Riêng kinh
Phổ diệu thì ghi lại rằng
lúc ấy từ trên
hư không có chín con rồng phun nước xuống để tắm cho
thái tử[4]. Căn cứ vào các
tác phẩm này, các nghệ nhân
Phật giáo đã
mô tả lại cảnh Đản sanh của
thái tử với rồng phun nước trong nhiều
tác phẩm điêu khắc tại
Lộc Uyển phía Bắc Ấn và Amarāvatī tại Nam Ấn. Một
tác phẩm thuộc trường phái Gandhara được lưu giữ tại
bảo tàng Peshawar (Pakistan)
mô tả cảnh hai
cung nữ đứng hầu bên
thái tử, bên trên có
trời Đế Thích và
Phạm Thiên rưới nước từ cành
hoa sen để tắm cho
thái tử, hai bên
thái tử lại có bốn vị
chư thiên đang
cung kính chiêm ngưỡng.
Theo kinh
Quá khứ hiện tại nhân quả, khi
thái tử ra đời có bốn vị
Thiên vương dùng vải quý
cõi trời nâng
thái tử,
Thích Đề Hoàn Nhơn mang lọng báu cùng
Đại Phạm Thiên đứng hầu hai bên. Lúc đó có hai vị
Long vương là Nan-đà và Ưu-ba-nan-đà từ trên
hư không phun hai dòng nước ấm và mát để tắm thân
Thái tử[5]. Có lẽ chính sự
cung kính của
chư thiên đối với
sự kiện Đản sanh của
thái tử được
mô tả trong
bản kinh này đã tạo nguồn
cảm hứng để về sau trong mùa
Phật đản, người
Phật tử thường tôn
trí tượng Đản sanh trong một bồn hay thau sạch và quý, đặt trong điện
thờ Phật hay một nơi nào đó
trang nghiêm, dùng nước sạch có ướp các loài
hoa thơm để làm lễ
tắm Phật nhằm tưởng nhớ đến
ân đức của
Đức Phật và bày tỏ niềm
tôn kính sâu xa đối với Ngài.
Tuy chưa thể xác định được thời điểm
cụ thể của sự
xuất hiện Lễ
Tắm Phật tại
Ấn Độ, nhưng
điều chắc chắn là
lễ nghi này vốn phát xuất từ
Ấn Độ trước khi được
lưu truyền đến các
quốc gia Phật giáo khác. Kinh
Đại bảo tích có ghi lại chuyện
công chúa Vimaladattā, con gái của vua Ba-tư-nặc ở thành Xá-vệ cùng với năm trăm Bà-la-môn ra khỏi thành,
mang theo những lọ đựng đầy nước để dự lễ tắm tượng của một vị trời. Đoàn người vừa ra khỏi cổng thành thì gặp một số vị Tỳ-kheo. Các Bà-la-môn này cho rằng việc gặp đoàn Tỳ-kheo như thế là điềm chẳng lành nên bàn nhau
quay về. Nhưng khi ấy
công chúa Vimaladattā bằng cung cách
từ ái và
trí tuệ sắc sảo của mình đã
giải thích cho các Bà-la-môn, khiến họ
khởi tâm kính tín đối với
Phật pháp.
Câu chuyện này cho thấy sự tương hệ nào đó giữa Lễ
Tắm Phật trong
Phật giáo và lễ tắm tượng các vị thần trong Bà-la-môn giáo. Từ xa xưa,
tín đồ Ấn giáo xem
sông Hằng như một vị
nữ thần linh thiêng và rằng nước của con sông này có khả năng rửa sạch
tội lỗi cho những ai có
nhân duyên được tắm và
cầu nguyện ngay trong dòng sông ấy. Nhưng trong kinh
Tự thuyết (Udāna),
Đức Phật đã khẳng định rằng không có nước của sông nào có thể rửa sạch được
tội lỗi và làm cho
con người ta được
thanh tịnh, dù đó là
sông Hằng hay sông Già-da, mà chính sự
thực hành pháp chân chính mới giúp cho
con người được tịnh hóa.
