Thủy Nguyệt Tòng Sao - Trang 04

02/06/201112:00 SA(Xem: 6310)
Thủy Nguyệt Tòng Sao - Trang 04


Lê Mạnh Thát 

TOÀN TẬP CHÂN ĐẠO CHÁNH THỐNG
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam

THỦY NGUYỆT TÒNG SAO - TRANG 04

276
NẰM BỆNH Ở LẦU TÂY CHÙA THẬP THÁP[108]
Tiếng thu mưa tối lạnh vào lầu
Gương sớm lữa lần lốm đốm đầu
Gối khách xưa từng ngàn dặm ngái
Bệnh giường nay lại một thân rầu 
Đỗ thơ phá sốt nên không hiệu
Gươm tuệ trừ ma thẹn chửa thâu 
Tự cợt không nhờ mưu quét miệng 
Khách tây lưỡi rộn cày gì sao?

277
MỜI THẦY THUỐC ĐẾN ĐIỀU TRỊ ĐỠ BỚT,
BÈN VIẾT TẶNG 
Sớm học Kỳ Hoàng thích chí nhân
Đài sen huống nữa lại đầu thân
Muối mơ vờ bảo cam làm tướng
Châm ngải lại hay thử cứu nhân
Công bổ gồm nương thành quốc thủ
Lạnh nồng cùng tiến chuộng gia trân
Chúng sinh có bệnh ta nên bệnh
Đất khách gặp thầy tay thuốc thần

278
CÙNG CHÙA THẬP THÁP 
HẸN NĂM MỚI LẠI NHẬN LÀM GIẢNG SƯ
NHÂN BỆNH KHÔNG THỰC HIỆN ĐƯỢC, 
BÈN PHÚC ĐÁP
Già đến chịu đâu lại bệnh đau
Tức thơ chưa mượn cánh hồng đưa 
Sân tùng cũng muốn trình lời hẹn
Vườn pháp sao đan kiếm vết xưa
Đối nguyệt có lòng luôn sáng rực
Thời gian chẳng biết cứ đi bừa
Hoàng nguyên may được vua thuốc ấy 
Ngàn núi muôn sông một gặp vừa

279
MỘT NHÀ SƯ ĐIÊN THƯỜNG CƯỠI XE ĐẠP
ĐI LẠI THÀNH ĐÔ, BÈN ĐÙA VỊNH
Chính pháp biết anh vốn chửa từng
Cửa thiền suông đóng một điên tăng
Thấp cao đôi gót theo xe đạp
Đường thế nên phòng đạp mỏng băng

280
TẶNG MINH TRAI TRẦN QUÂN, 
SAU KHI LÀM HÀN LÂM
GỒM LUÔN CẢ THẦY THUỐC
Quay đầu biết bạn thuở còn thơ
Học sĩ anh từng, tớ kẻ tu
Bèo dạt chim bay nên định khó
Chân trời góc biển tự buồn ưu
Đến già Phật tử ta là vậy
Tài lạ thần y anh thế ru
Hai bệnh thân tâm nên trị đủ
Khóc buồn đường rẽ cười Dương Chu

281
ĐÊM TRUNG THU NĂM KỶ HỢI 60 TUỔI 
TỰ VỊNH (xem trang 211)

282
BÀI CA DANH DỖ LỢI
Tên tớ là Danh, anh gọi Lợi
Từ xửa theo nhau cùng thích đội
Thế gian chẳng tớ cũng đâu anh
Lâu lắm cõi người không tiếng gọi
Thử hỏi văn nhân làm cái gì
Mười năm đèn sách tốn tâm ky
Chỉ vì cũng muốn thân đôi tớ 
Tháp Nhạn ghi tên sợ hậu thì
Đối tớ vô tình riêng Khổng thánh 
Tiếp đến Nhan Tăng cùng Tư Mạnh
Chung nam lối tắt ấy là ai?
Bọn ta ngoảnh ngó rất hân hạnh
Nối ngang liền dọc nó người nào
Nắng dữ vừa qua, lạnh ép vào
Trong mấy chục năm mặt bụi bặm
Đổi thay cày vãi lại cất thâu
Đông kho tây lẫm chứa đầy tràn
Đâu biết lòng này sai sử than
Anh ấy người thân, tôi đó lạ
Bạn hiền cắt cổ chiếu khôn phân
Xe to thợ gỗ đến trăm ông
Bắn rận biết trâu với giết rồng
Múa hết trên tay xiêm áo đẹp
Đàn làm hạc múa cát bay hùng
Nghề có sở trường đâu mượn cho
Kia là cung tốt, đấy giỏi lò
Tự không sốt nhớ nhằm đôi tớ
Gắng gỏi cả năm việc gì a
Ăn sương uống móc đáng thương người
Muôn dặm rộn ràng mệt chẳng ngơi
Cao móc môn bài hàng hóa bán
Trong kia thật giả có ai hay
Vào chủ ra nô sao giống ai
Ân cần chỉ muốn anh và tôi 
Đền vàng tặng thiếp ly kỳ lắm
Cười chết vì người, hàng rẻ coi
Hoặc thiên bên tớ, hoặc bên anh 
Mấy lượt kiện đòi thật rối banh
Đầu miệng chơi lên muôn thứ khéo
Khó tiêu trong tối nửa hạt trần 
Anh chẳng thấy Phật giữ cao khiết
Tránh tớ sợ anh như rắn rít
Biết vội trong ngoài liên hệ đâu
Lòng thích bọn ta như thánh triết 
Bình đẳng từ bi miệng sướng bàn
Phân bè dựng lũ thẹn sao làm
Ngôi cao hoặc đó do vàng lắm
Thân đóng thằng nô, chết cũng cam
Đáng xót một đời đều dối trá
Chẳng cam mắt tục phân chân giả
Dưới rừng bên nước khéo che thân
Đường hẹp gặp nhau đâu trái quá 
Nghe Phật lưu truyền bát với y
Tăng gia khất thực, tiện tu trì
Mà nay vẽ đúng hồ lô dáng
Mặc vào để giấu tham sân si 
Bọn tớ chẳng cần ngại lũ kia
Giấu bày cao thượng lòng đen xì
Thử đem sánh với đám người tục 
Đối tớ giữ lòng cùng tốt đi
Không cày mà ăn không dệt mặc
Nửa đêm vắng người tự thắc mắc
Dưới mắt nếu không bọn tớ là
Một đời thân thế dựa ai được
Chút xíu chưa đền bốn trọng ơn 
Chẳng nhân chẳng trí, dũng không trơn
Dẫu cho sống đến trăm nghìn kiếp
Kết lũ kêu bè bay nhảy hơn 
Chịu thay Thủy Nguyệt chủ nhân ông
Tai điếc mắt mờ tựa vẻ trông
Mấy lượt bọn ta trước mặt đứng
Múa môi khua lưỡi lại không công
Lén giận người kia không gỗ đá
Sánh nó trời người biển cách xa
Chẳng bồ tát Phật chẳng hiền thánh
Xa ngó bọn ta như khách qua
Kết rồi chính giáo với bình dân
Hoặc họ xuất trần, hoặc nhiễm trần
Duyên khởi chưa thông đều tướng huyễn
Hết lòng chuộng tớ lại tôn anh

283
THÁNG MÙA THU NĂM ĐINH DẬU (1957) 
NGẮM CẢNH CHIỀU Ở CHÙA TỪ ÂN
Trăng thu soi nước biếc
Núi xanh phủ mây chiều 
Buồm nhẹ về bến cũ
Chim mệt bãi xưa dìu 
Lửa chài cồn cát đỏ
Đường quê rẻ ca tiều 
Nổi chìm theo thế cuộc
Trời biển ơn mẹ nhiều
Cõi thơm, chân đè mở 
Lòng không bụi xằng tiêu
Long Hoa sau hẹn gặp
Long Thọ nhân xưa hiểu 

284
LỄ KHÁNH THÀNH TÔN TƯỢNG ĐỨC THÍCH CA 
ĐƯỢC KÍNH TẠO TẠI ĐỘNG HUYỀN KHÔNG NÚI NGŨ HÀNH Ở QUẢNG NAM

Kính nghĩ
Đâu suất giáng thần, thân vàng hiện khắp hằng hà sa số đất báu. Vườn Kỳ thuyết pháp, hào quang tỏa tới ba mươi hai tướng theo hình. Đao Lợi thăm mẹ vì lên, gây việc Điền Vương tạo tượng. Kính y đại giáo, xin chứng lòng thành.
Bảo nhớ
Mây ám che đất, gió lớn cuồng quậy sóng biển đen, mù chướng phủ trời, thân xằng chạy khắp đường bụi đỏ. Cách Phật đã sau hơn hai nghìn năm lẻ, hoa đàm lại ứng vì hẹn sao. Dốc lòng ngóng trông ba mươi hai tướng chân, tượng báu đúc thành vào ngày ấy. Còn lo trái với pháp thể, đâu thoát lỗi lầm, nguyện mong lân mẫn lòng phàm rửa sạch tội quá.

