Khái Lược Phật Giáo Mật Tông Tại Indonesia

02/03/20211:00 SA(Xem: 4474)
Khái Lược Phật Giáo Mật Tông Tại Indonesia

KHÁI LƯỢC PHẬT GIÁO MẬT TÔNG TẠI INDONESIA
(Indonesian Esoteric Buddhism Summary)
Thích Vân Phong

 

Phật giáo Kim Cương thừa Mật tông Indonesia hay Phật giáo Mật tông tại vùng biển Đông Nam Á, đề cập đến các truyền thống của Phật giáo Mật tông, được tìm thấy ở vùng biển Đông Nam Á, xuất hiện vào thế kỷ thứ 7, dọc theo các tuyến đường thương mại hàng hải, và các thành phố cảng của các đảo Java và Sumatra của Indonesia, cũng như ở Malaysia.

 

Những hình thức Phật giáo Kim Cương thừa Mật tông này, được truyền bá bởi những người hành hương, và chư tôn tịnh đức Đạo sư Mật tông, những người nhận được sự bảo trợ của hoàng gia, từ các Vương triều, hoàng tộc như Sailendras và Srivijaya.

 

Vương triều Sailendras, một vương triều ở Trung Java (Indonesia ngày nay), trong khoảng 100 năm từ giữa thế kỷ 8 đến giữa thế kỷ 9. Sailendras trong nhiều vương triều ở Java, và là một trong vương triều thiếu sót ở đây theo đạo Phật. Vương triều này dùng chữ Phạn (संस्कृतम्, 梵語, Sanskrit, là một cổ ngữ của Ấn Độ còn gọi là bắc Phạn để phân biệt với tiếng Pali là nam Phạn) và chữ Ấn Độ cổ để viết và theo Phật giáo Đại thừa. Sức mạnh của Sailendras dựa vào nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa nước. Vương triều Sailendras là đồng minh thân của các nhà thờ lớn (đại đế) của Srivijaya, những người cũng theo Phật giáo Đại thừa. Bản thân Vương triều Sailendras cai trị cũng xưng là Majahara. Vương triều Sailendras suy yếu dần vào thế kỷ thứ 9 rồi bị Vương triều Srivijaya ở cùng đảo Java nhưng lại theo đạo Hidu, vùng lên đánh bại để thành lập quốc gia Medang. Hoàng gia Sailendras khi đó đã lưu vong ở Srivijaya và được Majahara của Srivijaya bảo trợtiếp tục quan hệ hôn nhân. Một số đời Majahara của Srivijaya là dòng dõi của Vương triều Sailendras.

 

Truyền thống này cũng được liên kết bởi các tuyến đường thương mại hàng hải với Phật giáo Kim Cương thừa  Mật tông của Ấn Độ, Phật giáo Mật tông ở Sihala (một dân tộc Ấn-Arya chủ yếu sinh sống trên đảo Sri Lanka), các vùng dất Chăm pa và Khmer cũng như ở Trung Hoa và Nhật Bản, đến mức hoàn toàn khó có thể tách biệt chúng, và tốt hơn là nên nói về một khu phức hợp “Phật giáo Mật tông của thời trung cổ Hàng hải châu Á” (Maritime Asia). Tại nhiều thành phố cảng trọng điểm của Nam Á đã chứng kiến sự phát triển của Phật giáo Mật tông, truyền thống này đã tồn tại cùng với giáo phái Shaivsm, một trong những giáo phái chính trong Ấn Độ giáo tôn sùng Shaivsm là Đấng tối cao.

 

Đây là một trong những giáo phái lớn nhất tin rằng Shaivsm, được tôn thờ như một người sáng tạo và hủy diệt thế giới, là vị thần tối cáo đứng trên tất cả. Giáo phái Shaivsm có nhiều nhánh phụ, từ thuyết hữu thần nhị nguyên như Shaivsm Siddhanta đến thuyết nhất nguyên yoga phi thần như Kashmir Shaivsm.

 

Tin PG Indonesia 1Hình 1: Một bức tranh của G.B. Hooijer (khoảng 1916-1919) mô tả hiện trường của Thánh địa Phật giáo Borobudur trong thời kỳ hoàng kim.

