị cuốn trôi trong một dòng sông to lớn, hay bị sét đánh xuống đầu, tên bắn trúng ngực, hãy nhanh chóng tha thiết nhớ lại vị thầy tâm linh hoặc hướng sự nhận biết ngay trên đỉnh đầu bạn. Điều đó cũng được gọi là “sự chuyển di tức khắc” và “chuyển di mãnh liệt”. Vì đây là rèn luyện rất thâm sâu nên hãy rèn luyện tâm thức trong đây thật tốt.

Trong phần trước về chuyển di Nirmanakaya, người sắp chết được khuyến khích nằm nghiêng về bên phải và thải ra năng lượng sự sống, hay hơi thở từ lỗ mũi trái. Tuy nhiên điều quan trọng hơn là tập trung sự nhận biết tại đỉnh đầu. Bạn có thể nhớ lại các khía cạnh khác của thực hành phức tạp hơn về việc đóng lại mọi lỗ mở với những chủng tử tự được thiết kế để giúp tâm thức xuất ra từ đỉnh đầu. Nếu bạn làm được tất cả thực hành phức tạp, điều đó sẽ tốt hơn, nhưng điều quan trọng nhất là tâïp trung sự nhận biết trên đỉnh đầu.

Có nói rằng khi sự sợ hãi rất lớn khởi lên, đó cũng là thuận lợi để kêu cầu danh hiệu của chư Phật, hãy kêu lên “Người cha tâm linh!” hoặc “Orgyen!” Đây là trường hợp có những thuận lợi không thể tưởng khi tập trung sự chú ý của bạn vào vị thầy tâm linh tại đỉnh đầu bạn.

Kế tiếp, có những khác biệt lớn về phần đường dẫn của sự chuyển di tâm thức, cụ thể là, có chín bậc phân loại liên quan đến khả năng cá nhân siêu phàm, trung bình và thấp. Lỗ mở Brahma trên đỉnh đầu là đường dẫn để đến cõi tịnh độ của chư dakini, do vậy nếu tâm thức bạn xuất ra từ đó, bạn sẽ chắc chắn giải thoát. Đó là đường dẫn cao nhất, nên việc rèn luyện tập trung sự chú ý của bạn vào đó là điều quan trọng. Nếu tâm thức bạn xuất ra từ mắt, bạn sẽ sinh ra là một vị vua của thế gian; và nếu xuất ra ở lỗ mũi trái bạn sẽ có được thân người thanh tịnh. Đó là ba lỗ mở siêu phàm.

Nếu tâm thức xuất ra từ lỗ mũi phải bạn sẽ sinh ra như một yaksa;51 nếu nó xuất ra hai lỗ tai bạn sẽ sinh ra là một vị thần của cõi sắc giới; nếu xuất ra từ rốn bạn sẽ sinh ra như một vị thần cõi dục giới. Đó là ba lỗ mở trung bình.

Nếu tâm thức xuất ra từ lỗ tiểu bạn sẽ sinh làm súc vật; nếu xuất từ lỗ mở của sự trở thành, đó là đường dẫn trong đó dịch tái tạo và bindu trắng, đỏ di chuyển; bạn sẽ sinh làm preta (ngạ quỷ), và nếu xuất ra từ hậu môn bạn sẽ sinh vào địa ngục. Đó là ba lỗ mở thấp.

Vì thế có sự khác biệt rất lớn trong đường dẫn của sự chuyển di tâm thức, do vậy vào lúc chết việc hướng sự nhận biết vào đỉnh đầu của bạn sẽ có vô số thuận lợi. Đó là sự chuyển di mãnh liệt. Samaya.

Sự Chuyển Di Thông Thường

Những người trong các bạn chưa nhận ra ý nghĩa của tánh Không và không hiểu ý nghĩa của giai đoạn phát triểnhoàn thiện thì nên nằm nghiêng về bên phải, đầu quay về hướng bắc. Vị thầy tâm linh, anh chị em ruột, hoặc bạn bè của bạn nên dẫn dắt sự quán tưởng của bạn; và nếu thân bạn có khả năng, họ nên để bạn thọ quy y, trau dồi tâm linh tỉnh thứcsám hối tội lỗi. Sau đó thọ những nguyện thông thường và nếu có thời gian hãy thọ nhập môn tantric. Nhờ lúc sắp chết với động lực nghiệp tối ưu của việc có các giới nguyện rõ rệt không thể phai mờ, bạn được giải thoát khỏi các trạng thái khổ cực của luân hồi và có vô số thuận lợi.

Nếu bạn chưa có nhận biết của thực tại về tánh Không và nếu chưa thành thạo nhiều trong giai đoạn phát triểnhoàn thiện thì bạn nên thực hành sự chuyển di thông thường này. tinh hoa của giai đoạn phát triển là nhìn mọi hình tướng như thân của Đức Phật; mọi âm thanh như ngữ của Phật, và mọi sự kiện tinh thần như ý của Phật. Tinh hoa của giai đoạn hoàn thiệnnhận ra bản tánh của tự thân thực tại. Nếu bạn không có bất cứ kinh nghiệm, nhận biết hoặc hiểu biết nào như vậy, bạn nên nằm nghiêng về bên phải, đầu quay về hướng bắc. Sau đó thọ nguyện quy y, nguyện bồ tátphát lồ sám hối bất cứ hành động không đạo đức nào đã vi phạm.

Tây Tạng, khi người ta thấy chẳng mấy chốc họ sẽ chết, thường họ sẽ nhận một lễ nhập môn liên quan đến các hóa thân hiền minh và phẫn nộ của Đức Phật. Điều này có thể có lợi ích xác thực cho người sắp chết. Nếu bạn chẳng chuẩn bị cho cái chết dù là sắp xảy ra hay còn cách xa mà người khác tụng niệm cầu nguyện đại diện cho bạn sau khi bạn chết thì rất khó có lợi ích thiết thực nào cho bạn. Nếu điều này được làm với một vị lama giác ngộ cao thì có thể có một số lợi ích và sẽ chỉ có một chút lợi ích nếu cầu nguyện này được làm bởi người bình thường. Nếu bạn có thể thọ giới, nguyện tantric ngay trước khi chết thì gần như không có khả năng giới nguyện này bị sứt mẻ trước khi bạn chết. Điều đó cho bạn động lực nghiệp tối ưu khi bạn chết và nó là cách tốt nhất đem cuộc sống bạn đến lúc kết thúc.

Một vấn đề chủ yếu trong số các Phật tử Mỹ là không bắt đầu dấn thân vào thực hành mà họ được dạy. Tổng quát, Phật tử ở Mỹ trong truyền thống đạo Phật Tây Tạng đã nhận được đầy đủ giáo lý về quy y và đã thọ nguyện quy y, thọ bồ tát giới. Nhiều người trong các bạn đã nhận nhiều lễ nhập dòng nên vào lúc chết sẽ không phải là lễ nhập dòng lần đầu tiên. Nhưng trong tiến trình của cuộc sống bạn dường như thấy ít có thời gian để thực hiện giáo lý này. Do vậy, khi đối mặt với cái chết của chính bạn, đừng nên cố gắng làm điều gì đó thật đặc biệt. Nếu bạn có thể chỉ cần hướng niềm tin vào các đối tượng quy y Phật, Giáo PhápTăng Đoàn, và nhớ lại tinh thần mà bạn đã đi vào thực hành – để cố gắng cho tâm linh tỉnh thức vì lợi ích của tất cả chúng sanh – điều đó là đủ.

Trong trường hợp người ta thậm chí không thể làm được điều đó, hãy kêu tên người đó và nói, “Trên đỉnh đầu của bạn là Đức Thế Tôn của Lòng Đại Bi.52 Hãy sùng kính Ngài!” và vỗ vào đỉnh đầu người đó. Nhẹ nhàng giật tóc ở lỗ mở Brahma. Điều đó làm cho tâm thức thoát ra lỗ mở Brahma.

Trong trường hợp người đó không khác hơn một con vật và ngay cả không có khả năng hãy để đầu người đó quay về hướng bắc và nói nhiều lần, “Kính lễ Đức Phật Raknasikhin.” Điều đó sẽ chắc chắn giải thoát người đó khỏi trạng thái khổ cực của sinh tử, vì trước đó Đức Phật này đã nguyện, “Cầu mong tất cả những người nghe được danh hiệu Ta đều được thoát khỏi các trạng thái khổ cực của sinh tử.” Ngoài ra, có nói rằng nếu người nào thốt lên danh hiệu của Đức Phật, Bậc Chữa Lành Thần Hiệu, Vua của Ánh Sáng Xanh Da Trời, chỉ cần nghe được danh hiệu này, người đó sẽ được bảo vệ khỏi các trạng thái khổ cực của sinh tử. Tương tự, hãy kêu lớn mọi danh hiệu của chư Phật mà bạn biết, tụng niệm bất cứ các tinh hoa ban phước nào bạn biết như mantra lục tự. Nói cụ thể, nếu bạn có mantra bảo vệ treo trên cổ hãy đọc nó. Tụng niệm bài Giải Thoát Qua Sự Nghe và cúng dường bất cứ bài nguyện nào bạn biết. Nhờ làm như vậy, có khả năng thiết lập được một động lực nghiệp tối ưu nên điều này có được thuận lợi rất lớn. Có nói rằng tối thiểu chỉ nhờ người sắp chết nằm nghiêng về bên phải, đầu quay về hướng bắc sẽ không đi vào các trạng thái khổ cực của sinh tử.

Nếu bạn không thể nhớ lại danh hiệu của Đức Phật Raknasikhin, hãy nhớ Đức Phật Amitabha. Bạn cũng có thể tụng niệm mantra lục tự OM MANI PADME HUM hoặc mantra một trăm âm của Đức Phật Vajrasattva.

Vì thế, mọi lợi ích của việc thực hành Giáo Pháp sẽ đến vào lúc gần chết, nên điều quan trọng là khéo léo vào lúc sắp chếtø. Đây là những hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp lúc cận tử, được gọi là “sự giải thoát tự nhiên của việc quan tâm về chuyển di.” Samaya.

Đã niêm, đã niêm, đã niêm.

Bất kể các thực hành nào bạn đang làm, nó phải liên quan đến cái chết của bạn và giúp bạn trong tiến trình cận tử. Nếu nó không cho bạn bất cứ lợi ích hiển nhiên nào khi chết, bạn đã bị mất hiệu quả. Như một loại suy, nếu bạn làm món canh bằng các miếng phổi khô, tất cả các miếng phổi sẽ nổi lên mặt canh. Tương tự, nếu bạn đặt bắp rang vào nước, nó sẽ nổi ngay lên mặt nước. Đừng để thực hành của bạn giống như món canh phổi khô hay bắp rang nổi lên mặt nước. Sự thực hành của bạn phải có một số giá trị vững chắc lâu dàilợi ích hiển nhiên cho bạn khi chết. Đây là điều rất quan trọng cho dù bạn là học giả, hành giả hay thiền giả.

Mặt khác, đây là lợi ích chắc chắn trong bất cứ thực hành Giáo Pháp nào mà bạn tham gia, bao gồm sự nghe, tư duy, thiền định, sùng kính v.v... Trái lại, ở Mỹ thường người ta chẳng bao giờ thỏa mãn. Có hai loại không thỏa mãn. Cái đầu tiên không thỏa mãn khi bạn đang tham gia trong lắng nghe, suy nghĩ hay thiền định, cho đến khi bạn thực sự đạt giải thoát. Loại không thỏa mãn này nảy ra sự thiếu tự mãn, đó là điều tốt. Với loại không thỏa mãn thứ hai bạn có thể nhận được Giáo Phápnăng lực đem bạn đến giác ngộgiải thoát trong chính kiếp sống này. Nhưng vì không thỏa mãn chúng ta bỏ quên chúng và không áp dụng vào thực hành. Đúng ra là bạn chờ đợi cho giáo lý được nói là cao quý, bí mật và mật truyền hơn và chạy theo chúng với hy vọng sẽ có hiệu quả đặc biệt hơn. Ví dụ, trước tiên bạn có thể nhận được giáo lý cao quý về quan điểm Madhyamaka (trung đạo) và có được một số hiểu biết về trí tuệ nhưng không thực hiện quan điểm này vào thiền định. Sau đó có thể bạn nghe về Mahamudra rồi chạy theo. Chẳng thực hành theo giáo lý nào, có thể bạn lại nghe về Atiyoga, Đại Viên Mãn và nghĩ rằng giáo lý đó còn cao hơn. Nhưng một thói quen xấu đã được thiết lập và bây giờ bạn lại quen với việc đi tìm nhiều giáo lý mật truyền hơn. Trong tiến trình bạn chẳng đặt được một nền tảng nào cho bất cứ điều gì. Đây là vấn đề của xứ sở này. Những người mới bắt đầu không biết cái nào tốt nên họ không đáng trách.

Khuynh hướng phổ biến khác là chấp nhận quan điểm phù phiếm hướng đến Giáo Pháp, một loại tâm thức hổ lốn lý sự hết giáo lý này đến giáo lý khác mà không thực sự nghiền ngẫm và lĩnh hội giáo lý đã tiếp nhận. Đó là vấn đề, và giải pháp là tự mình cam kết vững chắc với giới luật tâm linhthực hiện trong thực hành từng giai đoạn. Hãy thiết lập một nền tảng trong thực hànhxây dựng trên đó. Khi xem lại cuộc sống của chúng ta từ thời còn bé đến nay, chúng ta có thể tự hỏi, “Thực tế cho đến bây giờ chúng ta đã xây dựng được nền tảng gì rồi?” Nhiều người trong chúng ta thậm chí chưa thực sự hoàn thành khóa học của mình, điều đó cho thấy cùng một dạng thái độ không tham gia xuyên suốt với một dự định tốt. Chúng ta đã có nhiều cơ hội để nâng cao khóa học của mình nhưng lại không tận dụng và để cơ hội trôi qua. Do vậy, hãy tập trung vào thực hành của bạn và lĩnh hội những gì bạn đã được dạy.