285
LỜI SỚ KHÁNH THÀNH THÁNH TƯỢNG QUAN ÂM KÍNH TẠO Ở NGOÀI ĐỘNG
Kính nghĩ
Ngồi thẳng Phổ Đà, hào quang lặng sóng Nam hải. Ứng thân đồng đá, Phổ môn cứu khổ quần sanh, xin duỗi mắt pháp cúi xét lòng phàm.
Xin nhớ
Chướng duyên chóng dậy, lưới bụi lâu vây. Hai xin bảy nạn, dám quên Đại sĩ bi tâm, ngọc trắng sợi vàng, khát trông hóa thân diệu tướng. Bèn hợp mười phương tăng tục, lớn dựng duyên lành, lắm nhờ thần lực dắt dìu, đúc nên tượng báu, dốc lòng sám tạ, tay vái chuyên cần.

286
LÁ THƯ DÂNG CHO ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG BỔN SƯ PHƯỚC HUỆ CÙNG NHÂN GIẢ TRÍ THỦ

Trộm nghĩ
Thầy trò đạo hợp, tuy phân thân khắp cõi, đâu chẳng chủ bạn giao xen. Yêu ghét rẻ đường, dẫu một nhà đầu nhóm, há thoát khỏi việc oan thân khác nhau. 

Đệ tử sở dĩ sinh bình rất ghét gởi lời trên ngựa, bẻ liễu bên đường, thì cũng có nguyên do vậy. Hoặc có tội với đại lão Hòa thượng ta cùng túc hạ thì cũng từ đó mà ra. Song, mênh mông biển trời, dám quên tình quê cha đất tổ[109], xa tít mây núi mãi nhớ cảm xúc xưa nay. Ngưỡng mong đuốc tuệ rọi tới lòng u. 

Gần đây nghe Hòa thượng cùng túc hạ định mở đại giới đàn ở tổ đình Hải Đức, khắp mời mười phương đại đức tăng già, tiếp dẫn hậu lai, nối Phật tuệ mạng, đệ tử tay múa chân nhảy, đốt hương thơm mà xa lạy kính mừng. Thậm chí muốn đôi cánh gió sinh, sớm thăm pháp tọa, đất báu Kim cang chỉ ở trước mắt thì phước đẹp ấy sẽ thế nào ư? Chẳng nài từ khi sinh ra đến nay, rất thích hai chữ liêm khiết. Cho nên, có bệnh giống Nguyên Hiến, làm theo lối Lãn Tàn, tự nhọc không vằn, lại chịu không vết. Tuy gần trong gang tấc, mà suốt ngày xa cách, thì đâu bằng đường xa vạn dặm, mà cả buổi sáng lại gặp mặt ư? Vì thế, tự mình đến với giới tịch, vị tất có thể hẹn được. Liều nhắm chư tôn đức từ các cõi xa tới, hỏi phải Tào khê một người? Đây cũng là một hiện tượng lạ trong giới Phật giáo chúng ta.
Suốt đêm đèn quạnh, thắc mắc trong lòng, cúi ngưỡng tự thẹn, tiến thoái cùng đường. Kính nghĩ ...
287
CÙNG GỞI NHÂN GIẢ TRÍ THỦ 
MỘT BÀI THƠ LUẬT
Tín nghĩa ai đương Phạm Cự Khanh
Ví bằng trên đá ngộ ba sanh
Rõ hay ngoài thức không nhân pháp
Quàng luận trong đời bỏ lợi danh
Giới giúp lòng châu tham giác đạo
Đàn khai trăng nước cứu mê tình
Một vào vì hẹn trang nghiêm hội
Chỉ ngóng từ bi xét tấm thành

288
CÙNG CÁC THẦY MỖ NGẦM TRANH CHỦ CHÙA, 
KÍCH BÁC LẪN NHAU
Sớm hôm nhiếp niệm lễ Không vương
Thế sự nhọc suông chớ tính lường
Yêu ghét chưa quên, hay đạo yếu
Óan thân khôn hiểu, giận ma cường
Vườn Kỳ bỗng biến đất gai bụi
Tịnh cảnh thoắt nên chốn nóng buồn
Cảnh tỉnh sông yêu danh lợi khách
Thôi say lợi buộc với danh ràng

289
CÙNG PHÁP ĐỆ BÍCH VÂN 
TRỤ TRÌ CHÙA THÚY NGẠN CỦA NƯỚC THÁI
I.
Trời biển mênh mông muôn dặm trình
Cây xuân mây tối xiết bao tình
Tha hương giận chết non Mai cách
Cố quốc sầu tuôn trăng quế nhìn
Binh hỏa kiếp rồi hoa có lệ
Bể dâu mộng hết chim còn kinh
Gập ghềnh đạp khắp đường trần đỏ
Mới hiểu tâm bình thế giới bình
II.
Cửa sách dưới đèn thư nhạn xem 
Dòng dòng châu ngọc tự tay nhen 
Thương anh gối khách sầu đâu giảm
Buồn tớ hồn mơ, đường đoán êm 
Ngâm quạnh có thừa tài mọt sách
Gởi xa không thẹn ngựa hay đem 
Tiền đồ trân trọng nhiều vui việc 
Gió thu cơm ép đẹp làm thêm 

290
GIỄU BẠN ĐẠO ĐÔN HẬU
Rộng tung mưa pháp bắc nam ta 
Cận trạng thế nào chửa rõ ra 
Nghe nói thiền huynh hay cơm ép
Trưa thì ba chén, trước trưa ba

291
HÒA VẬN CỦA MẶC SI ĐẠI NHÂN 
CỦA HỌC NGUYỆT SAN 
Có cẳng dương xuân đi lại về
Trăm hoa lần lượt trước mình khoe 
Cả mai mưa thóc tự trời xuống
Sách lớn hùng văn từ đất lên
Muốn kéo sóng hung hay sức thiếu
Sáng lui đạo chính cậy tài nhiều 
Thu dương không giống cung Tần lửa
Kế vụng lại thương uổng tự hôi 

292
ĐỀ THỌ THÁP CỦA ĐẠI SƯ TRÚ TRÌ 
CHÙA PHƯỚC ĐIỀN 
Nên hay hoa rụng tức sen đưa 
Đã dứt chuông tàn tỉnh kiếp mơ
Lần lữa cửa côi thương ngựa nội
Mênh mông biển lớn buồn bèo xua 
Thân nương tháp cổ non Xuân cũ
Mặt đối trường giang sáng nguyệt thu
Rốt cuộc có sinh tất có tử
Vô sinh chứng lấy niệm này như 
 
CÙNG ĐỐI LIỄN
I.
Phi tức phi ly tự tánh viên dung trừng lục thủy
Bất sanh bất diệt, chân thân độc lộ đối thanh sơn
(Chẳng tức chẳng ly, tự tánh tròn dung trong nước biếc
Không sinh không diệt chân thân riêng tỏ đôi non xanh)
II.
Phước duyên vạn cổ trượng từ tâm, viễn ly tứ tướng
Điền địa kỷ hồi tài diệu quả, liễu ngộ tam sanh 
(Phước duyên muôn thuở cậy lòng từ, xa rời bốn tướng
Ruộng đất mấy lần vun quả diệu, rõ hiểu ba sinh)
III.
Bát nhã hành thâm Quán Tự Tại 
Bồ đề nguyện mãi chứng chân thường
(Bát nhã hành thâm Quán Tự tại
Bồ đề nguyện đủ chứng chân thường)
IV.
Mao lý tình thâm tần tảo bạc[110]
Từ bi niệm trọng, tử sinh khinh
(Phụ tử tình thâm, món lễ bạc
Từ bi niệm trọng, tử sinh khinh)

293
TRẰN TRỌC KHÓ NGỦ, CẢM XÚC BUỒN LÒNG, 
BÈN NHỜ CÔ NGÂM, ĐỂ HẾT ĐÊM DÀI 
Tuổi cao mới biết khổ đêm trường
Trăm mối buồn thương lại khó đương
Tuổi trẻ ưu thời hay chẳng phận
Độ người lòng xót thẹn chưa thường
Đèn côi riêng đối nhờ vườn Phật
Bạn lẻ cùng chơi mỗi một phương
Qua mắt phồn hoa toàn như mộng
Thôi bàn nam mạnh với bắc cường

294
NỬA ĐÊM XEM ĐÁNH CỜ RIU RIU NGỦ MẤT, 
THỨC DẬY BỖNG ĐƯỢC BÀI THƠ
Mệt rồi thắng bại ván cờ inh 
Báo sáng gà xao tỉnh mộng mình 
Tia ánh ráng mây trời muôn vẻ
Gió truyền cây cỏ đất bàn kinh
Non xanh nước biếc thấp cao chẳng 
Ngày trắng đêm dài tối sáng nghinh
Pháp pháp nên hay như vậy pháp
Tùy duyên hiện khắp vốn vô sinh

295
ĐƯA PHÁP ĐỆ BÍCH VÂN VỀ NƯỚC THÁI
Bỗng nhiên gặp mặt lại xa nhau 
Rung rớt ba thu riêng tự đau
Tướng giả đã rằng không chỗ định 
Thân chân về hẹn hỏi dùng sao
Rõ hay tính Phật rời không có
Há nhắm tình người rước đúng sai
Đời trước quay đầu giấc mộng lắng
Thứ này nhân quả trước hay ?

