4. Tưởng Niệm

28/01/20173:06 SA(Xem: 3732)
4. Tưởng Niệm
TUYỂN TẬP 1 & 2
của cư sĩ Hạnh Cơ
Tác giả đánh máy và trình bày trang sách
Cư sĩ Tịnh Kiên đọc và sửa chữa bản thảo
Hoàng Hậu Thái Châu (Calgary)
xuất bản năm 2014

4. TƯỞNG NIỆM   

Cung Tiễn HT Thích Đỗng Minh      
Điếu Văn Tưởng Niệm HT. TĐM     
Lời Khai Mạc Lễ Truy Niệm…   
Cảm Niệm của Chúng Cư Sĩ…   
Nhớ Tôn Sư   
Cảm Niệm của Cựu SQ/TUPG…   
Điếu Văn (HT Thích Thuyền Ấn)     
Điếu Văn (HT Thích Hạnh Đạo)   

CUNG TIỄN HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỖNG MINH

VỀ CÕI THƯỜNG TỊCH

 

 

Nam Mô A Di Đà Phật

 

Kính bạch Thầy,

 

Cả cuộc đời Thầy là tấm gương trong sáng,

phản ánh tròn đầy:

nào giới, nào định, nào tuệ;

nào trí, nào dũng, nào bi;

đối với hàng hậu sinh,

phủ trùm trọng ân pháp nhũ.

 

Hôm nay củi hết lửa tắt,

Thầy xả báo thân,

về nơi không tịch.

 

Nhưng không phải như thế gian nói lời vĩnh biệt,

mà trong không lường hạnh nguyện độ sinh,

thầy trò vẫn mãi mãi đồng hành.

 

Chúng con thành kính bái tiễn Thầy

về Trang-nghiêm độ.

 

 

Hải ngoại, ngày 17 tháng 6 năm 2005

Hạnh Cơ

Tịnh Kiên

 

ĐIẾU VĂN TƯỞNG NIỆM

HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỖNG MINH

 

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Kính bạch Thầy,

 

Chúng con là đàn hậu sinh

từng được Thầy thương yêu dìu dắt,

nhưng vì phước mỏng

nên đã không được thân cận bên Thầy dài lâu;

thậm chí còn phải linh lạc tứ phương,

trôi dòng tục lụy.

 

Dù vậy, Thầy vẫn mở lòng từ,

khởi xướng Phật sự,

giao phó trách nhiệm,

tạo duyên cho chúng con qui tụ,

phụng sự Phật pháp,

để cho thiện căn vẫn được tiếp tục bồi đắp,

hạt giống bồ đề không bị hư mầm.

 

Ôi, chúng con hân hoan xiết bao

khi được Thầy đưa tay vẫy gọi!

Những tưởng Thầy trò mình

(dù không được cận thân, nhưng mãi mãi cận tâm),

tháng năm đồng sự đường dài;

nhưng mới hơn 3 năm mà Thầy đã xả báo thân

trong lúc nhiều Phật sự đang còn dang dở,

bỏ chúng con ở lại bơ vơ,

rồi biết nương cậy vào đâu!

 

Chúng con cũng biết

cuộc thế là vô thường,

ba cõi đều trong vòng sinh tử,

nhưng đối với sự ra đi đột ngột của Thầy,

chúng con không thể nào giữ được bình tâm

để không khỏi tiếc đau xúc động!

 

Hôm nay Thầy về cõi Phật,

nhưng chúng con biết nơi đó hay nơi này,

thân tâmhạnh nguyện của Thầy

vẫn không gì sai khác.

 

Từ phương xa thắp nén tâm hương

hướng về quê hương vọng bái,

chúng con xin ghi khắc công ơn sâu dầy của Thầy,

nguyện noi gương đạo hạnh cao vợi của

Thầy,

thành kính dâng lên Thầy

lời chúc tán của chúng con:

 

CÔNG VIÊN TUỆ ĐỖNG SIÊU

TAM GIỚI

HẠNH MÃN TỪ MINH BIẾN

THẬP PHƯƠNG

 

 

Toàn thể chúng con trong

Ban Bảo Trợ Phiên Dịch

Pháp Tạng Việt Nam

(các cư sĩ Từ Mẫn, Chánh Huệ,

Nguyên Đạt, Quảng Thành, Đức Hạnh, Nguyên Thần, Nguyên Phương,

Nguyên Thuận, Tâm Huy, Tâm Quang, Chơn Quang, Hải Tuệ,

Tâm Phú, Đồng Hóa, Nguyên Lượng,

Hạnh Cơ, Tịnh Kiên)

đồng kính lạy và cung tiễn

Thầy

về cõi Phật.

 

Nam Mô Đăng Bảo Tọa Bồ Tát Ma Ha Tát

 

Hải ngoại, ngày 11 tháng 5 năm Ất Dậu

(17.6.2005)

 

(Hạnh Cơ sọan)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

LỜI KHAI MẠC

Lễ Truy Niệm Cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG,

Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN,

tại Trường Hạ thứ 20, 2008, chùa Bát Nhã, Calgary - AB - Canada,

ngày 6 tháng 7 năm 2008

 

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Kính thưa Chư Tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni,

Kính thưa Chư vị Đại Diện các Hội Đoàn, các cơ quan truyền thông báo chí trong Cộng Đồng Người Việt tại thành phố Calgary,

Kính thưa Chư vị đồng hương và đồng bào Phật tử,

 

Kính thưa toàn thể Quí Liệt Vị,

Ngày hôm qua, 5.7.2008, vừa mới sáng sớm, Đại Tăng Trường Hạ thứ 20 năm 2008 tại chùa Bát Nhã, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam Calgary, đã nhận được một tin báo khẩn cấp vô cùng quan trọng từ Văn Phòng Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHN tại Canada, đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang, đương kim Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN tại quê nhà, đã viên tịch vào lúc 1g15 chiều ngày 5.7.2008 – nhằm ngày Mồng 3 tháng 6 năm Mậu-Tí (giờ VN), tại phương trượng Tu Viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình-định, Việt-nam; thế thọ 90 tuổi, pháp lạp 70 năm.

Đây là một biến cố trọng đại đã xảy ra cho toàn thể tăng tín đồ đạo Phật Việt-nam ở trong lẫn ngoài nước ngày hôm nay. Đức Đại Lão Hòa Thượng Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN Thích Huyền Quang là một bậc cao tăng lỗi lạc trong thời hiện đại, không những của riêng GHPGVNTN, mà của cả cộng đồng Phật giáo thế giới. Trong gần 40 năm qua, ở khắp các quốc gia thuộc tổ chức Liên Hiệp Quốc, không ai là không biết đến danh tiếng của Ngài, không ai là không kính ngưỡng Ngài.

Trong suốt thời gian tại thế, Ngài đã đem trí tuệ siêu việt của mình để hoằng dương chánh pháp; đem tâm từ bi và lòng tận tụy để tiếp dẫn hậu lai; và đem ý chí đại hùng để chống chỏi trường kì với các thế lực ma vương luôn luôn rình rập, tìm đủ kế sách để phá hoạitiêu diệt Phật giáo. Nhờ vậy mà con thuyền GHPGVNTN đã được lèo lái vững chãi trong phong ba bão táp suốt thời gian qua.

Trong suốt cuộc đời hành đạo, Ngài đã không ngừng tinh tấn, dũng mãnh, vì Đạo quên mình. Vì quyết tâm bảo vệ Đạo Pháp, Ngài đã từng hai lần ở tù dưới chế độ cai trị của chính quyền Việt Minh trước năm 1954 tại Bình-định. Vì quyết tâm bảo vệ cho sự sống còn của GHPGVNTN và tranh đấu cho một nền dân chủtự do tôn giáo cho toàn thể dân tộc Việt-nam, Ngài lại bị chính quyền CSVN cầm tù trong suốt gần bốn chục năm qua, từ năm 1975 cho đến giây phút cuối cùng của giờ viên tịch. Quả thật, đức Đại Lão Hòa Thượng Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN đã thi thiết hạnh nguyện của Bồ Tát Địa Tạng: thay chúng sinh chịu vô lượng khổ ở địa ngục!

Một điều thật đặc biệt, mặc dù đang sống trong cảnh tù tội, Ngài vẫn quan tâm lo lắng cho tiền đồ Phật giáo Việt-nam tại hải ngoại. Trong bức Tâm Thư gửi cho “Chư Tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni tại hải ngoại”, viết ngày 14.9.1991 tại nơi quản thúc ở Quảng-ngãi, Ngài đã từng nhắc nhủ: “...... tôi cũng xin đề nghị quý liệt vị vài Phật sự tại hải ngoại: Làm sao cần có một tập thể Chư Tăng hòa hợp để lo việc hoằng dương Phật Pháp tại hải ngoại, và lưu ý hơn nữa về vấn đề đào tạo Tăng Nitrình độ trí thức cao để gánh vác Phật sự cho thế kỷ tới......”

Vì vậy, sự ra đi của Ngài ngày hôm nay là một biến cố trọng đại, một mất mát lớn lao cho Phật giáo Việt-nam cả trong lẫn ngoài nước. Để tỏ niềm nhớ tưởng đối với công ơn sâu dầy của Ngài, hàng hậu học chúng tôi, toàn thể Đại Tăng Trường Hạ thứ 20 năm 2008 tại chùa Bát Nhã, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam Calgary, xin long trọng tổ chức đại lễ Truy Niệm Giác Linh Ngài, chí thành dâng lên Tam Bảo lời cầu nguyện thiết tha, cố Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền hạ Quang cao đăng Phật quốc.

 

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Tiếp Dẫn Đạo Sư

A Di Đà Phật

 

Đại Tăng Trường Hạ thứ 20,

chùa Bát Nhã, Calgary, Canada

ngày 6 tháng 7 năm 2008

 

(Hạnh Cơ sọan)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CẢM NIỆM

của chúng Cư Sĩ đang tu học tại Trường Hạ Thứ 20,

Chùa Bát Nhã Calgary,

dâng lên GIÁC LINH ĐẠI LÃO

HÒA THƯỢNG THÍCH HUYỀN QUANG,

ĐỆ TỨ TĂNG THỐNG GHPGVNTN

 

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Kính bạch Giác Linh Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN,

Chúng con, toàn thể cư sĩ Phật tử đang hộ trì an cư và theo tu học với Chư Tăng tại Trường Hạ lần thứ 20 năm 2008 tại chùa Bát Nhã, Calgary, vừa được Chư Tăng thông báo cho biết, Đại Lão Hòa Thượng vừa viên tịch tại quê nhà. Chúng con thật bàng hoàng sửng sốt khi biết được tin này. Chúng con cảm nhận một nỗi đau buồn to lớn khi biết rằng, sự thật là mình vừa mất đi một bậc Tôn Sư hiền đức thân thương kính quí! Hầu hết Phật tử chúng con, từ ngày bỏ nước ra đi, sống kiếp lưu vong ở xứ người, chúng con chưa từng một lần được tới nơi Đại Lão Hòa Thượng bị quản thúc để hầu thăm, nhưng qua các phương tiện truyền thông ở hải ngoại, nhất là qua tấm lòng chân thành tha thiết, qua ngôn từ tỏ lộ, và qua cung cách hành xử của Chư Tăng Ni hải ngoại đối với Đại Lão Hòa Thượng, chúng con cũng biết rõ Đại Lão Hòa Thượng là một bậc cao tăng có đầy đủ từ bi, trí tuệ và hùng lực, là bậc tôn sư xứng đáng làm chỗ nương tựa cho toàn thể tăng tín đồ Phật giáo Việt-nam trong thời hiện đại. Bởi vậy mà sự ra đi ngày hôm nay của Đại Lão Hòa Thượng đã để lại trong thâm tâm thành kính của chúng con niềm tiếc thương to lớn.