Một số người rất kiên trì bám chấp vào một hệ phái hay truyền thống Phật giáo riêng. Ví dụ một số hành giả Hinayana nghĩ rằng phái của họ là giáo lý duy nhất thật sự của đạo Phậtgiáo lý Mahayana là không trung thực. Có thể một số người đi theo truyền thống Mahayana nghĩ rằng Hinayana là không trung thực hay thấp hơn. Dĩ nhiên, loại quan điểm bè phái này chẳng có bất kỳ lợi ích nào. Mặt khác nó cũng chẳng có lợi ích gì. Nếu đi theo Hinayana, bạn đang tập trung trên nền tảng của toàn bộ thực hành đạo Phật. Điều này đòi hỏi thiền định về Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên và trau dồi quan điểm thoát khỏi luân hồi sinh tử. Trên nền tảng đó bạn có thể tiến tới Mahayana và trau dồi tâm linh tỉnh thức, trau dồi trước hết mọi tinh thần khao khát giác ngộ. Để điều này được dễ dàng, bạn phải trau dồi tứ vô lượng tâm của lòng từ, bi, hỷ, xả v.v... Trên nền tảng đó bạn có thể tiến đến việc trau dồi sự mạo hiểm đến giác ngộ với sự trau dồi sáu hoàn thiện v.v... Trên nền tảng đó bạn có thể đi vào Vajrayana. Có nhiều đại lộ của thực hành, chẳng hạn nếu bạn tập trung trên giai đoạn thực hành phát triển và có được nhận biết của các hóa thân hiền minh và phẫn nộ của các bậc giác ngộ, điều đó sẽ dẫn bạn đến giải thoát. Trên nền tảng thực hành này bạn có thể đi vào Atiyoga hay Đại Viên Mãn. Tuy nhiên, nó được thiết lập bởi nền tảng mà bạn có thể hoàn thành từ chuỗi thực hành trên. Nếu không thiết lập được nền tảng đó mà chỉ tiến tới điều gì khác và sau đó từ bỏ thì cũng không có lợi ích. Mọi biểu lộ của tâm thức bè phái là biểu lộ tương tự của vấn đề cũ kỹ; bám luyến và thù ghét. Việc nói “Tôi là người thuộc phái Nyingmapa” hay “Tôi thuộc phái Gelugpa” với thái độ cam kết với con đường riêng cho đến khi đạt được cực điểm của nó là điều tốt. Nhưng nếu bạn không đến được kết quả của con đường mà chỉ bám luyến vào nó thì chẳng có lợi ích. Nếu bạn đang theo một con đường của Phật giáo, việc thực hành cắt đứt của bạn phải là sự hàng phục ba độc của tâm bạn: tham, sân và si. Sự thực hành Pháp của bạn phải hoạt động như sự giải độc cho ba độc này.

Nếu sự thực hành Giáo Pháp của bạn không chống lạihàng phục được các phiền não trong tâm thức thì việc bạn là một Phật tử là điều đáng ngờ. Là một Phật tử có nghĩa để khuất phục được chất độc trong tâm thức bạn, để trau dồi tâm linh tỉnh thức và để chuyển tâm bạn khỏi sinh tử. Nếu, trong tiến trình thực hành của bạn, chẳng có điều gì kể trên xảy ra vậy việc gọi chính bạn là một Phật tửý nghĩa gì?

Một số trong các bạn có thể muốn thực hành Atiyoga, Đại Viên Mãn. Tại sao được gọi là “Đại?” Tại sao nó được gọi là “Viên mãn?” Nó được gọi là Viên mãn vì mọi phẩm tính của giác ngộ đều được viên mãn trong thực hành này. Nó được gọi là “Đại” vì không có gì lớn hơn được. Tuy vậy, nếu chấp nhận quan điểm bè phái bám chấp vào chính bạn như hành giả của Đại Viên Mãn, thì bạn không biết Đại Viên Mãn là gì. Giáo lý về Đại Viên Mãn trình bày rằng toàn bộ luân hồiniết bàn đều cùng một bản tánh. Nếu đó là trường hợp, trong lúc này bạn đang bám chấp vào khái niệm là một hành giả của Đại Viên Mãn thì bạn ở đâu trong luân hồi và niết bàn? Nếu ngay cả bạn không biết ý nghĩa của thuật ngữ “Đại Viên Mãn,” tôi đề nghị bạn nên dừng lại việc tuyên bố như vậy về chính bạn. Mọi hiện tượng đều cùng một vị và tất cả Giáo Pháp đều cùng một vị. Chẳng hạn, trong truyền thống Gelugpa, có một thực hành phổ biến được biết như Lama Chopa, là sự thờ phụng hay sùng kính đến vị thầy tâm linh. Trong thực hành này bạn niệm, “Ngài là vị thầy tâm linh”, “Ngài là vị bổn tôn đã chọn” “Ngài là Dakini” “Ngài là Hộ Pháp” v.v... Sự thực hành tập trung trên vị thầy tâm linh là vì mục đích kinh nghiệm các phẩm tính giác ngộ của vị thầy tâm linh. Sự thực hành như vậy được tìm thấy trong tất cả truyền thống của Phật giáo Tây Tạng không chỉ trong phái Gelugpa. Đó là cùng một vị trong tất cả truyền thống này.

Giữa nhiều dạng thực hành có thể sử dụng được cho chúng ta, nếu tập trung chỉ trên guru yoga và nếu chúng ta làm điều này thật tốt sẽ thấy toàn bộ ý nghĩa của giai đoạn phát triểnhoàn thiện đều được bao gồm trong đó. Toàn bộ con đường Hinayana và Mahayana đều bao gồm trong đó. Toàn bộ tantra và Atiyoga đều bao gồm trong đó. Nếu bạn có thể thực hành tốt guru yoga, điều đó là đủ. Bạn không cần làm gì nhiều ngoài thực hành của mình, chỉ thực hành và làm tốt nó. Nếu không làm được và đi vòng quanh với cảm giác kiêu ngạo rằng bạn đang đi theo cái cao nhất của mọi thực hành và bạn là một hành giả của Atiyoga, bạn chỉ đem lại sự hổ thẹn trên chính bạn.

Một số trong các bạn có thể đôi khi đảm nhận vai trò của một Pháp sư. Nói chung, tư tưởng có thể dễ dàng khởi lên rằng dù thế nào chăng nữa thường thì vị thầy cao hơn đệ tử và đó là điều tại sao vị thầy giảng dạy và người khác được nhận giảng dạy. Nếu thỉnh thoảng bạn đảm nhận vai trò của một vị thầy tâm linh, người cố vấn hoặc người hướng dẫn, điều quan trọng trước tiên là hãy khảo sát tâm bạn. Khi bạn đến gần Pháp tòa. Từ điểm lợi thế của tánh không hãy thấy Pháp tòa là rỗng không. Khi bạn bước lên ngai để ban Giáo Pháp, điều quan trọng trước tiên là hãy nhớ lại những phẩm tính xuất sắc của Đức Phật, Giáo Pháp, Tăng Đoàn và các phẩm tính của vị thầy tâm linh bạn. Hãy cầu khẩn sự ban phước của các Ngài. Hãy nhớ lại lòng từ của các Ngài. Hãy cúng dường trong tâm. Với thái độ tôn kính, hãy suy nghĩ về những điều này khi bạn sắp bắt đầu ban giáo lý. Kế tiếp, khi để ý những người đến với bạn cầu giáo lý, hãy đáp ứng sự thỉnh cầu và mối quan tâm của họ với tinh thần rộng lượng. Điều này là tặng phẩm của bạn cho họ. Cống hiến giáo lý với động cơ sống để lợi ích người khác. Với động cơ như vậy, trong thực tế đó là lợi ích cho người khác và cũng là lợi ích cho chính bạn. Chính hành động cống hiến giáo lý cho người khác khiến tịnh hóa các nhiễm ônghiệp bất thiện bạn đã tự tích lũy và giúp bạn tích tụ công đức cho chính mình. Trong hai cách này đều là lợi ích cho bạn. Ngoài ra, khi đang giảng dạy bạn nghe giáo lý bạn đang ban và như vậy bạn cũng đang giảng dạy chính mình. Thậm chí bạn có thể học được từ những lời được thốt ra từ chính miệng bạn. Khi bạn đang giảng dạy việc quán tưởng vị thầy tâm linh hoặc các đối tượng quy y khác trên đỉnh đầu bạn cũng rất hữu ích. Bất kể truyền thống nào bạn theo, là Gelug, Kagyu, Sakya hay Nyingma, hãy mang trong tâm vị nào mà bạn có lòng tin lớn nhất. Thậm chí nếu có niềm tin vào nhiều vị, bạn vẫn có thể quán tưởng chỉ một vị, nhưng hình dung vị này cùng bản tánh như tất cả đối tượng quy y đó. Tất cả các Ngài đều bao hàm trong một.

Bạn thực có niềm tin và thực sự có lòng bi vậy phải nhớ điều này trong tâm khi đảm nhận vai trò vị thầy. Trái lại, nếu bạn bước lên Pháp tòa với cảm giác là người đặc biệt trong lúc người khác là bình thường, ngay cả điều này cũng không phải là thái độ của người Phật tử. Hãy nhìn tấm gương của người khác. Khi Đức Dalai Lama sắp ban giáo lý, trước tiên Ngài đến Pháp tòađảnh lễ ba lần. Tại sao Ngài làm điều này? Ngài đang nhớ lại những phẩm tính của Đức Phật, Giáo Pháp, Tăng Đoànvị thầy tâm linh của Ngài; và Ngài làm điều này với thái độ tôn kính và yêu quý. Ngài không đảnh lễ đến ngai và nghĩ, “Đó là nơi tôi sắp ngồi và vì là người trong sạch nên cúi lạy ngai này mà tôi sắp ngồi.”

Nếu bạn giảng dạy Giáo Pháp hãy làm với thái độ tôn kính và yêu quý này, bạn sẽ không cần làm bất cứ điều nào khác thường. Bạn chỉ làm theo cách đơn giản này. Mặt khác, nếu động cơ của bạn và Giáo Pháp không thích hợp thì chẳng có lợi ích trong sự giảng dạy của bạn. Sẽ chẳng lợi ích cho bạn khi chết, đúng hơn là có hậu quả bất lợi. Kết quả sẽ là sự giảng dạy Giáo Pháp không trung thực và điều này sẽ chỉ gây cho bạn tái sanh vào một trong các trạng thái thấp của sinh tử.

Đó là loại thái độ một vị thầy phải có để giảng dạy Giáo Pháp. Bây giờ, về phần học trò ra sao? Tôi đã du hành vòng quanh xứ sở này đã nhiều, đã từng đến các trường học và đã thấy cách cư xử của học trò trong trường học ở Mỹ. Học trò thường giơ chân lên hướng về vị thầy; họ ngồi dựa lưng vào ghế quay lưng về mặt vị thầy, trong tư thế đó họ hỏi người thầy và vị thầy trả lời trong lúc nhìn vào lưng họ. Điều đó có thể được tán thành ở trường Mỹ; nhưng với Giáo Pháp thì không được tán thành. Tư thế đó không làm tổn thương vị thầy dù ở bối cảnh Giáo Pháp hoặc thế gian mà nó làm hại học trò. Về một mặt nào đó xứ sở này vô trật tự, chẳng có quy tắc nào về tư thế của học trò phải có trong lớp học. Tuy nhiên, loại tư thế vô tình hoặc có lẽ thậm chí kiêu ngạo này thực sự gây bất lợi cho bản thân người học trò. Chẳng có lợi ích hay tổn hại nào cho vị thầy mà là làm hại học trò. Nếu bạn muốn học đúng cách hoặc có lợi nhất, cách cư xử về phần của đệ tử trong Giáo Pháp, bạn có thể tìm thấy thảo luận chi tiết về điều này trong bản văn được gọi là Năm Mươi Bài Kệ Về Sùng Kính Guru, đã được dịch sang tiếng Anh. Hãy nhớ rằng năm mươi bài kệ về mối liên quan đến vị thầy tất cả đều vì lợi ích cho đệ tử, không phải lợi ích cho vị thầy. Cư xử theo cách đúng là vì lợi ích của đệ tử, tịnh hóa những khuynh hướng và dấu vết bất thiện, tích lũy công đức và trau dồi những phẩm tính xuất sắc về phần của đệ tử.

Giữa bốn phẩm cấp tâm linh của Phật giáo Tây Tạng – Gelug, Sakya, Nyingma và Kagyu – phái Gelug có chiều hướng là gương mẫu nổi bật nhất trong cách đệ tử sùng kính đến vị thầy. Họ thực sự gương mẫu. Mặc dù không thuộc phái Gelugpa, tôi đã sống bảy hay tám năm với các thành viên của phái này nên thấy cách họ cư xử ra sao. Mặt khác tôi cũng không thuộc phái Nyingmapa, cũng như Sakyapa hoặc Kagyupa. Tôi là một Phật tử và có niềm tin vào tất cả truyền thống này. Tôi không khẳng định có kiến thức hoặc hiểu biết về tất cả nhưng thật sự có niềm tin vào tất cả phái này. Do sự khẳng định ở trên về Gelugpa, tôi không ngụ ý rằng các phái khác không tốt. Đạo đức của họ cũng xuất sắc, nhưng tôi thấy Gelugpa đặc biệt nổi bật trong khía cạnh riêng biệt đó của thực hành. Và, dĩ nhiên ba phái khác thực sự biết đệ tử của họ phải liên hệ với vị thầy tâm linh ra sao. Song, có thể dưới ảnh hưởng của các vùng khác nhau ở Tây Tạng nên mỗi truyền thống này có khuynh hướng ưu thế hơn, bạn sẽ thấy một số khác biệt giữa bốn truyền thống tâm linh. Chẳng hạn, truyền thống Gelugpa đã được nuôi dưỡng rất mạnh ở khu vực Lhasa, thủ đô của Tây Tạng. Xã hội Lhasa có cách cư xử lịch thiệp và được tu dưỡng rất tốt. Cư dân ở Lhasa có xu hướng thời lưu nên điều này đã ảnh hưởng truyền thống tâm linh chiếm ưu thế nhất ở đó, đó là Gelugpa. Nếu bạn đến những nơi khác của Tây Tạng như Golok, Kham, hoặc Amdo ở phía bắc Tây Tạng thì không có văn hóa xã giao tế nhị lịch sự như vậy. Những vùng này là nơi truyền thống Nyingmapa và Kagyupa được nuôi dưỡng mạnh mẽ nhất. Do đó, có thể các truyền thống này bị ảnh hưởng tùy theo xã hội. Bản thân tôi từ Gyalrong trong vùng Kham-Amdo nên tôi không được lớn lên trong môi trường văn hóa tế nhị. Tôi không học được nhiều phép xã giao. Nếu bạn có thể cư xử lịch thiệp đến vị thầy tâm linh thì đó là điều tốt. Cùng lúc, điều quan trọng là cách cư xử bên ngoài của bạn với vị thầy tâm linh phải không giả tạo hay dối trá. Sự trung thực, trong sạchkính trọng là những gì tôi xem là quan trọng.