296
THƯ VIẾT CHO CƯ SĨ NGUYỄN HY ĐÌNH
Từng nghe: Hiện thân cư sĩ ở bùn không nhiễm, tiên sinh đã được điều đó. Huống nữa, chẳng phải suông tín ngưỡng, lại còn ra sức làm, nhổ bỏ gốc mê, vun bồi giống thiện, thì rõ người trí có chỗ vượt hơn người. Lời xưa: 
Thân này không nhắm đời này độ
Lại nhắm đời nào độ thân này
thì cũng không phải vô vị đâu. 
Ôi, bát ngát chảy trôi như thế, sao lấy được mà đo lường ư. Chỉ xin nguyện cầm chắc cung trí tuệ, giữ vững tên kiên cố, đường trước khỏe bước, không thối lòng xưa thì móc ngọc sóng vàng trọn buổi có thể mong vậy. Trên hội Liên Trì niềm vui lắm lắm. Núi xanh tùng côi, mong cho trong tốt.
Duyên tự vô minh, tử lại sinh 
Tử sinh lần lượt lại vô minh
Trời người tự giễu nhiều lui tới
Dâu bể ai hay lắm biến canh
Sóng dữ ngày xưa đau họa lớn
Bạn bè năm trước ngắm thần tinh
Trúc song mưa pháp nhờ đưa tặng[111]
Nước chảy non cao cố cựu tình

297
LẠI HỌA ĐÁP CƯ SỸ HY ĐÌNH
I.
Mưa cũ ngác ngơ một tấm lòng
Tìm đường trong mộng kiếm bao lần
Mười năm giặc cướp ngất trời hận
Nửa tối mộ thu nghe quỉ ngâm
Đầu ngoái gia hương mây bát ngát
Mắt ngưng cá nhạn tin trầm trầm
Sống thừa nhiều cậy từ bi lực
Vì cảm Duy Ma ban hảo âm
II.
Cửa sách đêm đêm mượn tiếng ngâm
Bạn hiền lúc ngóng gởi lời thăm 
Thu chày chịu lạnh hoa tuôn lệ
Cây gãy kinh cung nỗi ngại tâm 
Bèo nổi biển to thành khó định
Lò hồng sen nở há dễ tầm
Chưa quên sức mệt đạo từ ấy
Hoa tạng cửa huyền sao lại thâm

298
NGÀY 29 THÁNG CHẠP NĂM BÍNH THÂN (1956), 
KHÔNG ĐÂU MƯỢN TẠM ĐƯỢC, 
GẶP LÚC TRÚ TRÌ CHÙA BÁO QUỐCĐẠI SƯ TRÍ THỦ QUA THĂM, 
CHO ĐƯỢC MỘT BAO LỚN GẠO TRẮNG, 
BÈN LÀM BÀI THƠ ĐỂ TRÌNH

Đạo ta theo phép giữ thanh bần
Hổ thẹn bồi hồi nhắm tứ lân
Đầy bát mong cho qua tuổi cũ
Túi không sao để đón niên tân
Thí cho tự cổ nhờ Hương quốc 
Mượn gạo như nay cảm kẻ ban 
Nhờ được nuôi thân làm Phật sự
Đất vàng đài báu nhớ ơn thâm

299
ĐỀ TƯỢNG VẼ BỒ TÁT QUAN ÂM 
Rừng trúc ngồi ngay núi Phổ Đà
Sáu phàm ứng tiếng độ cho qua
Ánh tuôn tướng ngọc trăng Nam Hải
Người ấy may sao thấy được Ngài

300
ĐỀ TƯỢNG VẼ ĐẠI SƯ LỤC TỔ
Đêm trước sân mai gõ máy thiền
Bát y thu được những tương truyền
Trước mình cười chết người điên đảo
Ngu trí làm chi gắng tách miền 

301
BÀN TÂM DƯỚI TRĂNG[112]
Dưới nguyệt đàm tâm nhớ chí ngôn
Tiên sinh đâu chỗ khóc trung hồn 
Anh hùng khí phách sau đâu mất 
Quốc sĩ tinh thần quý tự tôn
Tuổi trẻ tớ từng xuông lưới tục
Lúc già ai liệu đến thiền môn
Chưa bình biển hận chịu đâu hại
Ngựa ký nên hay chí vẫn còn

302
THÁNG CHẠP NĂM ĐINH DẬU (1957) 
TIỄN ĐẠI SƯ BÍCH VÂN VỀ THÁI[113]
Mưa gió hắt hiu ép cuối năm
Nhà ga giả biệt ý mang mang
Hại gì lòng trẻ ba thu cách
Đâu chịu mắt mong đôi nước giăng
Gối khách há không quê cũ mộng
U tình mãi buộc nỗi em anh
Cố hương tự có ngày về lại
Đêm vắng cùng tham trực chỉ thiền[114]

303
NĂM NGOÁI GIÁO HỘI MỜI TA 
LÀM GIÁO VIÊN HÁN HỌC CỦA PHẬT HỌC ĐƯỜNG, 
BÈN LÀM BÀI THƠ NÀY ĐỂ TỰ GIỄU
Nên làm vạn dặm chim xòe bay
Tuổi trẻ chọn cây nhắm rú Kỳ 
Tự thẹn tụng đàm đâu việc tớ
Chút nhàn há được gởi ngâm say

304
KHÔNG NÓI LỜI 
I.
Nhà mình tranh đúng trách người sai
Biển nghiệp nhọc suông thêm đúng sai
Chỗ ấy mặc cho anh nói đúng
Bên này đâu có khác chi sai
II.
Vọng tưởng ấy sai chân tánh đúng
Trong kia ai bảo không sai đúng
Nếu cho tính đúng, tưởng là sai
Đâu biết sóng kia, nguyên nước đúng 
III.
Pháp pháp ai hay sắc ấy không
Tham sinh úy tử xưa nay đồng
Mất đi sóng trước, sóng sau nổi 
Nổi mất toàn do tính nước trong

305
THẦY GIÀ HỒNG KHÊ 
GỒM LUÔN NGHỀ THẦY THUỐC KỲ HOÀNG, 
BAN CHO MỘT CHIẾC QUẠT DÀI, 
BÈN VIẾT THƠ RA ĐÂY ĐỂ CẢM TẠ

I.
Đúc rèn lò đấy đã qua từng 
Ai bảo trời người một dạng đồng 
cảm tình cao cho quạt báu
Chẳng do đất lớn thổi từ phong 
Bếp Nghiêu điềm ứng hợp nhường kính
Nước Phật cành rung giảng khổ không
Bờ giác buồm về nên có dựa
Sở vương được nó bảo là hùng
II.
Xưa nay hai đất chính cùng lòng
Đường kiếm thân về mộng chửa thông
Mưa cũ y nhiên còn chất phác
Thu thâm hiu hắt chính phòng phong
Tật lê dễ đụng hay tình ít
Táo lớn khôn ăn oán đạo cùng
Đợi thẳng hoa hồng khắp chỗ nở
Cúc vàng vào chén tả lòng trung

306
HỌA VẬN MỪNG LA QUÂN CỦA TRUNG HOA DÂN QUỐC 
DU HỌC NƯỚC PHÁP TỐT NGHIỆP
Học gồm mưa Á với Âu phong 
Lên thẳng núi Lô đệ nhất non
Mừng lắm nhà cao đôi hoạt Phật
Tiếng nhà bờ đạo thảy đầy tròn

307
ĐỀ TRANH VẼ MỘT ĐẠO GIẢ MỖ 
THẢ THUYỀN THĂM SEN
Mượn lấy thuyền từ thử độ người
Ngoái đầu đời trước nhọc chê thôi
Một mai đạp bước đường đi đó[115]
Chín phẩm đài sen thân hóa rồi

308
THẦY GIÀ HỒNG KHÊ LÀM GỒM CẢ ĐẠO THẦY THUỐC, 
NẰM BỆNH GỞI THƠ NHỚ, 
BÈN PHÚC ĐÁP
Nghe nói Duy Ma giả bịnh thân
Nói về thuốc diệu cứu thời nhân
Bốn bên tự biết hay lòng ít
Đôi phía chịu đâu mắt lắm lần
Uống hết ba ly rồi vắng lặng
Trông nhờ tấc vải để ân cần
Góc trời ví có đồng tâm ấy
Đâu hại nhà sư một bát bần

309
XÃ THÂM KHÊ DỌC BỜ BIỂN QUẢNG TRỊ 
THIẾT ĐẠI TRAI ĐÀN, THỈNH TA LÀM CHỨNG MINH SƯ
BÈN HUẤN THỊ
Trai đàn dựng mở cậy thiền tăng 
Làm chứng minh sư vốn chửa từng
Hãy nhắm Thâm Khê trong nước nguyệt
Dọc theo biển lớn diễn văn vàng
Xóm còn trung tín, nhà nhà sướng
Đạo hợp từ bi nhật nhật tăng
Càng nguyện âm siêu, dương tự thới
Cùng lên cõi thọ vui đài xuân 

310
THAY MÔN ĐỆ GỞI CHO THẦY MỖ
Ở VÀM QUY NHƠN
Quy Nhơn hải cảng lâu nổi danh
Núi tự cao hề nước tự xanh
Hỏi đạo năm kia lòng rạng rỡ
Lặng tu ngày ấy mộng vây quanh
Bọn ta gặp bạn sao may mắn
Lão nạp quen hiền hiềm chửa thành
Trên đá duyên xưa như có hẹn 
Xuân về cầm gậy gõ thiền quan