Kính bạch Giác Linh Đại Lão Hòa Thượng,

Một vài vị cao niên trong hàng ngũ cư sĩ chúng con, ngày xưa đã từng được diễm phúc tu học dưới sự dìu dắt của Đại Lão Hòa Thượng, đã kể lại cho chúng con nghe rằng, thời gian từ sau năm 1954, trong khi Hòa Thượng nhận lãnh trọng trách lo việc đào tạo tăng tài tại Phật Học Đường Nha-trang, do Giáo Hội Tăng Già Trung Việt giao phó, thì đồng thời Hòa Thượng cũng đặc biệt quan tâm đến nếp sống tu học của quần chúng Phật tử. Hòa Thượng đã soạn thảo các tập “Tài liệu học tập Phật pháp”, và phân nhiệm quí thầy đến tận Niệm Phật Đường của các khuôn hội Phật giáo, từ thành phố cho đến thôn quê, để giảng dạy Phật pháp cho Phật tử. Nhờ vào công đức giáo dục này mà quần chúng Phật tử trong thời gian ấy, ai cũng thấm nhuần giáo lí – ít ra cũng là những giáo lí căn bản nhất; lòng tin Tam Bảo của họ được củng cố vững chắc. Số lượng tăng ni ngày càng gia tăng, thì số thiện tín nam nữ cũng ngày càng đông đúc, đội chúng trật tự nền nếp; Phật giáo Việt-nam trong thời gian ấy, mặc dù bị chính quyền kì thị, vẫn nghiễm nhiên trở thành một tôn giáothế lực quần chúng mạnh mẽ nhất! Khi nghe biết được sự việc này, cũng như những công hạnh tương tự như thế trong cuộc đời hành đạo của Đại Lão Hòa Thượng, chúng con thấy được an ủi vô cùng; chúng con biết ơn Ngài vô cùng; chúng con kính quí Ngài vô cùng! Bởi vậy mà sự ra đi ngày hôm nay của Đại Lão Hòa Thượng đã để lại trong thâm tâm thành kính của chúng con niềm tiếc thương to lớn.

Giờ đây, trước Giác Linh Đại Lão Hòa Thượng, chúng con như những đứa con út của Tam Bảo, chưa đủ sức tự mình bay cao nhảy xa, chúng con chỉ biết noi theo tấm gương sáng ngời nhất tâm vì Đạo của Ngài, qua sự dìu dắt trực tiếp của Chư Tôn Đức Tăng Ni hiện tiền, nguyện xin tinh tấn tu học, tự lợi lợi tha, mong một ngày mai cây giác ngộ nở hoa, tất cả chúng con đồng theo chân Đại Lão Hòa Thượng cùng Chư Tôn Đức Tăng Ni mười phương, bước lên bờ giải thoát.

Chúng con xin thành kính đảnh lễ, ngưỡng mong Giác Linh Đại Lão Hòa Thượng từ bi chứng minh gia hộ.

 

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Tiếp Dẫn Đạo Sư

A Di Đà Phật

 

Toàn thể chúng Cư Sĩ

đang theo Chư Tăng tu học

tại Trường Hạ thứ 20,

chùa Bát Nhã Calgary, Canada

ngày 6 tháng 7 năm 2008

 

 

(Hạnh Cơ sọan)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NHỚ TÔN SƯ

(Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư,

cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG,

Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN)

 

 

Kính bạch Giác Linh Ôn,

Từ khi nghe tin Ôn trở bệnh nặng, phải vào nằm bệnh viện Qui-nhơn, chúng con, những đứa học trò cũ của Ôn từ giữa thập niên 50 của thế kỉ trước, ở Nha-trang, hiện đang sống lưu lạc ở hải ngoại (đa số là thành viên của Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam), đã bàn bạc xôn xao, bồn chồn lo lắng cho một sự mất mát to lớn chẳng biết sẽ xảy ra cho mình vào lúc nào! Chúng con phải chuẩn bị tinh thần để chịu đựng cái biến cố trọng đại này. Tuy vẫn biết rằng, thuận thế vô thường là việc đương nhiên của bậc Đại-sĩ, thế mà, sáng sớm ngày 5 tháng 7 năm nay, 2008, ở đạo tràng An Cư của Chư Tăng Canada và Hoa-kì, tại chùa Bát-nhã, Calgary - Alberta - Canada, khi vừa nghe Chư Tăng Trường Hạ cho biết, Ôn mới vừa viên tịch tại Tu Viện Nguyên Thiều, con bàng hoàng sửng sốt, nghẹn ngào thầm khóc trước Chư Tăng, tinh thần trở nên yếu đuối, nỗi đau buồn cứ dâng cao, không có sức gì kềm chế được!

Bây giờ là cuối tuần thứ ba từ hôm Ôn viên tịch. Trong những ngày qua, con vẫn ngồi đây, trong phòng dịch kinh, vừa dịch kinh vừa cố ôn lại những kỉ niệm thân thương mà Ôn và chúng con từng trải qua trong đời. Hồi đó, con chỉ là một đứa học trò rất nhỏ của Ôn, tuổi chừng 14, 15 gì đó, mà bây giờ con cũng đã vói tới tuổi 70 rồi. Thời gian đã thật xa, cuộc đời nhiều lo toan cực nhọc, đến hôm nay thì tâm tư mỏi mòn, trí nhớ còm cõi, chuyện xưa con chắc chẳng còn nhớ được bao nhiêu! Thôi thì cứ nhớ được chuyện gì, con xin nhắc lại chuyện đó, để... nhớ Ôn!

Kính bạch Giác Linh Ôn! Con còn nhớ, lúc đó là năm 1954, sau hiệp định Genève mấy tháng, Ôn đã từ Bình-định vào Phật Học Đường Nha Trang, và được thỉnh cử làm Giám-đốc để điều hành Phật-học-đường này. Ngôi trường Phật học này đặt tại chùa Long-sơn, trụ sở Hội Phật Học Khánh-hòa (Ôn Thiện Minh làm Hội-trưởng), đã được mở từ năm 1952 (do ngài Thích Định Tuệ làm Giám-đốc), nằm trong chương trình chấn hưng Phật giáođào tạo tăng tài do Giáo Hội Tăng Già Trung Việt (lúc đó) chủ trương. Với trách nhiệm đào tạo tăng tài cho Giáo Hội, Ôn cùng với Ôn Trí Thủ, Ôn Thiện Minh, đã từng du hành qua các tỉnh Trung-phần Việt-nam, đến các chùa, kể cả những ngôi chùa ở tận các làng xã hẻo lánh, vận động quí thầy Trụ Trì cho các đệ tử “về” ở Phật Học Đường Nha Trang tu học. Tâm chân thành của Quí Ôn đã được phần đông các chùa hưởng ứng, cho nên, điệu chúng từ Đà-lạt, Phan-rang, Phan-thiết, Phan-rí, Nha-trang, Phú-yên, Bình-định..., trước sau lần lượt qui tụ về Phật-học-đường, con số học chúng đến gần trăm vị, chia ra có “lớp lớn” và “lớp nhỏ”.

“Lớp Nhỏ” chúng con hồi đó có Thắng, Vinh, Khánh, Tâm, Dần, Ký, Đích, Bình, Hòa, Sanh, Thiên, Ngộ, Lạc, Chút, Ninh, Chánh, Đài, Xây, Lợi, Trí, Đường, Kính, Thành, Dự, v.v... ba, bốn chục điệu. Chúng con được cho học đầy đủ song song hai chương trình nội điểnngoại điển. Ban ngày thì học ngoại điển ở trường Bồ-đề; tối đến thì học nội điển. Hồi đó Ôn vừa làm giám đốc, vừa làm giáo thọ. Con nhớ Ôn đã dạy chúng con môn Duy Thức, bằng tác phẩm Duy Thức Tam Thập Tụng. Một hôm, nhân dạy đến câu “Hằng chuyển như bộc lưu”, sau khi giảng giải, Ôn đã gọi con lên đứng trước bảng đen, hỏi: “Con có hiểu không?” Con thưa: “Dạ thưa Thầy, con hiểu.” Ôn bảo: “Con hiểu thế nào, nói cho chúng nghe!” Con vâng lời, nói về dòng thác, mới nhìn thì thấy như một tấm vải trắng dài lớn, nhưng sự thật là do vô số giọt nước nối tiếp nhau chảy xiết làm thành. Để thấy rõ bằng sự vật trước mắt, con đã chạy đi thắp một cây nhang, cầm cây nhang ấy quay nhanh thành vòng tròn thì thấy rõ ràng là một vòng lửa, như thể do một sợi dây lửa đỏ làm thành; mà sự thật, cái “vòng dây lửa đỏ” ấy là do từng đốm lửa nối tiếp nhau làm thành. Tâm thức trong đời sống hằng ngày cũng vậy, là do niệm niệm nối tiếp nhau trôi chảy, thay đổi vô thường, chỉ có chân tâm mới là không sinh diệt. Ôn khen: “Giỏi!”

Đối với quí thầy ở “Lớp Lớn”, ngoài chương trình tu học ở học đường, Ôn cùng Ôn Thiện Minh còn huấn luyện cho quí thầy trở thành những vị giảng sư của Giáo Hội. Vào các dịp lễ lớn của Phật giáo, Quí Ôn đã phân phái quí thầy về từng chi hội, khuôn hội, từ tỉnh thành cho đến quận huyện, làng xã nơi thôn quê hẻo lánh, để diễn giảng và hướng dẫn tu học cho Phật tử. Quí thầy Đỗng Quán, Đỗng Minh, Trừng San, Đồng Thiện, Như Bửu, Nguyên Trạch, Đồng Từ, Liễu Không, Từ Hạnh, Tâm Lâm, Nguyên Hồng, Như Cầu, Từ Mẫn, Thiện Nhơn, Thiện Duyên, Như Huệ, v.v... cũng đến hai, ba chục thầy, đều là những tăng sĩ xuất sắc của Giáo Hội được đào tạo trong thời gian đó.

