Lịch sử luôn có những
diễn tiến bất ngờ và ngoài
dự tính của
chúng ta.
Cuộc điều tra của
Phái đoàn Liên Hiệp Quốc diễn ra ngay sau thời điểm mà cuộc đấu tranh đòi
bình đẳng của
Phật giáo tại miền Nam
Việt Nam bị
đàn áp đến mức độ khốc liệt nhất bởi trận càn quét của Chính phủ ông Diệm vào đêm 20-8-1963. Tất cả các vị
lãnh đạo chủ chốt của
Phật giáo đều
bị bắt giam,
đe dọa; thậm chí sinh
viên học sinh
tham gia biểu tình ôn hòa ủng hộ Phật giáo cũng
bị bắt giam và “cải huấn”. Thế rồi ngay trong
thời gian Phái đoàn vẫn còn lưu trú tại Sài Gòn thì chế độ
đàn áp Phật giáo này đã sụp đổ sau cuộc đảo chính của chính những tướng lãnh quân đội từng
phục vụ trong lòng chế độ.
Trước
sự thật lịch sử đó, đối với những người
Việt Nam đã từng sống trong
thời gian diễn ra những
biến động này thì câu hỏi “Có
đàn áp Phật giáo hay không” là một câu hỏi quá thừa.
Tuy nhiên, đối với
thế hệ những người đi sau không được trực tiếp
chứng kiến, cũng như từ góc nhìn của những người sống ngoài nước, thì
sự thật này cũng như nhiều
vấn đề liên quan khác
tinh tế hơn đã và đang bị một số người
cố tình nhận thức theo hướng
bóp méo và sai lệch. Điều đó khiến cho
vai trò thực sự của
phong trào Phật giáo năm 1963 cũng như của nhiều vị
lãnh đạo phong trào bị hiểu sai hoặc quy chụp theo hướng
hoàn toàn không đúng với
sự thật lịch sử.
Bằng vào những ghi chép khách quan và
chính xác trong Phúc trình A/5630,
chúng ta có thể xác định được một số nét cơ bản nhất về giai đoạn đầy
biến động này, thông qua đó
nhận thức được một cách
chính xác và đầy đủ hơn về những gì đã diễn ra
trong lịch sử.
Tuy nhiên, trước khi có thể đặt
niềm tin vào những gì ghi chép trong bản Phúc trình như một cứ liệu
lịch sử,
chúng ta cần khách quan nhận hiểu một vài
giá trị thực tế về chính bản Phúc trình này.
Một trong các
tài liệu bằng Anh ngữ có đề cập đến bản Phúc trình này,
hay nói chính xác hơn là đến
cuộc điều tra của
Phái đoàn Liên Hiệp Quốc, là tập Khảo luận đã xuất bản mang tựa đề “A United Nations High Commissioner For Human Rights” (Một Cao Ủy
Liên Hiệp Quốc về
Nhân Quyền) của Giáo sư Roger Stenson Clark, do Martinus Nijhoff (Hà Lan), xuất bản năm 1972.
Tác giả của
công trình khảo luận, Giáo sư Roger Stenson Clark, là người New Zealand,
giảng sư về Luật học tại trường Victoria University of Wellington. Ông nhận được học bổng
nghiên cứu của
Đại học Luật Columbia tại New York trong hai năm 1968 và 1969. Đây cũng là
thời gian ông
quan tâm đến một cơ chế
bảo vệ nhân quyền ở cấp độ quốc tế (International Protection of Human Rights) khi làm nội trú tại
cơ quan Human Rights Division thuộc
Văn phòng Tổng
Thư ký Liên Hiệp Quốc vào tháng 8 năm 1968.
Từ đó, ông thu thập
tài liệu,
nghiên cứu,
thảo luận với nhiều bạn
đồng nghiệp và
hoàn thành khảo luận “A United Nations High Commissioner For Human Rights”. Những
ý kiến của ông trong khảo luận này đã góp phần vào sự hình thành
Văn phòng Cao ủy
Liên Hiệp Quốc về
Nhân quyền (Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights - OHCHR) vào ngày 20-12-1993, tức là hơn 20 năm sau khi tập sách ra đời.
