LƯỢC SỬ BÁO CHÍPHẬT GIÁO VIỆT NAM TỪ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1975
Thích Giác Toàn
I. TỔNG QUAN
Việc chọn năm 1951 làm một cái mốc trong việc phân kỳ lịch sửbáo chíPhật giáo Việt Nam dẫn xuất từ sự kiện Tổng hội Phật giáo Việt Nam được thành lập vào ngày 9-5-1951 (mùng 4 tháng Tư năm Tân Mão), quy tụ được các tập đoàn Phật giáo của cả ba miền Bắc-Trung-Nam, được coi là một mục tiêu đã thành tựu của phong tràochấn hưngPhật giáo Việt Nam; thành công này có sự đóng góp tích cực của báo chíPhật giáo Việt Nam. Tuy nhiên, trong điều kiện một đất nước đang có chiến tranh, thành công đó đã không thể được phát huy để làm nền tảng cho việc xây dựng một sự thống nhất thực sự của Phật giáo Việt Nam. Những diễn biến chính trị tiếp theo đã không hỗ trợ cho sự phát triển của báo chíPhật giáo Việt Nam như mong muốn của mọi người.
1. Bối cảnh chính trị từ 1951 đến 1963
Vào năm 1951, Việt Nam đang còn trong tình trạng chiến tranh. Trước đó, vào năm 1948, người Pháp đã lập một chính phủ Quốc gia để có một bộ mặt hợp pháp nhằm tấn công kháng chiến với mong muốn giành được quyền kiểm soáttoàn bộ đất nước; chính phủ này được khối Tự dođứng đầu là Hoa Kỳ ủng hộ. Để đối phó, chính phủ Việt NamDân chủ Cộng hòa buộc phải ngả hẳn vào sự viện trợ của Trung Quốc và Liên Xô. Vào năm 1954, khi cuộc chiến tạm ngã ngũ bằng hiệp định Genève chia đôi Việt Nam ở vĩ tuyến 17 thì Việt Namtrở thành hai quốc gia có hai chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc tiếp tục dồn mọi nỗ lực cho việc thống nhất đất nước vì hiệp định Genève có quy định việc chia đôi đất nước chỉ là tạm thời và hai miền sẽ hiệp thương để thống nhất vào năm 1956. Miền Nam phủ nhận hiệp thương, quyết tâmxây dựng một đất nước riêng trông cậy vào sự trợ giúp của thế giớitự do. Miền Nam có một chính quyền dựa vàothế lực của Giáo hộiThiên chúa giáo La Mã Vatican nên có thái độáp chế đối với Phật giáo. Tháng 12 năm 1960, miền Bắc chỉ đạothành lập
một Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam để tiện lãnh đạo việc nổi dậy của dân chúng, từng bước dấy lên chiến tranh khiến miền Nam phải kêu gọi sự viện trợ quân sự của nước ngoài. Trong điều kiện đó, hoạt độngPhật giáo cũng chịu ảnh hưởng, báo chíPhật giáo Việt Nam không đóng góp được gì nhiều trong công cuộc hoằng pháp và xây dựngvăn hóa dân tộc. Thái độ kỳ thị tôn giáo của chính quyền miền Nam đã đẩy người Phật tử miền Nam Việt Nam đến chỗ phải phản ứng. Cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 lật đổ chế độ của Tổng thống miền Nam Ngô Đình Diệm là biến cố dẫn xuất từ cuộc đấu tranh đòi tự dotín ngưỡng và được bình đẳng đối xử của người Phật tử miền Nam Việt Nam, đã mang lại cho Phật giáo Việt Nam ở miền Nam một cơ hội phát triển.
2. Bối cảnh chính trị từ 1963 đến 1975
Sau khi chính quyền miền Nam do Ngô Đình Diệm lãnh đạo bị lật đổ, hoạt độngPhật giáo có phần khởi sắc. Tiếc rằng sau đó sự tranh chấp của các phe phái khiến tình hình miền Nam ngày một suy sụp, vùng giải phóng ngày một lan rộng, đe dọa sự tồn tại của miền Nam, dẫn đến việc Hoa Kỳ và các nước đồng minh phải trực tiếp tham chiến; những đơn vị Thủy quân lục chiến Mỹ đầu tiên đã đổ bộ vào Đà Nẵng ngày 8-3-1965. Miền Bắc tận dụng cơ hội cũng công khai đưa quân vào Nam; chiến tranh Việt Mỹ bùng nổ. Sau những ngày đầu giành được một vài thắng lợi, quân Mỹ dần dần sa lầy trước chiến thuật du kích của quân miền Bắc và phải từng bước leo thang chiến tranh, đưa máy bay ra đánh phá miền Bắc. Trước những hình ảnhbi thảm của chiến tranh được lực lượng nhà báo chuyên nghiệp quốc tế truyền đi khắp thế giới, dư luận năm châu lên án người Mỹ, các cuộc biểu tình phản chiến lan rộng khắp nơi đòi người Mỹ chấm dứt chiến tranh. Đầu năm 1968, miền Bắc tung ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, đợt đầu diễn ra ngay trong ngày Tết Nguyên đán năm Mậu Thân, để cho thấy những nỗ lực chiến tranh của người Mỹ là không có kết quả. Tháng ba năm 1968, Mỹ giảm ném bom miền Bắc để tạo điều kiệnthương lượngkết thúc cuộc chiến. Trước áp lựcdư luận quốc tế và ngay tại Hoa Kỳ, cộng với tình trạng thiếu hiệu quả của chính quyền miền Nam, người Mỹ quyết định rút quân, tiến hành kế hoạchViệt Nam hóa chiến tranh. Trong thời gian đó, những cuộc hòa đàm vẫn tiếp tục. Miền Bắc cho thành lập Chính phủ Cách mạngLâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam vào ngày 8-6-1969 để các thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam có điều kiệntrở thành một thành phầntham dự hòa đàm. Ngày 4-8-1969, cuộc đàm phánchấm dứt chiến tranh Việt Namkhai diễn tại Paris với Hoa Kỳ và Việt NamDân Chủ Cộng Hòa là hai chủ thể thương lượng chính, bên cạnh có chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạngLâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Trong quá trình hòa đàm, chiến tranh tiếp tục lan rộng. Ngày 27- 01-1973, hiệp định Paris được ký kết nhưng các bên đều có những vi phạm hiệp định. Người Mỹ rút hoàn toàn quân đội tham chiến của họ ra khỏi Việt Nam vào tháng ba năm 1973, chỉ để lại một số đơn vị hậu cần và hành chánh. Cũng trong năm 1973, viện trợ quân sự của Hoa Kỳ dành cho Việt Nam Cộng hòa bị cắt hẳn khiến miền Nam phải tiếp tục chiến đấu trong tuyệt vọng. Tháng ba năm 1975, quân đội miền Bắc ồ ạt tiến công miền Nam và kết thúc cuộc chiến vào ngày 30-4-1975 khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa tuyên bốđầu hàng. Cuộc chiến tranh để hoàn tất việc thống nhất đất nước khởi phát từ tháng 12-1946 đã chấm dứt với nhiều đau thương. Trong hoàn cảnh chính trị như vậy, hoạt độngPhật giáo ở miền Bắc không thể tồn tại; trong khi đó, Phật giáo ở miền Nam hồi phục một phần sinh khí nhưng vì bị tác động mạnh bởi chiến tranh và các quan điểnm khác nhau về chiến tranh nên đã phân hóa. Tuy vậy, báo chíPhật giáo Việt Nam trong giai đoạn này lại đã tận dụng được hoàn cảnh để đẩy mạnh hoạt động và đã góp phần vào việc làm dấy lên một không khí nghiên cứuPhật học, đặc biệt về Thiền họcPhật giáo, khá sôi nổi như được thấy trong những trình bày dưới đây.
II. BÁO CHÍPHẬT GIÁO VIỆT NAMTHỜI KỲCỦNG CỐ 1951-1963
1. Tổng quan
Từ 1951 đến 1963, có thể cho rằng báo chíPhật giáo Việt Nam phải bước vào một giai đoạn thoái trào trước hoàn cảnh chính trị không thuận lợi. Giai đoạn này có thể chia thành hai giai đoạn nhỏ khác là từ 1951 đến 1954 và từ 1954 đến 1963 căn cứ theo những diễn biến chính trị có tác động đến toàn xã hội.