 

Java dưới thời Vương triều Sailendras đã trở thành một trung tâm Phật giáo chính trong khu vực, với những công trình kiến trúc hoành tráng như Thánh địa Phật giáo Borobudur, một kỳ quan Phật giáo tinh xảo và lớn nhất thế giới, và đã được UNESCO xếp vào Di sản Thế giới vào năm 1991, và phế tích Candi Suuh, một kim tự tháp đáng chú ý và nhiều tác phẩm điêu khắc tuyệt tácbí ẩn. Nguồn gốc của những người xây dựng nó và phong cách điêu khắc kỳ lạ của họ. Hai điều đặc biệt phân biệt phế tích Candi Suuh, đó là kim tự tháp hình tam giác cắt ngắn độc đáo, giống như của người Maya ở Yucatan, Mexico và vô số tác phẩm điêu khắc bí aanrr được tìm thấy trên khắp địa điểm. Các phế tích Candi Suuh mô tả vấn đề giải phóng tâm linh được biểu tượng bằng nhiều tác phẩm điêu khắc, phù điêu và tượng liên quan đến các chủ đề Mật tông Phật giáo Kim Cương thừa.

 

Thủ đô của đế chế Phật giáo Srivijaya ở Palembang, Sumatra là một trung tâm lớn khác.

 

Sự suy tàn của các quốc gia Phật giáo - Ấn Độ giáo và sự trỗi dậy của các quốc gia Hồi giáo trong khu vực vào thế kỷ 13 -16 đã chứng kiến sự suy giảm mạnh mẽ của truyền thống này.

 

Lịch sử:

 

Sự truyền bá Phật giáo Kim Cương thừa Mật tông trong khu vực, bắt đầu với sự xuất hiện của các vị cao tăng Phật giáo Ấn Độ vào thế kỷ thứ 7. Bao gồm các vị cao tăng tiêu biểu như Cao tăng Atikuta (653-654?) từ miền Trung Ấn Độ, Cao tăng Ấn Độ Punyodaya lần đầu tiên giới thiệu Phật giáo Kim Cương thừa đến Trung Hoa vào năm 655, Cao tăng Trung Hoa Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh (635-713), Cao tăng Nam Ấn Độ Bồ Đề Lưu Chí/Đạt Ma Lưu Chi (562-727), Nagabodhi (納噶波狄), Kim Cương Trí (671-741), Cao tăng Indonesia Bianhong  (辩弘). Cao tăng Trung Hoa Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh báo cáo rằng, vào thế kỷ thứ 7, có một trung tâm Phật giáo ở Java tên là Kakinga (訶 陵, 闍 婆) mà các vị tăng sĩ Phật giáo Trung Hoa đã đến tu học.

 

Một nguồn gốc khác của truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Mật tông Indonesia này, từ Tổ đình Abhayagiri vihāra, tọa lạc tại Anuradhapura, Sri Lanka, một trung tâm nghiên cứuthực hành Phật giáo Kim Cương thừa Mật tông nổi tiếng, thậm chí là nơi đã thành lập một tu viện chi nhánh ở Trung Java, Indonesia vào thế kỷ thứ 8 với sự bảo trợ của Vương triều Sailendras.

 

Là thành trì của Phật giáo Kim Cương thừa Mật tông, đế quốc Srivijaya (650-1377), bảo trợ cho chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo, và do đó thu hút du khách thập phương hành hương, và học giả các khu vực khác của châu Á.

 

Tin PG Indonesia 2Hình 2: Bức tượng Prajnaparamita của người Java vào thế kỷ 13.

 

Những người này bao gồm Cao tăng Trung Hoa Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh, người đã thực hiện một số chuyến viếng thăm lâu dài đến Sumatra (một đảo lớn ở miền tây Indonesia thuộc quần đảo Sunda lớn. Đây là đảo lớn nhất hoàn toàn thuộc về Indonesia) trên đường theo học tại Đại học Phật giáo Nalanda tại Ấn Độ vào những năm 671 và 695, và Tôn giả Bengali Atisha (982-1054), người đã đóng góp một vai trò quan trọng trong sự phát triển của Phật giáo Kim Cương thừa Mật tông tại Tây Tạng. Cao tăng Trung Hoa Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh khen ngợi mức độ học bổng Phật giáo cao tại Vương quốc Srivijaya và khuyên các vị tăng sĩ Phật giáo nên học ở đây trước khi lên đường du học tại Đại học Phật giáo Nalanda vĩ đại, Ấn Độ. Ngài đã viết:

 