Không những Ôn rất quan tâm đến vấn đề học tập và hạnh kiểm của tăng ni sinh, mà đối với sự tu học của hàng cư sĩ phật tử Ôn cũng hết lòng chú trọng. Con còn nhớ, hồi đó Ôn có soạn từng bài giáo lí ngắn, làm thành từng tập sách nhỏ, gọi là “Tài Liệu Học Tập Phật Pháp”; rồi thỉnh thoảng Ôn tổ chức một khóa học Phật pháp cho Phật tử tại các Niệm Phật Đường của các khuôn hội trong thành phố Nha-trang và các vùng phụ cận. Lớp học được mở mỗi buổi tối, hoặc cách một tối, kéo dài đến vài ba tuần, Ôn phân nhiệm quí thầy đi dạy, mỗi Niệm Phật Đường là một thầy. Nhờ sự giáo dục ân cần này mà quần chúng Phật tử đều thấm nhuần Phật pháp, tinh thần phấn chấn, lòng tin Tam Bảo sâu đậm, tâm đạo kiên cố, hàng ngũ ngày càng đông đảo, oai nghi chỉnh tề; khiến cho vào thời đó, Phật giáo Việt-nam tuy đang bị chính quyền kì thị, vẫn nghiễm nhiên trở thành một tôn giáothế lực quần chúng mạnh mẽ nhất!

Kính bạch Giác Linh Ôn! Đến năm 1957 thì có sự thay đổi quan trọng: Theo quyết định của Giáo Hội Tăng Già Trung Việt, hai Phật-học-đường Báo-quốc (Huế) và Nha-trang được đem sáp nhập lại, lập thành Phật Học Viện Trung Phần, đặt tại chùa Hải-đức, Nha-trang. Phật-học-viện này do Ôn Trí Thủ làm Giám-viện, Ông Thiện Siêu làm Đốc-giáo, còn Ôn thì được thỉnh cử làm Tổng-thư-kí. Sang năm sau thì Ôn về lại Bình-định để kiến lập Tu Viện Nguyên Thiều, từ đó, con không được sống gần Ôn nữa. Cho mãi đến năm 1963...

Mùa Phật Đản năm 1963, trong khi chúng con đang thi hành công tác Phật sự tại các tỉnh miền Trung, thì được nghe phong thanh có lệnh của chính quyền không cho phép Phật giáo được treo giáo kì trong ngày lễ Phật Đản. Các chùa hay trụ sở hội Phật học nào đã lỡ treo cờ Phật giáo đều phải hạ xuống hết. Chúng con thật hoang mang. Khi công tác vừa hoàn mãn, chúng con về lại các chùa Tỉnh Hội của các tỉnh địa phương, mới biết được tin tức rõ ràng, xác thật là như vậy, nhìn trụ sở Tỉnh Hội, không có lá giáo kì nào được treo, khác với mùa Phật Đản các năm trước, cờ xí khắp nơi, rợp trời! Tức tốc, từ các tỉnh xa xôi (như Pleiku, Kontum, Ban-mê-thuột, Đà-lạt, Lâm-đồng, Phan-thiết), không hẹn mà chúng con, hoặc bằng xe lửa, hoặc bằng xe đò, đều cùng trở về Sài-gòn. Khoảng sau giờ ngọ ngày 15.5.1963, chúng con lục tục về tới chùa Già-lam (được xây cất năm 1960 tại Gia-định). Chúng con liền điểm mặt nhau: Đích (Nguyên Phương), Dần (Thiện Thông), Hòa (Nguyên Thuận), Lợi (Hạnh Cơ), Ký (Đức Hạnh), Trí (Nguyên Lượng)..., rồi đâu có kịp ăn uống gì, chúng con dùng xe đạp, kéo nhau hết lên chùa Ấn-quang để xem sự tình ra sao. Lên đến nơi, chúng con vào ngay trong giảng đường, thì thấy Ôn và Ôn Quảng Độ đã ngồi ở đó từ lúc nào rồi! Hai Ôn đang làm gì mà thấy rất bận rộn, giấy tờ cả đống, soạn tới soạn lui... Chúng con vào cúi đầu xá hai Ôn, rồi cùng thưa: “Thưa Thầy, có việc gì cho chúng con làm ngay bây giờ không?” Chúng con thấy Ôn vui hẳn ra, bảo: “Nếu các chú rảnh, thì ngay bây giờ, Thầy nhờ các chú chia nhau đến tất cả các chùa tăng, chùa ni trong đô thành, mời tất cả tăng ni, 3 giờ chiều ngày mai qui tụ về giảng đường chùa Ấn-quang để nghe Quí Thầy nói chuyện về tình hình Phật giáo.” Chúng con vâng lệnh thi hành tức khắc; và như thế là cuộc tranh đấu của Phật giáo chống lại chính sách kì thị và đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu... Sau đó thì Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo được thành lập để chính thức tiến hành cuộc đấu tranh trên toàn lãnh thổ VNCH, trụ sở hoạt động được đặt tại chùa Xá-lợi, Sài-gòn, Ôn Tâm Châu làm Chủ-tịch, và chính Ôn đảm nhận chức vụ Tổng-thư-kí. Với chức vụ này, ngoài việc điều hành mọi công tác hành chánh, soạn thảo mọi thông bạch, thông cáo, công văn giao dịch với chính quyền v.v..., Ôn còn tự tay soạn các tài liệu (kể cả truyền đơn) dùng vào công cuộc tranh đấu. Công việc thật nhiều, Ôn làm việc ngày đêm, cho nên trong thời gian ấy Ôn đã cư ngụ luôn tại chùa Xá-lợi. Trong lúc đó thì con làm thư kí riêng cho Ôn Thiện Minh, cho nên cũng phải ở luôn tại chùa Xá-lợi; do đó mà con lại được dịp gần gũi và liên lạc công việc thường xuyên với Ôn trong suốt thời gian đó. Cho đến giữa khuya ngày 20 tháng 8 năm ấy...

Kính bạch Giác Linh Ôn! Ôn biết rõ về những vấn đề cốt lõi trong cuộc tranh đấu của Phật giáo Việt-nam với chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, vì Ôn là một trong những “chiến lược gia” tham mưu của phong trào tranh đấu. Phật giáo thì thuần túy bất bạo động, còn chính quyền thì có trong tay thật dồi dào các phương tiện đàn áp. Trong thời gian đó đã có nhiều cuộc bàn thảo giữa hai bên để mong phía chính quyền giải quyết ổn thỏa các yêu sách chính đáng của Phật giáo, nhưng thay vì thành tâm giải quyết sự việc, đem lại an vui cho dân chúng, thì chính quyền cứ hứa hươu hứa cuội, dằng dai kéo dài thời gian để tìm cách triệt hạ Phật giáo cho bằng được. Ngày 11 tháng 6, Bồ Tát Quảng Đức tự thiêu để cầu nguyện cho pháp nạn Phật giáo. Hôm Ôn bưng quả tim kim cương của Bồ Tát Quảng Đức (còn lại sau khi tự thiêu) đứng trong chánh điện chùa Xá-lợi, hình ảnh Ôn lúc đó thật trang nghiêm, mọi người đã sụp lạy; hình ảnh ấy con còn nhớ mãi... Ngọn lửa tự thiêu đã làm chấn động cả thế giới, đã làm cho cả loài người bàng hoàng sửng sốt. Rồi vào giữa tháng 6, do áp lực từ nhiều phía, chính phủ phải chấp nhận ngồi họp với Phật giáo để giải quyết những yêu sách của Phật giáo đưa ra. Cuộc họp quan trọng ấy đã diễn ra tại hội trường Diên-hồng, giữa một bên là Ủy Ban Liên Bộ, đại diện chính phủ Ngô Đình Diệm, và một bên là Phái Đoàn đại diện Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo. Phái đoàn Phật giáo do Ôn Thiện Minh làm trưởng phái đoàn, thành viên có Ôn Tâm Châu và Ôn Thiện Hoa; Ôn là thư kí của phái đoàn, và thầy Đức Nghiệp là phó thư kí. Hôm đó con cũng may mắn được ôm cặp theo hầu Ôn Thiện Minh, được ngồi trong một góc để quan sát cuộc họp. Trong cuộc họp đó, Quí Ôn, tuy ngôn từ khiêm cung từ tốn, nhưng luôn luôn tràn đầy uy lực, lúc nào cũng ở thế thuyết phục đối với bất cứ vấn đề gì. Đối với những chuyện kì thị đối xử và đàn áp Phật giáo của chính quyền, do Ôn Thiện Minh đưa ra, bên chính phủ đều chối bỏ; nhưng đâu có chối được, vì Ôn ngồi ngay bên cạnh đó, với nhiệm vụ thư kí, Ôn có trước mặt tập hồ sơ dầy cộm, cả trăm trang đánh máy, chứng cớ rành rành, đầy đủ đây mà! Sau cùng, cuộc họp kết thúc với bản Thông Cáo Chung 5 điểm, đều có lợi cho Phật giáo. Nếu bản Thông Cáo Chung này được chính quyền thực tâm thi hành thì xã hội đã thái bình, nhân dân an lạc. Nhưng không, họ vẫn một mực muốn tiêu diệt Phật giáo, việc kí bản Thông Cáo Chung chỉ là bước nhượng bộ nhằm xoa dịu tình hình trong nhất thời, để rồi tìm kế sách hữu hiệu mới cho việc đàn áp Phật giáo. Bởi vậy, sau đó, bản Thông Cáo Chung đã không được chính phủ thi hành, mà sự đàn áp của chính quyền lại ngày càng gia tăng mạnh mẽ trên toàn quốc, mánh khóe trấn áp cũng ngày càng tinh vi hơn. Và theo đó, cuộc đấu tranh của Phật giáo, tuy vẫn thuần túy bất bạo động, cũng đã ngày càng quyết liệt hơn. Kết quả, việc phải tới đã tới, đêm 20 rạng ngày 21 tháng 8, chính quyền đã sử dụng các lực lượng tinh nhuệ nhất của chế độ, đồng loạt tấn công vào các chùa viện trên toàn quốc, bắt hết chư tăng ni và Phật tử đem bỏ tù!