7

Sự Giải Thoát Tự Nhiên Của Cái Thấy:
Những Hướng Dẫn Dựa Trên Kinh Nghiệm Về
Tiến Trình Chuyển Tiếp Của Tự Thân Thực Tại

Trong chủ đề chung thứ năm, tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại (hướng dẫn thiết thực, giống như đứa trẻ bò vào lòng mẹ, về lòng tin liên quan đến tự thân hình tướng), nên sự giải thoát tự nhiên của cái thấy đã được dạy. Sự hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của cuộc sống đưa đến giải thoát tự nhiên của nền tảng, sự hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của thiền quán ổn định đưa đến giải thoát tự nhiên của nhận biết v.v... đưa đến sự xác quyết qua thẩm tra bản tánh của sinh tử của tự thân thực tại thanh tịnh bổn nguyên rồi thực hành. Chúng được gọi là “chu trình Xuyên Thấu nền tảng.” Nhờ nhận ra tánh giác nhận biết trực tiếp tự thân thực tại và trở nên quen thuộc với nó, giờ đây bạn định rõ được tướng mạo của tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại; và điều đó được gọi là “con đường giải thoát của sự Nhảy Vọt Qua.” Trong đây có bốn chủ đề: (1) đánh vào những điểm then chốt của thân, khẩu và ý, (2) sự bừng sáng của nhận thức trực tiếp trên bản thân mình nhờ ba loại điểm then chốt, (3) cách bốn cái thấy xuất hiện do thực hành, và (4) cuối cùnglời khuyên kết thúc.

Sự thực hành của tiến trình chuyển tiếp đầu tiên, thứ hai v.v... là cho mục đích nhận ra tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại. Tương tự, trong Paramitayana năm hoàn thiện đầu tiên (năm ba la mật) được trau dồi vì mục đích của hoàn thiện thứ sáu, tức trí tuệ.

ĐÁNH VÀO CÁC ĐIỂM THEN CHỐT CỦA THÂN, KHẨU VÀ Ý

Trong việc đánh vào các điểm then chốt có ba phần: (a) các điểm then chốt của thân, (b) các điểm then chốt của khẩu, và (3) các điểm then chốt của ý.

Các Điểm Then Chốt Của Thân

Trong các điểm then chốt của thân cũng có ba phần: (i) tư thế Nirmanakaya, ngồi xổm như một rsi, (ii) tư thế Sambhogakaya, như con voi nghỉ ngơi, và (iii) tư thế Dharmakaya, giống như sư tử trong tướng con chó. Tantra Nguyên Thủy về sự Xuyên Thấu của Âm Thanh trình bày:

Với tư thế sư tử của Dharmakaya, hành giả thoát khỏi mọi sợ hãi lừa dối và thấy với mắt vajra. Dựa vào tư thế Sambhogakaya của con voi nghỉ ngơi, hành giả lưu xuất thân tướng của tự thân thực tại và thấy với mắt của Giáo Pháp.

Chuỗi Hạt Ngọc Trai trình bày:

Có ba loại điểm then chốt của thân, cách thức của sư tử, của voi, và giống như rsi.

Với không hơn bảy học trò khi bầu trời trong sáng và không có gió hãy dẫn học trò của bạn đến nơi hiu quạnh. Trước tiên, tư thế Dharmakaya giống như sư tử trong dạnh con chó đòi hỏi vị trí của thân trong hình dáng một con chó. Đặt hai lòng bàn chân bạn trên đất; tay kết ấn kim cang quyền; bấu ngón chân cái xuống đất; duỗi phần thân trên của bạn như sư tử, đem hết sức của bạn làm dựng đứng; dồn sức mạnh của bạn vào cổ họng và hướng tri giác vào đối tượng của nó.

Sự rèn luyện trước này cần được dạy khi bầu trời hoàn toàn trong sáng, không mây, không mưa và không có sương mù. Bạn có thể rời thành phố để hoàn thiện rèn luyện này. Khi bạn “dồn sức mạnh vào cổ họng,” bạn uốn cong cổ một chút. Trong khi ép cằm xuống bạn vươn cổ ra sau. Khi “hướng tri giác vào đối tượng của nó,” giác quan mà bạn hướng là thị giác, hay cái nhìn chằm chằm của bạn.

Trong thời kỳ thực hành này liên quan đến giai đoạn Nhảy vọt qua của thực hành Đại Viên Mãn, được dạy một các truyền thống chỉ cho một vài đệ tử vào lúc họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho thực hành này. Họ đã hoàn tất đầy đủ mọi thực hành chuẩn bị; đã rèn luyện trong thực hành liên quan đến kinh mạch và năng lượng cần cho sự sống và đã rèn luyện trong giai đoạn phát triểnhoàn thiện. Họ cũng đã rèn luyện trong thực hành Xuyên Thấu, đòi hỏi kinh nghiệm trong sự trau dồi chỉ và quán. Các đệ tử với nền tảng thực hành như vậy là kinh mạch thích hợp cho sự trau dồi của giai đoạn nâng cao của Nhảy-vọt lên.

Giáo lý cao cấp Đại Viên Mãn không thiết kế cho người thậm chí không có bất cứ ý thức quy y nào. Vậy tại sao tôi lại cống hiến điều này như giáo lý công truyền? Có một số vị đại lama đương thời nói rằng bây giờ là lúc để ban giáo lý công khai này. Ngài Yangthang Tulku Rinpoche, Đức Jigmey Phuntsok, và Đức Orgyen Kusum Lingpa đã tuyên bố rằng bây giờ là lúc khi giáo lý về sáu tiến trình chuyển tiếp đã được dạy rộng rãi. Bản thân Ngài Karma Lingpa, vị lama hiển lộ đầu tiên giáo lý này cũng viết một bài nguyện rằng giáo lý này có thể được nuôi dưỡng trong cuối thời đại suy thoái và cư xử của con người không thích hợp với Giáo Pháp. Do vậy, thời điểm cho giáo lý này trở nên công khai là bây giờ.

Tuy nhiên, nếu bạn học giáo lý này theo cách hời hợt hoặc tò mò vu vơ sẽ dẫn bạn tái sanh vào cõi thấp trong trạng thái khổ cực của sinh tử. Nhưng nếu lắng nghe và học giáo lý này với niềm tin. Thậm chí không thực hành chúng, bạn cũng sẽ nhận được hạt giống giải thoát, đó là lợi ích to lớn. Thế nên, không ai nên bác quan điểm này và không ai nên khuyên các Pháp hữu của họ không tiếp nhận giáo lý về Đại Viên Mãn này, vì chúng quá bí mật hay cao cấp với họ. Xin đừng hủy lời khuyên của các vị đại lama này.

Chẳng hạn, giáo lý về “giải thoát qua sự nghe” trình bày rằng chỉ cần nghe giáo lý này với niềm tin đã đặt hạt giống giác ngộ trong dòng tâm thức của hành giả. Thế nên đừng để hoài nghi ngăn cản người khác có cơ hội tiếp nhận giáo lý này. Những hoài nghi như vậy không có trí tuệ vượt hơn Ngài Karma Lingpa, người đã phát hiện giáo lý này đầu tiên. Hãy nhớ rằng Ngài là người nói đây là thời điểm thích hợp giáo lý này nên được công truyền. Giáo lý rất quý báu và có thể đại lợi ích cho bạn vào lúc chết. Dù thế nào đi nữa đừng cản trở lẫn nhau trong thực hành của bạn.

Thứ hai, tư thế Sambhogakaya giống như con voi nghỉ ngơi đòi hỏi nằm úp mặt xuống như con voi; ép hai đầu gối vào ngực đưa các ngón chân ra ngoài; ép cùi chỏ trên đất và nâng cổ họng bạn lên một chút.

Thứ ba, tư thế Nirmanakaya giống như vị rsi ngồi xổm, đòi hỏi thân bạn trong tư thế ngồi xổm; đặt hai mắt cá cùng nhau; cắm hai lòng bàn chân trên đất; hoàn toàn duỗi thẳng thân, ép hai đầu gối tựa ngay ngực bạn, bắt chéo hai cổ tay ôm hai đầu gối và vươn cột sống thẳng, đứng.

Do đánh vào ba loại điểm then chốt của thân, bạn đánh vào điểm then chốt của sự hiện diện trí tuệ bổn nguyên của tánh giác trong thân để nó được nhận biết trực tiếp. Điều này giống như việc con rắn có nọc độc, nếu nó không bị ép lấy nọc, nọc độc vẫn tiềm ẩn.

Các Điểm Then Chốt Của Khẩu

Trong các điểm then chốt của khẩu cũng có ba phần: (i) rèn luyện trong khẩu, (ii) tịnh khẩu, (iii) kiên quyết. Trước tiên, rèn luyện trong khẩu đòi hỏi trong một ngày không được nói nhiều hơn ba hay bốn lần và càng ngày càng ít nói hơn. Thứ hai, tịnh khẩu đòi hỏi hoàn toàn không nói bất kể điều gì. Thứ ba, kiên quyết đòi hỏi sự kiên định như thể bạn bị câm hoàn toàn không nói bất cứ gì.

Các Điểm Then Chốt Của Ý

Không để nhận biết của bạn bị sao lãng ở nơi khác, đừng để nó chuyển hướng mục tiêu tập trung của bạn.

SỰ BỪNG SÁNG CỦA NHẬN THỨC TRỰC TIẾP TRÊN CHÍNH MÌNH TRONG VIỆC PHỤ THUỘC VÀO CÁC ĐIỂM THEN CHỐT

Ở đây có ba phần: (a) các điểm then chốt của những lỗ mở, (b) các điểm then chốt của đối tượng, (3) các điểm then chốt của năng lượng cần cho sự sống.

Các Điểm Then Chốt Của Những Lỗ Mở

Điểm then chốt của lỗ mở là mắt, Tantra nguyên thủy về Âm thanh xuyên thấu trình bày:

Về phần lỗ mở,53 hãy nhìn bằng mắt của ba kaya.

Vô Tự trình bày:

Về phần mắt, hãy nhìn chằm chằm vào lãnh vực không gian.

Chuỗi hạt Ngọc trai trình bày:

Về mặt các lỗ mở, đừng chuyển động từ chính nơi đó.

Dấu vết Nirvana trình bày:

Các điểm then chốt của những lỗ mở là nhìn chằm chằm lên trên, xuống dưới, và bên cạnh.

Ở đây có ba phần: Mục đích của cái nhìn chằm chằm Dharmakaya, bạn trợn mắt nhìn lên trên là để ngưng lại lập tức những hình tướng lừa gạt; mục đích của cái nhìn chằm chằm Sambhogakaya, trong đó bạn nhìn sang bên là để thấy kiến thanh tịnh của trí tuệ bổn nguyên và mục đích của cái nhìn chằm chằm Nirmanakaya đó là nhìn xuống dưới là để có được sự kiểm soát trên năng lượng sự sống và tâm. Thế nên, đừng tách rời ba cái nhìn chằm chằm, đó là các điểm then chốt của những lỗ mở.

Trong cái nhìn chằm chằm Dharmakaya, bạn hơi trợn mắt lên trên nhưng không nhiều giống như bạn chết. Một số lama dạy rằng sau khi hành giả thực hiện bất kỳ tư thế nào ở trên, hành giả hãy để cái nhìn chằm chằm nghỉ ngơi trong bất cứ cách nào thoải mái. Tuy nhiên, theo truyền thống có sự phù hợp giữa các tư thế và cái nhìn này. Đó là cái nhìn chằm chằm Dharmakaya tương ứng với tư thế Dharmakaya v.v...

Các Điểm Then Chốt Của Đối Tượng

Ở đây có hai phần: bản tánh tuyệt đối bên ngoài và bản tánh tuyệt đối bên trong. Tantra Nguyên thủy về Âm thanh Xuyên thấu trình bày:

Bản tánh tuyệt đối là bên ngoài và bên trong. Bên ngoài được biết như bầu trời không mây, và bên trong là con đường của ngọn đèn.

Ngọn Đèn Rực Rỡ trình bày:

Nhờ đặt nhận biết của bạn trong bản tánh tuyệt đối bên ngoài, sự nhận biết của chính bạn được tịnh hóa trong trạng thái của chính nó và trong sự xuất hiện của nó.

Tánh Giác Tự-Hiện trình bày:

Bản tánh tuyệt đốihào quang tự nhiên.

Dấu Vết Nirvana trình bày:

Điểm then chốt của đối tượng là không gian thoát khỏi điều kiện.

Bản tánh tuyệt đối bên ngoài là không gian thoát khỏi điều kiệnbản tánh tuyệt đối bên trong là ngọn đèn của bản tánh tuyệt đối hoàn toàn thanh tịnh. Vì không gian trống rỗng là đối tượng xuất hiện đến sự nhận biết rỗng không, do tập trung vào điểm then chốt của đối tượng, trí tuệ bổn nguyên xuất hiện tự do.

Các Điểm Then Chốt Của Năng Lượng Sự Sống

Ở đây có ba phần: giữ lại, tống ra và nhẹ nhàng ổn định. Tantra Nguyên thủy về Âm thanh Xuyên thấu trình bày:

Bằng mọi phương tiện hãy nhẹ nhàng với năng lượng sự sống. Điều này xảy ra nhờ thải hết chúng ra.

Dấu Vết Nirvana trình bày:

Điểm then chốt của năng lượng sự sống là phải rất nhẹ nhàng.
Trước tiên nhẹ nhàng giữ chúng, sau đó tống chúng ra ngoài xa như một mũi tên và sau đó rất nhẹ nhàng để năng lượng sự sống lắng xuống tự nhiên. Về phần điểm then chốt của sự nhận biết, hãy giam hãm tính cách. Vô Tự trình bày:

Tinh túy xuất hiện giống như tính cách, vi tế, lung linh và phóng ra.

Giác Tánh Tự-Hiện trình bày:

Thân ánh sáng mang năm trí tuệ bổn nguyên xuất hiện rực rỡ như tính cách, đến và đi, phóng ra và che lại.

Sức Mạnh Hoàn Hảo Của Sư Tử trình bày:

Thực tại của tánh giác tự-hiện là sự hiện diện như tính cách của trí tuệ bổn nguyên.