2. Từ 1951 đến 1954: Giai đoạn chuyển tiếp
Trong giai đoạn này, hầu hết những tờ báo Phật giáo trong vùng giải phóng đều tự ý đình bản và tập trung vào việc tham gia các hoạt động kháng chiến chống Pháp. Chỉ trong vùng tạm chiếm do chính phủ Quốc gia thuộc Pháp quản lý, một số tờ báo Phật giáo tiếp tụchoạt động. Các nghiên cứu về lịch sửbáo chíViệt Nam đã ghi nhận sự có mặt của những tờ báo Phật giáo sau đây:
a. Tạp chí Phương Tiện là một bán nguyệt san xuất hiện vào ngày rằm và mồng một hàng tháng, hoạt động với tính cách là cơ quanhoằng dương Phật pháp của Hội Tăng Ni Chỉnh lý Bắc Việt, đã phát hành từ năm 1949 do Hòa thượng Tố Liên làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, và tiếp tụchoạt động cho tới tháng 7 năm 1954. Ngoài việc dịch thuật để phổ biến những bài viết của các tác giả thuộc phong tràochấn hưngPhật giáo Trung Quốc như Đại sưThái Hư, Pháp sưĐế Nhàn, Cư sĩ Đường Đại Viên…, đăng lại những bài viết của các tác giảViệt Nam như Nguyễn Trọng Thuật, Bùi Kỷ, Thiều Chửu… tạp chí quy tụ được những cây bút mới như Viên Quang, Thanh Kiểm, Tâm Giác, Tâm Châu, Quảng Độ, Khánh Vân, Thanh Hương. Sư Trí Hải và Sư Tố Liên cũng thường xuyên có bài viết trên Phương Tiện.
b. Tháng 9-1949, một hiệp hộiPhật giáo khác ra đời ở miền Bắc gọi là Hội Phật tửViệt Nam có trụ sở chính ở chùa Chân Tiên, phố Bà Triệu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Hội cho xuất bản nguyệt san Bồ Đềlàm cơ quantruyền báđạo Phật, do cư sĩ Tuệ Nhuận Văn Quang Thùy làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Bồ Đề có sự đóng góp của những cây bút như Nguyễn Xuân Chữ, Lê Văn Giáp, Hồng Liên, Đế Châu, Vũ Đình Mẫn, Trí Dung, Thanh Văn, Lê Văn Lương, Cát Tường Lan, Nguyễn Đại. Hội Phật tửViệt Nam và nguyệt san Bồ Đề đã là hạt nhân để xây dựngphong tràoGia đìnhPhật tử ở miền Bắc với sự đóng góp tích cực của một vị Ni là Ni sưHải Triều Âm.
c.Tin TứcPhật Giáoban đầu là một phụ trương biếu không của Tập san Phương Tiện, phát hành số đầu tiên vào ngày 1-9-1951 ra mỗi tuần một kỳ với mục đích chuyên đăng tải các tin tứcliên quan đếnPhật giáo trong nước và trên thế giới, phát hành được 66 số thì đình bản vào ngày 3-1-1953 vì lý do tài chánh. Sau đó, tờ Tin TứcPhật Giáo được tục bản với tính cách là một tờ báo riêng do Hội Việt Nam Phật Giáoquản lý chứ không phụ thuộcPhương Tiện nữa.
d. Nhân Phật đản năm Kỷ Sửu (1949), An Nam Phật học hội ở miền Trung cho ra đời tạp chí Giác Ngộdo cư sĩTâm Huệ Tráng Đinh làm chủ nhiệm và Cư sĩ Võ Đình Cường làm chủ bút. Tạp chí cũng là một bán nguyệt san ra ngày mồng một và ngày rằm mỗi tháng. Tạp chí có sự đóng góp bài vở của các tác giả Thích Mật Nguyện, Thích Thiên Ân, Thích Giác Hạnh, Nguyễn Hữu Ba, Tống Hồ Cầm (Tống Anh Nghị), Hùng Khanh, Trương Tú, Cao Khả Chính, Trịnh Tiên, Lê Bối, Phạm Đăng Trí, Huyền Chân, Nguyên Phương; Trúc Diệp… Tạp chí đình bản vào năm 1952.
e. Song song với Giác Ngộ,An Nam Phật học hội cho tục bản tờ Viên Âm do cư sĩ Chơn An Lê Văn Định làm chủ nhiệm, Pháp sư Thích Trí Quang làm chủ bút, được sự chứng minh của các vị Hòa thượng chùa Tường Vân, chùa Thuyền Tôn và chùa Tây Thiên. Viên Âm vẫn là một tờ nguyệt san và có bài vở đóng góp bởi các vị Thích Thiện Siêu, Thích Thiện Minh, Thích Mật Nguyện, Thích Minh Châu. Tạp chí Viên Âm cũng đình bản vào năm 1954.
f. Vào năm 1950, một nguyệt san có tên là Hướng Thiện do Thiền sư Thích Thiện Minh làm chủ nhiệm xuất hiện tại Đà Lạt. Tạp chí này ra ngày 1 âm lịch hàng tháng. Số đầu phát hành trong tháng Sáu năm Canh Dần. Số 8 phát hành vào dịp Xuân Tân Mão (1951) và tự ý đình bản vào khoảng giữa năm 1951.
g.Tiếp theo Hướng Thiện, tập san Liên Hoa do một tổ chức Phật tửtrí thức ở Đà Lạt có tên là Phật giáoThiện hữu chủ trương xuất bản, số báo đầu tiên ra ngày 18-12-1952. Chủ nhiệm là Huỳnh Văn Trọng, chủ bút là Thiền sư Thích Nhất Hạnh, một người Pháp làm quản lý là Pierre Marti. Tập san này có mặt đến năm 1954.
3. Từ năm 1954 đến 1963: Giai đoạn thoái trào
Năm 1954, sau khi đất nước bị chia đôi, một số vị đã đóng góp cho hoạt độngbáo chíPhật giáo ở miền Bắc cũng di cư vào Nam mặc dù đại đa số đều ở lại; trong khi đó, cũng không ít vị đã đóng góp cho hoạt độngbáo chíPhật giáo ở miền Trung và miền Nam lại ra Bắc. Tuy nhiên, sau đó, hoạt độngPhật giáo ở miền Bắc đi vào chiều sâu. Hầu hết báo chíPhật giáo miền Bắc đều tự đình bản. Đa số các tu sĩPhật giáo ở miền Bắc trở về chùa thanh tu và tự lực sản xuất để mưu sinh, không tham gia vào hoạt độngthế tục nữa.
Ở miền Nam, báo chíPhật giáotiếp tục có mặt nhưng cũng rất hạn chế. Điều này cũng không có gì khó hiểu khi ngay từ những ngày đầu chấp chánh, chính phủ Ngô Đình Diệm đã chủ trương xây dựng một đất nước trên căn bản duy linh và theo đường lối nhân vị, là những quan điểm sống dựa trêntư tưởngThiên chúa giáo. Những người Phật tử ở miền Nam hiểu ngay rằng việc tích cựcphổ biếnPhật học sẽ là điều không hợp với con mắt chính quyền. Trong hoàn cảnh đó, người Phật tử miền Nam vẫn cố gắngduy trìmột sinh hoạt báo chíPhật giáo ở mức độ cầm chừng. Các nghiên cứu về lịch sửbáo chíViệt Nam vẫn ghi nhận các tờ báo Phật giáo nêu sau:
a. Tạp chí Từ Quang là một trong những tờ báo đã xuất hiện từ năm 1951 và vẫn hoạt độngliên tục. Từ Quang là cơ sở hoằng pháp của Hội Phật học Nam Việt do cư sĩChánh Trí Mai Thọ Truyền làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Ban đầu tòa soạn của Từ Quang đặt ở chùa Ấn Quang. Sau khi chùa Xá Lợi được xây dựng xong vào năm 1958 để làm trụ sở chính của hội thì báo quán của Từ Quang cũng dời về đấy. Trong giai đoạn từ 1951 đến 1963, việc biên tập tạp chí Từ quang đã nhận được sự giúp đỡ rất lớn của chư tăng thuộc Phật học đường Nam Việt. Từ Quang là tạp chí Phật giáoduy nhấthoạt động xuyên suốt từ 1951 đến 1975.
b. Mặc dù được thành lập từ năm 1951 và rất mong muốn có một tiếng nói độc lập, mãi đến năm 1956, Tổng hội Phật giáo Việt Nam mới cho ra đời cơ quanngôn luậnchính thức là nguyệt san Phật Giáo Việt Nam. Trong kỳ Đại hội lần hai họp vào tháng 4 năm 1956, Tổng hội Phật giáo Việt Namtiếp tục suy tôn Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Tổng hội chủ, mời Hòa thượng Thích Huệ Quang và Cư sĩ Chơn An Lê Văn Định làm Phó Tổng hội chủ, cư sĩChánh Trí Mai Thọ Truyền làm Tổng thư ký. Cũng trong Đại hội, Hòa thượngHuệ Quang được tín nhiệm giao tổ chức cơ quanngôn luận cho Tổng hội. Ngày rằm tháng tám năm Bính Thân (19-9-1956), Phật Giáo Việt Namphát hành số đầu tiên. Tạp chí do Hòa thượng Thích Huệ Quang làm chủ nhiệm và Thượng tọa Thích Nhất Hạnh là chủ bút. Tuy nhiên, chỉ sau ba số thì ngài Huệ Quangviên tịch và Thượng tọaNhất Hạnh được giao kiêm chủ nhiệm.
Tuy nói là thống nhất nhưng Tổng hội Phật giáo Việt Nam vẫn không có thực quyền lãnh đạo, hai đơn vị có thực lực nhất là An Nam Phật học hội ở Trung kỳ và Hội Phật học Nam Việt ở Nam kỳ vẫn có những hoạt động riêng rẽ. Cho đến kỳ đại hội toàn quốc lần thứ 3 của Tổng hội Phật giáo Việt Nam họp tại Sài Gòn ngày 17-8-1957, vấn đề vẫn chưa được giải quyết. Vì thế, một trong những mục tiêuvận động của nguyệt san Phật giáo Việt Nam là kêu gọi sự thống nhất triệt để đối với mọi tổ chức Phật giáo, chấp nhậnchương trình hành động của Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Đây là một đề tài được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các bài viết đăng tải trên nguyệt san Phật giáo Việt Nam.