Riêng tại chùa Xá-lợi, như được người thân tín mật báo trước, buổi chiều hôm ấy, Ôn bảo nhỏ cho tất cả Phật tử hãy về nhà trước khi trời tối, chỉ có tăng ni là vẫn ở lại tiếp tục làm phận sự của mình. Ôn và Ôn Tâm Châu ngầm chỉ thị cho quí thầy Ban Trật Tự tăng cường nhân sự, chuẩn bị phòng thủ nghiêm mật. Từ giờ phút đó, cổng chùa đóng chặt, chỉ có Phật tử trong chùa ra về, còn ở ngoài thì không ai được vào chùa, kể cả tu sĩ; ngoại trừ các tăng ni vốn làm việc trong chùa, ra ngoài đi công tác về trễ. Tối đó, khóa lễ Tịnh Độ vẫn cử hành như thường; mọi công việc (đánh máy, quay ronéo tài liệu, sắp xếp truyền đơn, vẽ bích chương v.v...) vẫn làm theo giờ giấc. Rất nhiều bao ni-lông và chanh cắt từng miếng sẵn sàng (để “chống” lựu đạn cay!). Sau 10 giờ thì đèn đuốc tắt hết, chỉ để lại vài ngọn đèn lù mù trong các phòng và chánh điện, một không khí chờ đợi nặng nề bao phủ khắp chùa; tất cả chư tăng ni hiện trú, từ bậc lãnh đạo tối cao là Ôn Pháp Chủ Tịnh Khiết, xuống đến các chú sa di làm việc vặt, đều chuẩn bị tinh thần cho một cuộc tấn công của chính quyền vào chùa trong đêm nay, chưa biết chắc là vào giờ nào, và tấn công như thế nào!

Cuối cùng rồi tai nạn cũng đã đến với chư tăng ni. Hơn 11 giờ đêm thì cuộc tấn công bắt đầu. Từng bóng người nhảy từ hàng rào vô sân chùa. Cổng  chùa bị bẻ khóa, mở toang. Lựu đạn cay, lựu đạn khói được ném tới tấp vào các phòng ở tầng dưới, tầng trên, chánh điện, tháp chuông, khói cay mù mịt khắp nơi. Tuy trong tay không có tấc sắt, nhưng cuộc chống đỡ, kháng cự của quí thầy Ban Trật Tự cũng mạnh mẽ, kiên cường lắm. Nhưng dù có chống đỡ thì cũng chỉ như trứng chọi đá mà thôi, cho nên sau hơn một tiếng đồng hồ dằng co, nhiều thầy và cô bị ói mửa, ngạt thở, nhiều thầy đã bị thương, có thầy còn bị thương rất nặng; tất cả tăng ni trong chùa, lần lượt bị họ lôi hết ra để ngồi trên sân chùa. Lúc đó con để ý nhìn, nhưng không biết Quí Ôn ở đâu. Sau khi họ lục lọi khắp các nơi xó xỉnh trong chùa để biết chắc là không còn sót ai núp ở đâu, họ “lùa” hết chư tăng ni ra đường. Một đoàn xe “bít bùng” đã đậu chờ sẵn, từng toán tăng ni bị “lùa” lên xe, rồi đoàn xe chuyển bánh, chạy đi trong đêm khuya. Những chiếc xe “nhà binh” được phủ che kín mít, người ngồi bên trong không có cách gì nhìn thấy phố sá ở hai bên đường. Họ chẳng cần bịt mắt ai cả, nhưng chẳng ai biết được họ chở mình đi đâu, chỉ có cảm giác rằng, lúc này xe chạy thẳng, bây giờ xe quẹo phải, bây giờ xe quẹo trái, lúc này xe chạy thẳng..., thế thôi; dù vậy, con cũng mường tượng được là xe đang chạy hướng về Chợ-lớn. Xe chạy loanh quanh cũng khá lâu, chắc mất khoảng gần tiếng đồng hồ, rồi dừng lại. Có lệnh bảo xuống xe. Họ rọi đèn sáng choang, mới thấy mình đang đứng trong sân của một đồn cảnh sát, có hàng rào dây kẽm gai thật cao, bao bọc chung quanh, có hàng trăm cảnh sát dã chiến canh giữ. Chư tăng ni xuống xe hết rồi, đoàn xe ra khỏi đồn cảnh sát, cánh cổng sắt to lớn được đóng lại. Có lệnh tất cả vào bên trong đồn, và thủ tục ghi danh “nhập trại” bắt đầu. Thật là bất ngờ, vì đây là chuyện con không hề nghĩ tới: trong khi mọi người sắp hàng vào ghi danh, con nhìn thấy người đứng trước con ba bốn thầy, chính là Ôn! Và người đứng cách trước Ôn hai ba thầy, lại là Ôn Trí Quang! Ôi, con vui mừng biết bao nhiêu, đâu có niềm vui nào to lớn hơn, trong cảnh hoạn nạn mà được có Quí Ôn bên cạnh như thế này! Bạch Ôn, con không hề nghĩ tới chuyện này là tại vì, theo chúng con biết, tất cả hàng lãnh đạo cao cấp của phong trào tranh đấu Phật giáo (như Ôn Pháp Chủ, Ôn Tâm Châu, Ôn Thiện Minh, Ôn Quảng Độ v.v...) đều bị chính quyền giam giữ biệt lập; cho nên chúng con, ai cũng yên chí là không có Ôn nào được đưa vào đồn cảnh sát này cả; chỗ này toàn là đám cấp dưới mà thôi. Còn một điều nữa cũng khá lạ lùng: không ai bảo ai, mà trong lúc khai tên cho cảnh sát làm danh sách, tất cả đại chúng đều tự động chỉ khai tên tục, không khai pháp danh, cả hai Ôn cũng vậy. Mà họ cũng không bắt phải trình căn cước, không đòi phải khai pháp danh. Có lẽ nhờ đó mà hai Ôn không bị lộ ở trại giam này. Lúc đó họ mở loa phóng thanh để cho mọi người đều nghe tin tức “sốt dẻo” từ đài phát thanh Sài-gòn. Tin tức loan rằng, chính phủ vừa bắt được trọn ổ bọn sư Việt cộng làm loạn để đem lại an ninh trật tự cho dân chúng. Rồi họ kể tiểu sử của từng Ôn: Thích Tịnh Khiết, Thích Tâm Châu, Thích Thiện Minh v.v..., Ôn nào cũng là Việt cộng nằm vùng, hoặc thân cộng cả. Họ còn nói rõ: “Các tên đầu sỏ đã bị bắt hết, chỉ có hai tên Trí QuangHuyền Quang còn đang tại đào, nhưng chắc chắn sẽ không thoát khỏi lưới pháp luật.” Nghe được điều này, chúng con mới thực sự yên tâm, vì biết chắc họ đã không nhận diện được hai Ôn ở đây.

Ghi danh xong, họ chỉ định chỗ ở, toàn thể chư tăng ở một dãy nhà phía Đông, toàn thể chư ni ở một dãy nhà phía Tây. Thủ tục ban đầu như thế là tạm xong, lúc đó thì trời vừa hừng sáng. Chúng con ra sân đồn, thấy tấm bảng đề: “Bót Cảnh Sát Rạch Cát”. Vậy ra, đây là quận 8 của đô thành Sài-gòn. Mặt trời đã mọc, ánh sáng đã tỏ rõ, con thấy đồn cảnh sát này có một khuôn viên quá rộng, ba bên có lạch nước bao bọc, lại có hàng rào dây kẽm gai rất cao bao khắp bốn mặt, tù nhân khó mà trốn ra khỏi được. Nhìn khắp một lượt, ước lượng con số chư tăng ni bị nhốt ở đây khoảng gần 800 vị, được chở tới từ các chùa Xá-lợi, Ấn-quang, Giác-minh, Dược-sư, Từ-nghiêm, Huê-lâm v.v... Đã thấy rõ có hai Ôn ở đây, chúng con, chín mười người đã từng thân cận bên hai Ôn hằng ngày, lúc đó đã rỉ tai nhau, đừng tỏ vẻ kính cẩn trước mặt hai Ôn như hồi ở chùa, mà cứ giữ cử chỉ bình thường, như thể không có vị thầy cao cấp nào ở đây cả. Từ lúc đó trở đi, trong suốt thời gian bị nhốt ở bót cảnh sát này, chín, mười đứa chúng con lúc nào cũng chùm nhum bao quanh hai Ôn. Hai Ôn đứng thì cùng đứng, hai Ôn ngồi thì cùng ngồi, lúc ăn lúc ngủ, lúc giải trí, luôn luôn như vậy; mục đích là để che hai Ôn, làm cho “người ta” không thể nhìn thấy mặt hai Ôn. Hai Ôn ngầm cho lệnh, tất cả tăng ni cứ giữ thời khóa tu học hằng ngày, không bàn tán xôn xao, không tỏ cử chỉ náo động nào. Họ thấy nếp sống của chư tăng ni hàng ngày nghiêm trang, thanh tịnh, không có một hành động hay lời nói nào chống đối họ, thì họ cũng yên tâm, không dòm ngó soi mói, không hoạnh họe khắt khe, cứ để cho chư tăng ni tự do thực hiện thời khóa của mình.

Vào bót cảnh sát Rạch-cát là rạng sáng ngày 21.8, nhằm ngày Mồng 3 tháng Bảy âm lịch, đến ngày Rằm tháng 7 âm lịch (tức ngày 2.9 dương lịch) thì toàn thể tăng ni ở đây được thả về hết, tổng cộng thời gian ở tù là 13 ngày. Con còn nhớ, sau đêm 20 tháng 8, khi đã bắt giam hết chư tăng ni tranh đấu vào các trại giam, khai tử Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, chính quyền bèn cho ra đời một tổ chức Phật giáo thân chính quyền, được đặt tên là Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Thuần Túy, và thỉnh cầu Ôn Thiện Hòa làm chủ tịch của tổ chức mới này. Theo con nghĩ, có lẽ Ôn Thiện Hòa đã vì muốn cứu chư tăng ni ra khỏi cảnh tù tội mà phải nhận lời chính quyền làm chủ tịch Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Thuần Túy; rồi dùng cái “thế” của Ủy Ban này mà can thiệp với chính quyền để trả tự do cho chư Quí Ôn và chư tăng ni; và bước đầu tiên là thả chư tăng ni cấp dưới ở bót Rạch-cát này đây. Sáng hôm ấy, một đoàn xe “nhà binh” lại sắp hàng đậu dọc theo con lộ ở trước bót cảnh sát. Đám tù nhân tăng ni được lệnh tập trung ở sân đồn cảnh sát, hai Ôn vẫn được chúng con bao quanh khéo léo như những ngày qua. Rồi vài thầy đại diện cho Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Thuần Túy xuất hiện trước tù nhân, nhắn nhủ vài lời trước khi thông báo cho tù nhân biết, hôm nay ngày Rằm tháng Bảy âm lịch, chính phủ ân xá, thả hết tăng ni trở về chùa lo thuần túy tu học, đừng nghe theo lời xúi giục mà phá rối trị an nữa. Tiếp đó, mọi người về chỗ ngủ lấy tư trang của mình, rồi ra khỏi cổng, leo lên xe. Ôn Trí Quang leo lên một xe chở đầy chư tăng Nam-tông; Ôn lên một xe khác, có con và năm, sáu chú hầu chung quanh. Sau khi chư tăng ni lên xe hết, đoàn xe chuyển bánh, có bốn, năm xe cảnh sát dẫn đầu và chận đuôi. Lần đi về này mọi người được nhìn ngó phố phường thoải mái, chứ không giống như lần trước đi vô trại tù. Đoàn xe chạy về tới chùa Ấn-quang thì dừng lại. Chư tăng ni được lệnh xuống xe, nhưng phải vô chùa lãnh giấy “phóng thích” để trở về chùa mình cho được an toàn. Khi Ôn và chúng con vừa xuống xe, thừa lúc chộn rộn không ai để ý, chúng con gọi ngay một chiếc xe xích-lô đạp, Ôn lên ngồi thật lẹ, chúng con bảo xe chở Ôn chạy ngay. Thế là chúng con đành xa Ôn từ phút đó.  