Tác phẩm Nam hải ký qui nội pháp truyện của ngài
Nghĩa Tịnh (635-713), người đã rời Trung Hoa vào năm 671 và sau đó
tu học tại
Ấn Độ trong khoảng thời gian mười năm, là một trong những sử liệu quý ghi lại
chi tiết về những
sinh hoạt tự viện và các qui chế của
Tăng đoàn Phật giáo đương thời tại
Ấn Độ. Quyển thứ tư của
tác phẩm này có thuật lại cách thức tắm rửa các
tôn tượng trong những
tu viện Phật giáo như sau:
“Tại các tu viện ở những nước phía Tây (Ấn Độ và Trung Á), vào buổi sáng diễn ra lễ tắm các tôn tượng, vị Thọ Sự (Karmadāna - vị sư phụ trách) gióng kiền trùy, cho giăng lọng báu quanh sân chùa, sắp những bình nước thơm thành hàng dọc theo điện Phật, sau đó đặt tôn tượng bằng vàng hoặc bạc, đồng hay đá vào bồn bằng vàng hoặc đồng, đá, hay gỗ. Trong khi các thiếu nữ tấu nhạc cúng dường, các vị sư đem dầu thơm (làm từ chiên đàn, trầm hương) bôi khắp tượng rồi dùng nước thơm rưới tắm tôn tượng. Sau khi tắm rửa tượng xong, các vị sư lấy vải trắng sạch lau khô tượng rồi đem an trí lại trong điện Phật, dùng nhiều loại hoa trang hoàng quanh tượng. Nghi thức này do chúng Tăng trong chùa thực hiện theo sự hướng dẫn của vị Thọ sự. Tại các liêu phòng trong tu viện, mỗi ngày chư Tăng theo cách thức trên mà tắm rửa cẩn trọng những tôn tượng trong phòng mình[6]… đối với những tượng đồng, dù là nhỏ hay lớn, đều lấy tro mịn hay bột gạch để lau cho bóng, dùng nước sạch để tắm rửa cho đến khi tượng đẹp và trong như gương. Đối với tượng lớn, đại chúng trong tu viện cùng nhau lau tắm tượng trong mỗi nửa tháng hay mỗi tháng; còn với tượng nhỏ, nếu có thể, thì mỗi vị lau tắm mỗi ngày. Làm được như thế thì ít hoang phí, mà lại nhiều phước đức. Nếu lấy hai ngón tay thấm vào nước vừa được dùng để tắm tượng mà nhỏ lên đầu, thì đó gọi là nước cát tường. ”[7]Tại Trung Hoa, sách
Ngô thư là một trong những tư liệu đầu tiên nói đến Lễ
Tắm Phật vào thời
Tam quốc. Đến TK IV,
Thạch Lặc (trị vì 319-333) của nhà Hậu Triệu đã tổ chức lễ
tắm Phật. Phần
tiểu sử ngài
Phật Đồ Trừng trong
Cao tăng truyện có ghi lại rằng
Thạch Lặc thường gởi con mình vào các
tu viện nhờ các
nhà sư nuôi dưỡng và dạy dỗ. Mỗi khi đến ngày mồng tám tháng Tư, đích thân
Thạch Lặc đến
tu viện dự lễ
tắm Phật để cầu phước báu cho con mình
[8].