Bên cạnh đó, nguyệt san Phật Giáo Việt Nam đề cao việc xây dựng một xã hộinhân bản trên tinh thầnduyên sinh cộng nghiệp chứ không đi trệch qua hướng giác ngộ về quyền lợihoặc chấp nhậnquan điểmduy linh hữu thần. Về phương diệnxây dựng hòa bình độc lập và thống nhất cho dân tộc, nguyệt san Phật Giáo Việt Nam chủ trương đấu tranh bất bạo động theo hướng trung đạo, không thiên về cộng sản mà cũng không ngả theo tư bản. Ngoài ra, nguyệt san cũng có những bài viết chú trọng đến việc đào tạo tăng tài, hoằng dương chánh pháp. Tuy vậy, nội dung của nguyệt san không hoàn toàn khô khan với những luận thuyết mà luôn luôn có nét uyển chuyển tươi tắn với những mục chuyên về văn học nghệ thuật. Trong số những người cộng tác cho tờ báo ta thấy có Tuệ Uyển, Thiện Hoa, Nguyễn Văn Hầu, Nguyễn Hữu Ba, Huyền Không, Thạc Đức, Trí Đức, Minh Châu, Thanh Từ, Cao Khả Chính, Tắc Phước, Như Quán, Tâm Hỷ, Tâm Châu, Minh Đức, Trọng Đức, Thiều Chi, Lê Văn Định, Thẩm Oánh, Tống Anh Nghị, Dã Thảo, Hoàng Hoa, Tâm Quán, Trúc Diệp, Dương Xuân Dưỡng, Kiêm Minh, ... Do thường xuyênphê bìnhtình trạngduy trì bản vị riêng của các tập đoàn Phật giáo, nguyệt san Phật Giáo Việt Nam không nhận được sự giúp đỡ về tài chánh; do đó, nguyệt san chỉ ra được đến số 28 thì phải đình bản vào giữa năm 1959. Tuy không đạt đượcmục tiêu mong muốn nhưng nguyệt san Phật Giáo Việt Nam vẫn khắc họa được sự khao khát thống nhất Phật giáo trong lòng người con Phật Việt Nam và phần nào nêu lên được chính kiến của Phật tửViệt Nam về các vấn đềtrọng đại của dân tộc.
Vị Chủ nhiệm đầu tiên của tờ Phật giáo Việt Nam là Hòa thượngThích Huệ Quang(1888 – 1956) thế danh là Nguyễn Văn Ân, người ở Ô Môn, Cần Thơ, thưở nhỏ sống ở Trà Vinh, sau xuất gia ở chùa Long Thành quận Trà Cú với thiền sưThiện Trí, được bổn sư đặt pháp danh là Thiện Hải, được trao truyền cả Phật học lẫn y thuật phương Đông. Một hôm đi ngang Tiểu Cần thấy một ngôi chùa đổ nát, ngài phát tâmtrùng tu khiến dân chúng sinh lòng kính mến mời ngài về làm trú trì và hết sứcủng hộ ngài trong việc trùng tu. Nhờ vậy, ngôi chùa ấy, chùa Long Hòa, đã trở thành một đạo tràng thanh tịnh. Sau này, ngài đắc pháp với thiền sưTừ Vân và được ban pháp hiệuHuệ Quang. Nhờ đọc rộng, ngài sớm biết đến phong tràochấn hưngPhật pháp ở châu Á nên đã cùng các vị Khánh Hòa và Khánh Anh xúc tiến công cuộc chấn hưngPhật giáo nước nhà. Hội Lục hòa đã được thành lập tại chùa Long Hòa nơi ngài trú trì. Ngài cũng tham dự vào việc thành lập hội Nam kỳ Nghiên cứuPhật học cũng như hội Lưỡng Xuyên Phật học. Năm 1945, chiến tranh xảy ra, hội Lưỡng Xuyên Phật học và Phật học đường phải ngưng hoạt động. Đại chúng ly tán, rồi quân đội Pháp chiếm đóng cơ sở Phật học hội, ngài lui về chùa Long Hòa ở Tiểu Cần tĩnh tu. Năm 1953, ngài được Giáo hộiTăng già Nam Việt suy tôn lên ngôiPháp chủ. Năm 1956 trong Đại hội Tổng hội Phật giáo Việt Nam lần hai tại Sài Gòn, ngài được bầu làm phó Tổng hội chủ và được mời làm Chủ nhiệm tạp chí Phật Giáo Việt Nam. Ngày 10 tháng 11 năm 1956, ngài cùng phái đoànPhật giáo Việt Nam dự Hội nghịPhật giáoThế giới lần thứ tư tại Népal. Trên đường về, phái đoàn dừng lại ở New Delhi quan sátĐại hộiVăn hóa Quốc tế và cuộc triển lãm Nghệ thuật Phật giáo. Ngài cùng với Hòa thượng Tổng hội chủ Thích Tịnh Khiết đến dự cuộc mít tinh tổ chức tại công trường Ramila và viếng các Phật tích. Sau khi chiêm báiPhật tích về, ngài đã đột ngột từ trần vì tai biến mạch máu não, hưởng thọ 68 tuổi với 37 năm hoằng hóa. Nhục thân ngài được hỏa táng tại Ấn Độ. Thiền sưHuệ Quangviên tịch khi tạp chí Phật Giáo Việt Nammới ra đời được ba số.
c. Vào tháng 2 năm 1955, tại Huế, Ni sưThích nữDiệu Khôngphụ tráchLiên Hoa tùng thư cho xuất bản một tập văn có tên là Liên Hoavăn tập. Đến tháng 11 năm ấy, trong phiên họp bất thường của Giáo hộiTăng già Trung Việt tại chùa Báo Quốc, Ni sưDiệu Không có nhã ý trao Liên Hoavăn tậplại để làm cơ quantruyền báPhật pháp của Giáo hội. Giáo hội giao cho Thượng toạ Thích Đôn Hậu trú trì chùa Linh Mụ ở Huế làm chủ nhiệm, Thượng toạ Thích Đức Tâm làm chủ bút, Ni sưDiệu Không làm quản lý. Số 1 bộ mới phát hành trong dịp Tết Nguyên đán năm Bính Thân (1956) lấy tên là Tạp chíLiên Hoa, ra hàng tháng, có sự cộng tác của nhiều vị học tăng đang du học ở ngoại quốc bên cạnh những cây bút quen thuộc như Thích Trí Quang, Võ Đình Cường, Nguyễn Thái. Sau vụ pháp nạn năm 1963, sang đầu năm 1964, tạp chí tiếp tụcxuất hiện với tên ghi ngoài bìa báo là Liên Hoa nguyệt san nhưng chỉ đến năm 1966 thì đình bản.
4. Nhận xét
Nhìn chung, trong giai đoạn này, chỉ có Phật giáo trong vùng tạm chiếm và sau đó là Phật giáo ở miền Nam là có hoạt động hướng vào xã hội và cũng chỉ là những hoạt động mang tính cầm chừng. Thật vậy, sau năm 1954, ở miền Bắc, trong không khí dồn toàn lực cho việc xây dựngxã hộixã hộichủ nghĩa và ra sức chi viện cho miền Nam đấu tranh đòi thống nhất đất nước thì Phật giáokhông có lý do để hoạt động; trong khi đó, ở miền Nam, sự áp chế của một chính quyền chủ trương độc thần cũng không chừa một chỗ đứng thoải mái cho người Phật tử. Ngay từ năm 1957, chính quyền Ngô Đình Diệm đã toan tính khôngcông nhận ngày lễ Phật đản là ngày lễ chính thức của quốc gia và đã một lần phải tạm nhượng bộ trước đòi hỏi của người Phật tử. Trong điều kiện đó, sự có mặt của một vài tờ báo Phật giáo vẫn cótác dụngnung đúctinh thầnPhật tửViệt Nam. Có thể nói đây là thời kỳcủng cố của Phật giáo Việt Nam, vì lẽ, tuy chưa thật sự thống nhất, các tập đoàn Phật giáovẫn có những sự liên hệvới nhau, giúp đỡ nhau, và tận dụng mọi cơ hội để đưa người đi học ở nước ngoài với hy vọng có một ngày mai tươi sáng hơn.
III. BÁO CHÍPHẬT GIÁO VIỆT NAMTHỜI KỲ PHÁT TRIỂN 1964 – 1975
1. Tổng quan
Có thể thấy đây là thời kỳ phát triển của báo chíPhật giáo miền Nam Việt Nam. Mặc dầu ngay từ năm 1967 đã có sự rạn nứt trong hàng ngũ lãnh đạoGiáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vừa mới được thành lập sau cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, hoạt độngbáo chíPhật giáo trong thời kỳ này cũng vẫn thực sự khởi sắc và đã tạo tiền đề cho các hoạt độngnghiên cứuPhật học sau này. Giới nghiên cứu về lịch sửbáo chíViệt Nam cũng nhận ra có hai giai đoạn nhỏ trong lịch sửbáo chíPhật giáo Việt Nam thuộc thời kỳ này: giai đoạn từ 1964 đến 1966 thể hiện sự bồng bột của giới làm báo Phật giáo trước sự cởi trói của chế độ kiềm chế về tôn giáo dưới thời Ngô Đình Diệm; giai đoạn từ 1967 đến 1975 thể hiệnthái độđiềm tĩnh hơn khi thấy các chế độ nối tiếp của chế độ Ngô Đình Diệm cũng vẫn chịu sự khuynh loát của các thế lực phi Phật giáo. Mặt khác, tình trạng chiến tranh ngày một lan rộng cũng tác động nhiều đến nội dung báo chíPhật giáothời kỳ này.