311
CÙNG NHÂN GIẢ TRÍ THỦ[116]
Tự giễu năm năm kiết hạ cùng
Tính đi thành tín mấy như ông
Chẳng can lợi bẩn phân chân giả
Chỉ nhắm mê tình giảng khổ không 
Tiền nhận không quên bình đẳng hạnh
Giữ lòng há thẹn đại thừa tông
Trộm nhàn cười tớ thành vô bổ
Hoặc ấy biết người thích cổ phong

312
VỊNH CỔ
Đến chết Thân Sanh không biết chết
Trộm sinh Trùng Nhĩ nhọc nhằn sinh
Tuyệt cao không kịp Di Tề hạnh
Vờ bảo Tây Châu Bá Trọng tình

313
NGÀY MỒNG 3 TẾT NĂM ĐINH DẬU (1957) 
XUỐNG NÚI XEM HỘI CHỢ TRIỂN LÃM
CÓ CẢM TÁC
Hoàng oanh cành báo xuân về rồi 
Thử nhắm xuân thành chen chúc mở 
Chợ biển phồn hoa sông rộng dựng
Lầu sò bềnh bập mắt mình phơi
Điện đèn sáng rọi trời khôn tối
Cơ khí tiếng truyền muốn điếc tai
Coi khắp nơi bày tùy chỗ thấy
Thường quay xe pháp dẹp luân hồi

314
CÂU ĐỐI CHÙA TỊNH QUANG
TỈNH QUẢNG TRỊ 

I.
Phật bản hồ tâm, thập thế cổ kim thành đại mộng
Địa bằng như chưởng, vô biên thảo thọ ấm từ vân[117] 
(Phật vốn từ tâm, mười đời xưa nay thành mộng lớn
Đất bằng như tay, vô biên cây cỏ mát mây lành)
II.
Tịnh địa tuyệt tiêm trần, định tuệ viên dung, pháp thừa từ Bắc
Quang thiên đằng vạn tượng, trí bi song vận, đạo chấn kỳ Nam[118]
(Đất sạch chẳng mảy bụi, định tuệ tròn đầy, pháp nối từ Bắc
Tời sáng phủ muôn loài, trí bi gồm lấy, đạo nổi ở Nam)
III.
Thác bát Nam lai, tích trác thiên thu tồn cựu chỉ 
Diêu linh Tây khứ, đăng truyền vạn cổ ngưỡng cao phong
(Ôm bát đến Nam, gậy cắm ngàn thu còn nền cũ
Rung chuông về Tây, đèn truyền muôn thuở mến cao phong)

315
THAY CHÙA HƯƠNG LÂM MỪNG KHÁNH THÀNH CHÙA 
DO TỰ CHỦ MỚI DỰNG LẠI SAU BAO LẦN BỊ CHIẾN TRANH TÀN PHÁ ĐỐT CHÁY
Kinh thu binh hỏa tần nhưng, cử mục thặng tàn hôi, hận hải nan điền thương vãng sự 
Kỷ đồ tang thương biến cải, trừng tâm tỉnh kiếp mộng, liên đài điệp khởi tráng tư nhân
(Mấy thu binh hỏa liên miên, đưa mắt còn tro lạnh, biển hận khôn lấp thương việc cũ
Bao lượt bể dâu biến đổi, lắng lòng tỉnh mộng kiếp, đài sen dựng lại khỏe người này)

316
CÂU ĐỐI CHÙA TỪ QUANG
I.
Từ ấm nhân thiên, tại thánh bất tăng, tại phàm bất giảm
Quang đằng hải vũ, ư dạ thất ám, ư trú thất minh
(Từ che trời người, thành thánh không thêm, thành phàm không giảm
Sáng phủ vũ trụ, mất tối ban đêm, mất sáng ban ngày) 
II. Nhà tổ
Sơn hữu tiên tắc danh, tứ hồng phổ bị
Địa dĩ nhân nhi thắng, ngũ diệc tương thừa[119]
(Núi có tiên nổi danh, bốn lớn phủ khắp
Đất vì người mà đẹp, năm đời nối nhau)

317
CÂU ĐỐI THỜ TIÊN LINH 
SAU CHÙA BÁO ÂN
I.
Phật dĩ hiếu vi tiên, hữu ân tất báo
Pháp vô cơ bất bị, tùy nguyện sở thành
(Phật cho hiếu là đầu, có ơn phải báo
Pháp không cơ chẳng phủ, tùy nguyện mà nên)
II.
Lụy thế tôn thân, linh sảng bằng y hữu sở
Thập phương bồ tát, từ tâm cọng thí vô già
(Nhiều đời bà con, thiêng sáng cậy nhờ có chỗ
Mười phương bồ tát, lòng từ ban đều không che)

318
CÂU ĐỐI CHÙA VẠN PHƯỚC
I.
Vạn đức trang nghiêm, khoáng kiếp nhân nguyên quy quả hải
Phước cơ vĩnh cố, đương thiên hạo nguyệt ánh huyền châu
(Muôn đức trang nghiêm, nhiều kiếp nguồn nhân về biển quả
Nền phước mãi vững, trên trời trăng sáng ánh huyền châu)
II.
Thị bát tướng, hiển lục thông, nhân thiên hàm khể thủ
Đoạn cửu duyên, trừ nhị chấp, ma ngọai đẳng hàn tâm
(Bày tám tướng, trỏ lục thông, trời người đều khể thủ
Dứt chín duyên, trừ hai chấp, ma ngoại thảy rét xương) 
III.
Hiện sát trần thân ư nhất mao đoan tham diệu đạo
Xuất quảng trường thiệt vu tam giới nội tán kim kinh
(Hiện sát trần thân vào một đầu lông tham đạo diệu
Đưa lưỡi rộng dài tới trong ba cõi khen kinh vàng)

319
CÂU ĐỐI TAM QUAN CHÙA TRÚC LÂM
I.
Trúc tử mai hoàng, hà hại hư tâm nhữu kiền cốt
Lâm thanh thủy bích, phân minh bảo thọ nhiễu kim trì
(Trúc tía mai vàng hại gì lòng trống lẫn xương mạnh
Rừng xanh nước biếc, rõ ràng cây báu vây ao vàng)
II.
Trúc nguyệt ấn thiền tâm, giả sắc thiên quang tham diệu tướng
Lâm phong tuyên giác đạo, khê thanh tùng vận họa Viên Âm
(Trăng trúc ấn thiền tâm, sắc nội trời quang thăm diệu tướng
Gió rừng tuyên đạo giác, tiếng khe tùng vận họa Viên Âm)
III.
Pháp hữu vạn thù, chính đạo đồng quy ưng hữu bát
Môn khai bất nhị, quán tâm vô ngại vị khai tam
(Pháp có muôn sai, đạo chính cùng về nên có tám
Cửa mở chẳng hai, quán tâm không ngại vị mở ba)

320
CÂU ĐỐI CHO NIỆM PHẬT ĐƯỜNG
THỜ HỘI VIÊN QUÁ CỐ 
I.
Bất duyên uế trược xả từ tâm, đức kỳ thành hỷ
Cọng tiễn kinh trăn khai tịnh cảnh, công tắc tự chi 
(Chẳng vì uế trược bỏ lòng từ, đức người lớn vậy
Cùng dẹp gai bụi mở cảnh tịnh, công phải thờ thôi)
II.
Vụ lộ trung hành, thắng hữu nhân duyên đệ nhất
Quang minh biến chiếu phạn cung hương hỏa thường tân
(Đi trong mù móc, bạn tốt nhân duyên đệ nhất
Chiếu khắp ánh sáng, chùa chiền hương hỏa luôn tân)

321
CÂU ĐỐI CHÙA PHỔ TẾ
I.
Diệu dược cứu quần sanh, nhũ lạc tô đề giai cụ túc
Hương phong huân giác địa, đàn liên chiêm bặc cọng trang nghiêm
(Thuốc diệu cứu mọi người, sửa đánh đề hồ đều đầy đủ
Gió thơm hun đất giác, sen đàn chiêm bặc thảy trang nghiêm)
II. Liệt tổ
Nhất vĩ Tây lai, chích hài Đông khứ
Ngũ gia Bắc kế, lịch thế Nam thừa
(Một lau Tây đến, chiếc dép Đông đi
Năm nhà Bắc kế, trải thế Nam thừa)

322
CÂU ĐỐI TRAI ĐÀN
I.
Cam lộ môn khai, kích pháp cổ, chấn pháp lôi, trai quyến đồng đăng hoan hỷ địa
Dương chi thủy sái, trượng Phật ân, thừa Phật lực, hương hồn trực nhập Niết bàn thiên
(Cam lồ cửa mở, đánh trống pháp, rung chuông pháp, trai quyến cùng lên đất hoan hỷ
Cành dương nước vẩy, cậy ơn Phật, nhờ sức Phật, hương hồn thẳng nhập trời Niết bàn)
II. Tiêu Diện
Vạn lọai hóa thân thần mạt trắc
Nhất kỳ tại thủ quỷ giai tôn
(Muôn loài thân hóa, thần chẳng biết
Một cờ tay nắm, quỷ đều tôn)
III. 
Thứu lĩnh phong cao, kim ô ngọc thố tiềm tung, tuệ chúc trường chiêu kim cổ dạ
Ái hà thủy khoát, nộ lãng cuồng phong liễm tích, tự phạm phổ độ vãng lai nhân
(Thứu lĩnh non cao, ác vàng thỏ ngọc ẩn dấu, đuốc tuệ mãi soi đêm kim cổ
Ái hà sông rộng, sóng dữ gió hung che vết, buồm từ độ khắp người lại qua) 