Tập khảo luận gồm 7 chương. Trong Chương III, The Function of the Commissioner, mục a, trang 67, ông có đề cập đến
Phái đoàn Điều tra Liên Hiệp Quốc tại
Việt Nam vào năm 1963 với đoạn văn sau:
“It arrived in Saigon in late October and heard a number of witnesses. Unfortunately for the scholar, the affair ended inconclusively as a result of the successful coup against President Diem that took place while the Mission was in Saigon.”
(
Phái đoàn đến Sài Gòn vào cuối tháng 10 [năm 1963] và đã nghe một
số nhân chứng. Không may cho nhóm
nghiên cứu, công việc đã
kết thúc không đi đến kết quả
cuối cùng vì cuộc đảo chánh Tổng thống Diệm
thành công khi
Phái đoàn đang ở Sài Gòn.)
Uy tín của Giáo sư Roger Stenson Clark và
giá trị tự thân của tập khảo luận tất nhiên mang lại cho đoạn trích trên một mức độ xác tín cao và
thuyết phục người đọc.
Tuy nhiên,
dựa vào nội dung của chính bản Phúc trình như
chúng ta đã trích dẫn và phân tích trên, đoạn văn này cũng cần được
xem xét lại. Hơn thế nữa, ông Nguyễn Văn Lục, một
trí thức Công giáo ở Mỹ, trong một bài viết mang tựa đề “Liên Hiệp Quốc và cuộc khủng hoảng
Phật giáo 1963”, còn đẩy
xa hơn mức độ sai lệch khi trích dẫn
gián tiếp và không đầy đủ đoạn văn trên:
“Theo Clark thì
cuộc điều tra, bắt đầu vào cuối tháng 10 và
kết thúc khi cuộc đảo chánh TT Ngô Đình Diệm
thành công, không có
kết luận, “the affair ended inconclusively”.
Nói rằng
cuộc điều tra không có
kết luận là một sự võ
đoán sai lầm, và
cố tình lạc dẫn người đọc, bởi
nhiệm vụ của
Phái đoàn điều tra là Phúc trình kết quả
điều tra lên
Đại Hội Đồng
Liên Hiệp Quốc, như đã được
đề ra từ đầu. Nếu họ được giao
thẩm quyền kết luận, thì việc đưa
vấn đề ra
thảo luận trong
Đề mục 77 tại Kỳ họp
Thường niên thứ 18 của
Đại Hội Đồng
Liên Hiệp Quốc như
dự tính sẽ là một
việc làm thừa. Hơn thế nữa, Clark có lẽ đã
dựa vào diễn tiến bất ngờ của
sự kiện đảo chính nằm ngoài
dự tính nên cho rằng
cuộc điều tra chưa
đạt đến kết quả
cuối cùng, nhưng
bản thân những người
thực hiện cuộc điều tra lại
hoàn toàn không nói như thế. Vào buổi sáng ngày 1 tháng 11,
Phái đoàn đã có
quyết định đánh giá là sẽ
hoàn tất mọi việc liên quan đến Việt Nam vào chiều tối ngày 3-11-1963 và rời Sài Gòn trong
cùng ngày. (Finally, the Mission had decided on the morning of 1 November, that it was in a position to complete its task regarding Viet-Nam by the evening of 3 November, and set that date for its departure from Saigon.) Vào lúc đó,
mọi việc đang
diễn tiến bình thường và
Phái đoàn chưa hề hay biết gì về cuộc đảo chính. Chỉ đến 2 giờ chiều ngày 1-11,
Phái đoàn mới
nhận biết được những dấu hiệu đầu tiên về cuộc đảo chính,
ngay sau khi đã
hoàn tất buổi
phỏng vấn và
trở về từ nhà tù của
Trung tâm Thẩm vấn Nha Tổng Giám Đốc Cảnh sát
Quốc gia. (The first indications of the insurrection reached the Mission at the Hotel Majestic at about 2 p.m. on 1 November. The Mission had just returned from the Trung-Tam Tham-Van Cua Nha Tong-Giam-Doc Canh-Sat-Quoc-Gia Prison.) Như vậy, có thể
kết luận là
cuộc điều tra đã bước vào
giai đoạn cuối cùng, khi những người
thực hiện xét thấy đã
hoàn tất được tất cả những công đoạn
cần thiết.