2. Từ 1964 đến 1966: Giai đoạn bộc phát
Cuộc tranh đấu đòi quyền bình đẳng về tôn giáo ở miền Nam Việt Nam năm 1963 đã có một tác dụng to lớn là thắt chặt sự đoàn kết của mọi tập đoàn Phật giáođang tồn tại lúc bấy giờ. Vào lúc đỉnh điểm của cuộc tranh đấu là ngày 20-8-1963, hầu như mọi tổ chức Phật giáo đều chia sẻ sự mất mát xảy ra từ cuộc đàn áp tàn bạo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Phật tửViệt Nam trong giai đoạn ấy đã thực thi chủ trương bất bạo động một cách nghiêm túc; họ cố gắng tránh né sự thiệt hại và sẵn sàng hy sinh trong trường hợp không thể tránh né được. Do vậy, mọi hình ảnh hoặc sự tường thuật thể hiệnhoạt động chống trả, tấn công hay khiêu khích của người Phật tửViệt Nam đối với lực lượng đàn áp họ trong thời gian từ tháng 5-1963 đến tháng 10-1963 đều là ngụy tạo. Vào trước ngày xảy ra cuộc đảo chánh 1-11-1963, hầu hết các vị lãnh tụ Phật giáo thuộc nhiều tổ chức khác nhau đều đã bị bắt giam hoặc phải trốn tránh. Vì vậy, sau khi kết thúc cuộc chính biến, các tổ chức Phật giáo đều cảm thấycần phải ngồi lại với nhau để thành lập một Giáo hội thống nhất. Một cuộc họp đã được tổ chức tại chùa Xá Lợi vào ngày 31-12-1963 quy tụ đại biểu của 11 Giáo phái, Hội đoàn Phật giáo khác nhau. Ngày 4-1-1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhấtchính thức ra đời với một bản Hiến chương có tổng cộng 11 Chương, 32 điều đã được 11 vị trưởng phái đoàn các Giáo phái, Hội đoàn duyệt nhận ký tên. Giáo hội suy tôn ngài Thích Tịnh Khiết làm Viện trưởng Viện Tăng thống và suy cử ngài Thích Tâm Châu làm Viện trưởng Viện Hóa đạo. Trụ sở của Giáo hội được đặt tại chùa Ấn Quang. Trong không khí thắng lợibước đầu ấy, báo chíPhật giáo Việt Namhồi sinh mạnh mẽ. Lịch sửghi nhận những tờ báo sau đây có mặt trong thời kỳ này:
a.Xuất hiện sớm nhất sau khi kết thúc vụ Pháp nạn năm 1963 là tuần báo Đuốc Tuệ, tiếng nói của Phật giáo miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN. Xin nói thêm rằng theo Hiến chương GHPGVNTN thì lãnh thổ miền Nam được phân thành các miền Hành chánhGiáo hội, trong đó đặc biệt miền Vĩnh Nghiêm là miền quy tụ Tăng NiPhật tử miền Bắc di cư. Tuần báo Đuốc Tuệ ra ngày thứ bảy hàng tuần, số đầu tiên phát hành ngày Rằm tháng Giêng năm Giáp Thìn (27-2-1964) do Thượng tọa Thích Chính Mệnh làm chủ nhiệm, Thượng tọa Thích Đức Nghiệp làm Chủ bút, Thượng tọa Thích Huyền Minh làm Quản lý. Ban đầu tòa soạn báo đặt tại chùa Giác Minh là Trụ sở của Hội Tăng giàBắc Việt tại miền Nam. Về sau, khi chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng xong trên đường Công Lý (nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa) thì báo quán Đuốc Tuệ được dời về đó. Thành phầnquản lý tờ báo cũng thay dổi theo từng thời kỳ và có lúc Thượng tọa Thích Thanh Kiểm được giao nhiệm vụ Chủ nhiệm kiêm Chủ bút. Nội dung của Đuốc Tuệ cũng bao gồm những vấn đề về Phật pháp, về giáo lýphổ thông, đăng tải từ điển về Phật học… bên cạnh việc giới thiệuvăn hóa và nghệ thuật Phật giáo trên thế giới, đặc biệt là văn hóaPhật giáo Nhật bản; Về sau, Đuốc Tuệ có giới thiệu các bộ Luận Phật giáo, kể về cuộc đời của các vị Thánh tăngẤn Độ thời đức Phật còn tại thế…Về văn học nghệ thuật, Đuốc Tuệ cũng có truyện ngắn, thơ, văn, tùy bút và đặc biệt là các trang về Thiếu nhi và Gia đìnhPhật tử. Đuốc Tuệ phát hành được 80 số liên tục trong ba năm, đình bản vào ngày 15-4-1967.
b.Ngay sau khi GHPGVNTN được thành lập, các nhà lãnh đạoGiáo hội đã quan tâm đến việc tổ chức một cơ quanngôn luận. Tuy vậy, cũng phải hơn ba tháng sau, Tuần báo Hải Triều Âm là cơ quan Văn nghệ-Thông tin-Nghị luận do Viện Hóa đạo chủ trương mới có thể ra mắt số đầu tiên vào ngày 21-4-1964. Tuần báo này được giao cho Tỳ-kheo Thích Hộ Giác thuộc Phật giáoNam tông làm Chủ nhiệm, Thượng tọa Thích Nhất Hạnh thuộc Thiền tôngLâm Tế làm Chủ bút và cư sĩ Võ Đình Cường là Thư ký Tòa soạn. Hải Triều Âm quy tụ được những cây bút viết nghị luận và nghiên cứu có tiếng thời bấy giờ như Nguyễn Đăng Thục, Lê Văn Siêu, Thạch Trung Giả, Thích Mãn Giác... Trong một thời gian dài, những bài viết có tính cách nhìn lại phong tràotranh đấu giành quyền bình đẳngtôn giáo đã được đăng tải, bên cạnh đó nhiều tài liệuliên quan đếntình trạngđàn áptôn giáo dưới thời Ngô Đình Diệm cũng được đưa ra để minh chứng cho phản ứng của Phật giáo đồ miền Nam là thích đáng. Báo cũng đưa các tin tứcliên quan đến những hoạt động của Giáo hội và các tổ chức quần chúngPhật giáo trên cả nước. Ngoài ra, phần văn nghệ cũng rất sống động với sự góp mặt của những cây bút mới. Quan điểm và thái độ của Phật tử trước những biến độngliên tiếp trong việc thay đổi thành phầnlãnh đạo miền Nam lúc bấy giờ cũng được trình bày bằng những bài viết mạnh mẽ tố cáo chính sách kỳ thị tôn giáo của những nhà cầm quyền quân nhân và dân sự nối tiếp nhau. Đã có những bài viết phản đối sự xâm nhập vào hàng ngũ lãnh đạo miền Nam của những người thuộc chế độ Ngô Đình Diệm cũ nay tìm cách khuynh loát chính quyền. Nhận định về tình hình chiến tranh đang ngày càng lan rộng cũng được nêu ra. Những thông tin liên quan đến việc quân đội Hoa Kỳ có thể được đưa vào Việt Nam trực tiếp tham chiến cũng được tường thuật để phê phán. Thái độcấp tiến của tờ báo khiến các chính quyền đương thời không hài lòng và Hải Triều Âm đã bị đóng cửa vào tháng 4-1965.
c. Song song với tuần báo Hải Triều Âm, vào tháng 10 năm 1964, đã xuất hiện Tuần báo Thiện Mỹ cũng do GHPGVNTN chủ trương nhưng được nêu rõ là hoạt động với mục tiêuhiện đạihóa Phật giáo và vận độngxây dựngvăn hóa dân tộc. Tuần báo này do cư sĩ Lê Văn Hiến làm Chủ nhiệm nhưng cũng do Thiền sưNhất Hạnh làm Chủ bút và Cư sĩ Võ Đình Cường làm Tổng Thư ký. Có thể nói Thiện Mỹ bám sát hai mục tiêuhoạt động của báo. Về mặt Hiện đạihóa Phật giáo, Thiện Mỹ đăng tải liên tục loạt bài “Đạo Phật đi vào cuộc đời” của Nhất Hạnh và đưa ra những bài nghị luận về mọi vấn đề của tôn giáoliên quan tới thời cuộc, thể hiện ước muốn xây dựng một xã hộiPhật giáotiến bộđồng thời nêu rõ khát vọng hòa bình của dân tộc. Về mặt xây dựngvăn hóa dân tộc, những bài khảo luận và nghiên cứu của các tác giả như Tam Ích, Thiếu Sơn, Nguyễn Khắc Kham, Võ Đình Cường… nêu lên những nét hay nét đẹp trong nền văn hóa cũ nhưng cũng nhẹ nhàng phê bác những điều bị coi là mê tín dị đoán, là hủ tục cần phải thay thế, cho thấy những người viết muốn đưa ra một sự so sánh để chỉ rút tỉa và gìn giữ làm tỏa sáng những gì là tinh hoa của văn hóaViệt Nam. Ngoài việc truyền bá giáo pháp trong ý hướng làm mới tinh thần học Phật, Thiện Mỹ luôn trình bày suy tư của người Phật tửViệt Nam trong buổi đương thời qua hình thức truyện ngắn, thi ca, tùy bút, hồi ký, ký sự… khiến nội dung Thiện Mỹ được đánh giá là hấp dẫn và phong phú. Có thể nói Thiện Mỹ đã góp một phần không nhỏ trong việc tạo nên một không khí lãng mạn trong việc nghiên cứuPhật học cũng như trong việc làm mới ngôn ngữbáo chí và văn họcViệt Nam. Thiện Mỹ ra số cuối cùng vào dịp Phật đản Phật lịch 2510, ngày Rằm tháng Tư năm Bính Ngọ (3-6-1966), cao điểm của cuộc Biến động miền Trung khi vài ngày sau đó quần chúngPhật tử ở Huế và Đà Nẵng đưa bàn thờ Phật xuống đường để ngăn chận bước tiến của quân đội Sài Gòn tiến ra đàn áp các cuộc biểu tình chống việc các tướng lãnh quân đội liên tiếp làm binh biến kéo dài quyền cai trị bằng quân sự gây xáo trộnđời sốngxã hội.