Kính bạch Giác Linh Ôn! Cái phút xa Ôn đó, nó vội vàng quá, và cũng nguy hiểm quá! Ôn không kịp bảo được một lời là Ôn sẽ về đâu; mà con cũng không thưa được lời nào với Ôn về chuyện sắp tới sẽ ra sao. Chiếc xe xích-lô chở Ôn đã chạy vội vàng; như thế cũng yên tâm, con chỉ cầu Phật gia hộ, trên đường đi, Ôn không gặp điều gì trục trặc. Ôn Trí Quang cũng biến mất hút rồi, con cũng chỉ biết cầu Phật gia hộ. Con lững thững bước vào sân chùa Ấn-quang, sắp hàng lãnh cái giấy “phóng thích” do thầy Thiền Tâm trao, với lời nhắn nhủ: “Chính phủ khoan hồng cho rồi, trở về lo tu học thuần túy nghe, đừng có lộn xộn nữa!”

Con ra khỏi chùa Ấn-quang, kêu một chiếc xích-lô đi về Già-lam. Bước vào sân chùa thấy vắng hoe, chạy về căn phòng mình thì thấy cửa không còn ổ khóa, mở banh cửa ra thì... ôi thật là ảm đạm, bao nhiêu tài liệu sách vở của con bị mất sạch, chiếc bàn trống trơn! Bỗng một chú từ đâu chạy đến bên con, nói thật lẹ: “Tất cả đồ đạc của chú, mật vụ Gia-định lấy hết rồi.  Họ vào đây tìm bắt chú mấy lần, nhưng không có chú. Chú hãy chạy mau đi, không chừng họ sẽ trở lại nữa!” Thế là con tức tốc rời Già-lam ngay sau đó. Con sang chùa Phổ-đà, định xin thầy Từ Hạnh cho ở nhờ ít hôm, thì, quả thật không ngờ, con lại được gặp Ôn ở đó! Con mừng quá đỗi! Con xá chào Ôn. Ôn cũng mừng được gặp lại con. Con không biết Ôn ở luôn tại đó hay chỉ ở chơi tạm, nhưng hoàn cảnh của con hiện đang trong cơn khẩn cấp, thầy Từ Hạnh không cho ở nhờ, con không ở đó lâu được, đành nói vài lời cám ơn thầy Từ Hạnh, rồi con chào Ôn đi ra. Con đi thẳng ra ga xe lửa, lấy vé tàu suốt đi ra Nha-trang ngay chiều hôm ấy. Con nghĩ rằng, con thực sự xa Ôn từ hôm ấy!...

Nhưng không, kính bạch Giác Linh Ôn! Duyên lành của con vẫn còn dài...

Con chỉ ẩn náu ở Nha-trang một thời gian thì biến cố 1.11.1963 xảy ra, quân đội đảo chánh lật đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Qua đài phát thanh, con nghe được tiếng reo hò của quần chúng ở Sài-gòn, của hàng ngàn Phật tử, thanh niên sinh viên học sinh Phật tử và đoàn sinh Gia Đình Phật Tử được giải thoát khỏi ngục tù từng bị chế độ độc tài giam cầm trong thời gian tranh đấu vừa qua. Con nghe được tiếng Quí Ôn, Quí Thầy trả lời những câu hỏi của báo chí sau khi được thoát khỏi nơi giam cầm. Lòng con cũng nô nức vô cùng. Chờ một tuần cho tình hình ổn định, con trở vào lại Sài-gòn. Con lên chùa Ấn-quang chào Ôn. Con vô cùng xúc động được gặp lại Quí Ôn. Con biết Quí Ôn đang bận rộn chuẩn bị cho một đại hội sắp tới vào cuối tháng 12 dương lịch, tại chùa Xá-lợi, để thành lập một “Giáo hội thống nhất” cho Phật giáo Việt-nam. Như một nhân viên hành chánh chuyên nghiệp, Ôn lại bận rộn về công việc “hành chánh” cho đại hội này; và sau khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập vào tháng 1 năm 1964, Ôn lại được tôn cử vào chức vụ Tổng-thư-kí Viện Hóa Đạo của Giáo Hội. Còn con và các chú khác thì lúc ấy được hoàn toàn rảnh rang, bèn trở lại các trường để tiếp tục việc học tập; thỉnh thoảng lại lên chùa Ấn-quang (trụ sở của Viện Hóa Đạo) hầu thăm Quí Ôn.

Những tưởng như thế là con đã được yên ổn học hành, nhưng không, vài tháng sau khi nhân sự Viện Hóa Đạo được công cử hoàn mãn, Ôn Thiện Minh, Tổng-vụ-trưởng Tổng Vụ Thanh Niên Phật Tử, đã lập một cơ sở riêng cho Tổng Vụ ở đường Hiền-vương, Sài-gòn; và con đã được ngài gọi, giao cho nhiệm vụ Tổng-thư-kí để điều hành văn phòng Tổng Vụ. Ngài đã tin tưởng thì con phải vâng lời; thế là, trong thời gian ấy, con phải vừa làm việc vừa đi học. Và cũng vì công việc, trong thời gian ấy con lại thường được hầu Ôn qua các Phật sự liên hệ.

Mùa hè năm 1965, vì không có giấy tờ “hợp lệ quân dịch”, con phải chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, và được Ôn Tâm Giác (Giám-đốc Nha TUPG/ QLVNCH) đưa vào phục vụ trong ngành TUPG/QLVNCH. Từ đó, tuy vẫn là Phật sự, nhưng con đã chuyển qua một công tác mới, một thân phận mới, một môi trường mới, một đối tượng làm việc mới; con không còn dịp gặp Ôn thường xuyên nữa, mà thỉnh thoảng sáu tháng, một năm, con mới lên chùa chào Quí Ôn một lần.

Sau biến cố lớn của đất nước –30 tháng 4 năm 1975, con lên chùa Ấn-quang thăm Quí Ôn, thấy Ôn vẫn bình an; tuy vậy, con vẫn hiểu được nỗi lo âu cho vận mệnh Giáo Hội đang đè nặng tâm tư Ôn. Từ sau ngày 30.4 đó, Phật giáo bị đàn áp khắp nơi, bao nhiêu cơ sở của Giáo Hội trên khắp nước, dần dần bị nhà nước mới chiếm đoạt; biết bao nhiêu văn thư của Giáo Hội do Ôn (lúc này Ôn đã là Đệ Nhất Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo) và Ôn Quảng Độ (lúc này đã là Tổng Thư Kí Viện Hóa Đạo, cùng được tôn cử trong kì Đại Hội Đồng của Giáo Hội năm 1974) gửi cho nhà nước mới để khiếu nại, phản đối về những trường hợp như thế. Vì vậy, trong những năm 76, 77, chúng con thấy Ôn lúc nào cũng đeo cái túi xách vải lam bên mình. Hỏi Ôn đựng thứ gì trong đó, thì Ôn bảo chỉ có bộ quần áo, kem và bàn chải đánh răng, cùng vài thứ lặt vặt tùy thân cần yếu, cứ đeo sẵn đó, nhỡ có bị bắt thình lình thì có cái mà dùng. Ôn đã nhìn thấy con đường trước mặt, và luôn luôn tự đặt mình trong tình trạng sẵn sàng..., sẵn sàng đi ở tù bất cứ lúc nào! Quả nhiên, giữa năm 1977 thì Ôn bị bắt! Cuối năm sau Ôn được thả ra nhưng vẫn bị quản chế. Và từ đó, nếu không bị chính thức ở tù thì cũng bị quản thúc tại chùa, thời gian trải dài cho đến ngày Ôn viên tịch, ngày 5 tháng 7 năm 2008 – ròng rã hơn 30 năm!

Nhưng hãy trở về lại năm 1977. Tháng 4 năm đó, Ôn bị bắt cùng với  Ôn Quảng Độ, Ôn Thuyền Ấn v.v... Vào khoảng mùa thu năm sau, 1978, thì Ôn Thiện Minh bị bắt và bị tra tấn đánh đập dã man, chỉ một thời gian ngắn thì Ngài đã tử đạo ngay trong đồn công an; nhục thân ngài bị họ đem chôn vùi tận trại cải tạo Hàm-tân. Việc này tức khắc được đưa lên đài BBC, và bị dư luận thế giới lên án. Nhà nước muốn xoa dịu dư luận, bèn cho lập phiên tòa xử Quí Ôn vào cuối năm, dựng cái cớ để thả Quí Ôn về chùa. Về đến chùa, Ôn và Ôn Quảng Độ lại tiếp tục công việc Giáo Hội.