Vị Trưởng đoàn cũng khẳng định điều này
một lần nữa khi từ chối
lời mời tiếp tục ở lại của
Hội đồng Quân nhân
Cách mạng, nêu rõ là công việc
điều tra của
Phái đoàn theo
dự kiến đã
hoàn tất và việc ở lại thêm quá ngày
khởi hành đã định là không
cần thiết. (The Chairman stated that he did not consider it necessary for the Mission to remain in Viet-Nam beyond the day it had fixed for its departure, because it had completed its investigations as contemplated by its terms of reference.)
Một đoạn văn khác trong bản Phúc trình cho thấy
Phái đoàn không
chỉ hoàn tất
nhiệm vụ điều tra tại
Việt Nam, mà sau khi rời
Việt Nam vẫn
tiếp tục nỗ lực chuẩn bị văn bản để trình lên
Đại Hội Đồng
Liên Hiệp Quốc đúng như
nhiệm vụ đã được giao. “Sau khi
trở về Trụ sở
Liên Hiệp Quốc,
Phái đoàn đã tổ chức một số cuộc họp để
xem xét bản
báo cáo sẽ trình lên
Đại Hội Đồng.” (After its return to United Nations Headquarters, the Mission held a number of meetings to consider its report to the General Assembly.) Nói cách khác, không có
ghi nhận nào trong bản Phúc trình nói rằng cuộc đảo chính ngày 1-11-1963 đã làm
gián đoạn hay trở ngại cho
nhiệm vụ điều tra của
Phái đoàn.
Theo một cách nhìn nhận khác, khi phân tích
toàn bộ Phúc trình A/5630,
chúng ta thấy rõ tính hoàn chỉnh của văn bản, không chỉ ở những phần trình bày sự chuẩn bị cũng như phương thức làm việc của
Phái đoàn, mà còn
thể hiện rất rõ trong các phần
ghi nhận kết quả
phỏng vấn các nhân vật
liên quan mà
Phái đoàn đã chọn lựa,
đồng thời cũng
ghi nhận cả việc
Phái đoàn hoàn tất việc tổng hợp và
hệ thống tất cả các cáo buộc nhận được và đã chuyển đến Chính phủ
Việt Nam Cộng Hòa. Bản Phúc trình cũng
ghi nhận cả những
ý kiến trả lời cáo buộc từ phía Chính phủ, trong đó có việc phủ nhận cái chết của nữ sinh Quách Thị Trang trong cuộc
biểu tình ngày 25-8-1963, rằng Chính phủ
Việt Nam không hề nhận được
báo cáo nào về sự việc này. (No young girl was killed during the demonstration of 25 August 1963; the Viet-Namese authorities have not received any report of such an incident.) Tất nhiên, tất cả
chúng ta đều biết đây là một sự phủ nhận
hoàn toàn dối trá, bởi cái chết của Quách Thị Trang có sự
chứng kiến của hàng ngàn người và đã gây
xúc động sâu xa trong lòng hàng triệu người khác nữa, nên Chính phủ không thể nói là “hoàn toàn không biết”,
trừ phi họ
cố tình nói dối như thế.
Những
ghi nhận chi tiết và hoàn chỉnh với đầy đủ các quy trình
cần thiết của một
cuộc điều tra cho phép chúng ta tin chắc rằng
Phái đoàn đã
hoàn tất được
nhiệm vụ của họ và không chịu
ảnh hưởng gì
đáng kể từ
sự kiện đảo chính. Tính hoàn chỉnh này cũng được Giáo sư Clark
ghi nhận và
đánh giá cao trong khảo luận của ông, ngay trong cùng đoạn văn vừa trích dẫn trên. Ông viết: “Tuy nhiên, việc
bổ nhiệm Phái đoàn điều tra này đã đóng góp một
tiền lệ quý giá, và bản Phúc trình đồ sộ ghi chép nhiều tiến trình
điều tra của
Phái đoàn là những
giá trị quý báu cho bất kỳ
phái đoàn quốc tế
điều tra sự thật nào trong tương lai.” (However, the appointment of the Mission constituted a valuable precedent and its voluminous report contains much on the Mission’s procedures that is of value to any future international fact-finder.)