Hành giả giam hãm tính cách bằng việc giữ chúng ở trong. Để biết ý nghĩa của chữ “tính cách” bạn phải tham gia trong thực hành Nhảy-vọt lên tối thiểu trong vòng vài tháng. Trong thực hành này dòng ánh sáng trong trẻo, tượng hình, và cách sắp xếp xuất hiện trong phạm vi cái thấy của bạn. Lung linh, vi tế, phóng ra, và trong suốt, các hình tướng này là biểu hiện bên ngoài của trí tuệ bổn nguyên của tánh giác. Theo sau sự xuất hiện các hình tướng này nhiều loại bindu cũng xuất hiện, trong đó ánh sáng cầu vồng và cái thấy của vị bổn tôn bạn chọn có thể được thấy. Hàng loạt các hình cầu đồng tâm cũng xuất hiện bên trong những bindu này. Cái thấy của các bindu này là biểu hiện sáng tạo của trí tuệ bổn nguyên trong lúc tính cách là tự thân sự nhận biết, có thể nói là trí tuệ bổn nguyên của tánh giác. Một lần nữa bạn phải áp dụng giáo lý vào thực hành, và chính mình thấy chúng có ý nghĩa gì.

Để có một số gợi ý của kinh nghiệm này, mắt bạn hơi liếc nhìn một chút trong lúc nhìn chằm chằm vào ánh sáng đèn điện. Bạn sẽ có thể thấy kiểu ánh sáng, đó là tiền thân của hình tướng sẽ xuất hiện trong thực hành xác thực Nhảy-vọt lên. Trong thực hành như vậy, bạn có thể nhìn chằm chằm vào nguồn ánh sáng như mặt trăng. Giáo lý Nhảy-vọt lên nói, “Khi mặt trời mọc ở hướng đông, bạn nên quay mặt về hướng tây. Khi nó ở hướng tây bạn nên nhìn về hướng đông.” Điều này ngăn mắt bạn không bị hại. Đừng thực hành Nhảy-vọt lên trong lúc nhìn mặt trời vì bạn sẽ bị mù. Thậm chí tốt hơn đừng nhìn trực tiếp vào đèn nến. Nhìn vào ánh sáng điện mờ cũng được và thấy một số hình ảnh nhưng đừng nhầm lẫn đó là thực hành chân chính của Nhảy-vọt lên.

Dấu vết Nirvana trình bày:

Hãy giam hãm các tính cách của nhận biết.

Do đó, nhờ không tách rời ba điểm then chốt, quán sát các hình tướng của sự nhận biết. Thoạt tiên, làm điều này trong nhiều thời ngắn, sau đó tiếp tục ngày càng dài hơn. Kế tiếp thực hành vào những lúc đặc biệt trong ngày và đêm. Bạn sẽ rèn luyện trong một tháng rưỡi.

Chúng ta thường được khuyên bắt đầu bằng những thời ngắn và dần dần tiến dài hơn. Nhưng nhiều người lại làm ngược lại; họ bắt đầu tiến hành với thời dài và sau đó giảm xuống cho đến lúc bỏ hẳn. Hãy bắt đầu bằng những thời ngắn rồi dần dần gia tăng thời gian của mỗi thời và giảm số thời trong ngày. Bạn có thể tiến dần thời công phu lên một giờ, một giờ rưỡi, hai giờ và mười hai giờ, sau đó là suốt ngày. Đây là chiến lược các vị lama ở quá khứ đã đi theo. Nếu bạn thực hành tốt giống như vậy thì sau một tháng rưỡi bạn sẽ hoàn thiện nó.

CON ĐƯỜNG TRONG ĐÓ BỐN CÁI THẤY XUẤT HIỆN TÙY THEO THỰC HÀNH NHƯ VẬY

Ở đây có bốn phần; cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại, cái thấy của kinh nghiệm tiến bộ, cái thấy của nhận biết tột bậc và cái thấy của sự tiêu hủy vào trong tự thân thực tại. Dấu vết Nirvana trình bày:

Về phần cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại, quan điểm bám chấp vào sự tan rã khái niệm. Về phần cái thấy dựa trên kinh nghiệm tiến bộ, trí tuệ bổn nguyên của tiến trình chuyển tiếp được làm cho xuất hiện. Nhờ sự nhận biết tột bậc, bạn nhận ra Sambhogakaya. Nhờ cái thấy của sự tiêu hủy vào tự thân thực tại, bạn đạt được quả của Đại Viên Mãn, thoát khỏi hoạt động. Vì thế một khi bạn đến tột bậc của nền tảng và con đường thì chẳng còn tìm kiếm nirvana ở đâu khác.

Cái Thấy Trực Tiếp Của Tự Thân Thực Tại

Vị thầy tâm linh dạy, “Hãy thực hiện các điểm then chốt của thân giống vậy, thực hiện các điểm then chốt của khẩu giống điều này và các điểm then chốt của ý hãy tập trung trên đó.” Nhờ thực hành như vậy không dựa trên sự thêm vào đối với sự phân tích tâm thứclời nói, đệ tử thấy trực tiếp như đối tượng cái thấy của sự nhận biết tự thân thực tại trong không gian trống rỗng của họ, không bị nó làm nhiễm ô bởi bất kỳ quan niệm ép buộc nào do vậy, điều đó được gọi là “cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại.”

Cái thấy này xuất hiện trực tiếp không có bất cứ sự thêm vào của quán tưởng. Ví dụ, trong giai đoạn phát triển, bạn thêm vào nhiều quán tưởng dựa trên kinh nghiệm của bạn. Bạn thêm vào nơi chốn, bổn tôn trong nơi chốn v.v.... bạn cũng thêm vào lời nói như lời của sadhana, nên bạn gây ra kinh nghiệm này qua lời và quán tưởng. Đó là sự thêm vào cũng như các loại thực hành khác.

Tuy nhiên, trái với điều đó, trong thời kỳ Nhảy-vọt lên, cái thấy xuất hiện không dựa vào bất cứ sự thêm vào nào dù của quán tưởng hay tụng niệm. Điều này xảy ra trên nền tảng của không gian trống rỗng. Đây là nơi cái thấy được kinh nghiệm và nó không cách nào bị nhiễm ô bởi quan niệm ép buộc hoặc suy nghĩ thông thường. Điều đó được gọi là cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại. Lý do tại sao giai đoạn Nhảy-vọt lên của Đại Viên Mãnthật kinh sợ vì nó là sự trực tiếp. Nó không có trung gian bởi quan niệm ép buộc và không lệ thuộc vào khái niệm hay lời nói thêm vào.

Tantra Nguyên Thủy Về Âm Thanh Xuyên Thấu trình bày:

Cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại chắc chắc xuất hiện từ các lỗ mở của giác quan và nó rực rỡ trong bầu trời không mây.

Vì thế, nhờ thực hành phù hợp với các điểm then chốt, giữa hai lông mày bạn ở đó được gọi là “ngọn đèn của tự thân thực tại bổn nguyên.” Nó xuất hiện giống như màu sắc của cầu vồng hoặc con mắt của lông công. Bên trong nó được gọi là “ngọn đèn của bindu trống rỗng,” và nó giống như những vòng tròn gợn sóng đồng tâm khi bạn ném hòn đá vào hồ nước.

Trong giai đoạn thực hành này, bạn có thể thấy hào quang trắng hay xanh dương. Loại cái thấy bạn kinh nghiệm tùy thuộc vào sự chuyển hóa của chính bạn, nên thay đổi từ người này sang người khác.

Bên trong hình dạng giống như những dĩa tròn của một khiên, xuất hiện ở đó một bindu kích thước bằng hạt mù tạt hay hạt đậu. Bên trong đó là “tính cách vajra của nhận biết” điều đó là sự tinh tế, giống như nút buộc trong bộ phận đuôi ngựa, giống như chuỗi xích sắt, như hàng rào hoa di chuyển với gió v.v... Tất cả chúng xuất hiện đều trong sự kết hợp của hai hay ba v.v... và chúng được gọi là “bindu độc nhất của tính cách nhận biết chính bạn.”

Trong giai đoạn thực hành này, bạn có thể thấy nhiều ánh sáng sủi tăm nhỏ xíu, thanh mảnh. Chúng vô số và có thể xuất hiện trong nhiều màu sắc khác nhau. Tất cả chúng đều sủi tăm, tỏa sáng lung linh, nhanh như tên bắn và di chuyển vòng quanh. Chúng không “ở ngoài kia”, hiện hữu như một số thực tại độc lập trong không gian trước bạn. Đúng hơn là ánh sáng này xuất hiện theo sự di chuyển của năng lượng sự sống trong thân bạn. Khi bạn dần dần an địnhđiều phục được năng lượng sự sống trong thân, thì cái thấy này cũng lắng xuống.

Đa dạng các cái thấy có thể xuất hiện trong giai đoạn thực hành này. Những dây ánh sáng nhỏ này có thể giống như tóc, hay sợi tơ ánh sáng đi qua khu vực của cái thấy bạn. Đôi khi chúng giảm số lượng trong lúc bạn nhìn chằm chằm vào nó. Đôi lúc chúng có thể trở nên dầy đặc hơn. Thỉnh thoảng chúng có thể thẳng và đôi khi có thể cong, đôi khi chúng cũng có thể xuất hiện trong khuôn tròn. Chúng có thể thay đổi trong mọi cách khác nhau này.

Bản tánh tuyệt đối và sự nhận biết chẳng kết hợp cũng chẳng tách rời mà hiện diện trong cách mặt trời và những tia sáng của nó. Dấu ấn của bản tánh tuyệt đốihào quang, sự biểu lộ của trí tuệ bổn nguyên là bindu, dấu ấn của sự nhận biếthiện thântính cách. Về mặt vị trí, chúng hiện diện ở giữa citta,54[54] và về mặt con đường chúng xuất hiện trực tiếp đến mắt, đó là tinh túy nguyên chất của các giác quan. Tantra Nguyên Thủy Về Âm Thanh Xuyên Thấu trình bày: 

Cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại chắc chắn xuất ra từ các lỗ mở của giác quan và nó chiếu sáng rực rỡ trong bầu trời không mây.

Vì thế, quan điểm phân tích, bao gồm quan điểm bắt phải bám chấp vào khái niệm, ngôn từ, hiểu biết trí năng v.v... đều tan biến. Dấu vết Nirvana trình bày:

Đối với cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại, quan điểm gây ra bám chấp vào khái niệm được tan biến.

Cái Thấy Của Sự Tiến Bộ Cái Thấy Dựa Trên Kinh Nghiệm

Giữa kinh nghiệm cái thấy và kinh nghiệm nhận thức, kinh nghiệm nhận thức xuất hiện trong nhiều cách khác nhau như cảm giác cực lạc, cảm giác trong sángcảm giác của rỗng không. Tính không ổn định và nhất thời đều chung cho các yana khác nhau và ít được nhấn mạnh. Hơn nữa, nhiều truyền thống như Mahamudra cũng nói rằng kinh nghiệm nhận thức giống như màn chehành giả không nên đặt tin tưởng vào giá trị của kinh nghiệm này. Đúng hơn, hành giả nên đặt sự nhấn mạnh rõ rệt nhất về giá trị của nhận biết. Ở đây, tiêu chuẩn cho giá trị nhận biết được xác định bằng con đường của kinh nghiệm cái thấy và vì kinh nghiệm cái thấy là không tạm thời, chúng phải được nhấn mạnh rõ rệtõ nhất.

Vì thế, như một kết quả của việc tham gia trong kinh nghiệm của cái thấy, vào lúc bản tánh tuyệt đối và sự nhận biết trở nên rõ ràng và vào lúc chúng không rõ ràng. Nhờ tiếp tục thực hành, bản tánh tuyệt đối và sự nhận biết bị tách khỏi điểm giữa hai chân mày, chúng bị tách khỏi hiện tượng giác quanngọn đèn của bindu rỗng không, được tiếp cận và xuất hiện rõ ràng. Bindu chuyển thành kích cỡ của hạt đậu và sự nhận biết bắt đầu giống con chim sắp bay.

Như đã nhắc đến trước đây một hành giả ngay lập tức là người có được nhận biết tức thời trên việc nghe giáo lý cũng giống như chim garuda; ngay khi chim con mới nở lập tức nó có thể bay. Trái lại, người bình thường chúng ta càng giống như con nít: chúng ta cần đi qua nhiều giai đoạn rèn luyện khác nhau, nghe giảng giáo lý, hiểu được quan điểm và dấn thân vào thực hành. Sau đó sự nhận biết dần dần xuất hiện.

Nhờ tiếp tục thực hành, cái thấy của năm ánh sáng chuyển hóa khiến chúng xuất hiện trong kiểu không mạch lạc, ngang, dọc, giống như mũi giáo, tương tự như lều bằng lông trâu yak đen, và giống như ô vuông của bàn cờ; và ánh sáng này tỏa khắp mọi thứ phía trước bạn. Ngoài ra, các bindu cũng chuyển hóa để chúng giống như một gương và sự nhận biết xuất hiện trong cách của con nai đang chạy. 

Nhờ tiếp tục thực hành, cái thấy của bản tánh tối thượng xuất hiện trong vẻ ngoài của lưới ngọc, hàng rào, đầy đủ và một nửa của hàng rào ánh sáng, kẻ ô vuông, sáng rực, giống như mũi giáo, và một bảo tháp nhiều tầng, hoa sen ngàn cánh, hào quang, mặt trờimặt trăng, lâu đài, thanh kiếm, chày vajra, bánh xe, và giống hình dạng của mắt con cá. Ngoài ra, ánh sáng đó tràn đầy môi trường bạn sống trong đó. Bindu giống như bình bát bằng đồng và sự nhận biết của bạn giống như con ong bay lượn trên mật.

Tất cả cái thấy như vậy có thể xuất hiện như một hay nhiều hiện tượng. Tuy nhiên, điều quan trọng là bạn đừng lấy làm ghê gớm lắm về các hình tướng đó. Đừng phản ứng bám chấp hay thù ghét chúng. Đơn giản chỉ chứng kiến chúng.

Nhờ tiếp tục thực hành, ánh sáng tràn ngập môi trường, bindu trở thành như lớp da bảo vệ của con tê giác, ánh sáng tỏa sáng khắp nơi bạn nhìn, bản tánh tối thượng và sự nhận biết liên tục xuất hiện cả ngày lẫn đêm. Thân của bổn tôn xuất hiện trong mỗi bindu và các hiện thân cá nhân thiêng liêng vi tế xuất hiện ở giữa sự nhận biết. Sự nhận biết vẫn bất động.

Các bổn tôn có thể xuất hiện bên trong bindu làm nên tính cách của nhận biết, và trong lúc, “sự nhận biết vẫn bất động.”

Khi những hình tướng như vậy khởi lên, hiện tượng của tiến trình chuyển tiếp được thiết lập trong cách đó để sau này không còn trạng thái trung gian giữa chết và tái sanh.55[55] Vì thế, sự thực hành tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại chỉ là thực hành chính này.