Phật tổ thống kỉ cũng ghi rằng ngày mồng tám tháng tư năm thứ sáu niên hiệu
Đại Minh (462), vua
Hiếu Võ Đế thiết lễ
tắm Phật và lễ
cúng dường chư Tăng ngay trong
hoàng cung[9]. Như thế, đến thời
Nam Bắc Triều, lễ
tắm Phật không những được tổ chức trong các
tu viện Phật giáo mà ngay cả trong
hoàng cung. Do
ảnh hưởng của sự khác biệt về
quan điểm lịch sử của các
tông phái Phật giáo tại
Ấn Độ về ngày tháng Đản sanh của
Đức Phật[10] và cũng do những
tác động của
xã hội và
văn hóa Trung Hoa trong nhiều giai đoạn khác nhau, nên ngày Lễ
Tắm Phật tại
quốc gia này được tổ chức vào nhiều thời điểm trong các
thời đại khác nhau. Dưới thời
Nam Bắc Triều (386-577), Lễ
Tắm Phật được tổ chức vào ngày mồng tám tháng Tư. Từ đời nhà Lương (502-557)
cho đến đời nhà Liêu (916-1125), lễ này lại được diễn ra vào ngày mồng tám tháng Hai
[11]. Song vào đời nhà Tống (960-1279) lễ được tổ chức vào ngày mồng tám tháng Chạp tại miền Bắc, nhưng ở miền Nam thì là ngày mồng tám tháng Tư. Sách
Đông kinh mộng hoa lục ghi lại Lễ
Tắm Phật vào cuối đời Tống rằng vào ngày mồng tám tháng Tư, cứ mỗi một trong số mười
thiền viện lớn tại
Lạc Dương đều tổ chức Lễ
Tắm Phật và
cúng dường chư Tăng[12].
Nghi thức Lễ
Tắm Phật cũng là một phần quan trọng trong bộ
Bách Trượng thanh quy, được
áp dụng trong các
thiền viện kể từ thời ngài Bách Trượng (749-814). Trong các đời nhà Minh, Thanh, Lễ
Tắm Phật đều được tổ chức vào ngày mồng tám tháng Tư. Trong số những
bản kinh có
ảnh hưởng nhiều đến cách thức tổ chức và
ý nghĩa của Lễ
Tắm Phật tại Trung Hoa, thì kinh C
ông đức tắm Phật là
bản kinh được biết đến nhiều nhất.
Kinh
Công đức tắm Phật (
Dục Phật công đức kinh, T16n698) được ngài
Nghĩa Tịnh dịch từ nguyên bản
Phạn ngữ sang Hán ngữ vào năm 710. Đây là một
bản kinh ngắn và
hiện thời chỉ còn lưu lại trong
đại tạng Trung Hoa. Nội dung của
bản kinh này rất giống với kinh
Công đức tắm tượng (
Phật thuyết dục tượng công đức kinh, T16n697) do ngài
Bảo Tư Duy (Manicintana?) đến từ
Ấn Độ dịch vào năm 705. Riêng
bài kệ nói về lý
duyên sinh trong kinh lại giống với
bài kệ trong kinh
Công đức tạo tháp (
Phật thuyết tạo tháp công đức kinh, T16n699) cũng do một
nhà sư Ấn Độ, ngài Địa-bà-ha-la (Divākara) dịch vào năm 680.
Kinh
Công đức tắm Phật được mở đầu với hai câu hỏi chính của Bồ-tát
Thanh Tịnh Huệ: 1. Do đâu mà chư Phật
thành tựu sắc thân thanh tịnh, đầy đủ tướng tốt? 2. Những
chúng sanh sinh ra đời, gặp Phật và
phát tâm cúng dường thì được
vô lượng công đức, còn sau khi
đức Phật nhập diệt,
chúng sanh nên
cúng dường gì, tạo
công đức gì để mau chứng được
vô thượng Bồ-đề?
Đức Phật dạy rằng
Như Lai thành tựu sắc thân thanh tịnh là do
tu tập những
diệu pháp cao thượng như
Lục Độ,
Tứ Vô Lượng Tâm, các pháp
vô uý, trí tuệ… Nếu đối với các bậc
giác ngộ như thế mà dùng
tâm thanh tịnh để
cúng dường hương, hoa… hoặc đối trước
tôn tượng các Ngài mà
trang hoàng,
nghiêm sức, dùng hương quý,
nước thơm theo
nghi thức mà tắm
tôn tượng, đánh trống thỉnh chuông,
xưng tán công đức của
Như Lai, lại
phát nguyện thù thắng,
hồi hướng chứng đắc trí tuệ vô thượng, thì
hành giả sẽ được
vô lượng vô biên công đức. Chư Phật vốn có
ba thân là
pháp thân,
thọ dụng thân và
hóa thân. Vì thế, sau khi
Đức Phật nhập diệt, nếu muốn
cúng dường ba thân này thì nên
cúng dường xá-lợi. Song xá-lợi lại có hai loại là thân cốt xá-lợi và pháp tụng xá-lợi. Trong bảy chúng
đệ tử Phật, như ai muốn
tạo tượng Phật,
nếu không đủ khả năng, dầu tạo một pho tượng rất nhỏ, một ngôi tháp nhỏ để tôn thờ xá-lợi nhỏ như hạt cải, hoặc lại có người chỉ chép một
bài kệ tụng trong kinh rồi
an trí trong tháp thì cũng giống như đang dâng cúng một viên ngọc báu vào tháp,
tùy theo khả năng mà
chí thành cung kính cúng dường như thế thì không khác chi như đang
cúng dường hiện thân của
đức Phật. Những ai
chí tâm cúng dường như thế sẽ có được mười lăm
công đức thù thắng sau: 1. thường biết
tàm quý; 2.