Như vậy, với các
yếu tố phân tích trên,
chúng ta có thể
tin chắc rằng Phúc trình A/5630 là một
công trình hoàn chỉnh,
thể hiện đầy đủ kết quả của những
nỗ lực điều tra có
phương pháp khoa học, được
thực hiện bởi một
Phái đoàn bao gồm nhiều thành viên từ các nước khác nhau do
Liên Hiệp Quốc
chỉ định và
giao phó nhiệm vụ một cách khách quan đối với
vấn đề vi phạm nhân quyền, mà
cụ thể là
đàn áp Phật giáo tại
Việt Nam. Với mức độ xác tín như thế,
chúng ta có thể
ghi nhận một số
sự thật quan trọng từ nội dung Phúc trình này như sau:
1. Bất
bình đẳng tôn giáo là có thật
Một trong các
Phụ lục được đưa kèm theo bản Phúc trình là nội dung Dụ số 10. Qua đó, cáo buộc của các nhân chứng là đúng thật, vì có thể
đối chiếu rõ ràng với văn bản này. Sau khi
quy định hàng loạt các
biện pháp kiểm soát khắt khe của Chính phủ đối với tất cả các
tôn giáo (bị
xem như các hội đoàn), Điều 44 đã
công khai tách riêng
Thiên Chúa giáo ra khỏi tầm
ảnh hưởng của Dụ số 10 như một ngoại lệ.
Phái đoàn cũng
ghi nhận đa số tuyệt đối tín đồ Phật giáo trong những người
bị giam giữ mà họ
tiếp xúc. Trước
sự thật này, vị Trưởng đoàn đã chất vấn ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ trưởng Phủ Tổng Thống: “Chúng tôi muốn biết tại sao tất cả những người
bị giam giữ, dù là sinh viên hay các
thành phần khác, đều chỉ toàn là
tín đồ Phật giáo,
bao gồm cả các vị tăng sĩ đã từng
tham gia đàm phán [với Chính phủ] trước đây?” (We would like to know how it is then that all those people who have been detained, whether students or others, are only Buddhists, including the monks, who took part in previous negotiations?)
2.
Đàn áp Phật giáo là có thật
Việc bắt giam hàng loạt
tăng ni Phật tử Việt Nam mà không đưa ra được chứng cứ
phạm tội nào là một
sự thật không thể phủ nhận.
Phái đoàn đã
tiếp xúc và
ghi nhận sự thật này từ các sinh
viên học sinh còn đang
bị giam trong trại “cải huấn” và các vị tăng sĩ đang còn
bị giam trong tù. Chính phủ cũng
công khai thừa nhận có đến khoảng 300 người vẫn còn
bị giam giữ.
Đặc biệt,
Phái đoàn đã
tiếp xúc được với một số vị
lãnh đạo Phật giáo đang còn
bị giam giữ là Thích
Trí Thủ, Thích Quảng Liên,
Thích Tâm Giác,
Thích Tâm Châu, Thích Đức Nghiệp, Thích Tiến Minh và
cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền.
Phái đoàn cũng
xác nhận được việc
tăng ni Phật tử bị thương tích trong cuộc tấn công các chùa đêm 20-8-1963 qua việc viếng thăm Bệnh viện
Duy Tân. Rất nhiều nhân chứng khác là những người trực tiếp
bị bắt bớ, đánh đập, đã
cung cấp cho
Phái đoàn những chứng cứ không thể phủ nhận về việc
đàn áp Phật giáo, kể cả những dấu vết
thương tật do bị tấn công và đánh đập.
3.
Phật giáo không
tham gia chính trị
Trong văn bản
chính thức cũng như qua những cuộc
phỏng vấn các thành viên Chính phủ, luận điệu
xuyên tạc được lặp lại nhiều lần nhất là cho rằng cuộc đấu tranh của
Phật giáo mang
mục đích chính trị và bị kích động từ những người Cộng sản.
Phái đoàn đã
liên tục lặp lại
yêu cầu phía Chính phủ đưa ra chứng cứ.