Tantra Nguyên Thủy Về Âm Thanh Xuyên Thấu trình bày:

Trong sự tiến bô của cái thấy dựa trên kinh nghiệm, màu sắc của trí tuệ bổn nguyên chiếu ra ngang và dọc; các bindu xuất hiện rõ ràng như nhiều hiện thân thiêng liêng khác nhau và môi trường tỏa sáng xuất hiện đến sự nhận biết.

Dấu vết Nirvana trình bày:

Đối với sự tiến bộ của cái thấy dựa trên kinh nghiệm, trí tuệ bổn nguyên của tiến trình chuyển tiếp được làm cho xuất hiện.

Có nhiều vấn đề khác nhau chắc chắn xuất hiện trong giai đoạn tha thiết thực hành Giáo Pháp. Trước tiên, có thể bạn có khả năng làm nhẹ bớt một số vấn đề này. Song, nếu chỉ thực hành vì lợi ích chính mình thì chẳng bao giờ bạn thành tựu được bất cứ gì. Đã có vô số các bậc giác ngộ trong quá khứ và không một ai đạt được giác ngộ tâm linh qua sự tự cho mình là trung tâm. Nó không hoạt động. Chúng ta đã ở trong chu trình sinh tử này từ thời vô thủy và nó là sự tự cho mình là trung tâm khiến kéo dài mãi mãi chu trình sinh tử này. Nó là một phần của vấn đề, không phải là một phần của giải pháp. Nó xuất hiện qua sự biểu lộ bám luyến và thù ghét. Sống theo nguyên tắc bám luyến và thù ghét là không thích hợp với Giáo Pháp và thậm chí nó không thích hợp với sự hoàn thành các mục đích thế gian. Ba độc tham, sân và si phải được trục xuất giống như nọc rắn độc. Đặc biệt là chất độc của bám luyến phải được loại bỏ. Tới mức độ mà bạn có thể dẫn dắt cuộc sống mình thoát khỏi ba độc này thì bạn sẽ thành tựu các mục đích thế giantâm linh của bạn.

Trong lúc nhiều người hỏi tôi làm thế nào để phong phú thực hành tâm linh của họ, tôi thấy rằng các đối thoại của họ phần nhiều là biểu lộ của tham và sân. Tôi có thể bảo đảm rằng chừng nào người ta còn nuôi dưỡng các chất độc của tâm thức này thì sẽ chẳng có tiến bộ trong thực hành tâm linh của họ. Chừng nào mà cuộc sống bạn vẫn theo nguyên tắc của bám luyến và thù ghét thì giáo lý của đạo Phật về Tứ Diệu Đế sẽ trở nên vô dụng. Giáo lý về Bốn Tư Duy làm Chuyển Tâm cũng trở nên vô nghĩa. Giáo lý về sáu hoàn thiện trở thành vô dụng. Tất cả đều lãng phí. Trong trường hợp đó chẳng có quan điểm nào trong việc là người Phật tử. Phật giáo không thích hợp để sử dụng trên bạn.

Cái Thấy Của Sự Nhận Biết Tột Bậc

Sau đó, nhờ tiếp tục thực hành, năm hiện thân thiêng liêng với phối ngẫu xuất hiện bên trong mỗi bindu trước đó. Các Ngài là vô sốbất biếnđạt đến một số lượng tột bậc, như thể khoảng gần bằng một vốc tay hay một cân. Thậm chí sau đó bạn có thể ngừng thiền định. Vào lúc đó thân bạn được giải thoát vào thanh tịnh quang; các nguyên tố của thân tiến đến thanh tịnh tự nhiên của chúng; xuất hiện nhưng vẫn không có tự tánh, bạn được giải thoát tự nhiên như một Sambhogakaya và Sambhogakaya được nhận biết một cách không che đậy, bám chấp vào hiện thângiải thoát vào chính trạng thái của nó.

Với giai đoạn kế tiếp của kinh nghiệm xảy ra này, bạn phải tiếp tục thực hành. Đừng từ bỏ như đã thường xảy ra. Nhờ tiếp tục thực hành, năm hiện thân thiêng liêng của chư Phật xuất hiện cùng với các phối ngẫu bên trong mỗi bindu trước đó. Trong cái thấy trước có nhiều bindu tràn đầy trong phạm vi cái thấy của bạn, bạn sẽ thấy năm vị Phật với phối ngẫu của các Ngài. Nếu bạn đạt đến điểm này trong tiến trình thiền quán, bạn chẳng còn thiền định nữa. Từ điểm này trở đi kinh nghiệm sẽ xuất hiện phù hợp với chính nó.

Điều này giống như nghề nông, một khi đất đã được cày cấy kỹ và gieo hạt, nếu mặt trời ló dạng người nông dân có thể nghỉ ngơi. Bây giờ mọi sự xảy ra theo tiếân trình tự nhiên. Tương tự, một khi con bạn đã trưởng thành chúng vượt khỏi sự kiểm soát của bạn nên bạn có thể nghỉ ngơi và chỉ xem điều gì xảy ra. Giống như vậy, trong giai đoạn phát triển tâm linh này bạn có thể chỉ ngồi và nghỉ ngơi; phần còn lại của sự phát triển tâm linh bạn sẽ tự nó chăm nom.

Vào lúc đó, bạn được giải thoát tự nhiên như Sambhogakaya. Ngoài ra cũng chẳng có ý niệm về, “Tôi là hiện thân này”. Mọi bám chấp như vậy đã được giải thoát và bạn giải thoát trong chính trạng thái của mình.

Tantra Nguyên Thủy Về Âm Thanh Xuyên Thấu trình bày:

Trong cái thấy của sự nhận biết tột bậc, các dấu hiệu và biểu tượng của Sambhogakaya xuất hiện rõ ràng và từ màu sắc vô hạn của cầu vồng, các bổn tôn và phối ngẫu của năm gia đình xuất hiện. Sau đó năm đôi hợp nhất với bindu chiếu sáng rực rỡ; và với sự xuất hiện của thân các bổn tôn với phối ngẫu, các hình tướng lừa dối tan hòa vào cõi tịnh độ.
Dấu vết Nirvana trình bày:

Nhờ cái thấy của sự nhận biết tột bậc, Sambhogakaya được nhận ra.

Cái Thấy Của Sự Tiêu Diệt Vào Tự Thân Thực Tại

Sự tiến triển của cái thấy trước đi đến kết thúc, và trong kinh nghiệm của cái thấy đó không có bản tánh bám chấp vào sự xuất hiện hay không xuất hiện. Vào lúc đó, cái xảy ra này được gọi là, “cái thấy của sự tiêu diệt vào tự thân thực tại.” Kinh nghiệm bị dập tắt, thân vật chất bị tiêu hủy, sự bám chấp vào các giác quan bị phá hủy, sự tụ hội của các tư tưởng dối gạt bị tiêu hủy, mọi nguyên lý triết họchình tướng lừa gạt bị tiêu diệt, thân vật chất của bạn biến mất và bạn trở thành một vị Phật. Điều đó được gọi là “sự tiêu diệt vào tự thân thực tại,” vì nó đưa đến sự tiêu hủy của hoạt động, các hình tướng lừa dối và sự tiến bộ của cái thấy dựa trên kinh nghiệm. Nó được gọi là “sự tiêu hủy vào tự thân thực tại,” nhưng nó không phải không hiện hữu như trong trường hợp của chủ nghĩa hư vô, trong đó có sự tiêu hủy vào sự không có gì cả. Đúng hơn là trí tuệ bổn nguyên của tri kiến và các phẩm tính tối ưu trở nên hiển nhiên. Tóm lại, năng lực các phẩm tính của ba hiện thân được đem đến viên mãn.
Vào lúc đó, không có cảm giác “đây là hình tướng” hoặc “đây không phải là hình tướng.” Không có bất tịnh cũng như không có bất cứ cảm giác nào về việc “đây là sự thanh tịnh.” Mọi khái niệm xây dựng như vậy hoàn toàn được siêu vượt.

Cho đến nay các kinh nghiệm được tiêu diệt ở đây là nhiều cái thấy khác nhau đã xảy ra. Sự bám chấp vào tất cả đối tượng của năm giác quan về âm thanh, sắc tướng v.v... đều bị tiêu trừ. Thân vật chất của hành giả ám chỉ thân nhiễm ô, đó là thân được tạo ra bởi hành động trướcphiền não tâm thức cũng được biến mất. Đừng hiểu điều này theo cách đoạn kiến. Không phải nói rằng mọi sự chỉ trở nên không có gì. Tự thân thực tại đưa đến sự đáp ứng các phẩm tính của tâm linh tỉnh thức, bao gồm vô số hoạt động giác ngộ của Đức Phật. Việc nói thực tại quy ước biến mất giống như nói mọi đám mây bị tiêu tan trong bầu trời xanh trong, mà không ám chỉ mặt trời biến mất. Mặt khác, bạn không bám chấp vào bầu trời, nói rằng, “Điều đó thật sự hiện hữu.” Loại bám chấp đó đơn giản là một biểu lộ của cực độ khác của thuyết đoạn kiến, vì nó không đơn giản là không có gì cả. Song, vì tự thân thực tại không thể bị bám chấp như thực sự hiện hữu, nó thoát khỏi sự cực đoan của thuyết đoạn kiến.

Trí tuệ bổn nguyên của tri kiến là của hai loại: bản thể học và hiện tượng học. Tri kiến của bản thể học là tri kiến của thực tại như nó là. Tri kiến hiện tượng học là tri kiến của toàn bộ phạm vi hiện tượng. Trong Phật quả có hai cách thức tri kiến đi đến viên mãnvô số phẩm tính giác ngộ trước đó tiềm tàng bây giờ được hiển lộ.

Do đó, trên việc thấy cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại, trong việc tùy thuộc vào cái thấy tiến bộ của cái thấy dựa trên kinh nghiệm, trong đó bản tánh tuyệt đối và sự nhận biết tiến bộ ngày càng cao hơn, sự nhận biết được đem đến tột bậc, bạn kinh nghiệm cõi tịnh độ của ba hiện thân. Giống như mặt trăng đến lúc tròn, thân thể đi đến sức mạnh hoàn toàn của nó, khi sự tiến bộ của kinh nghiệm ngưng lại, trí năng bị tiêu hủy, hiện tượng được tiêu trừ, và bám chấp được tiêu diệt. Điều này đơn giản được gọi là “cái thấy của sự tiêu trừ vào tự thân thực tại.”

Bạn có thể tự hỏi liệu sự tiêu trừ vào tự thân thực tại của Đại Viên Mãncon đường tột bậc và phẩm tính của năm con đường của truyền thống sutra là giống nhau. Chúng hoàn toàn không giống nhau. Thậm chí nếu có người đã đi đến sự tột bậc của việc viên mãn năng lực sáu ngàn phẩm tính của mười địa bodhisattva và năm con đường của tự thân truyền thống sutra, người đó cũng không hoàn toàn thấy các phẩm tính và năng lực của tantra, và họ chưa viên mãn. Do vậy đây là một khác biệt lớn giữa sự tiêu trừ vào tự thân thực tạicon đường cuối cùng.

Tantra Nguyên Thủy Về Âm Thanh Xuyên Thấu trình bày:

Cái thấy của sự tiêu trừ vào tự thân thực tại là sự rỗng không của cái thấy dựa trên kinh nghiệm. Thân thể bị tiêu hao, các đối tượng của giác quan bị tiêu hủy, tập hội các tư duy lừa gạt được giải thoát tự nhiênkế tiếp có sự thoát khỏi ngôn từ đó là nền tảng của khẩu.

Và:

Vì thế, trên việc chấm dứt sự liên tục của thân, các kết tập nhiễm ô biến mất, dẫn đến Phật quả hiển nhiên.

Nếu gieo hạt giống cây táo, bạn nuôi dưỡngcho đến lúc lớn thì chẳng cần tìm táo ở đâu khác. Để bắt đầu, bạn có hạt táo; sau đó nuôi dưỡng nó và kế tiếp nhận được quả ngay đó chẳng cần đi đâu khác. Tương tự, chúng ta đã có nhân của Phật quả trong mình và cũng có thân người với cuộc sống nhàn rỗi và thuạân lợi. Trong bối cảnh này chúng ta có cơ hội lắng nghe, suy nghĩthiền định. Với sự kết hợp của nguyên nhân bên trong chúng ta và các điều kiện của cuộc sống làm người quý báu và nhiều giai đoạn thực hành khác nhau, chúng ta có thể gặt hái kết quả của giác ngộ viên mãn.

Như chúng ta đã biết từ các kinh nghiệm rộng rãi, chỉ có nguyên nhân thì chưa đủ mà phải có các điều kiện góp phần. Sự quyết định, điều kiện góp phần cho tỉnh thức tâm linh là sự kiên trì trong thực hành.
Dấu vết Nirvana trình bày:

Nhờ cái thấy của sự tiêu trừ vào tự thân thực tại, kết quả của Đại Viên Mãn, thoát khỏi hành động được đạt đến. Trong cách này, trên việc đi đến tột bậc của nền tảng và con đường, chẳng có nirvana để tìm ở đâu khác.

Đây là con đường tột bậc của Đại Viên Mãn. Nên không có những phẩm tính của nirvana và chẳng có con đường nào khác để tìm. Đây là sự tối thượng. Thậm chí nếu con đường tột bậc của các thừa thấp được đạt đến, nếu cánh cổng của những phẩm tính tantra không được thấy, thì hành giả phải đi vào tantra và rèn luyện trong sự nghe và suy nghĩ. Do vậy, ngay cả nếu hành giả đi đến tột bậc của thực hành sutra, hành giả vẫn chưa đi đến tột bậc của tantra. Vì đây là sự tột bậc của mọi con đường, chẳng có con đường nào cao hơn, nên nền tảng được viên mãncon đường được viên mãn. Vì không có con đường nào cao hơn nên được gọi là Đại Viên Mãn. Đó là giáo lý về con đường trong đó bốn cái thấy xuất hiện

LỜI KHUYÊN KẾT THÚC

Thiết lập nền tảng trong ba không hoạt động, thiết lập tiêu chuẩn của ba vị trí, đóng đinh vào ba thành tựuhoàn thiện bốn trạng thái của tự tin. Điều này được đề cập rộng rãi hơn ở nơi khác. Đây là những hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại được gọi là sự giải thoát tự nhiên của cái thấy. Samaya.

Đã niêm, đã niêm, đã niêm.