phát khởi niềm tin thanh tịnh; 3. tâm ngay thẳng; 4. được gần gũi bạn lành; 5; chứng huệ
vô lậu; 6. thường gặp chư Phật; 7. luôn
hành trì chánh pháp; 8. làm đúng với
lời nói; 9.
tuỳ ý sanh vào
quốc độ chư Phật; 10. nếu sanh trong
nhân gian thì sanh vào
dòng họ tôn quý, được người khác
tôn kính,
khởi tâm hoan hỷ; 11. nếu sanh trong
nhân gian thì
tự nhiên biết
niệm Phật; 12. không bị
ma quân gây
tổn hại; 13. hay
hộ trì chánh pháp trong
thời mạt pháp; 14. được chư Phật trong
mười phương gia hộ; 15. mau
thành tựu được năm phần
pháp thân. Sau khi giảng dạy như thế,
Đức Phật liền nói kệ trùng tuyên lại nghĩa trên.
Phần quan trọng thứ hai của
bản kinh là lời
giải đáp của
Đức Phật cho Bồ-tát
Thanh Tịnh Huệ về cách thức tắm
tượng Phật trong đời vị lai.
Đức Phật dạy rằng khi tắm
tôn tượng nên dùng
các loại hương thơm như
ngưu đầu chiên đàn,
bạch đàn, tử đàn,
trầm hương, uất kim hương, long não, xạ hương… pha vào nước sạch, đựng trong bình sạch. Chọn một nơi
thanh tịnh,
đẹp đẽ thiết lập đàn tràng, hoặc vuông hay tròn, kích thước
xứng hợp, trên đàn đặt một bệ tắm, ở giữa bệ này tôn
trí tượng Phật. Khi tắm tượng thì dùng nước nóng thơm,
trong sạch rưới từ trên xuống, sau đó tiếp dùng nước
tinh khiết để tắm lại. Nước dùng để tắm này phải được lọc cho thật sạch để không làm
tổn hại đến các
vi trùng. Nếu lấy hai ngón tay thấm vào nước vừa được dùng để tắm tượng rồi nhỏ lên đầu, thì nước này được gọi là nước
cát tường. Không được giẫm chân lên dòng nước tắm tượng đang chảy trên đất sạch. Sau khi tắm tượng xong, dùng khăn mềm, mịn và sạch lau khô tượng, xông
các loại hương trầm thơm quanh tượng, rồi đặt tượng về
vị trí cũ trong
điện Phật.