d. Các nhà lãnh đạo GHPGVNTN vẫn mong muốn có một tờ nhật báo để đáp ứng nhu cầu thông tin cho quần chúngPhật tử và góp phần xây dựnglối sống của người Phật tử cho toàn xã hội; do đó, ngay khi Hải Triều Âm bị đóng cửa thì Giáo hội đã vận động cho ra đời nhật báo Chánh Đạo, một tờ báo hàng ngày phát hành vào sáng sớm đăng tải cập nhật mọi tin tức thời sự trong và ngoài nước, kể cả tin tức chiến sự ở những vùng đang có tranh chấp, có khuôn khổ lớn như mọi tờ nhật báo thời bấy giờ. Chánh Đạo được giao cho Tỳ-kheo Thích Hộ Giác làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút, đã xây dựng được một lực lượng làm báo chuyên nghiệp, mua tin của các hãng thông tấn ngoại quốc và Việt tấn xã hoặc đón nhận tin tức được truyền qua các đài phát thanh BBC, VOA hàng ngày. Ngoài phần tin tức, Chánh Đạo cũng có các bài xã luận, các phóng sự điều tra, những chuyên mục văn nghệ và chuyên mục về Phật học. Chánh Đạo nêu mục tiêuhoạt động của báo là cơ quantranh đấu cho lẽ phải và công lý. Với những bài viết công kích các chính phủ liên tiếp của chính quyền Sài gòn, Chánh Đạo cũng bị đóng cửa sau số báo phát hành ngày 13-9-1969.
e. Song song với Chánh Đạo, lúc bấy giờ Tổng Vụ Thanh Niên là một trong 11 vụ của GHPGVNTN do Thượng Tọa Thích Thiện Minh làm Tổng Vụ trưởng có đỡ đầu cho ra đời một tờ nhật báo của giới Sinh viên Phật tử là tờ Đất Tổ,ban đầu do Lê Văn Hòa làm chủ nhiệm và Huỳnh Bá Huệ Dương làm quản lý. Đất Tổ là một nhật báo khổ lớn hoạt động theo tiêu chí là tiếng nói của tình thương và đoàn kết, phát hành số đầu tiên ngày 12-5-1965, cũng đăng tải tin tức thời sự trong và ngoài nước và tin chiến sự, nhưng chỉ được một tháng sau phải đình bản vào ngày 12-6-1965. Đến ngày 20-8-1965 nhân kỷ niệm 2 năm ngày chùa Xá Lợi bị tấn công, Đất Tổ lại tục bản, lần này do Huỳnh Bá Huệ Dương làm Chủ nhiệm và Nguyễn Phúc Bửu Hồ làm Chủ bút. Ngoài tin thời sự, Đất Tổ đăng tải nhiều bài nghị luận về việc xây dựng các đoàn thể thanh niên Phật tử, hồi ức về sự hy sinh của sinh viên và học sinhPhật tử trong thời kỳ Pháp nạn 1963, kêu gọi sự đoàn kết thanh niên. Đất Tổ tục bản cũng chỉ hoạt động được chừng một năm thì bị đình bản, do Thượng Tọa Thích Thiện Minh bị truy tố ra trước Tòa án Quân sự Mặt trận vùng III vì các tội danh Tán trợ đào binh, Chứa chấp vũ khí và Liên lạc với cộng sản.
f. Tháng 7-1965, nhà xuất bản Lá Bối của Thượng tọaNhất Hạnh cho ra đời một tạp chí văn nghệ lấy tên là Giữ Thơm Quê Mẹ. Giữ Thơm Quê Mẹ được đánh giá là một tạp chí văn học có giá trị, nhận được sự cộng tác của nhiều cây bút nổi tiếng đương thời như Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Sơn Nam, Nguyễn Hiến Lê, Trụ Vũ, Hoài Khanh, Tam Ích, Vương Pển Liêm, Luân Hoán, Thái Tú Hạp, Kim Tuấn, Trần Tuấn Kiệt, Dương Nghiễm Mậu, Hồ Hữu Tường, Thành Tôn, Võ Hồng, Nguyễn Đức Sơn, Bình Nguyên Lộc, Chinh Văn, Chinh Ba… Tạp chí này xuất bản mỗi tháng một kỳ. Từ số 1 phát hành vào tháng 7-1965 đến số kép 7&8 phát hành vào tháng 2-1966 thì do nhà thơ Hoài Khanh biên tập; sau đó, nhà thơ Trụ Vũ chịu trách nhiệmcoi sóc từ số 9 (tháng 3-1966) đến số cuối cùng là số 12 phát hành vào tháng 6-1966. Các tập Nẻo về của Ý và Nói với tuổi hai mươi của Thiền sưNhất Hạnh đã được đăng từng kỳ trong Giữ Thơm Quê Mẹ trước khi được in thành sách. Các bài Tâm Ca của Phạm Duy cũng xuất hiện trên tạp chí này. Tuy chỉ xuất bản được 12 tập, Giữ Thơm Quê Mẹ vẫn đóng một vai trò quan trọng trong việc làm mới văn họcbáo chí miền Nam thời bấy giờ.
g. Vào năm 1964, Viện Đại họcVạn Hạnh thuộc Tổng vụ Giáo dục của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN được thành lập với Thượng tọa Thích Minh Châu làm Viện trưởng và Thượng tọa Thích Mãn Giác làm Phó Viện trưởng. Để phục vụhoạt độngnghiên cứu và phổ biếnPhật học cũng như văn hóa dân tộc, Viện cho ra đời nguyệt san Vạn Hạnh do Hòa thượng Thích Đức Nhuận làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút. Số báo Vạn Hạnh đầu tiên được phát hành vào ngày 1-5-1966 có chủ đề kỷ niệm Đại lễPhật đản Phật lịch 2510. Vạn Hạnh có được sự cộng tác của nhiều người viết là các học giả và nhà nghiên cứunổi tiếng thời bấy giờ như Nguyễn Đăng Thục, Lê Văn Siêu, Nguyễn Bá Lăng, Bửu Cầm, Thích Huyền Vi… Vạn Hạnh được đánh giá là một tạp chí có những bài viết sâu sắc và có giá trị, đáng được sử dụng làm tài liệu quý giá cho giới nghiên cứuhọc thuật. Tiếc rằng vì lý do tài chánh, nguyệt san Vạn Hạnh chỉ ra đến số thứ 25 thì đình bản vào tháng 7 năm 1967.
h. Có lẽ xuất hiện chậm nhất trong giai đoạn này là bán nguyệt san An Lạc, tiếng nói của giới Tăng sinh, do Đại đức Thích Thông Bửu làm quản nhiệm, cư sĩ Nguyễn Bỉnh Tuyên làm chủ bút và nhà thơ Thùy Dương Tử làm Thư ký; tòa soạn đặt tại chùa Quan Thế Âm, nơi ngài Thích Quảng Đứctrụ trì trước khi hy sinhtự thiêu vì đạo pháp vào ngày 11-6-1963. An Lạc phát hành mỗi tháng hai kỳ vào ngày rằm và mồng một, số đầu tiên ra ngày 1-8-1966 (Rằm tháng Sáu năm Bính Ngọ) và chỉ ra được 14 số thì đình bản. Số cuối cùng phát hành vào ngày 13-6-1967 (ngày 6 tháng Năm năm Đinh Mùi). An Lạc được sự ủng hộ của các vị cao tăngthạc đức như Thích Thiện Hoa, Thích Viên Giác, Thích Giác Nhiên, Thích Mãn Giác, Thích Minh Châu, Thích Đức Nhuận…, các vị học giả như Nguyễn Đăng Thục, Thiếu Sơn, Nguyễn Văn Tạo… và các văn nghệ sĩ nổi tiếng như Trụ Vũ, Trần Tuấn Kiệt, Sơn Nam… Ngoài những bài viết của những vị đã có tên tuổi, An Lạc còn đăng tải ý kiến và cảm nhận của các vị Tăng sinh, được viết bằng một lối hành văn phổ thôngbình dị, nên tờ báo đã nhận được sự ủng hộ của nhiều giới độc giả.
i. Nhận xét
Đây là giai đoạn bộc phát của báo chíPhật giáo. Nhiều tờ báo xuất hiện. Có những tờ chỉ trụ lại được một thời gian ngắn. Có những tờ báo thể hiện một tinh thầnhăng hái với một niềm tin mãnh liệt rằng sự phát triển văn hóa dân tộc trên tinh thầnPhật giáo phải được thực hiện một cách mạnh mẽ và được đón nhận với sự khao khát đổi mới, nhờ đó đẩy mạnh việc xây dựng hòa bình và phát triển đất nước. Tuy nhiên, thực tế đã khác với ước vọng và niềm tin của những người nhập cuộc. Các khác biệt về quan điểm, tư tưởng… bên cạnh những cố gắnglũng đoạn của các thế lực phi Phật giáo vẫn còn mạnh và cả tâm lý công thần của chính những người trong cuộc đã khiến cho việc thực hiệnlý tưởng vì đạo vì đời vì sự nghiệpvăn hóa và xã hội của đất nước, vì khát vọng hòa bình của dân tộc đã trở nên xa vời. Những cuộc biến loạn chính trị liên tiếp, cuộc chiến tranh ngày một lan rộng, sự nứt rạn ngay trong hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo… đã khiến những người hăng say vì lý tưởngPhật giáo trở nên thực tế hơn, điềm tĩnh hơn. Nhận thức ấy đã được thể hiện qua báo chíPhật giáo giai đoạn kế tiếp của thời kỳ phát triển, sẽ được trình bày sau đây.