8

Giải Thoát Tự Nhiên Của Sự Trở Thành:
Các Hướng Dẫn Dựa Trên Kinh Nghiệm
Về Tiến Trình Chuyển Tiếp Của Sự Trở Thành

Trong chủ đề chung thứ sáu, tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành (các hướng dẫn thiết thực giống như việc hoàn thành nhiệm vụ chưa hoàn tất về việc nối lại ống nước bị bể vào đường ống), giải thoát tự nhiên về sự trở thành đã được dạy. Những hướng dẫn thiết thực về thực hành của tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành là cho những người chưa thấy bốn cái thấy và chưa nhận ra tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại; chúng giống như việc hoàn thành nhiệm vụ chưa hoàn tất về việc nối lại ống nước bị bể vào đường ống.

ĐÓNG LẠI LỐI VÀO TỬ CUNG NHƯ MỘT 
HIỆN THÂN THIÊNG LIÊNG

Nếu bây giờ bạn là người thiền định về một hiện thân thiêng liêng, khi cái thấy của tiến trình chuyển tiếp xuất hiện – giống như tuyết, mưa, bão tuyết và bị nhiều người săn đuổi – ngay khi nhớ lại hình tướng rõ ràng của bổn tôn, mọi điều đó sẽ xuất hiện như vị bổn tôn bạn đã chọn. Để rèn luyện trong năng lực của điều đó, hãy ở một mình nơi hẻo lánh và thiền định giống như vầy: “Đây là gì? Về mặt hiện tượng hiện tại này, tôi đã chết và đang lang thang trong tiến trình chuyển tiếp; vậy nơi này, các bạn đồng hành, và các hình tướng không rõ rànghiện tượng của tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành, vì thế, trước đây tôi không nhận ra tiến trình chuyển tiếp đó và tôi lang thang. Bây giờ tôi phải xuất hiện như vị bổn tôn đã chọn.” Với suy nghĩ này hãy quán tưởng môi trường bên ngoài là cõi Phật nguyên sơ, các vị trong đó là tập hội các bổn tôn nguyên thủy của bạn đã chọn và mọi âm thanhâm thanh nguyên sơ của vị bổn tôn bạn chọn. Sau đó, đặt sự nhận biết của bạn một cách bình đẳng trong kinh nghiệm của không có đối tượng. Nhờ thực hành điều đó nhiều lần, khi tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành xuất hiện, bạn sẽ nhận ra tiến trình chuyển tiếp đó trước tiên. Kế tiếp trên việc nhớ lại giai đoạn phát triển, tiến trình chuyển tiếp sẽ xuất hiện như một hiện thân linh thiêng, lối vào tử cung sẽ được đóng lại và bạn sẽ đạt được trạng thái của một Vidyadhara.

Cái thấy của tiến trình chuyển tiếp xảy ra sau khi bạn chết. Ví dụ, nếu bạn áp dụng kiến thanh tịnh này vào hình tướng tuyết hay mưa trong tiến trình chuyển tiếp, chúng sẽ chuyển thành mưa hoa đổ xuống. Thân bạn và mọi thứ xung quanh xuất hiện trong tướng của vị bổn tôn bạn chọn. Nhờ phương tiện này bạn có thể đạt giải thoát. Tuy nhiên, chỉ bị lôi cuốn bởi ý niệm này thì chưa đủ. Bạn cần thực hành bằng sự nghe, tư duythiền định.

Hàng triệu, hàng tỷ, hàng tỷ tỷ lần chúng ta đã kinh nghiệm tiến trình chuyển tiếp. Đó là trong quá khứ chúng ta đã chết vô số lần nên chúng ta đã kinh nghiệm tiến trình chuyển tiếp vô số lần. Bây giờ để rèn luyện, hãy hình dung kinh nghiệm hiện nay của bạn hoàn toàn là tiến trình chuyển tiếp. Bạn làm điều này để chống lại khuynh hướng bám chấp trước đây vào những gì không thực sự hiện hữu như có thực và bám chấp vào các hình tướng lừa gạt như có thật. Đây là sự thiền định lan man đã được đi theo.

Thực hành đó tương ứng với giai đoạn phát triểnhoàn thiện. Trước tiên, để chống lại khuynh hướng đoạn kiến hãy quán tưởng chính bạn và mọi thứ trong môi trường của bạn là thanh tịnh. Sau đó để chống lại việc bám chấp vào thường kiến, hãy bổ sung thực hành trước về giai đoạn phát triển với giai đoạn hoàn thiện.

Sau khi chết lúc sắp nhận tái sanh kế tiếp bạn sẽ nhận ra tiến trình chuyển tiếp cho cái gì. Một khi đạt được trạng thái của một Vidyadhara, bạn có thể đi đến bất kỳ đâu bạn thích, đến bất cứ cõi tịnh độ nào hoặc nơi nào khác.

Nếu bạn thấy người ta hay súc vật giao hợp hoặc thấy một phụ nữ xinh đẹp lôi cuốn bạn, ngay khi khởi lên việc say mê cô ta, hãy nghĩ, “Than ôi! Đã lang thang trong tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành, tôi đang chuẩn bị đi vào tử cung. Vì vậy bây giờ tôi phải đóng lại lối vào tử cung.”

Ngăn Chận Người Đang Đi Vào

Ngay khi say mê cồn cào khởi lên, hãy nhanh chóng nhớ lại hoàn toàn việc quán tưởng sống động chính bạn như hiện thân của vị bổn tôn đã chọn. Với người chưa rèn luyện trong điều đó, khi thấy nam và nữ đang giao hợp trong tiến trình chuyển tiếp, nếu thọ tái sanh là nam bạn sẽ khởi lên ghen tức với người nam và say mê xuất hiện tới người nữ. Nếu bạn thọ tái sanh là người nữ, sự ghen tức sẽ khởi lên với người nữ và say mê người nam. Vào lúc đó nếu bạn đã quen thuộc với giai đoạn phát triển, thay vì khởi lên say mê và ghen tị bạn sẽ nhớ lại chính bạn như vị bổn tôn đã chọn đang đứng thẳng. Sự quán tưởng đó, sự xuất hiện của say mê cồn cào, sự đóng lại lối vào tử cung và sự chín muồi của bạn như hiện thân của bổn tôn xảy ra cùng lúc.

Do đó, mặc dù vào thời điểm hiện tại, khi có một phụ nữ xinh đẹp, lời nóicư xử lãng mạn, hoặc say mê mãnh liệt xuất hiện, hãy để điều đó là chất xúc tác cho bạn nhớ lại thân bạn một cách sống động như hình tướng rõ ràng của vị bổn tôn. Sau đó, không loại bỏ say mê, nó đến để giúp bạn. Dù sự say mê của bạn mạnh mẽ, nhờ rèn luyện trong giai đoạn phát triển của vị bổn tôn bạn chọn, bạn sẽ giải thoát không khó khăn trong tiến trình chuyển tiếp.

Sự nhắc đến việc thấy một phụ nữ xinh đẹp là dành cho người nam, vậy nếu bạn là người nữ thì hãy chuyển giống. Giáo lý này thích hợp cho chúng ta thực hành ngay bây giờ. Trong loại rèn luyện này bạn hình dung mình đã sẵn sàng trong tiến trình chuyển tiếp; và bạn bổ sung các thực hành này. Điều này có thể là một bộ phận phù hợp với việc thực hành Giáo Pháp của bạn. Trái lại, nếu bạn thực sự không thực hành Giáo Pháp và chỉ sử dụng Giáo Pháp để quyến rũ người khác, điều đó hoàn toàn không phải Giáo Pháp. Nó chỉ là nguyên nhân để bạn tái sanh như một preta hoặc một trong những trạng thái khổ cực của sinh tử. Do vậy, điều quan trọng là hiểu được bối cảnh đúng cách thức của thực hành này.

Bạn sẽ được giải thoát không khó khăn trong tiến trình chuyển tiếp nếu đặc biệt cẩn thận với những thực hành liên quan đến đam mê như vậy. Ngày nay việc người ta lạm dụng thực hành này là rất phổ biến. Phụ nữ gọi chính họ là dakini và sử dụng điều này như một giấy phép cho việc cố quyến rũ đàn ông. Người nam và người nữ nói dối về cấp độ nhận biết của họ, tuyên bốthông thạo trong giai đoạn phát triển v.v... Điều này đặc biệt phổ biến ở Mỹ. Ngoài ra, ở Ấn Độ một số đàn ông phương Tây để tóc dài, cột lại thành búi và giả vờ là người có nhận biết cao trong việc kiểm soát kinh mạch và năng lượng sự sống. Những người như vậy là nhầm lẫn.

thể tham gia trong thực hành chân chính về loại này, nhưng điều rất quan trọng là hãy làm cẩn thậnhoàn toàn không có bất cứ gian lận nào. Với phần lớn chúng ta không kiểm soát được tâm mình và nếu thiếu kiểm soát trong cuộc sống, thì sẽ chẳng hy vọng có được kiểm soát sau khi chúng ta chết. Khi lang thang trong tiến trình chuyển tiếp, chúng ta sẽ bị đẩy tới bởi hành động và thói quen trước của mình. Có những cơ hội trong tiến trình chuyển tiếp khi nỗi sợ hãi to lớn và đau khổ xuất hiện. Chúng ta sẽ có cảm giác mất thân thể và sẽ kinh nghiệm một thúc đẩy lớn lao kiếm được một thân mới. Điều đó sẽ bắt buộc chúng ta tìm ra một tử cung để có thể vào. Chúng ta có thể thấy nhiều loại chúng sanh khác nhau như súc vật, sự giao hợp, và sự thèm khát này có thể dẫn chúng ta tái sanh như loài vật, preta, hay địa ngục. Khi chúng ta không chống nổi thúc dục đó thì việc giải thoát là không thể. Thậm chí còn khó đạt được tái sanh làm người.

Ngăn Chận Lối Vào Tử Cung Khiến Bị Đi Vào

Nếu thấy nam và nữ giao hợp, ngay khi say mê và ghen tị khởi lên, hãy nói, “Tôi đang lang thang trong tiến trình chuyển tiếp. Than ôi, vào lúc này khi tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành xảy đến với tôi, tôi phải duy trì sự quán tưởng tập trung một điểm trong tâm thức và phải tha thiết kết thúc xuất sắc nhiệm vụ chưa hoàn tất.” Trên việc ngăn chận lối vào tử cung, hãy nhận thức về việc chuyển khỏi nó. Đây là thời điểm cho cái thấy thanh tịnh, nhiệt thành. Hãy tập quen thuộc với suy nghĩ về người nam và nữ đó như vị bổn tôn và phối ngẫu bạn đã chọn, quán tưởngtôn kính các Ngài và có cảm giác chân thành về việc tiếp nhận quán đảnh. Thậm chí nếu bạn không chứng kiến hành động giao hợp, hãy nhớ trong tâm và nhờ nhớ lại cái thấy rõ ràng về vị bổn tôn đã chọn. Vì thế giai đoạn phát triển sẽ đến để giúp bạn và lối vào tử cung của tiến trình chuyển tiếp về sự trở thành sẽ được đóng lại. Do vậy, điều này là thâm sâu. Samaya.

Cả hai thực hành trước về ngăn chận người bị đi vào tử cung và ngăn chận lối vào tử cung sẽ không bị đi vào cho người đã tự phát triển chính họ như vị bổn tôn đã chọn. Tại sao bạn nên làm quán tưởng đó? Đó là vì hai mục đích: sự thực hành như vậy có thể dẫn đến cả hai siddhi thông thường và tối thượng trong đời này. Sau khi chết, thực hành này hoạt động như sự chuẩn bị cho việc đạt được siddhi tối thượng, cụ thểgiác ngộ viên mãn. Đó là mục đích chân chính của việc tham gia trong giai đoạn phát triển. Nhờ hoàn thành mục đích này, hoặc trong đời này hay trong tiến trình chuyển tiếp sau khi chết, mối quan tâm của bạn sẽ được đáp ứng. Bạn cũng trong vị trí để sau đó phục vụ nhu cầu của người khác, do đó các quan tâm của người khác cũng được đáp ứng; và điều này cũng là phục vụ cho Giáo Pháp.

ĐÓNG LẠI LỐI VÀO TỬ CUNG NHỜ QUÁN TƯỞNG
VỊ THẦY TÂM LINH CỦA BẠN VỚI PHỐI NGẪU

Khi bạn chứng kiến sự giao hợp, hãy nhớ lại đối tượng của đam mê hoặc khi sự say mê của bạn khởi lên mạnh mẽ, hãy quán tưởng đối tượng say mê của bạn như Đức Guru Orgyen Padma và phối ngẫu Yeshe Tsogyal ôm chặt trong hợp nhất tính dục. Hãy loại bỏ thái độ ghen tức và hưởng ứng với lòng tôn kính và sùng mộ. Hãy quán tưởng mạnh mẽ việc tiếp nhận bốn quán đảnhđặc biệt là do nhớ lại ý nghĩa của quán đảnh thứ ba, hãy nhớ thực tại bẩm sinh trong tâm bạn sẽ đóng lại lối vào tử cungđược giải thoát trong tiến trình chuyển tiếp. Ngoài ra, hãy loại bỏ ghen tị rồi thiền định về vị thầy tâm linh với phối ngẫu, đây là thời điểm cho cái thấy thanh tịnh, chân thật. Do vậy điều này đã được nói.

Trong quán đảnh thứ ba bạn chấm ngón tay trỏ của bạn vào bột màu đỏ và chạm vào giữa ngực bạn, biểu tượng hóa sự hợp nhất của phương tiệntrí tuệ. Các thực hành như vậy được thiết kế để thuận tiện cho việc nhận ra bản tánh của tánh không, hoặc thực tại tối thượng. Tương tự, trong một số nhập môn người ta phô bày hình ảnh của một phụ nữ không che đậy và điều này có cùng mục đích.