Đức Phật còn dạy rằng, nhờ việc tắm tượng như thế,
chúng sanh trong hiện đời được nhiều phước báu
thù thắng,
sở nguyện thành tựu,
quyến thuộc được
an ổn, mau
thành chánh giác. Sau khi
an trí tượng về chỗ cũ, nên đối trước tượng
dâng hương,
chắp tay thành kính tụng
bài kệ sau:
“Con nay tắm gội chư Như Lai
Công đức trang nghiêm tịnh trí đầy
Nguyện cho chúng sanh lìa năm trược
Mau chứng Như Lai tịnh pháp thân
Giới, định, tuệ… năm phần hương báu
Tỏa ngạt ngào trong khắp mười phương
Khói hương này xin hằng lan mãi
Phật sự làm vô lượng vô biên
Nguyện khổ nạn ba đường bặt dứt
Nhiệt não trừ, an trú thanh lương
Đồng phát tâm vô thượng Bồ-đề
Thoát biển ái lên bờ đại giác.”[13]
Như thế nội dung chính của bản kinh trên nói đến công đức của những việc xây tháp thờ xá-lợi và tạo tượng Phật, cũng như nghi thức tắm Phật. Ngoài báo thân, Đức Phật còn có hai thân khác là pháp thân và ứng hóa thân. Do đó, dù Ngài đã thị hiện nhập diệt tại thành Câu-thi-na, nhưng sự giao cảm của Ngài với chúng sanh trong nhiều đời sau vẫn tiếp diễn bởi pháp thân Ngài siêu việt cả không gian và thời gian. Đức Phật xuất hiện trong đời không phải như một vị cứu tinh có đầy đủ uy quyền để ban ơn hay giáng họa, mà Ngài là một người như bao nhiêu người khác, một chúng sanh như bao chúng sanh khác. Sau khi thành đạo dưới cội bồ-đề, Ngài du hóa khắp miền Bắc Ấn với vai trò của một vị thầy tâm linh, rất bình dị và cũng rất thánh thiện. Trong cương vị của một vị Đạo sư, một đấng giác ngộ, Ngài đã trao truyền những kinh nghiệm sống, tu tập và sự thể nghiệm hương vị giải thoát cho hàng đệ tử mình và những ai hữu duyên. Trong đạo Phật, nhân tố trọng tâm không phải là đức Phật mà là giáo pháp, đây chính là điểm khác biệt giữa Phật giáo với các truyền thống tôn giáo khác. Pháp mà Đức Phật đã tuyên thuyết là vô giá, đó là phương tiện để đưa đến sự thanh tịnh và an lạc viên mãn trong đời sống tâm linh, mà đức Phật và các bậc thánh Tăng là những minh chứng rõ nét nhất. Giáo pháp của Đức Phật do vậy cũng có giá trị tương đương với xá-lợi của Đức Phật. Như trong bản kinh trên đã đề cập, người Phật tử tỏ lòng tôn kính và niệm ân Đức Phật qua việc xây tháp thờ xá lợi, tạo tôn tượng để thờ phụng, nhưng sự tôn kính và báo ân như thế sẽ mang ý nghĩa chân chính và cao thượng hơn nếu họ biết giữ gìn, hành trì và truyền bá Chánh pháp.
Như đã trình bày, nghi thức tắm tượng Phật được mô tả trong bản kinh trên là một trong những nét sinh hoạt tự viện tại Ấn Độ mà ngài Nghĩa Tịnh đã ghi lại trong ký sự của mình. Cách thức thực hành như thế không phải chỉ thuần túy là một nghi thức truyền thống đơn thuần mà còn là một pháp môn tu tập của chư Tăng Ni và người Phật tử. Báo thân của Đức Phật đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, tâm Ngài thanh tịnh vô nhiễm và nhu nhuyến, pháp thân Ngài thì bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, cho nên việc tắm Phật là một cơ hội để hành giả thực tập nếp sống chánh niệm, trau dồi lòng khiêm cung, hướng tâm nhiệt thành đến Đức Phật, hay nói cách khác, hướng đến sự viên mãn của đức hạnh và trí tuệ. Những dụng công trên của mỗi người tham dự lễ sẽ là những yếu tố tối quan trọng để họ tự chuyển, điều phục và thăng hoa tâm thức của mình. Trong biển sanh tử chập chùng, do vô minh sai sử, nên chúng sanh tạo vô số oan nghiệp, tâm thức luôn bị vẩn đục bởi những tố chất nhiễm ô của phiền não, tà kiến. Do vậy, mỗi khi được tắm Phật, tâm họ được lắng đọng trong niềm tôn kính thanh tịnh. Đó là cơ duyên hy hữu để mỗi người gội rửa thân tâm, sám hối những lỗi lầm trong bao đời, để từ đây hướng đời mình đến sự tịnh hóa ba nghiệp, từ bỏ những niềm vui tầm thường, mong manh thế tục để tìm đến niềm an lạc đích thực của tâm hồn.