3. Từ 1967 đến 1975: Giai đoạn phát triển ổn định
Cuộc biến động năm 1966 ở miền Trung đã khoét sâu những bất đồng quan điểm của các nhà lãnh đạo GHPGVNTN về đường lối hoạt động của Giáo hội, chủ yếu là về vấn đềvận động hòa bình. Những người cấp tiếnnhận địnhcụ thể rằng cuộc chiến phi lý ở miền Nam cần phải được chấm dứt bằng mọi giá trên tinh thần những người trong cùng một nước cần phảinhân nhượng lẫn nhau tìm lấy một giải pháp cho chính mình thay vì cầu đến những giải pháp ở bên ngoài. Những người bảo thủ vẫn e ngại rằng việc tìm kiếm hòa bình bằng mọi giá sẽ khiến miền Nam bị miền Bắc khống chế. Do quan điểmcấp tiến được đông đảo quần chúngủng hộ, trong khi những người chủ trương bảo thủ lại không nhân nhượng, cuối năm 1966, trong một cuộc đại hội của GHPGVNTN họp tại chùa Ấn Quang, những người theo khuynh hướng cấp tiến đã tách ra thành lập một tổ chức Giáo hội riêng. Để đối phó, những người bảo thủyêu cầu chính phủ lúc ấycông nhận bản hiến chương của khối bảo thủ và coi đó là Giáo hộichính thống. Chính phủ miền Nam đã ban hành sắc luật 23/67 ngày 18 tháng 7 năm 1967 công nhậnGiáo hộibảo thủ; Giáo hội này tiếp tụcduy trì hội sở tại Việt Nam Quốc tự nên được gọi là Khối Việt Nam Quốc tự; trong khi đó, Giáo hộicấp tiến lấy chùa Ấn Quang làm trụ sở nên được gọi là Khối Ấn Quang. Khối Ấn Quang bị chính quyền miền Nam coi là khuynh tả và bất hợp pháp nhưng vẫn không có lý do để đặt Giáo hội này ra ngoài vòng pháp luật. Như vậy, cho đếncuối năm 1966, Phật giáo Việt Nam lại bị chia rẽ. Khối Việt Nam Quốc tự tuân thủluật pháp miền Nam nhưng thiếu quần chúng. Khối Ấn Quangkiên quyết đẩy mạnh phong trào phản chiến, đòi hỏi tổ chức bầu cử Tổng thống và xây dựng một chế độ dân sự ở miền Nam, được quần chúngủng hộ. Năm 1967, chính quyền miền Nam tổ chức bầu cử Quốc hội lập hiến để soạn thảo và ban hành một Hiến pháp mới, sau đó tổ chức bầu cử Quốc hội Lập pháp và Tổng thống. Từ đó trở đi, Giáo hộiẤn Quang giành được quyền lãnh đạo các hoạt động về Tăng sự, Hoằng pháp, Văn hóa, Giáo dục, Cư sĩ, Xã hội, Tài chánh-Kiến thiết và Thanh niên; trong khi đó, Giáo hộiViệt Nam Quốc tự chỉ chi phối được hoạt động của miền Vĩnh Nghiêm và Nha Tuyên Úy Phật giáo, một cơ quancung cấp Tăng sĩ tham dự vào các tổ chức quân đội miền Nam để úy lạo và hướng dẫn họ thực hànhgiáo pháp nhà Phật. Trong hoàn cảnh đó, báo chíPhật giáo Việt Nam giai đoạn này cũng phần nào thể hiện sự chia rẽ của lãnh đạoGiáo hội nhưng vẫn tập trung vào những vấn đềcấp thiết của dân tộc. Điều đó được thấy qua việc ghi nhậnhoạt động của những tờ báo đã xuất hiện trong giai đoạn này.
a. Như trên đã nói, tạp chí Từ Quang của Hội Phật học Nam Việt vẫn tiếp tục có mặt. Sau khi cư sĩChánh Trí Mai Thọ Truyền thể hiệntinh thần nhập cuộc đối với việc tranh đấuPhật giáo, các tập đoàn Phật giáo miền Trung đã hiểu ông hơn, và đã dành cho ông một sự kính trọng khác trước. Do đó, trong giai đoạn này, Từ Quang nhận được nhiều bài vở của các cộng tác viên tên tuổi như Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh, Thích Mãn Giác, Thích Minh Châu, Thích Trí Thủ, Thích Thanh Từ… các Ni sư Diệu Thuận, Thiện Diệu… các vị cư sĩ Minh Đức, Thiện Hữu, Minh Luân, Minh Lạc… Do tính cách uyển chuyển và điềm đạm của mình, Từ Quang đã bền bỉ tồn tại và có nhiều đóng góp trong việc truyền bátinh thầnPhật học.
Cư sĩMai Thọ Truyền (1905-1973) xuất thân trong một gia đìnhtrung lưu ở Bến Tre, được đào tạo để ra làm công chức dưới thời Pháp thuộc và là một vị quanthanh liêm được dân chúng quý mến. Trong thời kháng chiến chống Pháp, ông có tham gia vào việc xây dựng chính quyền nhân dân ở tỉnh Long Châu Hà cho đến khi quân đội Pháp chiếm Long Xuyên thì lánh về vùng thôn quê ẩn náu. Khoảng năm 1947, ông về Sài Gòn sau đó được chính quyền Sài Gòn mời ra tham chính rồi về hưu vào năm 1960. Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ông được mời tham giaHội đồng Nhân sĩ Cách mạng. Trong cuộc bầu cử Tổng thống miền nam năm 1967, ông đứng chung liên danh với ông Trần Văn Hương ở tư c1ch ứng cử viên Phó Tổng thống. Năm 1968, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu mời ông làm Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa và ông giữ chức vị này đến ngày qua đời. Ở vai trò này, ông đã thực hiện được nhiều công việc đáng kể: xây dựng Thư viện Quốc gia trên đất Khám lớn Sài Gòn thời thực dân, nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố; xúc tiến việc thành lậpVăn khốquốc gia và Nha văn hóa; thành lập và đẩy mạnh hoạt động của Ủy ban Điển chế văn tự; lập Ủy ban dịch thuật và xuất bản các sách Hán Nôm quý hiếm; thành lập Chi nhánh Bảo tồnCổ tích Huế.
Sự nghiệplịch sử của ông đối với Phật giáo bắt đầu từ khi ông trở thànhcư sĩPhật tử. Trong những năm làm việc đó đây khắp lục tỉnh miền Tây, ông để tâmnghiên cứutìm hiểu về Phật giáo, Nho giáo và các tư tưởngtôn giáo triết lý khác. Ông thường tham vấn các bậc danh sĩ để thử tài học vấn và biện bác, nhưng chưa vị nào giúp ông thỏa nguyện. Đến lúc làm việc ở Sa Đéc, ông mới thực sự cảm phục trước đức độ và trí tuệ của Hòa thượng Thích Hành Trụ thế danh Lê Phước Bình, là giảng sư tại chùa Long An, và đã cầu làm đệ tử của ngài. Hòa thượng Thích Hành Trụ đặt pháp danh cho ông là Chánh Trí. Từ đây, ông bắt đầu dốc lòng đem khả năng và trình độhọc thức của mình ra hộ trìchánh pháp.
Đối với phong tràochấn hưngPhật giáo, ông là một kiện tướng trong hàng cư sĩ đã đóng góp công sức rất lớn. Là một Phật tửthuần thành, ông ăn chay trường từ ngày thọ Tam quy ngũ giới, làm Phật sự không biết mệt mỏi. Năm 1950, tại Saigon, ông vận độngthành lập Hội Phật học Nam Việt. Ban đầu hội đặt trụ sở tạm tại chùa Khánh Hưng, sau dời qua chùa Phước Hòa. Ông vận động và đứng ra xây dựng ngôi chùa lịch sửXá Lợi làm trụ sở của hội. Năm 1958 hội chuyển về chùa Xá Lợi. Ông làm Tổng thư ký của hội khi mới thành lập và Hội trưởng từ 1955 cho đến ngày ông mất. Hội đã mở các lớp Phật họcphổ thông lúc bấy giờ do chư Thượng tọa Thiện Hòa, Trí Hữu, Thiện Hoa, Quảng Minh diễn giảng. Ông cũng tham gia soạn và giảng một số tiết mục cho học viên. Hàng tuần, tại chùa Xá Lợi, ông còn tổ chức các thời thuyết pháp cho đại chúng do ông mời các vị Cao TăngĐại Đức trong nước hay nước ngoài đăng đàn. Có khi chính ông là giảng sư.
Trong giai đoạn đấu tranh năm 1963 được coi là pháp nạn, ông giữ nhiệm vụ Tổng thư ký Ủy Ban Liên Phái Bảo VệPhật Giáo, tham gia việc đòi hỏi chính quyền Ngô Đình Diệm thực thi bình đẳngtôn giáo. Ông và Hội Phật Học Nam Việt đồng ý để Ủy ban đặt trụ sở trung ương tại chùa Xá Lợi. Khi chính quyền cho quân đội và cảnh sát đánh phá, phong tỏa chùa, bắt bớ cầm tùTăng NiPhật tử, ông cũng chịu chung số phận. Chùa Xá Lợitrở thành địa điểm lịch sử trong cuộc đấu tranh kiên cường đẫm máu của Phật giáo đồ chống chế độ độc tài kỳ thị tôn giáo. Năm 1964, ông tham gia Ủy ban soạn thảo Hiến ChươngGiáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và được bầu làm Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo. Song, vì bất đồng ý kiến về mặt tổ chức, chỉ một tháng sau ông từ nhiệm, quay vềhoạt động cho Hội Phật Học Nam Việt trong cương vị Hội trưởng.
Khi Viện Đại HọcVạn Hạnh được thành lập, tạm đặt tại chùa Xá Lợi trong lúc chờ xây xong cơ sở, ông sớm nhận làm giảng viên cho Viện, và sau đó ông còn giữ chức Phụ tá Viện trưởng đặc trách hành chánh và tài chánh kiêm Tổng thư ký trong niên khóa 1967- 1968.
Ngoài những Phật sự nói trên, ông còn để tâmnghiên cứukinh điểnPhật giáo. Với học lực uyên thâm và sự thông hiểu sâu sắc về giáo lý, ông đã dành nhiều thời gian dịch thuật và trước tác các tác phẩm có giá trị về Phật học.
Ông mất ngày 17-4-1973 tức rằm tháng ba năm Quý Sửu, vào lúc 8 giờ 15, hưởng thọ 69 tuổi.