323
CÂU ĐỐI NIỆM PHẬT ĐƯỜNG 
CỬA BIỂN THUẬN AN
I.
Đạo bất viễn nhân, nghiệp hải cửu bình tiền hậu lãng
Tâm tồn lợi vật, linh sơn tề chiếu vạn thiên đăng
(Đạo không xa người, biển nghiệp lâu bằng sau trước sóng
Lòng muốn lợi vật, núi thiêng khắp rọi vạn ngàn đèn)
II.
Dị khẩu đồng âm, chính đả bàng xao lương hữu
Tứ hà nhập hải, đốn siêu tiệm ngộ đắc kỳ nhân


(Khác miệng cùng lời, giữa đánh bên khua thật đã có
Bốn sông về biển, siêu mau ngộ chậm được ấy người)

324
CÂU ĐỐI NIỆM PHẬT ĐƯỜNG CÁT TƯỜNG 
Ở THÀNH NỘI HUẾ 
I.
Thanh tịnh môn khai, hạnh đồng bạch bích 
Cát tường hội khải, địa bố hoàng kim 
(Thanh tịnh cửa mở, hạnh như ngọc trắng 
Cát tường hội thiết, đất bủa vàng ròng)
II. 
Quảng phát bà tâm, cát tường hoa, như ý bảo
Huân tu đàn độ, Kỳ Đà thọ, Cấp Cô viên 
(Rộng phát lòng lớn, hoa cát tường, báu như ý
Huân tu bố thí, cây Kỳ Đà, vườn Cấp Cô)
III.
Phi cách hào đoan, đệ nhất tự pháp môn, hải mặc thơ nhi bất tận
Khởi ly đương niệm, quá vô biên thế giới, trần điểm kiếp dĩ giai tri
(Chẳng cách mảy may, chữ thứ nhất pháp môn, biển mực, viết vẫn không hết
Há rời đương niệm, qua vô biên thế giới, điểm bụi, kiếp đã đều hay)
IV.
Cát mộng ứng tường hoa, bảo tướng quang trung khai vạn tự
Phật ân triêm học địa, Hóa thành môn ngoại diễn tam xa
(Mộng tốt ứng hoa lành, trong ánh tướng báu mở chữ vạn
Ơn Phật thấm đất học, ngoài cửa thành Hóa đầy ba xe)
V.
Cát địa thử thời bồi, trược giới hữu duyên trừ ngõa lịch
Tường vân tùy xứ kết, hư không bất tận khởi lâu đài
(Đất tốt lúc này vun, trược giới có duyên bỏ gạch ngói
Mây lành tùy chỗ kết, hư không chẳng hết nổi lâu đài)
VI.
Từ tâm phổ lợi nhân thiên, bối diệp đàm hoa tùy xứ hữu
Kỳ lộ khả thông nam bắc, Bồng lai Nhược thủy bản lai không 
(Lòng từ lợi khắp trời người, lá bối hoa đàm tùy chỗ có
Đường rẽ thông hết nam bắc, Bồng lai Nhược thủy xưa nay không)

325
CHÙA THÚY NGẠN NƯỚC THÁI
I.
Thúy trúc hiểu yên lung, phù phù thụy khí đằng chưng, ẩn ước bán không khai ngọc vũ
Ngạn hoa vi vũ sái, điểm điểm châu quang bất tận, linh lung tùy xứ hiển kim thân
(Trúc biếc sớm khói lòng, bồng bềnh khí lành bay lên, ẩn hiện nửa trời mở chùa ngọc
Bờ hoa mưa nhẹ vẩy, giọt giọt ánh châu bất tận, lung linh tùy chỗ tỏ thân vàng)
II.
Phú quý đẳng phù vân, quốc thành thê tử hà chi, bán dạ trường từ tăng ái địa
Tử sinh tỉnh đại mộng, tình tưởng hiệp ly diệc dĩ, song quyền đả toái sắc không thiêng
(Giàu sang như mây nổi, quốc thành con vợ làm chi, nửa tối mãi biệt đất yêu ghét 
Sống chết tỉnh mộng lớn, tình tưởng hợp ly cũng vậy, đôi nắm đánh nát trời sắc không)

326
CUNG PHI MỖ XUẤT GIA
I.
Xả thế khởi vô bằng, huyền ký do mông phan Thứu lãnh
Xuất gia nguyên hữu tự, sái diêm vô phục dẫn dương xa
(Bỏ đời há vô bằng, huyền ký vẫn mong vinh non Thứu 
Xuất gia nguyên có gốc, vẩy muối đâu còn dẫn xe dê)
II. Câu đối bàn Phật 
Nhân duyên ly hợp đắc thất cánh hà chi, thanh ty bạch tuyết kỷ hồi, thế sự du du tùy thệ thủy
Cảm ứng chiêu chương sắc không hoàn nhược thị, bảo địa kim đài hữu tự, tâm đăng vọng vọng đối Linh sơn
(Nhân duyên ly hợp, được mất rốt mà chi, tơ xanh tuyết trắng mấy lần, việc đời dằng dặc theo nước chảy
Cảm ứng rõ ràng, sắc không lại như thế, đất báu đài vàng có gốc, đèn lọng ngong ngóng đối Linh sơn)

327
CÂU ĐỐI TRƯỚC PHẬT CHÙA LINH QUANG
I.
Linh Thứu sơn đầu, tam thừa toàn lại nhất thừa, tuệ nhật chiêu thùy thiên cổ dạ
Quang minh tạng nội, cửu giới đồng quy Phật giới, tự âm dõan thuộc tứ y nhân
(Đầu non Linh Thứu, ba thừa toàn cậy nhất thừa, trời tuệ chiếu xuyên đêm nghìn thuở 
Trong tạng quang minh, chín cõi cùng về cõi Phật, lời từ vâng thuộc người bốn y)
II.
Nhất chân giới nội, giác hải tịnh chư duyên, tính tự viên dung phi đại tiểu
Bát đức trì trung, liên đài phân cửu phẩm, trí tùng sai biệt hữu cao đê
(Trong cõi một chân, biển giác lắng mọi duyên, tính tự viên dung chẳng lớn nhỏ
Ở ao tám đức, đài sen chia chín phẩm, trí theo sai biệtthấp cao)
III.
Đồng cư Nam độ, cọng ngưỡng Tây phương, kim địa dũng liên hoa, bảo thọ trân cầm trường cảnh cảnh
Tài kiến Đông lân, hoàn quy Bắc xá, hoàn lương tỉnh đại mộng, tình thiên nghiệp hảimang mang
(Nước Nam cùng ở, đều mến phương Tây, đất vàng mọc hoa sen, cây báu chim quý mãi rực rỡ
Phía Đông mới thấy, lại về nhà Bắc, kê vàng tỉnh mộng lớn, trời tình biển nguyệt mưa mịt mù)
328
CÂU ĐỐI CHÙA TỊNH ĐỨC
Tịnh địa tuyệt tiêm trần, bảo thọ chi đầu trình diệu quả
Đức âm tuyên giác đạo, đàn hương lô nội phún tường vân
(Đất sạch chẳng mảy bụi, cây báu đầu cành trình trái diệu
Tiếng đức tuyên đạo giác, hương trầm trong lò phun mây lành)
329
NIỆM PHẬT ĐƯỜNG TRƯỜNG SINH
I.
Trường phát kỳ tường, tuệ nguyệt cao huyền chiêu đại dạ
Sinh vô bất lợi, từ phàm phổ độ quá mê tân
(Mãi phát điềm lành, trăng tuệ treo cao soi đêm tối
Sinh ra đều lợi, buồm từ độ khắp vượt bến mê)
II.
Kỳ viên thử nhật cọng tài bồi, công đức thành tựu
Lạc quốc tha thời trường tự tại, y chánh trang nghiêm
(Kỳ viên ngày này cùng vun bồi, công đức thành tựu
Lạc quốc lúc khác mãi tự tại, y chánh trang nghiêm)