Nhưng điều độc đáo ở đây là trong khung cảnh của buổi lễ thật trang nghiêm, thanh tịnh đó, trong năng lực thành kính của đại chúng trong pháp hội, hành giả phát khởi Bồ-đề tâm, đại bi tâm hướng về pháp giới chúng sanh với một tâm hồn thanh khiết và thành kính. Đây chính là động lực có một sức mạnh kỳ diệu để giúp hành giả an trú vào chân tâm của mình mà khởi lên đại nguyện theo gương các bậc hiền nhân. Như thế, từ việc tắm tôn tượng Phật, hành giả lại có nhân duyên lớn để gội rửa tâm thức của chính mình, hầu trở về với Phật tánh thanh tịnh đang hiện hữu trong mình. Bàn về ý nghĩa của việc tắm Phật, ngài Nghĩa Tịnh đã viết rằng: cội gốc của sự tôn kính, không gì bằng tôn kính Tam bảo, tu tập quán tưởng, không gì bằng quán tưởng Tứ đế, nhưng chân lý thì uyên áo mà phàm tâm thì vướng phải nhiều ngoại duyên. Do vậy, nghi thức tắm rửa tôn tượng thật thiết thực và thích hợp. Dầu Đức Phật đã nhập diệt nhưng hình tượng Ngài vẫn còn, nên phải đối với tượng khởi tâm kính thành như thể Ngài đang hiện hữu. Hoặc có người mỗi ngày dùng hương hoa dâng cúng để khởi tâm thanh tịnh, lại có người siêng năng tắm rửa tượng để tự gội rửa nghiệp chướng hôn mê, dụng tâm thực hành như thế thì tự thân được lợi ích rất nhiều, khó mà thấy biết được. Còn như khuyến hóa người khác thực hành theo thì bản thân cũng được nhiều công đức và lợi ích[14].
Là một lễ nghi có từ lâu đời và là phần thiết yếu của lễ hội Phật đản, Lễ Tắm Phật xuất hiện rất phổ biến trong các nước Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền. Riêng tại Việt Nam, lễ nghi này thường được tổ chức vào các ngày khác nhau, nhưng phổ biến nhất là ngày mồng tám tháng Tư, trong dịp Lễ Phật đản mỗi năm. Đại Việt sử ký toàn thư và Đại Việt sử lược đều ghi lại rằng vào ngày mồng tám tháng Tư năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Nhân Tông đã dự xem Lễ Tắm Phật [15]. Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư, cứ mỗi tháng vào các ngày rằm, mồng một, và đặc biệt ngày mồng tám tháng Tư, nhà vua thường đến chùa Diên Hựu để làm lễ cầu phúc, thiết nghi tắm Phật[16]. Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh cũng nói đến việc nhà vua tổ chức lễ cầu an và thiết nghi tắm Phật vào các ngày mồng một và vào mùa xuân. Như thế, đủ để thấy dưới triều Lý, đặc biệt là dưới thời vua Lý Nhân Tông, ngoài lễ Phật đản, lễ tắm Phật cũng được phổ biến trong các sinh hoạt của Phật giáo. Lễ Phật đản cũng như lễ tắm Phật ngay từ thời Lý không chỉ đơn thuần là một nghi lễ của cộng đồng Phật giáo mà nó đã trở thành những sinh hoạt văn hóa chung trong dân gian. Điều này được ghi lại trong Lĩnh Nam trích quái như sau: “Ngày mồng tám tháng Tư, Man nương tự nhiên mà thác sinh lên trời, linh xác gói chôn trong chùa. Nhân dân lấy đó làm ngày sinh của Phật. Hàng năm cứ đến ngày này trai gái, già trẻ bốn phương tụ tập về chùa để vui chơi, ca múa các trò đàn địch mãi thành tục lệ, gọi là “hội tắm Phật”, đến nay lệ vẫn còn.”