Tuy nhiên, bất chấp những
lời hứa từ các thành viên Chính phủ,
cho đến phút cuối
Phái đoàn vẫn không nhận được bất kỳ văn bản nào trong số các văn bản quan trọng mà họ đã hứa sẽ
cung cấp,
bao gồm các “tài liệu của Cộng sản được
tìm thấy trong các chùa”, “lời khai của ông Đặng Ngọc Lựu về
âm mưu chuẩn bị trước của cộng sản trong vụ Đài Phát Thanh Huế”, “chứng nhận của chuyên gia y tế rằng các nạn nhân bị chết vì chất nổ plastic của Việt cộng” v.v... Nói cách khác, theo thông tin
Phái đoàn thu thập được thì
lập luận của Chính phủ chỉ là những cáo buộc một chiều và
hoàn toàn không có chứng cứ.
Trong
thực tế, bản Phúc trình không
ghi nhận bất kỳ
trường hợp nào cho thấy có mối
liên hệ giữa cuộc đấu tranh đòi quyền
bình đẳng tôn giáo của
Phật giáo với các
yếu tố chính trị, càng không có bất kỳ
liên quan nào đến cuộc đảo chính của các tướng lãnh quân đội ngày 1-11-1963.
Trong suốt thời gian diễn ra đảo chính và sau đó,
Phật giáo không có bất kỳ một
vai trò nào
liên quan dù là rất nhỏ.
4.
Lãnh đạo Phật giáo hoàn toàn độc lập Hệ quả của những cáo buộc trên là việc quy chụp cho các
lãnh đạo Phật giáo,
đặc biệt là
Thượng tọa Thích
Trí Quang, một động cơ chính trị, cho rằng họ đã
sử dụng phong trào Phật giáo như một công cụ
phục vụ mưu đồ chính trị.
Tuy nhiên, như đã nói trên, Chính phủ ông Diệm không thực sự đưa ra được bất kỳ
yếu tố chứng minh nào mà chỉ cáo buộc một chiều như thế. Việc
Phái đoàn không
tiếp xúc được với
Thượng tọa Thích
Trí Quang vì
lý do đang tỵ nạn trong Tòa Đại sứ Mỹ có thể
xem như một chứng cứ ngược lại, cho thấy
Thượng tọa không có bất kỳ mối
liên quan nào đến cuộc đảo chính, vì trước và trong khi đảo chính diễn ra thì
Thượng tọa vẫn luôn trong
tình trạng bị
cô lập hoàn toàn, không được
tiếp xúc với bất kỳ ai bên ngoài Tòa Đại sứ Mỹ.
Đối với tất cả các vị
lãnh đạo Phật giáo khác,
chúng ta cũng không thấy họ giữ bất kỳ một
vai trò nào
liên quan đến lực lượng đảo chính, kể cả trước và sau khi đảo chính diễn ra.
Cuối cùng, lực lượng đảo chính được xác định
rõ ràng là quân đội dưới quyền các tướng lãnh, còn
nguyên nhân đảo chính là sự
bất mãn ngày càng
gia tăng trong dân chúng đối với Chính phủ ông Diệm vì những chính sách
độc tài,
áp chế. Điều này
thể hiện rõ qua cái chết
thê thảm của hai anh em ông Diệm, ông Nhu cùng với sự
vui mừng của người dân Sài Gòn sau ngày đảo chính, và ngay sau đó nữa là sự
phẫn nộ của người dân miền Trung đối với ông Ngô Đình Cẩn... Tất cả những điều đó
hoàn toàn không
liên quan gì đến cuộc đấu tranh đòi
bình đẳng tôn giáo của
Phật giáo.
Nói một cách
chính xác hơn thì
vai trò duy nhất của
Phật giáo nếu có,
đơn giản chỉ nằm ở việc
Phật giáo chiếm một
tỷ lệ cao trong dân số, và vì thế mà
đa số quân nhân
tham gia đảo chính đều có người thân,
gia đình là
Phật tử. Đó có thể là một phần trong những
nguyên nhân và
động lực thúc đẩy họ
tham gia đảo chính, nhưng
tuyệt đối không thể vì thế mà cho rằng
phong trào vận động của
Phật giáo có
liên quan hay bị
chi phối bởi những người đảo chính.
Tương tự, cáo buộc về sự kích động của phe Cộng sản cũng
hoàn toàn vô căn cứ và là một sự
xuyên tạc sự thật.