330
CÂU ĐỐI CHO TRUNG VIỆT TĂNG 
TẬP ĐƯỜNG Ở HUẾ
I.
Tông thuyết khiêm thông, cận giả duyệt, viễn giả lai, kham tác nhân thiên nhãn mục
Trí bi song vận, thượng nhi cầu, hạ nhi hóa, chân vi Phật pháp đống lương
(Tông thuyết gồm thông, người gần vui, kẻ xa đến, chịu làm trời người mắt mũi
Trí bi đôi vận, trên thì cầu, dưới thì dạy, thật là Phật pháp cột rường)
II.
Ư vi trần lý, xuất vô lượng pháp môn, quán triệt trung biên thành mạc trắc
Vu nhất thực gian, tọa lục thập tiểu kiếp, giao tham chủ bạn tổng nan tư
(Từ trong vi trần, ra vô lượng pháp môn, quán triệt giữa bên thành khó biết
Khoảng một bữa ăn, có sáu mươi tiểu kiếp, giao xen chủ bạn thảy khôn nghì)
III.
Tăng trượng lục hòa, tuân đạo nhi hành, tự gia tăng phước tuệ 
Pháp y tứ nhiếp, tùy duyên phổ lợi, vô xứ bất từ bi
(Tăng cậy lục hòa, tuân đạo mà làm, nhà mình thêm phước tuệ
Pháp nhờ tứ nhiếp, tùy duyên lợi khắp, đâu chỗ không từ bi)
IV.
Nạp sa giới ư vi trần, thúy trúc hoàng hoa phi huyễn tướng
Hội tam thừa vu nhất thật, thanh thiên bích hải khởi tha quang
(Nạp muôn cõi vào hạt bụi, trúc thúy hoa vàng đâu tướng huyễn
Quy ba thừa về một thật, trời xanh biển biếc há cảnh kia)
V. Câu đối bàn Phật
Quy đầu vô thượng hùng tôn, vạn đức hồng danh, tam thân bảo tướng
Khể thủ hằng sa diệu hạnh, thập địa bồ tát, tứ quả thanh văn
(Quy đầu vô thượng hùng tôn, vạn đức hồng danh, ba thân tướng báu
Kính lễ hằng sa diệu hạnh, thập địa bồ tát, bốn quả thanh văn)

331
CÂU ĐỐI CHÙA LONG KHÁNH 
Ở CỬA BIỂN QUY NHƠN BÌNH ĐỊNH
I.
Long đức tự tâm sinh, vạn loại hàm linh phổ thi hữu dư dụ
Khánh vân tùy xứ kết, tam thiên thế giới ứng dụng vô bất chu
(Đức lớn tự tâm sinh, muôn loài hàm linh ban khắp ơn thừa thãi
Mây vui tùy chỗ kết, ba ngàn thế giới ứng dụng đâu chẳng tràn)
II.
Long ân phổ bị, pháp thủy quân triêm, vô lượng thánh hiền hàm khể thủ
Khánh hội hoằng khai, thiền đăng biến chiếu, thập phương đàn tín cọng quy y
(Ơn lớn khắp ban, nước pháp thấm đều, vô lượng thánh hiền thảy khể thủ
Hội vui rộng mở, đèn thiền rọi khắp, mười phương tín hữu cùng quy y)
III.
Hư không sắc tướng, ninh trệ hữu vô, pháp uyển hoằng khai giác đạo
Trí thủy nhân sơn, thùy vi động tịnh, Phổ môn đại chấn triều âm
(Hư không sắc tướng, há mắc có không, vườn pháp rộng mở đạo giác
Trí nước nhân non, ai là động tịnh, Phổ môn rền lớn tiếng triều)
IV.
Vọng phi vọng, chân phục thùy chân, chuyển nhãn xuân thu tùy thệ thủy
Lai bất lai, khứ tùng hà khứ, hồi đầu sinh tử đẳng không hoa
(Vọng chẳng vọng, chân lại ai chân, nháy mắt xuân thu theo nước chảy
Đến chẳng đến, đi từ đâu đi, ngoái đầu sống chết giống không hoa)
V.
Thí vi tệ ư tham, nhẫn vi độ ư sân, tứ phương Bình Định
Uy dĩ trấn kỳ tà, ân dĩ chương kỳ đức, thiên hạ Quy Nhơn
(Bố thí để chặn tham, nhẫn nhục để vượt sân, bốn phương Bình Định
Uy để trấn áp tà, ân để làm rõ đức, thiên hạ Quy Nhơn)

332
CÂU ĐỐI TAM QUANG CHÙA PHƯỚC DUYÊN 
AN NINH
I.
Phước bất luận thánh phàm, tâm dự vô tâm thành dị trí
Duyên dĩ trợ nhân quả, thế hoàn xuất thế tổng tương nghi
(Phước không luận thánh phàm, tâm với vô tâm thành điểm khác
Duyên để giúp nhân quả, thế và xuất thế thảy hợp nhau)
II.
An lạc dĩ trì thân, ba trừng đại hải
Ninh tịnh nhi trí viễn, nhật xuất cao phong
(An lạc để giữ thân, sóng lặng biển lớn
Ninh tịnh mà xa nhắm, trời mọc núi cao)

333
CÂU ĐỐI CHÙA TRÙNG QUANG
I.
Trùng điệp thượng Dao đài, can bị thái dương thu thập khứ
Quang minh khai ngọc vũ, tín tri tuệ nguyệt tống tương lai
(Trùng điệp lên đài Dao, vừa bị mặt trời thu thập hết
Quang minh mở nhà ngọc, đúng hay trăng tuệ tống đưa đi)
II.
Đạo bất viễn nhân, thuyết mã thuyết ngưu ninh quan thánh trí
Tâm tồn lợi vật, vi long vi tượng đại hiển thần thông
(Đạo không xa người, nói ngựa nói trâu há quan thánh trí
Lòng muốn lợi vật, làm rồng làm voi lớn tỏ thần thông)

334
CÂU ĐỐI NIỆM PHẬT ĐƯỜNG VÀ 
PHẬT ĐÌNH XÃ KẾ MÔN 
I.
Ngọc tiêu xảo lộng vô sinh khúc
Bảo nguyệt trường minh bất dạ thành
(Tiêu ngọc khéo chơi vô sinh khúc
Trăng báu mãi sáng bất dạ thành)
II.
Phật pháp hữu duyên trừng định thủy
Đình đài vô hạn phiến từ phong
(Phật pháp có duyên trong nước định
Đình đài vô hạn quạt gió từ)
III.
Nhược liễu tam tâm vô sở đắc
Tùy đăng cửu phẩm thị trường y
(Nếu rõ ba tâm không chỗ được
Theo lên chín phẩm ấy mãi nương)
IV.
Nhất điểm linh đài hồi kiếp mộng
Thiên niên ám thất trượng thiền đăng
(Một điểm đài thiêng về mộng kiếp 
Ngàn năm nhà tối cậy đèn thiền)

335
NGHĨA TRANG BA ĐỒN 
ẤY LÀ NƠI QUY TÁNG 
CỦA CHIẾN SĨ CHẾT TRẬN VÀ NẠN VONG
I.
Chinh chiến kỷ năng hồi, linh tích thiên thu bằng thử địa
Thân sơ vô dị trí, tâm hương nhất triện vấn thùy nhân
(Chinh chiến mấy kẻ về, dấu thiêng nghìn thu nhờ đất đó
Thân sơ không điểm khác, hương lòng một nén hỏi người nào)
II.
Hắc hải ba đào, tuyền nhưỡng nan mai chung cổ hận
Bạch dương phong vũ, anh hồn trường ngưỡng đại từ tâm
(Hắc hải sóng dồi, suối vàng khôn lấp muôn thuở hận
Bạch dương mưa gió, anh hồn mãi ngóng đại từ tâm)

336
MỪNG KHÁNH THÀNH VIỆN PHƯỚC HẢI[120]
Phước hải cơ bồi, địa bố hoàn kim kham tự tỷ
Tào khê phái diễn, ba trừng hạo nguyệt thí đồng quan
(Biển phước nền vun, đất trải vàng ròng mình chịu sánh
Tào khê phái chảy, sóng trong trăng sáng thử cùng xem) 

337
MỪNG ÔNG MỖ ĐÃ ĐƯỢC CON GÁI
Tôn ông thả úy Tử Bình nguyện
Lệnh nữ sơ hài Ung Bá duyên 
(Tôn ông hãy vui Tử Bình nguyện
Lệnh nữ mới hợp Ung Bá duyên)