[17] Sự dung hòa giữa văn hóa Phật giáo nói chung và Lễ Tắm Phật nói riêng trong xã hội Việt Nam thời xưa đã được Lê Tắc ghi lại trong mục “Phong tục”, phần nói về phong tục dân gian của xã hội An Nam trong tác phẩm An Nam chí lược như sau: “Mồng tám tháng Tư, mài trầm hương và bạch-đàn-hương, dầm nước tắm rửa tượng Phật và dùng thứ bánh giầy mà cúng Phật. Tiết Đoan-Dương (mồng năm tháng năm), làm cái nhà gác ở giữa sông, vua ngồi coi đua thuyền. Ngày Trung-Nguyên, lập hội Vu-Lan-Bồn, để cúng tế, siêu độ cho người chết, tốn hao bao nhiêu cũng không tiếc.”[18] Tác phẩm này cho thấy một điều hết sức độc đáo là ngay từ thời Lý-Trần, việc dùng các loại hương thơm dầm nước để tắm tượng Phật, đúng như cách thức được mô tả trong kinh Công đức tắm Phật như trên đã được thực hiện phổ biến trong dân gian. Điều đó cũng đủ cho thấy sự phổ biến của nghi thức này trong các sinh hoạt văn hóa bản xứ.
Trải dài theo dòng lịch sử dân tộc, ngày Lễ Phật đản cùng nghi thức Tắm Phật đã trở thành một nét sinh hoạt tâm linh cao đẹp trong xã hội Việt Nam. Đối với người Phật tử, sự tôn kính, lòng nhiệt thành đối với Đức Phật trên nền tảng của chánh kiến mới thực sự mang lại cho họ một niềm tin trong sáng và sự an lạc đích thực, lâu dài. Mỗi khi dâng một nén hương, một đóa hoa, một phẩm vật lên Đức Phật, hay khi rưới những dòng nước tinh khiết lên tôn tượng của Ngài, đó chính là nhân duyên thù thắng để mỗi người quay về với chính mình, hầu tự sách tấn, tự trang nghiêm cho bản thân bằng hương đức hạnh, bằng hoa trí tuệ, và bằng nước nhẫn nhục, từ ái, tùy thuận thích ứng với mọi nhân duyên, ngay cả chướng duyên để hướng đến một nếp sống hướng thượng, tỉnh giác. Phải chăng chính những lúc đó, mỗi người đang tự tắm Phật trong từng sát-na của đời mình?
Thích Đồng Thành
[1]. H. Nakamura, Gotama Buddha, Tokyo: Kosei Publishing, 2000, p. 66. [2]. S. Khosla, The Historical Evolution of the Buddha Legend, New Delhi: Intellectual, p. 17. [3]. Sđd. [4]. T3n186, tr. 494a. Theo Thích Ca phổ, chi tiết về chín con rồng này được ghi lại trong Đại thiện quyền kinh, T50n2040, tr. 5b. [5]. T3n189, tr.625a. [6]. T54n2125, tr.226b. [7]. Sđd. [8]. Cao tăng truyện, T50n2059, tr.384c. [9]. T49n2035, tr. 346a. [10]. Những quan điểm dị biệt này đã được ngài Huyền Trang ghi lại trong Đại đường tây vức ký, TT51n2087, tr.916b. [11]. Tục cao tăng truyện, T50n2060, tr.616a. [12]. K. Chen, The Chinese Transformation of Buddhism, Princeton: Princeton University Press, 1973, tr.265-266. [13]. T16n698, tr. 800b-c. [14]. T54n2125, tr. 226b. [15]. Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội: Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, (bản điện tử: Viện Việt Học, Westminster, 2001), tr. 109. Đại Việt sử lược, TP.HCM: NXBTPHCM, (bản điện tử: Viện Việt Học, Westminster, 2001), tr. 53. [16]. Đại Việt sử ký toàn thư, tr. 115. [17]. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, Huế: Nxb Thuận Hóa, 1999, tr. 144. [18]. An Nam chí lược, Huế: Viện Đại học Huế, (bản điện tử: Viện Việt Học, Westminster, 2001), tr. 16