Mùa xuân năm 1979, nhà nước mới đã huy động các đoàn thể dân chúng, các tôn giáo, tập trung đi “công tác lao động xã hội chủ nghĩa”. Về các đoàn thể và tôn giáo khác thế nào thì con không được biết, riêng Phật giáo mình thì lấy chùa Ấn-quang làm địa điểm xuất phát. Buổi sáng hôm đó con lên chùa Ấn-quang để xin theo chư tăng đi lao động. Hơn ba trăm tăng ni (từ các chùa Ấn-quang, Huệ-nghiêm, Dược-sư, Từ-nghiêm, Huê-lâm) và mấy chục Phật tử đã tề tựu trước chùa. Con thấy Ôn đang điều động đại chúng, chia thành từng toán, lên các chiếc xe đò chờ sẵn; rồi đoàn xe khởi hành theo sự hướng dẫn của các “cán bộ Mặt Trận Tổ Quốc”. Đến trưa thì đoàn xe dừng lại nơi “công trường” Nhị-xuân rộng lớn ở Hốc-môn, là địa điểm công tác trong mười hai ngày sắp tới. Cả đại chúng được tạm trú trong một ngôi chùa gần đó, có thể hằng ngày đi bộ ra công trường làm việc rồi trở về chùa. Theo cán bộ cho biết, nhiệm vụ của đợt công tác này là “đắp các ụ đất cao để bộ đội đặt súng phòng không chống máy bay Trung-quốc”. Trong suốt thời gian lao động ấy, Ôn luôn luôn sát cánh với đại chúng, cùng chia sẻ ngọt bùi cực nhọc, làm cho mọi người lúc nào cũng cảm thấy an tâm, trong khó khăn mà tình thầy trò luôn luôn ấm áp. Trong suốt những ngày đó, dưới sự chỉ đạo của Ôn, đại chúng luôn luôn sống trong niềm vui hòa thuận, đội ngũ chỉnh tề, làm việc siêng năng, nhất là giờ giấc tu niệm khuya tối của tăng ni vẫn được duy trì đúng mức. Con còn nhớ, giữa thời gian lao động ấy gặp vào ngày Rằm âm lịch, Ôn cũng đã cho cử hành các lễ Sám-hối, Bố-tát, Tụng-giới, không khí trang nghiêm như đang ở một đạo tràng tu học. Nhờ sự hành trì ấy mà đại chúng, tuy vẫn làm việc, vẫn vui vẻ, nhưng phong thái luôn luôn nghiêm túc, không có điều gì khiếm khuyết trong oai nghi tế hạnh, khiến cho người ngoài không “dòm ngó” vào đâu được. Chúng con được biết, có nhóm “Phật Giáo Yêu Nước” cũng đang lao động ở một địa điểm lân cận, nhưng nghe nói, họ ăn uống thật là thiếu thốn, hình như không có ai tiếp tế cả; trong khi đó, bên này thì rau trái gạo tương được Phật tử tiếp tế dư thừa, cho nên Ôn thường cho Phật tử đem thực phẩm sang chia sớt cho họ. Chúng con thấy rất rõ, những người “yêu nước” lúc nào cũng dựa thế “cách mạng”, dương dương tự đắc, đầu đội mũ cối, mặt khó đăm đăm; nhưng Ôn thì luôn luôn đáp lại bằng từ bi độ lượng, thậm chí đến dụng cụ làm việc, Ôn cũng giúp đỡ cho họ. Rồi thời gian lao động cũng kết thúc, công tác hoàn mãn, thành quả được “đánh giá tốt”. Thầy trò hoan hỉ ra về... Buổi tối của ngày cuối cùng, Ôn cho nghỉ thời Tịnh Độ thường lệ, thay vào đó là buổi văn nghệ “bế mạc”. Đây là buổi văn nghệ hoàn toàn “tự phát”, mọi người đều có thể góp vui; các cán bộ cũng tham dự. Mặc dù vậy, Ôn vẫn nhắc nhở đại chúng một điều: Hãy tự tỉnh giác, không đi ra ngoài tinh thần đạo pháp! Con còn nhớ, buổi tối hôm ấy, con có trình Ôn nghe trước bài “kệ” của con, được Ôn cho phép đọc bài “kệ” ấy ở màn cuối để kết thúc chương trình văn nghệ. Bài kệ ấy như sau:

Đại từ đại bi chẳng muốn leo,

Đại hỉ đại xảgần chết,

Mặt mũi lấm lem tự trang nghiêm,

Ụ đã lên cao qui mạng lễ!

Chương trình văn nghệ chấm dứt, quí sư cô cho đại chúng ăn một bữa chè đậu đỏ thật ngon. Đêm đó mọi người đều ngủ thật ngon, khuya dậy công phu, rồi ăn sáng, những chiếc xe đò đã chờ sẵn sàng, đại chúng lên xe trở về Ấn-quang; rồi giải tán, ai về trú xứ nấy... Kính bạch Ôn, ở nơi này con gặp lại được hai vị cũng từng tham gia 12 ngày “lao động XHCN” khi xưa: thầy Minh Đạt và thầy Hạnh Cần. Thầy Minh Đạt lúc đó ở chung phòng với con, nay thầy đã là một vị Hòa-thượng thuộc hàng trưởng lão. Nhắc lại chuyện cũ lúc đó, lòng chúng con thật bùi ngùi nhớ Ôn!

Kính bạch Giác Linh Ôn! Mùa thu năm 1979, con có lần lên chùa Ấn-quang vào buổi chiều, leo lên tận sân thượng, được gặp Ôn cùng Ôn Trí Quang đang hóng mát trên đó. Con hỏi thăm Quí Ôn, thấy Quí Ôn vẫn phong thái an nhiên tự tại, đàm luận việc dịch Đại Tạng Kinh, lo cho tiền đồ của Phật giáo Việt-nam. Quí Ôn dạy con phải cố gắng giữ mình, không quên tâm đạo. Và đó là lần cuối cùng con gặp Ôn; vì sang năm sau thì con vượt biên, cho đến nay, trên một phần tư thế kỉ, con chưa một lần trở về thăm quê nhà...

Kính bạch Giác Linh Ôn! Đã ngót 30 năm, con chưa một lần gặp Ôn trở lại, nhưng trong suốt thời gian ở hải ngoại này, con vẫn theo dõi tất cả những tin tức về Ôn, lòng con vô cùng kính ngưỡng Ôn, một bậc tôn sư hùng vĩ, một vị Đại-sĩ của Phật giáo Việt-nam hiện đại!

Bao nhiêu năm tháng thân Ôn bị tù đày quản thúc, nhưng tâm Ôn vẫn tự tại an nhiên. Ôn đã biến nơi tù đày thành thiền duyệt thất, thành phòng tụng đọc Đại Tạng Kinh, soạn Khoa Nghi.

trong vòng vây đầy chông gai chướng ngại mà Ôn vẫn mạnh mẽ bước ra để đến tận cố đô Huế đảnh lễ kim quan đức Đệ Tam Tăng Thống, và uy dũng nhận lãnh ấn tín kế thừa.

Ở trong rừng nanh vuốt dạ xoa mà Ôn vẫn dõng dạc hét to tiếng gầm sư tử, nào “yêu sách 9 điểm”, nào “phục hoạt Giáo Hội”, nào “tự  do tôn giáo”, nào “đảng phải sám hối với toàn dân”, nào “hủy bỏ điều 4 hiến pháp”, nào “tự do dân chủ cho dân tộc”, v.v...

Ôn quả thật là bậc Đại-sĩ vô úy!

Ôn làm được những việc khó làm!

Ôn an nhẫn những điều khó nhẫn!

Ôn là tấm gương sáng tròn đầy!

Vậy mà, kính thưa Ôn! Ôn và Quí Ôn, Quí Thầy nhẫn nhục, từ bi cao cả như thế đó, mà thời ông Diệm thì họ bảo là Quí Ôn Quí Thầy theo cộng sản, họ bắt bỏ tù; sang thời cộng sản thì họ lại bảo Quí Ôn Quí Thầy là phản động, là CIA, họ cũng bắt bỏ tù! Cuộc đời sao mà oái oăm ngang trái quá lắm thế! Vô minh dầy đặc quá lắm thế!

Quí Ôn Quí Thầy là những vị Bồ-tát sinh ra đời này để chịu khổ thay cho chúng sinh, gánh hoạn nạn thay cho chúng sinh.

Con xin ngừng ở đây một phút để tưởng nhớ ân đức Quí Ôn Quí Thầy, dù đã viên tịch hay còn đang tại thế.

Con kính lạy Ôn, bậc Tôn Sư cao quí!

 

Hải ngoại, đầu mùa Vu Lan năm 2008

Đứa học trò bé nhỏ của Ôn,

Cư sĩ HẠNH CƠ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CẢM NIỆM của CỰU SQ/TUPG/QLVNCH

(đọc trong lễ Hiệp Kị ngành Tuyên Úy Phật Giáo QLVNCH,

được tổ chức tại chùa Phổ-đà, Santa Ana, California, ngày 22.11.2008)

 

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Kính bạch Đại Lão Hòa Thượng

Thích Tâm Châu, Thượng Thủ HPGVN Trên Thế Giới.

Kính bạch hiện tiền Chư Tôn

Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa,

Đại Đức Tăng Ni.

Kính thưa quí vị Tướng Lãnh, quí vị Sĩ Quan đại diện QNPT trong QLVNCH, cùng toàn thể quí vị Quan Khách.

 

Kính thưa Chư Tôn Đức,

Trước hết chúng con xin phép Chư Tôn Hòa Thượng được dâng vài lời cảm niệm lên Giác Linh chư vị Hòa Thượng Giám Đốc Nha TUPG/QLVNCH của chúng con, cùng Chư Tôn Đức sĩ quan TUPG pháp hữu của chúng con.

 

Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Giác Linh Hòa Thượng THÍCH TÂM GIÁC, Đệ Nhất Giám Đốc; Hòa Thượng THÍCH THANH LONG, Đệ Nhị Giám Đốc Nha TUPG;

Kính bạch Giác Linh chư Tôn Đức Sĩ Quan TUPG/ QLVNCH,

Chúng con rất xúc động được tề tựu đông đủ nơi ngôi đạo tràng Phổ-đà ngày hôm nay, trước linh vị của nhị vị Hòa Thượng cùng chư Tôn Đức, để cùng nhau dâng nén tâm hương, thành kính tưởng niệm Quí Ngài, nhân ngày lễ Hiệp Kị ngành TUPG/QLVNCH.

Kính bạch Giác Linh nhị vị Hòa Thượng Giám Đốc, cùng chư Tôn Đức Sĩ Quan TUPG.