Ông đã cống hiếntrọn đời cho việc phụng sựPhật pháp. Ông là một người cư sĩ mẫu mực uyên thâmgiáo lý, tận tụy với đạo dù đang ở những địa vị cao của quan trường. Ông là một điển hình cho sự tích cực của hàng cư sĩ lợi đạo ích đời theo tinh thầnđạo Phật, và là điểm sáng chói ở miền Nam trong phong tràochấn hưng và thống nhất Phật giáo, góp phần lớn lao trong sự nghiệptruyền bátri thứcPhật học.
Sau khi cư sĩChánh Trí Mai Thọ Truyền qua đời, tạp chí Từ Quang được các vị cư sĩ Minh Lai Võ Văn Phùng và Tâm Bảo Tống Hồ Cầm chăm sóc, tiếp tục phát hành đến tháng 4 năm 1975 mới đình bản. Từ Quanghoạt độngliên tục suốt 24 năm, ra được tất cả 265 số.
b. Sau khi nguyệt san Vạn Hạnh phải đình bản, Viện Đại họcVạn Hạnh lại cố gắng cho ra đời một tập san chuyên nghiên cứu khác là tờ Tư Tưởng, phát hành không theo đúng định kỳ với tư cách là cơ quanluận thuyết của Viện Đại họcVạn Hạnh, do Thượng tọa Thích Minh Châu làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút, Giáo sư Ngô Trọng Anh làm Tổng Thư ký. Số đầu tiên xuất hiện vào năm 1967 dày tới 550 trang khổ 13x19 là một tập văn có nhiều bài viết của nhiều tác giảnghiên cứu về Thiền, về Trung quán luận, về Siêu hình học và về Phân tâm học. Ngoài những bài viết sắc sảo của Thích Nguyên Tánh, Thích Mãn Giác, Lê Mạnh Thát [mà in lầm là Nguyễn Mạnh Thát], Ngô Trọng Anh, Chơn Hạnh…, còn có những bản dịch công phu từ những bài viết có giá trị của các tác giả ngoại quốc như Alan Watts, T.V. Murti, Erich Fromn… được thực hiện bởi những dịch giả có kiến thứcvững chãi như Phùng Thăng, Thích Nữ Trí Hải… cho thấy Tư Tưởng đúng là một cơ quanluận thuyết đáng nể thời bấy giờ. Sau đó, hầu như mỗi số, Tư Tưởng đều có một chủ đề; chẳng hạn, trong năm 1969, có những chủ đề về Hiện tượng học của Husserl, về Khả tính của Phật giáo trong vấn đề hòa bình, về Xã hội học và Chính trị học, về Những vấn đề quan trọng trong tư tưởng Heidegger, về Những vấn đề về Cơ cấu luận… Góp mặt trên Tư Tưởng, người ta nhận thấy hầu hết các học giả miền Nam trong thời ấy, như Nguyễn Đăng Thục, Ngô Trọng Anh, Tôn Thất Thiện, Tôn Thất Trình, Phạm Công Thiện, Lê Mạnh Thát, Tuệ Sỹ, Kim Định, Lê Tôn Nghiêm, Lê Văn Siêu, Thích Mãn Giác, Thích Minh Châu, Thạch Trung Giả, Mai Thọ Truyền, Trần Ngọc Ninh, Chơn Hạnh, Trần Xuân Kiêm, Trúc Thiên, Trương Văn Chình, Bửu Lịch, Vũ Văn Mẫu, Tam Ích, Nguyễn Hữu Hiệu, Nguyễn Hiền Đức, Dương Thiệu Tống, Lê Kim Ngân, Thích Nguyên Hồng, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Thành Hải, Phạm Việt Tuyền, Lê Xuân Giáo, Lê Xuân Khoa, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Vi, Hoàng Minh Tuynh, Đông Tùng, Nguyễn Chung Tú, Đoàn Viết Hoạt, Đỗ Bá Khê… các văn nghệ sĩ tên tuổi như Quách Tấn, Hoài Khanh, Huy Tưởng, Hoàng Đình Huy Quan, Nguyễn Tôn Nhan, Hồ Ngạc Ngữ, Doãn Quốc Sỹ, Bùi Giáng… những dịch giả cẩn trọng như Nguyễn Kim Phượng, Phùng Thăng, Thích Nữ Trí Hải… Tư Tưởngxuất hiện không theo định kỳ nhưng vẫn có mặt đều đặn suốt từ 1967 cho đến 1975. Kể cả số đầu tiên phát hành năm 1967 thì Tư Tưởng đã xuất bản được tổng cộng 49 số báo. Có thể nói Tư Tưởng là một bộ bách khoa về văn hóa, giáo dục, văn học và triết học.
c. Nha Tuyên Úy Phật giáo là một cơ quancung cấp Tăng sĩ phục vụ quân đội trong vai trò úy lạo và hướng dẫn quân nhân miền Nam tu học theo giáo lý nhà Phật, được thành lập theo đề nghị của Viện Hóa đạo, do Thượng tọaThích Tâm Giác làm Giám đốc. Từ năm 1967, Nha này cho phát hành một bán nguyệt san lấy tên là Đại Từ Bi làm cơ quanngôn luận và truyền bágiáo lýPhật giáo trong giới quân nhân Phật tử. Điều hành bán nguyệt san Đại Từ Bi có Thượng tọaThích Tâm Giác làm Chủ nhiệm, Đại đức Thích Hộ Giác làm Chủ bút và Cư sĩ Khánh Vân làm Tổng Thư ký. Bán nguyệt san này phát hành vào ngày rằm và mồng một hàng tháng. Đại Từ Bi phát hành liên tục từ số đầu tiên ra ngày 1-3-1967 đến ngày 12-2-1975 thì chấm dứthoạt động. Hình như đây là tờ báo duy nhất có sự chi phối của khối Việt Nam Quốc tự kể từ khi có sự chia rẽ trong nội bộ GHPGVNTN.
d. Sau khi tuần báo Hải Triều Âm và nhật báo Chánh Đạochấm dứthoạt động thì GHPGVNTN – cả khối Việt Nam Quốc tự lẫn khối Ấn Quang – đều không có cơ quanngôn luậnchính thức. Trước tình hình đó, vào năm 1969, Tổng vụ Hoằng pháp GHPGVNTN thuộc khối Ấn Quang cho ra đời một tờ Nội san có tên là Tin Phật do Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Chủ nhiệm và Thượng tọa Thích Đức Nhuận làm Chủ bút. Số đầu ra ngày 1.11.1969 nhân dịp kỷ niệm ngày đảo chánh chính phủ Ngô Đình Diệm lúc ấy là ngày Quốc khánh của miền Nam; ban đầu báo quán đặt tại chùa Già Lam ở Gò Vấp tỉnh Gia Định. Đến số 2, tờ nội san này đổi tên là Hóa Đạovà tòa soạn được dời về chùa Ấn Quang. Tin Phật hay Hóa Đạo cũng thu hút được những cây bút tên tuổi như Vũ Hoàng Chương, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu, Lý Đại Nguyên, Thích Tuệ Sỹ, Trụ Vũ, Phạm Thiên Thư…
e. Sang đến năm 1971, Giáo hộiẤn Quang lại tiếp tục cho ra đời một tờ nhật báo lấy tên là Gió Nam do Thượng tọa Thích Huyền Vi làm Chủ nhiệm. Tuy nhiên, tờ nhật báo này cũng chỉ tồn tại được 8 tháng, bị đình bản vào ngày 7-9-1971 sau khi báo cho đăng loạt bài tố cáo vụ thảm sát thường dân do quân đội Mỹ gây ra ở Mỹ Lai, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
f. Sau khi tờ Gió Nam bị đình bản, Thượng tọaHuyền Vi được mời về trông coi tạp chí Hoằng Phápdo Tổng vụ Hoằng pháp chủ trương, với mục đíchtruyền báchánh pháp của Giáo hội. Thượng tọaHuyền Vi là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút, có Đại đức Thích Nguyên Ngôn phụ tá trong vai tròThư ký Tòa soạn. Báo quán cũng đặt tại chùa Ấn Quang. Số đầu tiên phát hành vào ngày 14-2-1972. Những người có bài viết thường xuyên trên Hoằng Pháp là Thích Đức Nhuận, Thích Minh Châu, Thích Mãn Giác, Thích Huyền Vi, Thích Thiện Định, Nguyễn Đăng Thục, Vũ Hoàng Chương, Võ Đình Cường…
g.Tiếp tục việc mở rộng mạng lưới báo chí của Giáo hội, Tổng vụ Tài chánh-Kiến thiết cho ra đời tạp chí Bát Nhã do Hòa thượng Thích Trí Thủ là Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tài chánh-Kiến thiết làm Chủ nhiệm, có Đại đức Thích Tuệ Sỹ phụ tá. Bát Nhã phát hành số ra mắt vào tháng 3-1972 đăng tải những bài viết và sáng tác của Thích Trí Thủ, Thích Nữ Thể Quán, Vũ Hoàng Chương, Nhã Ca, Phạm Duy, Phạm Thiên Thư…
h.Ni chúngBắc tông cũng tham gia vào việc làm báo với tạp chí Hoa Đàm phát hành số đầu tiên vào mùa Xuân Quý Sửu 1973. Hoa Đàm là một tập san ra mỗi ba tháng một kỳ tự đặt cho mình nhiệm vụphổ biếngiáo lý của nhà Phật trong phạm vi Ni bộ Bắc tông, phát triển tinh thần đoàn kết của Ni giới, hướng dẫn nữ Phật tửtinh tấn trên con đườngphước huệ song tu, và mở mang đường lối giáo dụcnhi đồng. Chủ nhiệm kiêm Chủ bút của Hoa Đàm là Tỳ-kheo Ni Như Thanh có Sư côThích Nữ Như Thường phụ tá trong vai tròThư ký. Báo quán đặt tại chùa Từ Nghiêm ở đường Bà Hạt Quận 10 Sài Gòn. Góp mặt thường xuyên trên Hoa Đàm là các vị Tỳ-kheo Ni Như Thanh, Thể Quán, Như Hoa… Hoa Đàm phát hành số cuối cùng vào tháng giêng năm 1975.