338
CÂU ĐỐI CHO THỌ THÁP CỦA HÒA THƯỢNG TỊNH KHIẾT 
CHÙA TƯỜNG VÂN
I.
Đại hải phiếm khinh chu, nhất trạo thôi phiên sinh tử lãng
Vi trần tạng pháp giới song quyền đả toái hữu không môn
(Biển lớn thả thuyền con, một chèo đánh lật sóng sinh tử”
Bụi nhỏ chứa cõi pháp, đôi nắm đánh nát cửa có không)
II.
Liệt thạch vi đồ, tình dự vô tình hưu quá vấn
Tù sa tác tháp, tướng hoàn phi tướng tổng hà bằng
(Sắp đá làm trò, tình với vô tình, thôi hỏi nữa
Nhóm cát làm tháp, tướng và phi tướng thảy cậy gì)
III.
Thuận ứng hồ trung, trục trục lưỡng biên tri thị huyễn
Bất ly đương xứ, đình đình bất xích ngưỡng di cao
(Thuận đáp cái giữa, đuổi đeo hai bên biết là huyễn
Không rời chỗ ấy, dỏng dong trăm thước ngó càng cao)
IV.
Kinh doanh nhất đại chấn thiền phong, bất vi bản thể 
Đột ngột thất từng lân cổ sát, biệt hữu kỳ quan
(Một đời lo toan nổi gió thiền, chẳng trái bản thệ
Bảy từng ngất nghểu sát chùa cổ, riêng có kỳ quan)
V.
Cảnh tịch tâm không, đáo để mộng trung trùng ngộ mộng
Phàm siêu thánh giải, hồi đâu thân ngọai khước phi thân
(Cảnh vắng tam không, rốt cuộc trong mộng lại hiểu mộng 
Phàm siêu thánh hiểu, ngoái đầu ngoài thân lại chẳng thân)
VI.
Định lực không viên, xá lợi doanh lai tàng thử địa
Ứng cơ nguyện mãn, ưu đàm lạc khứ hướng thùy thiên
(Định lực không tròn, xá lợi đem về cất đất đó
Ứng cơ nguyện đủ, ưu đàm rơi rụng nhắm trời ai)
VII.
Pháp trục cao đê, xúc sứ đồ lao thanh bạch nhã
Tâm vô quải ngại, tùy duyên tiếu phá thị phi trường
(Pháp đuổi thấp cao, đụng chỗ suông nhọc mắt xanh trắng
Tâm không quải ngại, tùy duyên cười vỡ trường đúng sai)
VIII.
Đạo viên tỉnh bạn tam sinh thạch
Tâm tại hồ trung nhất phiến băng
(Đạo tròn bờ giếng đá ba sinh 
Tâm ở trong hồ một phiến băng)
IX.
Tịnh địa kinh thu khai ngọc trục
Xuân sơn thử nhật trúc kim thành
(Đất sạch trải thu mở quyển ngọc
Núi xuân ngày đó dựng thành vàng)
X.
Ninh quan huyễn chất trường mai địa
Thặng hữu liên hoa bất nhiễm nê
(Há quan chất huyễn mãi chôn đất
Thừa có hoa sen không nhuốm bùn)
XI.
Bất quan phong tảo địa 
Thả thính vũ thanh trần
(Chẳng quan quét đất gió 
Hãy nghe rửa bụi mưa)
XII.
Bách niên sinh tử tại
Nhất lộ Niết bàn khinh
(Trăm năm sinh tử tại
Một lối Niết bàn khinh)
XIII.
Dĩ ly điên đão mộng
Ninh luận tử sinh thân
(Đã rời mộng điên đảo
Đâu bàn thân tử sinh)

339
NƠI NHÀ HIÊN THỦY NGUYỆT
Quân tử yếu thành nhân, đồ tại sát trần, ninh phiền tụ thạch
Trượng phu nghi bảo đức, phạn tùng Hương tích, hà dụng chưng sa
(Quân tử cốt thành nhân, trò tại cõi trần, nhóm đá há nhọc 
Trượng phu nên no đức, cơm từ Hương tích, chưng cát làm gì)

340
CÂU ĐỐI BÀN PHẬT CHÙA PHÁP HOA
I. 
Ư đại giác tâm, phân thân sa giới phi đa, đoan tọa vi trần phi thiểu
Tùy chúng sanh lượng, giáng đản vương cung vi hữu, trừng thần hạc lĩnh vi vô
(Đối lòng đại giác, phân thân sa giới chẳng nhiều, ngồi thẳng vi trần chẳng ít
Theo lượng chúng sinh, giáng đản cung vua là có, lắng thành núi Hạc là không)
II.
Vạn pháp bản tương thân, y bát gia phong phi đán mộ
Tam tâm vô sở trụ, hương vân thị xứ khởi lâu đài
(Muôn pháp vốn tương thân, y bát gia phong đâu tối sớm
Ba tâm chẳng chỗ trụ, mây thơm nơi ấy nổi lâu đài)

341
CỬA NIỆM PHẬT ĐƯỜNG 
CỬA BIỂN THUẬN AN
Thiên nhạc khanh tương, phong truyền diệu kệ 
Văn lan đảng dạng, hải chấn triều âm
(Nhạc trời du dương, gió truyền diệu kệ
Sóng vỗ vang rền, biển nổi triều âm)

342
CÂU ĐỐI XE TANG
I.
Tất cánh nhân duyên đồng dạ mộng
Na kham thân thế đẳng phù bình
(Rốt cuộc nhân duyên như đêm mộng
Chịu đâu thân thế giống bèo trôi)
II.
Khả lân hậu lãng thôi tiền tiền lãng
Tối khổ sanh nhân khấp tử nhân
(Đáng thương sóng sau lùa sóng trước
Rất khổ người sống khóc người đi)
III.
Nhất đóa phù vân tùy bắc khứ
Bán không thiên nhạc nhà tây quy
(Một đóa mây trôi theo đi bắc
Nửa bầu thiên nhạc rước về tây)
IV.
Dự thế phù trầm sinh diệc tử
Tùy thời cảm ứng tử do sinh
(Chìm nổi với đời sinh cũng tử 
Tùy thời cảm ứng tử còn sinh)

343
VIẾNG NGHIÊM ĐƯỜNG CỦA TỰ CHỦ CHÙA TRÚC LÂM [121]
Trực đạo kỹ năng đương, tà chưởng liên hoa hành Phật sự
Song thân do đãi dưỡng, vân mê Dĩ lịch cảm giao tình
(Đường thẳng mấy ai đương, sổ nắm hoa sen làm việc Phật
Song thân còn kịp dưỡng, mây mù núi dĩ cảm tình giao)

344
VIẾNG NHẠC SĨ MỖ QUÂN
Đình vân vũ hạc ái kỳ tài, thương thiên bất ngận 
Lưu thủy cao sơn hoài cựu khúc, hoàng thổ nan mai
(Dừng mây múa hạc yêu tài lạ, trời xanh chẳng thiếu
Nước chảy non cao nhớ khúc cũ, đất vàng khó chôn)

345
CÂU ĐỐI THỜ LÃO TỬ
Hoàng đế sùng sư, Nghiêu Thuấn Vũ Than thành trí trị
Trọng Ni vấn lệ, Nhan Tăng Tư Mạnh đắc chân truyền
(Hoàng đế tôn sư, Nghiêu Thuấn Vũ Than thành trí trị
Trọng Ni hỏi lễ, Nhan Tăng Tư Mệnh được chân truyền)

346
HỌA ĐÁP ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG 
CHÙA BẰNG SỞ CỦA BẮC VIỆT
Đâu thường trong đó vốn dưỡng dinh
Chỉ sợ thanh văn mắc Hóa thành
Đóng mở năm lời trừ nhị chấp
Chớp loang một đấm phá vô minh
Thôi bàn dưới mắt thông và nghẽn
Dám nhắm đầu sào tử với sinh
Vui vẻ từ dung nay gặp lại
Nguyện đem pháp lạc chặn mê tình 

347
TÙY NGÂM
Nếu gặp mưa cũ bàn chuyện cũ
Không phải nhà thơ nhác nói thơ
Cửa không khách khứa người hiềm tục
Bàn có thi thơ tớ cũng tiên

348
Ý CÁC ĐẠO HỮU NIỆM PHẬT ĐƯỜNG 
MỖI NGƯỜI THỈNH TIÊN LINH CÙNG KỴ 
Nghe rằng, trong không giống, khác nổi lên thành khác, khác nó chỗ khác, nhân khác mà lập giống. Giống khác phát minh, nhân đó lại lập giống chẳng khác. Thế mới biết, ngàn cành muôn lá của cây do một gốc vun bồi, muôn suối ngàn dòng của nước đều ở một nguồn mà chảy ra.
Ôi, sinh linh mỗi khác nhau, nhưng tự tính vốn giống. Họ hàng tuy khác, ta với ông cũng vậy. Huống nữa, đức Từ Phụ ta đều coi như con, há bọn ta bốn tướng chẳng rời, mà đã rõ tự tha, há phân đây đó. Nay mỗi một vị đem cửu huyền thất tổ, nương nhờ từ bi hương hỏa cửa thiền, hầu mong bà con nhiều đời được thảnh thơi ngày tháng ở nơi đất Phật trang nghiêm. Biết dừng chỗ dừng, mới lại ngày mới.
Kỉnh ý.