Kể từ ngày nha TUPG được thành lập trong QLVNCH, dưới sự chỉ đạo nghiêm minhđức độ của Hòa Thượng Đệ Nhất Giám Đốc, và tiếp theoHòa Thượng Đệ Nhị Giám Đốc, tất cả các sĩ quan TUPG nói chung, đã có một đối tượng phục vụ đặc biệt, rõ ràng: đó là các quân nhân Phật tửgia đình của họ. Với nhiệm vụ hướng dẫn tinh thần, chăm sóc đời sống tâm linh cho quân nhân Phật tử (QNPT), các SQ/TUPG đã luôn luôn sát cánh với QNPT, từ hậu phương cho đến tiền tuyến, từ bộ Tổng Tham Mưu, các Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn ở các thành phố thị tứ cho đến các tiểu khu ở vùng biên địa hẻo lánh; cho nên, sự tử vong của một SQ/TUPG, vừa mang ý nghĩa “vì Nước bỏ mình”, lại vừa mang ý nghĩa “vì Đạo quên mình”! Trong hơn 10 năm phục vụ trong quân đội (1964-1975), đã từng có các SQ/ TUPG bị Việt-cộng chận đường bắt cóc và thủ tiêu mất tích; có 13 SQ/TUPG bị VC tập kích giết chết một lần tại trường Chiến Tranh Chính Trị Đà-lạt đầu năm 1970. Ngày đó, 13 chiếc quan tài được đưa về Nha TUPG, cố Hòa Thượng Đệ Nhất Giám Đốc đứng nhìn sững sờ, rồi vì quá xót thương, Ngài đã không dằn được cơn xúc động, liền bật khóc! Hình ảnh đó làm sao chúng con quên được! Rồi sau ngày 30.4.1975, một số SQ/TUPG khác bị hành hạ đến chết ngay trong các trại cải tạo của chính quyền CSVN, hoặc được thả về chùa nhưng sức đã kiệt nên viên tịch tại chùa.

Sau ngày 30.4.1975, các SQ/TUPG đã phải tan hàng rã ngũ theo số phận chung của toàn thể chiến sĩ quân lực VNCH. Có vài vị vượt biên ngay, nhưng hầu hết huynh đệ chúng con đều bị tù khổ sai trong các trại cải tạo của chính quyền CSVN. Sau mười mấy năm ở tù, những huynh đệ còn sống sót như chúng con được thả về, rồi tùy cơ duyên, và bằng cách này cách khác, chúng con được ra sống ở nước ngoài.

Kính bạch Giác Linh nhị vị Hòa Thượng Giám Đốc cùng chư Tôn Đức SQ/TUPG.

Đời sống ở nước ngoài cũng thật khó khăn vất vả. Chúng con vừa phải tận lực góp phần trong việc hoằng dương Chánh Pháp ở xứ người, vừa phải lo đời sống cho chính mình, lại vừa phải lo cho thế hệ tương lai; cho nên từ khi ra nước ngoài, tuy trong số anh em chúng con có người vẫn nhớ và tổ chức ngày kị giỗ hằng năm để tưởng niệm công đức sâu dầy của nhị vị Hòa Thượng, nhưng chưa có năm nào chúng con được có cơ hội họp mặt đông đủ trong ngày kị giỗ này. Mãi đến năm nay, 33 năm từ sau ngày 30.4.1975, chúng con mới có cơ duyên cùng nhau tụ hội về nơi đạo tràng chùa Phổ-đà ở miền Nam Cali này, trước là thành kính tưởng niệm ân đức dìu dắt chúng con trong bao nhiêu năm của nhị vị Hòa Thượng Giám Đốc; sau là kính cẩn nghiêng mình trước tinh thần dũng liệt hi sinhnhiệm vụ của chư Tôn Đức SQ/TUPG; sau nữa là, cũng nhân dịp họp mặt đông đủ này, chúng con sẽ nhắc nhớ những kỉ niệm ngày xưa cùng làm việc với nhau trong ngành, dưới sự chỉ đạo vừa kỉ luật nghiêm minh, lại vừa độ lượng đầy ắp đạo tình của nhị vị Hòa Thượng Giám Đốc. Chúng con cảm thấy ấm cúng biết bao nhiêu, ngày hôm nay, khi được cùng nhau ở nơi đây, đứng trước linh vị của nhị vị Hòa Thượng Giám Đốc và chư Tôn Đức SQ/TUPG; dị khẩu đồng từ, cùng nhau tụng lên lời kinh cầu nguyện; dị thân đồng tâm, cùng nhau dâng lên Quí Ngài lòng thành kính tưởng niệm của chúng con. Chúng con, những TUPG còn sống sót sau cơn đại nạn của Đạo Pháp và Dân Tộc vừa qua, xin nguyện noi gương nhị vị Hòa Thượng Giám Đốc, luôn đem tâm chân thật phụng sự Đạo Pháp, luôn trung thành với lí tưởng Tự Do Dân Tộc. Kính xin Giác Linh nhị vị Hòa Thượng Giám Đốc và chư Tôn Đức từ bi chứng giám.

 

Kính thưa chư hương linh chiến sĩ các cấp, các quân binh chủng QLVNCH.

Trong lễ tưởng niệm nhị vị Giám Đốc và chư Tôn Đức TUPG/QLVNCH hôm nay, chúng tôi cũng tưởng nhớ đến quí vị chiến sĩ nói chung, các quân nhân Phật tử nói riêng, ở mọi quân binh chủng QLVNCH, đã hi sinh đời mình cho sự an nguy của tổ-quốc, cho lí tưởng tự do của dân-tộc, cho đời sống an bình của đồng bào Việt-nam. Đại diện của các cấp tướng lãnh, các sĩ quan cao cấp của QLVNCH, ngày xưa đã từng trực tiếp hay gián tiếp chỉ huy Quí Vị, hôm nay cũng có mặt tại ngôi đạo tràng này để tưởng niệm và cầu nguyện cho Quí Vị. Chư Tôn Đức TUPG ngày xưa đã từng sát cánh bên Quí Vị để chăm sóc đời sống tâm linh cho bản thângia đình của Quí Vị, hôm nay vân tập nơi đây để tưởng niệm và cầu nguyện cho Quí Vị; nhất là sự quang lâm chứng minhcầu nguyện của Chư Tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni không thuộc ngành TUPG, là một ân đức đặc biệt của quí ngài đối với Quí Vị, nói lên lòng từ bi rộng lớn của quí ngài đối với Quí Vị. Xin cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho toàn thể chư hương linh chiến sĩ QLVNCH được về thế giới an lạc.

 

Kính bạch chư vị Hòa Thượng hiện tiền chứng minh.

Cái không khí trang nghiêm, thanh tịnhấm cúng mà chúng con, toàn thể cựu SQ/TUPG/QLVNCH, cảm nhận được ở nơi đây, vào lúc này, còn do sự hiện diện chứng minh của chư tôn Hòa Thượng, nhất là Đại Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Thượng Thủ GHPGVN Trên Thế Giới. Chúng con còn nhớ, năm 1964, với tư cách là Viện Trưởng Viện Hóa Đạo (vị Viện Trưởng đầu tiên) của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hòa Thượng đã kí Quyết Định cho thành lập ngành TUPG trong QLVNCH, và đã đề cử Thượng Tọa Thích Tâm Giác đảm nhiệm chức vụ Giám Đốc đầu tiên của Nha TUPG; rồi hôm nay, sau 45 năm, dù tuổi đã cao, sức đã mỏi, Hòa Thượng vẫn không ngại đường xa, từ thành phố Montréal, Canada, cách đây hơn 5.000 cây số, đã quang lâm đến đạo tràng này để chứng minh cho buổi lễ Hiệp Kị ngành TUPG/QLVNCH. Chúng con biết, ngày xưa, khi nhị vị Hòa Thượng Giám Đốc của chúng con còn tại thế, Hòa Thượng và nhị vị Hòa Thượng Giám Đốc của chúng con đã từng là pháp hữu của nhau, mối đạo tình của Quí Ngài thật đậm đà thân thiết. Cho đến hôm nay, dù nhị vị Hòa Thượng Giám Đốc của chúng con viên tịch đã lâu, mà mối đạo tình pháp hữu ấy vẫn còn in nét nguyên vẹn trong tâm khảm của Hòa Thượng; đối với các TUPG chúng con nói chung, Ngài cũng từng quan tâm giúp đỡ rất nhiều, cho nên giờ đây, khi chúng con vừa cung thỉnh, dù đang bận Phật sự bề bộn, Hòa Thượng cũng hoan hỉ nhận lời ngay.

Kính bạch Hòa Thượng Thượng Thủ,

Sự quang lâm chứng minh của Hòa Thượng ngày hôm nay, còn nói lên rằng, Hòa Thượng đã thương chúng con rất nhiều. Hòa Thượng vừa bảo bọc chúng con trong tinh thần liên đới trách nhiệm vì đã khai sinh ra ngành TUPG, vừa thương chúng con là những đứa con từ lâu đã mất đi bậc hiền phụ, đã mất đi ngôi nhà tự do êm ấm của Mẹ VN, nay đang sống lưu vong ở xứ người, chưa biết đến bao giờ mới được trở về lại quê hương yêu dấu! Bởi vậy, sự hiện diện của Hòa Thượng hôm nay càng làm cho chúng con cảm thấy được niềm an ủi vô cùng lớn lao. Hòa Thượng là tấm gương sáng hiếm hoi trong thời hiện đại với lòng tận tụy làm Phật sự không biết mệt mỏi; với trí tuệ cao vợi thấy rõ lẽ thật trong mọi điên đảo của thế gian; với ý chí sắt đá kiên trì lí tưởng tự do dân tộc; với tâm từ bi luôn luôn thương tưởng đến hàng hậu tấn; cho nên sự quang lâm của Hòa Thượng hôm nay đã khích lệ, đã sách tấn chúng con rất nhiều trong việc tu họcphụng sự Phật pháp. Chúng con thành kính khắc ghi ân đức của Hòa Thượng, kính mong Hòa Thượng từ bi chứng tri.

Kính bạch Chư Tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni. Trong sự quang lâm chứng minhcầu nguyện của Quí Ngài hôm nay, chúng con thực sự cảm nhận được, trước hết là tình đạo thắm thiết của Quí Ngài đối với Chư Tôn Đức TUPG đã vì nhiệm vụ mà bỏ mình, và sau nữa là tình thương của Quí Ngài đối với toàn thể các chiến sĩ QLVNCH nói chung, cũng như các QNPT nói riêng, đã vì nước mà hi sinh thân mạng. Chúng con xin tri ân Quí Ngài.

 

Kính thưa chư vị tướng lãnh, chư vị sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ QLVNCH hiện diện tham dự buổi lễ hôm nay.

Sự hiện diện của Quí Vị trong buổi lễ Hiệp Kị ngành TUPG/QLVNCH hôm nay thật làm cho chúng tôi vô cùng xúc động. Quí Vị đã đại diện cho tập thể QNPT trong QLVNCH mà đến đây, để cùng chúng tôi dâng nén tâm hương thành kính tưởng niệm nhị vị Giám Đốc Nha TUPG và chư Tôn Đức TUPG đã vì Quốc Gia và vì Đạo Pháp mà bỏ mình. Và Quí Vị có mặt hôm nay nơi đạo tràng này còn để tưởng niệm và cầu nguyện cho chiến sĩ các cấp QLVNCH đã hi sinhquốc gia dân tộc.