“Tại thành phố Bhoga kiên cố, có hơn 1.000 vị tăng sĩ Phật giáo, những người luôn hướng về việc học Phật phápcông phu tu tập thiền định. Họ điều tranghiên cứu tất cả các đối tượng tồn tại giống như ở Ấn Độ; các quy tắcnghi lễ không khác nhau chút nào. Nếu một vị tăng sĩ Phật giáo Trung Hoa muốn đến Tây Trúc để nghe và đọc kinh nguyên bản, thì tốt hơn hết các ngài nên ở lại Vương quốc Srivijaya (Indonesia ngày nay) một hoặc hai năm và thực hành các quy tắc thích hợp”.

 

Cao tăng Trung Hoa Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh đã chịu trách nhiệm dịch một số lượng lớn trong Tam tạng giáo điển Phật giáo sang tiếng Trung Hoa. Ngài đã phiên dịch hơn 60 bộ Kinh sang tiếng Hán như bộ “Kinh Kim Quang Minh” (金光明經, the Golden Light Sutra). “Bản Hồi ký về Phật giáo được gửi từ Hải Nam & Cuộc hành hương của các vị Cao tăng Phật giáo triều đại nhà Đường, Trung Hoa (The Account of Buddhism sent from the South Seas & Buddhist Monks Pilgrimage of Tang Dynasty), là hai trong số những cuốn nhật ký du lịch hay nhất của Cao tăng Trung Hoa Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh, mô tả hành trình phiêu lưu của Ngài đến Vương quốc Srivijaya (Indonesia ngày nay) và Ấn Độ, xã hội của Ấn Độ, lối sống của nhiều dân tộc địa phương khác nhau.

 Tin PG Indonesia 3


Vào thế kỷ thứ 8, triều đại Srivijaya ở Jva đã thúc đẩy các dự án xây dựng Thánh địa Phật giáo đại quy mô như Borobudur. Các hình tượng Phật bằng đồng và bạc ở trung tâm Java, sau đó thể hiện các chủ đề Phật giáo Kim Cương Thừa Mật tông. Borobudur được xác định như một bảo tháp, một mạn đà la (đồ hình vũ trụ) khổng lồ. Nhìn chung, có thể kết hợp của cả hai: là bảo tháp thể hiện toàn thể Phật pháp, và là mạn đà la, biểu tượng cho trí tuệ viên mãi và trí tuệ sở chứng của Phật, và cũng là phối hợp với Thai tạng giới mạn đà la mô tả vũ trụ tĩnh biểu tượng hiện đại bi tâm của Phật.

 

Vào thế kỷ 13, Phật giáo phát triển mạnh ở Đông Java, Vương quốc Singhasari của vua Kertanegara (trị vì: 1268 - 1292), Vương quốc Singhasari bảo vệ cho Phật giáo Kim Cương thừa Mật tông. Phật giáo tiếp tục phát triển mạnh dưới thời Đế chế Phật giáo Ấn Độ giáo Majapahit (1293–1527). Thủ đô Trowulan của họ có nhiều lễ hội thường niên dành cho Phật giáo, Shaivism và Vaishnavism. Một số các vị Quốc vương của họ là những cư sĩ Phật tử thực hành Phật giáo Kim Cương thừa, ví dụ như đức Quốc vươngAdityawarman (1347–1379), người có bia ký ghi rằng ông “luôn tập trung vào Hỷ Kim Cương”, một trong các bổn tôn chính của Mật tông. Một đặc điểm của Phật giáo Java là tôn sùng và tôn thờ các vị vua như Phật hoặc Bồ tát. Các vị Bồ tát quan trọng bao gồm  Prajnaparamita, Tara, Bhairava và Lokesvara.

 