349
THAY Y SƯ TRẦN MINH TRAI, NGUYÊN NGƯỜI TRUNG QUỐC
TẶNG HAI CHA CON DANH Y TRUNG QUỐC MỚI ĐẾN VIỆT NAM

Ngược tự Kỳ Hoàn mở nghiệp khi
Trung Hoa nối tiếp thánh thần y
Từ xa ngàn dặm ban nhân thuật
Vị đến cõi Nam dụng hóa ky
Chí khỏe chẳng từ lúc nóng lạnh
Sân trường chịu thích cha mà thầy
Nước xưa mỗi nhớ ngày về lại
Đất khách nhân duyên chửa đến kỳ

 
________________________________________
[1] Mấy tuần nóng nảy, ngày đó mưa ngọt đổ lớn 
[2] Ba vận sau hộ giới đàn, phần nhiều dùng từ ngữ trong sách Hoằng giới đại học
[3] Trước chùa có tháp báu 7 tầng gọi là Phước Duyên
[4] Xe lửa dừng ở ga Cao Đôi lại thuê thuyền để đến chùa
[5] Kinh dạy: nhiều lần gởi thân ở cõi ngườitrên trời, tức là báo thân vậy
[6] Kinh dạy: “Em yêu lòng anh, anh xót sắc em”. Hai câu sau dịch từ ngạn ngữ.
[7] Thời cuộc biến chuyển
[8] Sau đảo chính một năm
[9] Đều dùng điển Đông Chu, lấy tên người mà ép vần
[10] Hội viên Niệm Phật đường trưng thu từ các nhà thiện tín, phân làm hai phần, một để bố thí cho người nghèo, và một để thí cúng cho các chùa không chỗ nương tựa.
[11] Liên hoàn cách. Chữ thứ 7 của mỗi câu dùng nửa chữ để đọc tiếp câu sau, xong rồi lại bắt đầu.
[12] Cũng là biệt hiệu của một nữ sĩ góa chồng, nhân đem tặng.
[13] Người phạt yêu cầu mỗi câu phải dùng điển tích rượu, nhưng không dùng chữ rượu.
[14] Sau khi hồi cư, chạy tránh binh hỏa
[15] Tướng công có câu: “Chỉ khủng sơn linh tiếu bạch đầu” (Chỉ sơ thần non cười đầu bạc)
[16] Gặp lúc mưa lụt
[17] Có người không bằng lòng mình tới, thượng nhân liền nói: “Đừng trêu ghẹo ta”.
[18] Thượng nhân cùng với ta mỗi khi uống rượu, gắng khuyên, nên nói thế.
[19] Lúc nhỏ ta cùng với hơn mười huynh đệ kết làm một liên xã nhỏ, dựng nhà ở núi ấy. Ta thường là một người trong liên xã đó.
[20] Con cháu nhà quyền quý hoặc có người như thế. Bình dân không có thói xấu đó. Nếu gặp đường cùng thì ăn trộm hoặc ăn xin mà thôi.
[21] Ta lúc trẻ trụ trì chùa ấy là Tứ đại sư làm hóa chủ, dựng một viện tranh ở bên trái chùa, mời ta cùng các nhân giả Trí ThủQuảng Huệ tháng hạ đến an cư, cung cấp đầy đủ. Mười năm sau, binh hỏa bỗng nổi lên. Đại sư đã sát thânthành nhân ở vùng núi non của tỉnh đó. Ngày này lại đến, khôn xiết cảm xúc xưa nay.
[22] Lúc này quân Pháp đại tấn công
[23] Nữ sĩ thờ mẹ rất cẩn thận
[24] Ta tuổi đã già, lại vào trung tuần tháng chạp năm đó đang giảng kinh Pháp hoa mới được bốn quyển, dạy chưa xong nhiệt nồng biếu tặng cảm tình này 
[25] Ý kinh
[26] Thiền quán
[27] Lúc đại hộinghị quyết về việc khắc khuôn dấu cho thiền gia cả nước và treo cờ Phật giáo mới được sáng tạo.
[28] Nghề nhạc đã truyền ba đời rồi
[29] Lần đó quân chủ thối lui, quân xâm lược liền tiến, quân nhạc rộn lên.
[30] Thầy là đại biểu Phật giáo thế giới, đến Ấn Độ, thăm khắp các Phật tích. Sau khi trở về bèn viết ra ký sự một thiên.
[31] Lúc ấy đại hội Phật giáo thống nhất ba kỳ mới xong.
[32] 15 năm trước, thầy tặng ta một bài thơ luật, mà câu kết đọc:
 Đạo pháp tương lai anh đắc chí
 Ba kỳ thống nhất há bàn xằng
nó đã trở thành sấm ngữ.
[33] Bạn đạo lúc đó đang trước thuật nội điển.
[34] Lại cùng với những người khác ra sức giành lấy chức vụ.
[35] Pháp đệ của bạn đạo đã viên tịch vào năm trước.
[36] Tên rượu
[37] Long đoàn và Lạc nô đều là tên trà
[38] Các bồ tát, hoa trời không dính thân, dụ cho việc diệt trừ hết hai ngã chấppháp chấp
[39] Sử Trung Quốc
[40] Tự là Di Ngô
[41] Tự là Thúc Nha
[42] Tự là Thiếu Bá
[43] Tự là Hội
[44] Tự là Tử Tư
[45] Tự là Khanh Tề, hậu duệ của tướng Khánh Phong
[46] Tự là Quý Tử
[47] Tự là Dư Tử
[48] Tự là Tử Phòng
[49] Tự là Vương Tôn
[50] Tự là Nhụ Tử
[51] Tự là Vũ
[52] Tự là Tử Khanh
[53] Tự là Công Tôn
[54] Tự là Văn Uyên
[55] Tự là Huyền Đức
[56] Tự là Khổng Minh, hiệu là Phục Long
[57] Tự là Sĩ Nguyên, hiệu là Phụng Sồ
[58] Tự là Nguyên Trực
[59] Tự là Dực Đức
[60] Tự là Tử Long
[61] Tự là Mạnh Đức
[62] Tự là Văn Cử
[63] Tự là Đức Công
[64] Tự là Tử Kiến
[65] Tự là Văn Cơ
[66] Tự là Phụng Tiên
[67] Tự là Trọng Mưu
[68] Tự là Công Cẩn
[69] Tự là Hưng Bá
[70] Tự là Long Đồ
[71] Tự là Vũ Mục
[72] Người Pháp tấn công đất liền, đặt tiên sinh làm tri huyện của huyện nào đó, nên nói thế.
[73] Lúc còn ở nhà, từng làm mẹ kế.
[74] Nữ sĩ thuở nhỏ mồ côi cha, đến cuối đời thì chết chồng.
[75] Ngày thu, thứ nấm đó mọc đầy trước chùa, người ta tranh nhau hái.
[76] Hai thầy ấy lúc đó cùng ở tại chùa
[77] Bấy giờ hòa thượng Tường VânTòng lâm pháp chủ, thường ở chùa Báo Quốc, nên nói thế.
[78] Ngày Phật còn tại thế, mỗi năm ba tháng mùa hạ, tăng kết giới để vào hạ. Gần đây, nước ta việc này rất thịnh, nhưng phần lớn chỉ là cọp vẽ mà thôi.
[79] Thổ long là con giun
[80] Dẫn ra ngoài dùng bảng gỗ đánh đau mỗi người ba bảng
[81] Lôi ra ngoài lại đánh
[82] Dâng bảng gỗ
[83] Nhận bảng
[84] Hét lên mà thôi
[85] Đuổi mà đánh
[86] Cũng vậy
[87] Lo cười quên đánh
[88] Chớ đánh mà sinh sự
[89] Đánh đau, đuổi hết
[90] Nếu lúc cao hứng, càng nhiều càng tốt 
[91] Liền mấy đêm diễn các màn Hán Đường 
[92] Hội Phật giáo nhìn nhận núi Ngũ Hành của tỉnh Quảng Nam là thắng cảnh vĩnh viễn của Phật giáo cả nước, nhân gặp ngày khánh đản của đức Quan Âm, hội đã tổ chức trai đàn ba ngày đêm để mừng, nên viết lời ca.
[93] Chỉ trưởng họ là đại sư Hồng Khê
[94] Pháp sư từng du hóa tới các châu Âu, Á, Mỹ 
[95] Họa vần của Thích Nữ Diệu Không
[96] Chép trùng 
[97] Y sĩ là hậu duệ của nhà tướng tướng. Thân mẫu trở về với thiền.
[98] Cũng gọi là Tây đường mộng
[99] Khai canh khai khẩn đều do họ này mà ra
[100] Năm Quý Mão (1963)
[101] Sau khi sư đến nhận, bèn lập ban Tịnh độ
[102] Tập cổ
[103] Niệm Phật đường ở gần đường xe lửa cùng dãy núi
[104] Chủ khán hộ cũng là người oán giận phụ nữ
[105] Đó là nơi bàn việc công của giáo hội Thừa Thiên 
[106] Ngày pháp hữu thuận tịch đúng gặp lúc khánh đản của đức Thích Tôn, giáo hội kính cẩn cử hành kỷ niệm trung hưng lần thứ nhất.
[107] Phật tiên cùng thờ
[108] Nhớ ba mươi năm trước từng lưu học, ốm bệnh ở đó
[109] Hòa thượng với nhân giả Trí Thủ là cùng làng với ta
[110] Tháp này do trưởng nam của đại sư tạo lập, nên nói vậy
[111] Ta tặng Trúc Song tùy bút cho cư sỹ, nên nói thế.
[112] Nhớ lại 20 năm trước cùng nói chuyện với tiên sinh Sào Nam 
[113] Đại sư đối với ta là pháp đệ xuất gia, cũng là gia đệ ở đời. 
[114] Cũng gọi là nhất chỉ thiền
[115] Câu này dùng thơ xưa 
[116] Ngày các thầy tự tứ 
[117] Chùa xây ở một cánh đồng cát lớn, nên nói thế 
[118] Chùa do một nhà sư Trung Hoa dựng nên 
[119] Chùa này ở bên cạnh núi chùa Kim Tiên, tương truyền đã trải qua năm đời.
[120] Viện chủ của viện này cùng ta là đồng sư, là em trong phái 
[121] Thầy là tri sự của Hội Phật giáo Thừa Thiên, nên nói huyên đường tạ thế

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
14/04/2020(Xem: 7583)
24/02/2020(Xem: 4649)
02/11/2019(Xem: 4714)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.