ĐÓNG LẠI LỐI VÀO TỬ CUNG 
VỚI THỰC HÀNH VỀ BỐN CỰC LẠC

Sự rèn luyện trở nên rất thành thạo trong các hướng dẫn đại cực lạc về lỗ mở ở dưới, rồi tìm một mudra đủ phẩm tánh, dẫn cô ta đến nơi hẻo lánh và thiền định về huyễn thân với mudra. Sau đó cả hai bạn và mudra tự xem là các bổn tôn đã chọn. Trước tiên, sự thực hành liên quan đến sắc tướng đòi hỏi trao đổi cái nhìn thoáng qua của sự say mê. Sự thực hành liên quan đến âm thanh đòi hỏi lời nói lãng mạn và chú ý vào khẩu để khơi lên say mê. Sự thực hành liên quan đến mùi đòi hỏi ngửi hoa sen và hương thơm của mudra. Về phần vị giác, cắn và mút đường cứng hay đường thô; về mặt tiếp xúc, vuốt ve mơn trớn và bú hai vú, ôm và kích thích nhẹ nhàng, và xoa vùng trung tâm hoa sen. Cởi áo và nhìn vào vajra và hoa sen, khơi dậy đam mê; và khi mudra say mê với dục vọng, đam mê khởi lên và vajra sẵn sàng; nhẹ nhàng đưa vào hoa sen. Sau đó di động lên và xuống đến mức nền tảng của nó, vẫn trong cảm giác của rỗng không khoảng một chút trong lúc không di động. Nhờ chuyển động nhẹ nhàng, không làm mất kinh nghiệm đó, cực lạc đầu tiên xuất hiện và được nhận ra. Với cảm giác đó vẫn trụ hoàn toàn trong cực lạc và rỗng không. Nếu dường như cực lạc tan biến. Bằng việc chuyển động thọc mạnh vào nhiều hơn phù hợp với kinh nghiệm của bạn, khoái lạc sẽ gia tăngcực lạc tối thượng được nhận ra. Sau đó trí tuệ bổn nguyên của sự bất nhị, cực lạc bẩm sinh và tánh không được nhận ra. Nhờ thực hành đó, trong trường hợp tốt nhất vào lúc chết, một khi các nguyên tố dần dần thu rút lạicuối cùng tan hòa, rakta có được từ người mẹ khởi lên; Tâm linh Tỉnh thức có được từ người cha từ đỉnh đầu bạn đi xuống; bodhicitta trắng và đỏ xuất hiện như cái thấy của con đường trắng và con đường đỏ, sau đó chúng gặp nhau ở tim. Cùng với sự xuất hiện trong cực lạc vô lượng bẩm sinh, khi ý thức bị khuếch tán và bạn trở nên mê sảng, hơi thở bên trong ngưng lại. Do vậy, nếu một người thực hành bốn cực lạccon đường theo thủ tục của cực lạctánh không vào lúc đó và người nhận ra cực lạc bẩm sinh vào dịp quán đảnh thứ ba xác định điều này, người đó sẽ lập tức được nâng lên trạng thái vô biên. Vì thế sự trình bày thâm sâu của con đường theo thủ tụccon đường sứ giả của tantra giống như vậy.

Thậm chí nếu điều này không được nhận ra ở đây, trong tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại, ngay khi bạn thấy bổn tôn hiền minh và phẫn nộ với phối ngẫu ôm chặt trong sự hợp nhất, bạn sẽ nhớ lại và nhận ra trí tuệ bổn nguyên của cực lạc bẩm sinh trên cơ hội quán đảnh thứ ba và bạn sẽ đạt giải thoát. Nếu bạn không nhận ra nó ở đây, thì trong tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành, ngay khi thấy người nam và nữ đang giao hợp bạn sẽ nhận ra trí tuệ bổn nguyên của cực lạc bẩm sinh, trí tuệ bổn nguyên về sự cực lạc của kinh nghiệm trong khi quán đảnh và lối vào tử cung sẽ được đóng lại. Sau đó chắc chắn bạn sẽ giải thoát trong tiến trình chuyển tiếp và đạt được trạng thái của một Vidyadhara.

Do đó. Vì đây là con đường nhanh chóng và thâm sâu hơn các tantra khác, ngay bây giờ, không lo nghĩ về những gì người ta nói, hãy rèn luyện trong các hướng dẫn đại cực lạc về lỗ mở ở dưới. Vì đó là phần chính của sự thực hành tiến trình chuyển tiếp. Vì thế, điều quan trọng là tìm được phối ngẫu trẻ trung, đủ phẩm tánh và rèn luyện trong con đường thâm sâu của cực lạc. Các chi tiết được biết trong các hướng dẫn đại cực lạc về lỗ mở ở dưới. Đó là sự đóng lại lối vào tử cung với con đường của đam mê, và nó là triển vọng cho người bậc thượng56 nhiều may mắn. Samaya.

CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT ĐÓNG LẠI LỐI VÀO TỬ CUNG
VỚI SỰ GIẢI ĐỘC CỦA VIỆC TỪ BỎ NHƯ THẾ NÀO

Bây giờ những người thường giữ giới, tu sĩ mới xuất gia hoặc tu sĩ đã thọ cụ túc giới giữ gìn các nguyện nhấn mạnh thiền định về sự dơ bẩn hoặc thực hành từ bỏ mãnh liệt ngay khi họ chứng kiến sự giao hợp hay nhớ lại đối tượng của đam mê. Trong tiến trình chuyển tiếp khi họ thấy người nam và nữ đang giao hợp, họ sẽ nhớ lại sự rèn luyện của họ và từ bỏ. hoặc lối vào tử cung sẽ bị đóng để không bị đi vào hoặc họ sẽ tái sanh trong một tử cung hoàn hảo và có được một sanh ra may mắn. Con đường này thấp hơn một chút so với cái trước. 
Samaya.

Thiền định về sự dơ bẩn đòi hỏi việc quan sát hay hình dung các thành phần khác nhau của thân: máu, mỡ, mô liên kết v.v... Đây là một loại thiền định để chống lại đam mê. Nó được thiết kế cho người có giới luật và là biểu hiện cho ý định tha thiết của họ để duy trì giới luật thanh tịnh. Những từ bỏ như vậy sử dụng thiền định về sự dơ bẩn để chống lại thèm khát nhục dục, là nguyên nhân của sự kéo dài mãi mãi việc hiện hữu của chúng ta trong samsara. Tuy nhiên, những người như vậy không nên nghĩ rằng người nào tham gia vào giao hợp tính dụcthấp kém và cũng không nên phản ứng với họ bằng việc thù ghét. Thay vì áp dụng sự giải độc trực tiếp đến chính tâm họ, mà đúng hơn các từ bỏ khảo sát đối tượng của thèm muốn nhục dục như vậy, nhấn mạnh về sự dơ bẩn của nó. Trong cách này họ thay đổi nhận thức của họ về đối tượng như một phương tiện gián tiếp để chống lại khuynh hướng của chính tâm họ.

Bất kể thực hành nào bạn làm, hãy tham gia trong nó vì lợi ích của đời này và đời sau. Bất cứ tiếp cận nào bạn nhận, việc thực hành của bạn phải đem lại lợi ích cho chính bạn và người khác. Nó phải hoạt động như một giải độc cho sự đau khổ mãi mãi trong chu trình sinh tử này. Nếu nó không chống nổi đau khổ vậy thì tốt cái gì? Nhờ tiến bộ theo con đường thực hành này bạn có thể đạt được siddhi thông thường và tối thượng, đó là Phật quả.

Giờ đây, chúng ta nên có quan niệm tốt đẹp về các thực hành là gì. Hoàn cảnh hiện tại của chúng ta là đang lang thang trong samsara. Khi kinh nghiệm vận may tốt đẹp chúng ta trở nên hào hứng và phấn khích là điều phổ biến. Điều này biểu lộ sự thiếu kiên nhẫn trong bề ngoài của hạnh phúc. Trong nghịch cảnh, chúng ta kinh nghiệm tràn ngập phiền não. Cả hai cảm xúc tràn ngập này do phản ứng với hạnh phúcnghịch cảnh, là nguyên nhân của chấp ngã và từ việc tự cho mình là trung tâm. Chúng đều dẫn đến bám luyến và thù ghét. Với những người trong các bạn thực sự muốn chống lại đau khổ của mình một cách hiệu quả, tôi đề nghị bạn học luận thư của Ngài Santideva được gọi là Một Hướng Dẫn Đến Bồ Tát Đạo Của Cuộc Sống. Luận thư này đưa ra lời khuyên cho người đang đau khổ. Ngoài ra, sự đau khổ của bạn sẽ được nhẹ bớt nhờ thiền định về Bốn Suy Niệm Làm Chuyển Tâm, Tứ Diệu Đếbản chất của hành vi với các hậu quả của chúng. Đây là thuốc làm nhẹ bớt đau khổ của bạn. Các giáo lý lợi ích khác cũng được thấy trong bản văn với đề tựa Sự Chuyển Hóa Hạnh PhúcNghịch Cảnh Thành Con Đường Tâm Linh, đã được dịch trong quyển Trí Tuệ Cổ Xưa.

Khi thảm kịch xảy đến, nhất là ở Mỹ người ta rất thường nói, “Tại sao điều này xảy ra?” hoặc “Làm sao điều này lại xảy ra?” Người ta thường nghe sự phản ứng, “Tôi không thể tin điều này lại xảy ra!” hoặc “Tôi thật ngạc nhiên là điều này lại có thể xảy ra.” Chẳng có gì là tốt về sự chấp nhận bất lực và thừa nhận nghịch cảnh này. Nó khởi lên từ sự chấp ngã và nguồn gốc của nó từ năm độc của ảo tưởng, bám luyến, thù ghét, ghen tị và kiêu mạn. Chúng ta bị năm độc này làm chủ. Giữa năm độc này, bốn cái giống như các bộ trưởng của nhà vua. Nhà vua là sự ảo tưởng – bám luyến, thù ghét, ghen tị và kiêu mạn là các bộ trưởng. Phần còn lại của tám vạn bốn ngàn phiền não tâm thức cũng giống như thần dân của nhà vua. Khi chúng ta nghĩ, “Tôi là một người đặc biệt,” sự chấp ngã đó dẫn đến đau khổ và sinh vào cõi thấp. Con đường của việc nghe, suy nghĩthiền định là vì mục đích giải thoát chúng ta khỏi đau khổphiền não phát sinh từ chúng. Khi sự che ám của phiền não tâm thức bạn tiêu tan và biến mất, mặt trời của trí tuệ bổn nguyên sẽ chiếu sáng.

Với những người là vị thầy điều quan trọng là đừng kiêu căng và tự đắc. Đúng hơn, chúng ta cần thương xót các vị thầy. Điều quan trọng đầu tiên là động cơ. Dù nghe, suy nghĩ, hay thiền định thì động cơ là tối cao. Có những loại động cơ khác nhau. Có động cơ không danh dự, động cơ danh dự; có động cơ đạo đức và động cơ không đạo đức. Dĩ nhiên trong số này chúng ta cần phát sinh độngdanh dự và động cơ đạo đức, động cơ của Mahayana, đặc biệt là động cơ của Tâm linh Tỉnh Thức. Động cơ này chống lại việc tự xem mình là trung tâm, thay thế nó với động cơ tập trung vào lợi ích của người khác. Trái lại, nếu chúng ta giảng dạy, viết hay tranh luận với cảm giác chúng ta là người đặc biệt thì sẽ là điều hổ thẹn. Do đó, trước tiên, điều quan trọng nhất là phát sinh độngthích hợp.

ĐÓNG LẠI LỐI VÀO TỬ CUNG VỚI THANH TỊNH QUANG

Nhờ rèn luyện trong con đường hướng dẫn về Xuyên Thấu và hòa nhập với ý nghĩa của tánh không, cá nhân cấp cao sẽ nhận ra thanh tịnh quang nền tảng trong tiến trình chuyển tiếp của cận tử và, không cần tiến trình chuyển tiếp, họ sẽ tiến đến Dharmakaya vô biên. Thậm chí với cá nhân thấp nhất, thực tại của tánh khôngthanh tịnh quang sẽ xuất hiện sống động trong dòng tâm thức họ khi họ chứng kiến sự giao hợp tính dục trong tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành và họ sẽ được giải thoát. Samaya.

Để hiểu sự diễn giải, bạn phải nhớ lại tiến trình chuyển tiếp của giấc mộngthực hành gắn liền với sự giải thoát tự nhiên của ảo tưởng. Nếu rèn luyện trong thực hành vị bổn tôn bạn chọn khi trong tiến trình chuyển tiếp sau lúc chết, và bạn thấy một đôi đang tham gia trong hoạt động giao hợp tính dục, đó là lúc bạn tự phát sinh như vị bổn tôn đã chọn với phối ngẫu. Nhờ nhớ lại và thực hiện đầy đủ sự thực hành của giai đoạn phát triển ở đây, bạn sẽ được giải thoát. Nếu bạn có được kinh nghiệm tốt đẹp trong giai đoạn hoàn thiện hoặc trong Đại Viên Mãn, do phát sinh sự nhận biết của bạn về tánh không vào lúc này, bạn sẽ đạt giải thoát trong tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành.

ĐÓNG LẠI LỐI VÀO TỬ CUNG VỚI THÂN HUYỄN

Bây giờ, một khi bạn đã rèn luyện trong sự giải thoát tự nhiên về hình tướng của huyễn thân, khi nỗi sợ hãi của tiến trình chuyển tiếp khởi lên và lối vào tử cung xuất hiện, samadhi như-huyễn sẽ xuất hiện trong dòng tâm thức, và bạn sẽ giải thoát.

Điều này gắn liền với thực hành trước của tiến trình chuyển tiếp về giấc mộng và thân huyễn. Hãy nhớ lại có hai loại thân huyễn, thanh tịnhbất tịnh và điều đó được trau dồi trong thực hành yoga giấc mộng. Quan điểm của tất cả điều này là thấy thân, khẩu, ý của bạn và mọi thứ khác đều là bản tánh của huyễn ảo.

Để tổng hợp các điểm quan trọng nhất của tất cả thực hành này, hành giả của giai đoạn phát triển rèn luyện trong cái thấy của mọi hình tướng của tiến trình chuyển tiếp về lúc sống như bản tánh của chư thiênthiên nữ. Và hành giả của giai đoạn hoàn thiện rèn luyện trong cái thấy rõ ràng mọi thứ xuất hiện như sự tự-hiện, trí tuệ bổn nguyên và rỗng không. Ngoài ra, nhờ rèn luyện về mọi hình tướng như sự phản chiếu trong gương, xuất hiện nhưng không có tự tánh, những hình tướng như vậy và rỗng không là bất khả phân, các hình tướng lừa gạt của ban ngày sẽ xuất hiện như kiến thanh tịnh. Nhờ đó, hành giả thoát khỏi bám chấp vào sự hiện hữu thực sự của giấc mộnghành giả hoặc nhận ra trạng thái mộng như trạng thái mộng, hoặc nó xuất hiện như thanh tịnh quang. Nhờ đó, các hình tướng lừa gạt của tiến trình chuyển tiếp xuất hiện như kiến thanh tịnh và hành giả được giải thoát trong tiến trình chuyển tiếp.