Sự sụp đổ của Sự sụp đổ của Triều đại Majapahit và sự trỗi dậy của các quốc gia Hồi giáo như Vương quốc Hồi giáo Malacca (một vương quốc từng tồn tại ở Đông Nam Á, chịu ảnh hưởng của Hồi giáo, và do Parameswara thành lập năm 1402, đến năm 1511 thì bị người Bồ Đào Nha xâm chiếm) đã chứng kiến sự suy tàn của Phật giáo trong khu vực. Nhiều người chạy đến đảo Bali sau khi kết thúc thời kỳ cai trị của Triều đại Majapahit, nơi Phật giáo được sáp nhập vào Ấn Độ giáo Bali. Tuy nhiên, quá trình hợp nhất Phật giáoẤn Độ giáo này, đã xảy ra khi Triều đại Majapahit sụp đổ, và nhiều nguồn văn bản từ Vương quốc Phật giáo-Ấn Độ giáo sau này cho rằng, Ấn Độ giáoPhật giáo đều là hai con đường dẫn đến cùng một thực tại, và cũng đánh đồng năm vị Phật với năm vị thần Shiva. . . Tương tự như vậy, một số ngôi đền tại Triều đại Majapahit mô tả các yếu tố Phật giáo và Shaiva (một trong những nhánh chính trong Ấn Độ giáo tôn sùng Shiva là Đấng tối cao).

 

Văn học

 

Văn học Phật giáo Mật tông Mantranaya lâu đời nhất bằng tiếng Java cổ, một ngôn ngữ chịu ảnh hưởng đáng kể của tiếng Phạn, được  lưu giữ tại San Hyan Kamahayanikan (một văn xuôi văn học cổ của gười Java. Luận thuyết Phật giáo Mật tông này mô tả Phật giáo Java, kiến ​​trúc và hình tượng. Mặt sau của văn bản này có tên của vị vua Java, tức là Mpu Sindok, lên ngôi ở Đông Java từ năm 929 đến năm 947). San Hyan Kamahayanikan tuyên bố rằng, giáo ý của họ đến từ Thánh tăng Trần Na (480-540, vị Luận sư nổi tiếng bởi Duy Thức tông. Người cải cách và phát triển ngành Nhân Minh học, một môn lý luận độc đáo cho tông phái này và Ấn Độ nói chung).

 

Kinh điển Phật giáo Tây Tạng, bao gồm các bản dịch, các văn bản do các vị Đạo sư người Java viết, ví dụ như Durbodhaloka (chú giải về Hiện Quán Trang Nghiêm Luận, 現観荘厳論, Abhisamayālamkāra) của Pháp sư Tòng Kim Châu (從金洲法師, Suvarnadvipa), Pháp sư Pháp Xứng (法稱法師, Dharmakīrti).

 

Một tác phẩm khác của một Đại sư Phật giáo Mật tông Indonesia là “Sổ tay Nghi lễ của Cao tăng Indonesia Bianhong  (辩弘), để Nhập môn vào Đại Mandala của Kinh Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La ni (佛頂尊勝陀羅尼, Usnisa Vijaya Dharani sūtra) và Kinh Chuyển Luân Thánh vương Tu hành (轉輪聖王修行經, Cakkavattisīhanāda Sutta) còn tồn tại trong Tam tạng của Trung Hoa (959).Thời kỳ Taishō (大正時代), bậc thầy người Nhật Kukai đã viết một cuốn sách tiểu sử về Cao tăng Indonesia Bianhong  (辩弘).

 

Kỹ thuật Kiến trúc

 

Các hình thức kiến trúc Phật giáo độc đáo khác nhau, được phát triển ở Indonesia và Malaysia, trong đó phổ biến nhất là khối đá Candi thể hiện những ảnh hưởng của Indic Ấn Độ bởi đã hiểu được là một biểu tượng của núi Meru, có nguồn gốc trong văn hóa Hindu, sau đó ảnh hưởng đến Phật giáo Ấn Độ.

 

Các Vương triều Sailendras đã xây dựng nhiều công trình kiến trúc Phật giáo ở Java, bao gồm bảo tháp đồ sộ của Thánh địa Phật giáo Borobudur, cũng như Candi Sukuh, Candi Mendut, Candi Kalasan và Candi Sewu. Người Srivijayan cũng xây dựng các khu phức hợp tự viện Phật giáo ở Sumatra, ví dụ như tu ngôi già lam Muara Takus và chùa Bahal và ở bán đảo Malaysia, ví dụ như ở thủ phủ vùng của họ tại Chaiya. Majapahit cũng đã xây dựng Candis, ví dụ như Jabung và Penataran.

 

Tin PG Indonesia 3 Candi BahalTin PG Indonesia 4 Buddha MendutCác kiểu kiến trúc bao gồm Punden, các khu bảo tồn nhỏ bậc thang được xây dựng trên núi và Petapaan, các ẩn viện được xây dựng trên sườn núi.

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Truy cập các nguồn Internet)

 

 

 

 

 

 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.