i. Cũng vào mùa Xuân Quý Sửu 1973, Tổng vụ Văn hóa GHPGVNTN chủ trương phát hành một tập san ra ba tháng một kỳ, lấy lại tên của một tờ tuần báo cũ là Hải Triều Âm. Tập san Hải Triều Âm phát hành số đầu tiên vào xuân Quý Sửu, do Thượng Tọa Thích Mãn Giác làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút. Với mục tiêu phát huy nền Phật học, quốc học và văn hóaViệt nam, Tập san Hải Triều Âmdự kiếntrở thành một môi trường sinh hoạt văn hóa chung cho tất cả các Phật tử, là nơi tổ chức các giải thưởng văn chươngPhật giáo, nơi thâu góp tài liệulịch sửvăn hóa từ các địa phương gửi về, đào bới các di sản xưa để tìm sinh khí mới, góp nhặt mọi thao thức và niềm tin để phục vụ dân tộc và đạo pháp. Tập san Hải Triều Âm có sự góp sức đắc lực của những cây bút như Thích Đức Nhuận, Thích Minh Châu, Thích Thanh Kiểm, Thích Thuyền Ấn, Thích Chơn Hạnh, Nguyễn Đăng Thục, Trần Ngọc Ninh, Lê Văn Siêu, Nghiêm Thẩm, Thạch Trung Giả, Nguyễn Bá Lăng… Tuy nhiên, có lẽ vì lý do tài chánh, tập san Hải Triều Âm chỉ hoạt động được hai năm thì đình bản. Số cuối cùng của tập san Hải Triều Âm được phát hành vào dịp Vu-lan năm Giáp Dần 1974.
k. Nhận xét
Đứng về phương diệnGiáo hội mà xét thì giai đoạn này thể hiện sự chia rẽ trầm trọng của Phật giáo Việt Nam. Tuy nhiên, dựa trên tiêu chí đóng góp vào nền văn họcbáo chí nước nhà thì có thể nói đây vẫn là giai đoạn phát triểnbền vững của báo chíPhật giáo Việt Nam. Trong khi Giáo hội không có một cơ quanngôn luậnchính thức nào hoạt độnglâu dài, thì những tờ báo của các tổ chức mang tính bản vị lại duy trì được sự có mặt đều đặn và thu hút được nhiều độc giả, thể hiện được tinh thầnnghiên cứuPhật học của người Phật tửđồng thời khơi gợi khát vọng tìm hiểuPhật học nơi đại chúng. Trong hoàn cảnh chiến tranh, vào lúc mọi sinh hoạtxã hội đều rã rời, thì những tờ báo như Tư Tưởng, Vạn Hạnh, Từ Quang, và kể cả Đại Từ Bi, vẫn đều đặn gieo vào tâm thức người con Phật và đông đảo độc giả khác tôn giáo những tư tưởng hiền thiện của nhà Phật. Nếu có tìm hiểu song song không khí văn học nghệ thuật miền Nam trong giai đoạn này thì sẽ thấy phong tràonghiên cứuThiền học và các tác phẩm nói về Thiền hoặc những trào lưu tư tưởng có liên quan đếnPhật học đã nở rộ, một phần là do sự giao thoa giữa hoạt độngbáo chí và hoạt độngvăn học. Đây chính là một nét son của báo chíPhật giáo Việt Nam, đã tỏ ra xứng đáng nối tiếp sự nghiệp của những nhà báo đi tiên phong trong phong tràochấn hưngPhật giáo Việt Namthời kỳ đầu.
4. IV. KẾT LUẬN
Trong hoàn cảnhhết sức khó khăn của môi trường chính trị không thuận lợi, những người làm báo Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ từ 1951 đến 1975 vẫn có được những đóng góp xứng đáng vào nền văn họcbáo chí nước nhà. Tìm hiểu về hoạt độngbáo chíPhật giáo Việt Nam từ 1951 đến 1975, điều nổi bật mà người nghiên cứu có thể nhận thấy là chính triết lý sâu sắc của giáo pháp nhà Phật đã thu hút hàng loạt học giả, nhà nghiên cứu, giáo sư, văn nghệ sĩ… đến với báo chíPhật giáo. Nhiều người không hẳn là Phật tử, nhưng khi tiếp cận với báo chíPhật giáo lúc bấy giờ, cảm thấy được gợi hứng bởi tinh thầntừ bi và trí tuệ mà nền triết học, văn học và văn hóaPhật giáo mang lại, đã bắt đầu tích cựctham gia vào hoạt độngbáo chíPhật giáo. Xét về quan điểm chính trị hay lập trườngxã hội của các vị cộng tác viên của các báo, người ta có thể ghi nhận nhiều người không cùng quan điểmlập trường với những tờ báo mà mình cộng tác. Nhưng chính phong cách làm báo điềm tĩnh của những tờ báo có chiều sâu đã đủ sức thu hút ngay cả những người khác chính kiến. Một điều đáng ghi nhận là ngay trong những bài luận thuyết về những vấn đềgai góc nhất, lời lẽ của các tác giả có tầm cỡ vẫn giữ được sự ôn hòa. Như vậy, mặc dù có những sốc nổi và bồng bột trong thời kỳbộc phát của báo chíPhật giáo miền Nam, nhìn chung, những người làm báo Phật giáo miền Nam lúc bấy giờ đã chứng tỏ bản lãnh của người Phật tử, biết thể hiện cả từ bi và trí tuệ trong hoạt động làm báo. Những người có trách nhiệm trong việc phát triển báo chíPhật giáo Việt Nam trong tương lai nên tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này để có thể có những định hướng sáng suốt trong việc xây dựng một nền báo chíPhật giáo Việt Nam thực sự nhân bản và minh triết, thể hiện đủ đôi cánh trí tuệ và từ bi của giáo lý nhà Phật.
Tài liệutham khảo
1.Việt Nam Phật giáo Sử luận, Nguyễn Lang (Các chương từ 26 đến 32); trang nhà Quảng Đức
2.Tiểu sửDanh TăngViệt Nam thế kỷ 20, Thích Đồng Bổn, trang nhà Quảng Đức
3.Niên biểu Phật giáo Việt Nam, Trần Tri Khách, trang nhà Quảng Đức
4.Sơ lượclịch sửbáo chíPhật giáo Việt Nam, Trần Kiêm Đạt, trang nhà Quảng Đức.
5.Báo chíViệt Nam từ khởi thủy đến 1945, Huỳnh Văn Tòng, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
6.Tạp chí Nghiên cứuTôn giáo, Viện Nghiên cứuTôn giáo (các số phát hành trong khoảng từ năm 2006 đến 2012).
7.Năm mươi năm Chấn hưngPhật giáo Việt Nam 1920-1970, Sa-môn Thích Thiện Hoa, trang nhà Quảng Đức.
8.Lược khảo Báo chíPhật giáo Việt Nam 1929-2008, Nguyễn Đại Đồng, NXB Tôn Giáo
9.Các tạp chí Phật giáo xuất bản trong thời kỳ 1951 đến 1975: Tư Tưởng – Giữ Thơm Quê Mẹ – Vạn Hạnh – Từ Quang – Hoa Đàm – Đại Từ Bi – Tuần báo Hải Triều Âm – Thiện Mỹ (hiện lưu trữ tại Thư viện Huệ Quang, Tu việnHuệ Quang, quận Tân Phú, TP.HCM)
10.Vietnam: A History, Stanley Karnow, The Washington Post Book World. [Việt Nam: Một thiên Lịch sử, tài liệulịch sử chủ yếu nói về hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của người Việt]
American Tragedy, David Kaiser, Harvard University Press. [Tấn Thảm Kịch của Người Mỹ, tài liệu giải mật thể hiệnlý do các chính phủ Kennedy và Johnson tham chiến ở Việt Nam]
Bhutan, vương quốc ở vùng núi Himalaya đã mang đến cho thế giới khái niệm về hạnh phúc quốc gia, chuẩn bị xây một "thành phố chánh niệm" (mindfulness city) và đã bắt đầu gây quỹ từ hôm thứ Hai để khởi động dự án đầy tham vọng này.
"Thành phố chánh niệm Gelephu" (Gelephu Mindfulness City: GMC) sẽ nằm trong một đặc khu hành chánh với các quy tắc và luật lệ riêng biệt nhằm trở thành hành lang kinh tế nối liền Nam Á với Đông Nam Á, theo lời các quan chức.
Những phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng là mảnh đất màu mỡ cho đủ loại thông tin, là nơi để một số người tha hồ bịa đặt, dựng chuyện, bé xé ra to và lan đi với tốc độ kinh khủng. Họ vùi dập lẫn nhau và giết nhau bằng ngụy ngữ, vọng ngữ, ngoa ngữ…
Nhà sư Ajahn Santamano, người đã tham gia các cuộc biểu tình ủng hộ người Palestine trên khắp Anh quốc trong năm qua, đang liên tục cư trú tại lều trại, nói chuyện với người qua đường và tổ chức các cuộc biểu tình để nhắc nhở mọi người về "sự thông đồng" của Hoa Kỳ và phương Tây trong cuộc diệt chủng dân Palestine.
"Hoa Kỳ là thủ phạm chính gây ra cuộc diệt chủng này đang diễn ra ở Palestine", Thượng Tọa Santamano nói với Anadolu, trích dẫn việc Hoa Kỳ tiếp tục cung cấp vũ khí và tài trợ Israel. Thầy đặc biệt chỉ trích các vụ đánh bom bệnh viện và vụ thảm sát hàng loạt trẻ em.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.