Thực hành này bắt đầu vào ban ngày bằng việc trau dồi kiến thanh tịnh và rèn luyện trong bản tánh huyễn ảo của mọi thứ bạn kinh nghiệm. Trở nên quen thuộc với điều đó trong lúc ban ngày sẽ để dấu vết trên dòng tâm thức bạn và sẽ đem vào trạng thái mộng, nên kiến thanh tịnh này cũng xảy ra vào ban đêm. Quen thuộc với điều đó trong trạng thái mộng sẽ đem sang tiến trình chuyển tiếp sau khi chết. Trong cách đó, có khả năng nhận ra bản tánh của tiến trình chuyển tiếp như nó là gì, nhờ đó tự bạn giải thoát khỏi nó. Quan điểm của điều này là đạt giải thoát khỏi đau khổ của chu trình sinh tử cho chính mình cũng như cho người khác.

Vào ban ngày, chúng ta tự nhiên thấy mọi hình tướngbất tịnh. Khuynh hướng này đem vào ban đêm, nên giấc mộng cũng được thấy là bất tịnh. Vì thói quen này, các hình tướng trong tiến trình chuyển tiếp sau khi chết cũng được thấy là bất tịnh. Tất cả điều này xảy ra vì thói quen của chính tâm chúng ta.

Thực hành đó đòi hỏi sự liên tục, sự nhận biết của bạn nghỉ ngơi cân bằng trong sự không thay đổi, kinh nghiệm thanh tịnh nguyên thủy của hình tướng rõ rệt của hiện tại. Nếu niệm tưởng phát sinh, hãy thấy rõ chúng với sự tự tin của bốn loại đại giải thoát. Trau dồi ý thức đó bất cứ khi nào chúng xuất hiện là sự tự-hiện và tự-giải thoát. Ngoài ra, hãy suy ngẫm rằng, “Mọi đối tượng xuất hiện bây giờ là các đối tượng xuất hiện sau khi tôi chết và tôi đang lang thang trong tiến trình chuyển tiếp. Chúng hỗn độn và không bền. Các đối tượng hiện tại này cũng là đối tượng xuất hiện trong tiến trình chuyển tiếp của sự trở thànhchúng sanh được sinh ra, đi quanh quẩn cũng là chúng sanh của tiến trình chuyển tiếp. Âm thanh gầm thét của năng lượng sự sống, sấm, chớp, mưa, mưa đá, bóng tối, tiếng người nói ồn ào và tiếng chó sủa, hát và múa, trò chơi, chiến tranh, đối thoại bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, sự thực hiện nhiều hành động khác nhau, và những âm thanh chói tai, lộn xộn ngẫu nhiênhỗn độn khác nhau là chắc chắn có trong tiến trình chuyển tiếp. Những người bạn tôi gặp hôm nay và chiều tối này, họ hàng thân thuộc, và các người đi cùng cũng đã chết và đang lang thang với tôi trong tiến trình chuyển tiếp. Họ thực sự không hiện hữu, và giống như giấc mộng, ảo ảnh, họ không có chủ thể hiện hữu hay hiện hữu thực sự.”

Không dễ nhận ra sự bất biến, bản tánh thanh tịnh bổn nguyên của hình tướngchúng ta kiên quyết phân biệt giữa tốt và xấu, phân loại thực tại và cấu trúc sự vật theo quan niệm chính mình là trung tâm. Kết quả là, khi một số người cố nghỉ ngơi trong trạng thái phi cấu trúc, không nhiễm ô này của sự nhận biết, họ đã tự mình làm căng thẳng bằng việc ngồi thật thẳng và ráng sức thở. Điều đó không phải là trạng thái phi cấu trúc; nó chỉ là một trạng thái nhiều cấu trúc hơn. Mặt khác, một số người nghĩ rằng nghỉ ngơi trong trạng thái nhận biết phi cấu trúc có nghĩa lang thang quanh quẩn không mục đích trong một cách hoàn toàn ngẫu nhiên. Điều đó cũng là một cực đoan khác.

Việc tâm nghỉ ngơi trong trạng thái thanh tịnh bổn nguyên, phi cấu trúc của nó có nghĩa bạn không chạy theo bất kỳ niệm tưởng nào khởi lên dù chúng là thiện hay bất thiện. Vì thế, bất cứ những gì xảy đến trong tâm hãy để chúng đến và đi không cần phản ứng, không phân loại nó, và không hưởng ứng hoặc cố làm thay đổi nó. Điều này giống như quan sát gió, dù gió đến từ hướng đông, tây, nam hay bắc dù gió thổi theo hướng nào, gió vẫn có đó. Đó là tính chất của sự nhận biết phi cấu trúc. Điều này rất khó làm trong thực hành. Một lý do cho điều đó là ngay cả dù chúng ta có thể làm trong một thời gian ngắn, chúng ta không thỏa mãn. Chúng ta không tin nó.

 Khi bạn trau dồi ý thức rằng bất cứ những gì xảy đến đều là sự tự-hiện và tự-giải thoát, bạn hãy chỉ để nó đến và đi. Thấy mọi sự kiện tâm thức đơn giản trong bản tính của chính chúng. Khi niệm tưởng khởi lên, chúng không tích trữ ở một nơi nào đó như thể trong một ngân hàng tâm thức. Nêu có một ngân hàng như vậy, chúng ta sẽ là mọi thứ dơ bẩn. Đúng hơn, sự kiện tâm thức xuất hiện tự nhiên và chúng tự nhiên biến mất.

Trong thực hành ở đây, điều quan trọng là không làm mất sự nhận biết của bản tâm hoặc bản tánh của sự kiện tâm thức. Bất cứ những gì xảy đến, đừng ngăn chận nó. Ngay khi cố ngăn chận nó, bạn đã làm mất bản tánh của nó và bạn chẳng còn làm được thực hành này. Nếu cảm thấy rằng bạn phải làm điều gì đó khiến niệm tưởng biến mất, bạn cũng không làm thực hành. Nếu cảm thấy bạn cần kéo dài các sự kiện tâm thức này, một lần nữa bạn không thực hành. Sự thực hành ở đây là để sự nhận biết được nghỉ ngơi trong trạng thái tự nhiên, thanh tịnh bổn nguyên của nó.

Hãy nhớ lại rằng trong thực hành trước về tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng, ngay trong lúc thức bạn nhìn vào các hình tướng ban ngày và nghĩ, “Đây là giấc mộng. Điều này thực sự là một giấc mộng. Ngay bây giờ, tôi đang nằm mộng.” Tương tự, trong tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành, trong lúc ngày và đêm bạn xem mọi thứ như các hình tướng hỗn độn, mơ hồ như sau khi bạn chết và đang lang thang trong tiến trình chuyển tiếp. Chúng không bền, thoáng qua và mau phai nhạt. Các đối tượng này là của tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành. Chúng sanh được sinh ra và đi quanh quẩn cũng là chúng sanh của tiến trình chuyển tiếp. Nói khác đi, khi bạn thấy người khác, hoàn cảnh v.v... vào lúc ban ngày hãy nghĩ rằng đó là những chúng sanh đang đi quanh quẩn trong tiến trình chuyển tiếp sau khi chết.

Chẳng hạn, trong toàn bộ giai đoạn của việc đàm luận hãy nghĩ về nó như đang xảy ra trong tiến trình chuyển tiếp. Mục đích của thiền định này là để trau dồi sự nhận biết liên tục, ngày và đêm, về sự không có tự tánh của hiện tượng. Trong cách này, chúng ta nhận ra cách thức mình bị nhầm lẫn như thường lệ vì bám chấp vào tự tánh của hiện tượng.

Một lần nữa hãy đặt sự nhận biết của bạn bình đẳng trong kinh nghiệm bắt đầu với việc quy y cho tới giai đoạn phát triển, giai đoạn hoàn thiện, tánh không, và Mahamudra. Nhờ phát triển sự quen thuộc với các xu hướng như vậy, bạn nên thường xuyên nghĩ, “Đây là tiến trình chuyển tiếp,” và thậm chí nói lớn tiếng, “Đây là tiến trình chuyển tiếp. Đây là tiến trình chuyển tiếp. Than ôi! Tôi đang lang thang trong tiến trình chuyển tiếp. Vị thầy ơi! Vị thầy ơi!” vào lúc đó hãy thốt ra nhiều lần “Bài Nguyện Kêu Cầu Giúp Đỡ,” “Các Lời Nói Chủ Yếu Của Tiến Trình Chuyển Tiếp,” “Sự Giải Thoát Qua Con Đường Hẹp,” và các bài nguyện bảo vệ khỏi sợ hãi. Hãy nhìn vào quyển Giải Thoát Qua Việc Nghe nhiều lần và toàn bộ vòng giáo lý về tiến trình chuyển tiếp.

Tóm lại, hãy rèn luyện tâm thức bạn trong Giáo Pháp của tiến trình chuyển tiếp. Không có thiền định nào cao hơn sự quán tưởng này. Liên tục thực hành sự quán tưởng tiến trình chuyển tiếp. Sau đó, nghỉ ngơi thăng bằng trong kinh nghiệm bất biến của tự-tâm. Nhờ khơi dậy dòng tâm thức bạn với sự quán tưởng của tiến trình chuyển tiếp, bạn tự áp dụng kiên trì thực hành tâm linh. Hãy đọc kỹ Giải Thoát Qua Sự Nghe Của Tiến Trình Chuyển Tiếp Về Tự Thân Thực TạiGiải Thoát Qua Việc Nghe Của Tiến Trình Chuyển Tiếp Về Sự Trở Thành. Hãy rèn luyện tâm bạn trong tất cả sáu ngọn đèn, các Pháp bổ sung của tiến trình chuyển tiếp, và trong sự nhận ra tiến trình chuyển tiếp. Nhờ làm như vậy, người giỏi hơn chắc chắn sẽ giải thoát trong đời này, người trung bình thì vào lúc chết, người thấp hơn thì trong tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại; và thậm chí người thấp nhất sẽ được giải thoát nhờ kết thúc nhiệm vụ chưa hoàn thành của họ trong tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành. Đây là các hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của sự trở thành được gọi là giải thoát tự nhiên của sự trở thành. Samaya.

Vào lúc niệm tưởng bất thiện khởi lên trong tâm, bạn có thể bị sợ hãi. Thậm chí có vẻ chúng có thể mạnh hơn trước đó. Trong thực tế, những niệm tưởng như vậy hiện diện mọi lúc mà bạn không nhận ra chúng ngay lập tức. Việc chú ý đến chúng là tốt và nên quan tâm về chúng. Trước tiên, hãy nhận ra sự bất thiện khi nó khởi lên rồi dần dần từ bỏ nó. Ví dụ, từ bỏ sự bất thiện của việc sát sanh và hãy bảo vệ mạng sống của người khác. Ngay cả việc có được động cơ bảo vệ cuộc sống của người khác cũng là một phần của thực hành. Tương tự, hãy tránh mọi loại trộm cướp bao gồm lừa gạt, chơi hai mặt v.v... và trau dồi sự đối nghịch với trộm cắp đó là sự rộng lượng (bố thí).

Bạn có thể chính mình kinh nghiệm sự trong sáng hay thanh tịnh của tâm qua thực hành của Đại Viên Mãn và nhất là qua sự trau dồi thiền chỉ. Điều quan trọng là kết hợp thực hành này với cầu nguyện đến vị thầy tâm linh của bạn. Bạn có thể cầu nguyện đến vị thầy tâm linh như bất khả phân với Đức Padmasambhava, Vajrasattva, Phật Sakyamuni, Manjusri v.v... Lý do của việc thấy Ngài là bất khả phân nhằm tạo cơ hội bảo vệ khỏi các hình tướng thông thường. Một khi nhận ra vị thầy tâm linh như Đức Phật, Padmasambhava hoặc Vajrasattva, chúng ta không cần làm bất kỳ thực hành đặc biệt nào khác về vị bổn tôn đã chọn của mình. Vì bây giờ chúng ta đã nhận ra Đức Phật như Đức Phật.

Nhiều người có khao khát mạnh mẽ tham gia thực hành tâm linh trong nhập thất. Điều đó là tốt. Nhưng trước khi bạn bỏ đi nhập thất, điều quan trọng là thực hành ngay bây giờ. Việc nhập thất chắc chắnđáng giá nhưng không tuyệt đối cần thiết. Ngoài ra, chỉ đơn giản sống trong nhập thất không dẫn đến tỉnh thức tức thời. Nó thật không dễ. Con đường thiết thực nhất là thực hiện giáo lý này ngay bây giờ càng nhiều khi bạn có thể trong cuộc sống hàng ngày của bạn.

Hãy để thực hành của bạn trôi chảy trong hiện tại còn hơn việc liệu trước một số hoàn cảnh tương lai mà bạn tính toán là lý tưởng hơn. Để đạt tới giải thoát, bạn phải nhận ra giá trị to lớn và hiếm có về cuộc sống với nhàn rỗithuận lợi hiện nay của bạn, và thực hành kiên trì suốt cuộc đời bạn và trong tiến trình chuyển tiếp theo sau cuộc đời này.

Kỳ diệu thay! Sự giải thoát tự nhiên này, giáo lý cốt tủy về sáu tiến trình chuyển tiếp
Là sự tổng hợp của tất cả sự tư duy sâu lắng của các đấng chiến thắng;
cốt lõi của mọi Giáo Pháp uyên thâm của các yana;
giáo lý dựa trên kinh nghiệm để dẫn dắt chúng sanh trên con đường giải thoát.
Trong thời đại cuối của kiếp tương lai
Khi tất cả chúng sanh cư xử trái với Giáo Pháp,
Cầu mong con đường uyên thâm này giải thoát chúng sanh!
Cầu mong mọi người không loại trừ ai đều đạt được Phật quả viên mãn!
Cầu mong Giáo Pháp uyên thâm của giáo lý vĩ đại về sáu tiến trình chuyển tiếp này
Được gọi là sự giải thoát tự nhiên qua thiền định: các hướng dẫn dựa trên kinh nghiệm
Tiếp tục được giảng dạy cho đến khi chu trình sinh tử trống rỗng!
Samaya.
Kho tàng đã được niêm ấn.
Sự bí mật đã được niêm ấn.
Sự uyên thâm đã được niêm ấn.

Lời Kết

Thành tựu giả Karma Lingpa khám phá giáo lý này từ Núi Gampo Dar. Ngài đã tạo ra một dòng truyền duy nhấtbổ nhiệm Guru Nyida Ozer là vị thầy của Giáo Pháp uyên thâm này. Cầu mong đó là đức hạnh!

 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
08/08/2010(Xem: 108946)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.