Kính thưa Quí Vị. Từ ngày Nha TUPG trong QLVNCH được thành lập, các QNPT đã thọ hưởng được nhiều lợi ích về phương diện tinh thần do các Thầy TU đem đến cho họ. Niệm Phật Đường có ngay trong đơn vị, các QNPT muốn đến lễ Phật, cầu nguyện, tụng kinh, đọc sách lúc nào cũng được. Thầy TU có mặt thường xuyên tại Niệm Phật Đường đơn vị, các QNPT muốn đến học giáo lí, hỏi đạo lúc nào cũng được. Gia đình các QNPT khi cần thiết xin các lễ cầu an cầu siêu, Thầy TU đều lo cho đầy đủ. Nói chung, vì có đông đảo QNPT trong quân lực mà ngành TUPG được thành lập, bởi vậy, mối liên hệ đạo tình giữa các Thầy TUPG và QNPT thật là gắn bó mật thiết. Các QNPT đã từng nhờ cơ duyên này mà được học hỏi giáo lí, nuôi lớn tâm từ bi, mở mang trí tuệ, hiểu đạo sâu sắc. Vì thấm nhuần Phật pháp mà sau cơn quốc biến 1975, cuộc đời đổi trắng thay đen, các QNPT đã nhìn những sự hưng phế, được thua, còn mất bằng con mắt đạo, biết đó chỉ là lẽ vô thường của vạn pháp. Chúng tôi biết, trải mấy chục năm qua từ khi mất nước, rất nhiều QNPT, vì hiểu lẽ vô thường mà dứt bỏ hết mọi tham vọng trần tục, dành hết thời gian còn lại của cuộc đời để tu học Phật pháp, trưởng dưỡng thiện tâm; thậm chí có nhiều vị còn bỏ phần lớn thì giờ, khả năng và phương tiện riêng tư để làm Phật sự, phụng sự Đạo Pháp. Và sự có mặt tham dự buổi lễ hôm nay của Quí Vị đại diện cho tập thể QNPT, đã nói lên sợi dây gắn bó thân thương giữa TUPG và QNPT trong tình Nước, tình Đạo, vẫn còn bền chắc trong tâm tư của người QNPT/QLVNCH. Chúng tôicảm tưởng như hôm nay chúng ta được hội ngộ sau bao nhiêu năm lưu lạc mỗi người mỗi nẻo nơi xứ người! Xin cám ơn sự quang lâm của Quí Vị.

 

Kính thưa chư Tôn Đức cùng chư huynh đệ cựu TUPG/QLVNCH có mặt hôm nay.

Sau 33 năm tan hàng rã ngũ, huynh đệ chúng ta kẻ còn người mất, người mất thì đã yên phận, kẻ còn thì lưu lạc bốn phương. Thật là xúc động biết bao nhiêu, những kẻ sống sót chúng ta ngày hôm nay được tụ hội đông đủ nơi ngôi đạo tràng Phổ-đà này để thiết lễ Hiệp Kị tưởng niệm hai Thầy Giám Đốc cùng bao nhiêu huynh đệ của chúng ta đã vì nhiệm vụ thiêng liênghi sinh thân mạng! Đã mấy mươi năm sống đời tị nạn, đây mới là lần đầu tiên chúng ta họp mặt đông đủ, và lễ Hiệp Kị được tổ chức trang nghiêm, trọng thể như thế này! Từ bốn tháng trước đây, khi nghe tin chư Tôn Đức và quí huynh đệ có sáng kiến tổ chức lễ Hiệp Kị trang trọng này và kêu gọi huynh đệ khắp nơi về tham dự đông đủ, tất cả các huynh đệ đã vô cùng hoan hỉ, mong thời gian trôi nhanh hơn, cho mau tới ngày Lễ!

Kính thưa chư Tôn Đức và chư huynh đệ, kể từ ngày ngành TUPG được thành lập trong QLVNCH, dưới sự lãnh đạo của hai Thầy Giám Đốc, các TUPG chúng ta đã làm được nhiều việc giúp ích cho đời sống tâm linh của QNPT ở khắp mọi đơn vị quân binh chủng. Không những chúng ta đã thực hiện các nghiệp vụ chuyên môn trong chức năng một tu sĩ Phật giáo trong quân đội, mà chúng ta còn tham gia nhiều công tác liên hệ thuộc các ban ngành khác, nhất là về báo chí, phát thanh và từ thiện xã hội. Từ khi có vị TUPG với ngôi Niệm Phật Đường ngay trong đơn vị, các QNPT mới thực sự có được chỗ dựa vững vàng cho tinh thần, những âu lo trong đời sống quân ngũ của họ giảm bớt dần, niềm tin Phật của họ được củng cố, gia đình của họ được an vui hơn...; họ đã phấn khởi rất nhiều trong trách nhiệm phục vụ Đất Nước. Chính đối phương cũng nhìn thấy rõ những hiệu quả này của các TUPG, cho nên, trong các trại tù cải tạo, các cán bộ CSVN đều có chung một câu kết tội chúng ta rằng: “TUPG tức là CIA!”

Kính thưa chư Tôn Đức và chư huynh đệ. Tất cả chúng ta đã làm tròn mọi trách nhiệm do Giáo Hội và Quân Đội giao phó. Chúng ta ở tù khổ sai trong trại cải tạo CSVN cũng là một cách làm tròn trách nhiệm. Quí Thầy Giám Đốc của chúng ta, chư Tôn Đức huynh đệ của chúng ta đã viên tịch, dù trong hoàn cảnh nào, cũng là một cách hoàn thành trách nhiệm. Dù chúng ta đã hoàn thành trách nhiệm, nhưng đó mới chỉ là những trách nhiệm về trước; còn những trách nhiệm hiện tạimai sau nữa. Nếu quyết đem tâm chân thành phụng sự Đạo Pháp, phục vụ chúng sinh, thì ai trong chúng ta cũng đều thấy rõ những trách nhiệm ấy đang nặng trĩu trên thân tâm mình. Hôm nay chúng ta họp mặt đông đủ nơi đây, trước hết là chân thành dâng nén tâm hương tưởng niệm và tri ân hai Thầy Giám Đốc của chúng ta, cùng thương tiếc nhớ tưởng hình bóng và những kỉ niệm đồng lao cộng khổ của chư huynh đệ chúng ta đã nằm xuống, cũng như cầu nguyện cho hương linh các chiến sĩ QLVNCH đã vì nước bỏ mình; sau đó chúng ta nhân dịp này ngồi lại bên nhau, hàn huyên tâm sự trong đạo tình sâu đậm mà chúng ta vẫn giữ cho nhau từ bao năm xa cách. Chúng ta hãy cùng hứa với nhau, ngày nào còn được chút sức tàn, ngày đó chúng ta vẫn tinh tấn tu tập theo lời dạy giản dị nhất của đức Phật: “Chư ác mạc tác; chúng thiện phụng hành; tự tịnh kì ý; thị chư Phật giáo.”

 

Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát

Ma Ha Tát

 

Chúng con kính lễ Giác Linh nhị vị Hòa Thượng Giám Đốc Nha TUPG cùng Chư Tôn Đức TUPG,

Chúng con kính lễtri ân hiện tiền Chư Tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni,

Chân thành biết ơn quí vị Tướng Lãnh và toàn thể quí vị Quan Khách,

Trân trọng kính chào toàn thể Quí Liệt Vị.

 

Chùa Phổ-đà, Santa Ana, Calfornia,

ngày 22 tháng 11 năm 2008

Toàn thể cựu SQ/TUPG/QLVNCH đồng kính bái

 

(Hạnh Cơ sọan)

 ĐIẾU VĂN

Kính dâng Giác Linh Đại Lão Hòa Thượng THÍCH THUYỀN ẤN

 

 

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư

A Di Đà Phật.

Nam Mô Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ

Chứng Minh Sư Tôn Giả

THÍCH THUYỀN ẤN

Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh.

 

Kính bạch Giác Linh Hòa Thượng,

 

“Xuân sương hiểu lộ, thúc hốt tức vô;

Ngạn thọ tỉnh đằng, khởi năng trường cửu.”!

Hòa Thượng đã thuận thế vô thường,

Bỏ nơi huyễn mộng để về miền tịch tĩnh.

Giáo Hội bàng hoàng xúc động, vì mất đi một bậc chân tu;

Tăng Ni, Thiện Tín bơ vơ, vì vắng bóng bậc thầy nương tựa.

 

Nhớ thuở xưa:

Nơi vùng đất địa linh nhân kiệt Quảng-bình,

Hòa Thượng đã hiện thân Đại Sĩ.

Nương gió từ, không nhiễm hồng trần,

Tuổi ấu niên, đồng chân nhập đạo.

Tuổi trưởng thành, đăng đàn thọ cụ,

Giới thân tuệ mạng trang nghiêm,

Kinh Luận nghiên tầm,

Thiền lâm hoa nở.

 

Nhưng rồi:

Cuộc thế biến thiên,

Sóng dữ thét gào tàn hại;

Vừa gặp lúc Bổn Sư thị tịch,

Một chín năm ba,

Hòa thượng từ quê hương linh kiệt,

Chuyển bước xuôi Nam,

Dừng chân miền cát trắng Nha-trang,

Trụ tích Tăng Học Đường (chùa Long-sơn – Tỉnh Hội),

Sau đó, cả Phật Học Viện Trung Phần (chùa Hải Đức),

Vừa là vị giáo thọ tài đức vẹn toàn,

Vừa là bậc giảng sư biện tài vô ngại.

Một lòng vì Phật Pháp tuyên dương,

Khai tuệ nhãn cho hàng hậu học.

Đã thâm nhập biển sâu Kinh Tạng,

Hòa Thượng còn trau dồi học thuật thế nhân,

Thể theo nghĩa khế lí, khế cơ,

Thêm phương tiện hoằng dương Phật Pháp.

Được bao nhiêu thì giờ rảnh rỗi,

Đều dùng vào việc học hành,

Trung học, đại học, hậu đại học, đều xong,

Cả nội, ngoại điển, trong ngoài hoàn bị.

Trí tuệ rỗng suốt,

Đạo tâm vững vàng.

 

Không những thế:

Hòa Thượng còn là nhà phiên dịch,

Sáng tác nhiều vần thơ sáng ngời tâm đạo,

Góp phần điểm tô nền văn học muôn màu của Phật giáo Việt-nam.

 

Còn nữa:

Pháp cổ ngày càng rền vang để trấn nhiếp ma quân,

Phật sự càng cần nhiều cao tăng gánh gồng trọng nhiệm.

Cho nên Hòa Thượng:

Có lúc nhậm chức Hội Trưởng Phật Giáo Thừa Thiên - Huế,

Có lúc thụ mệnh Tăng sai hoằng pháp chốn Tây-nguyên,

Có lúc về trụ tích tổ đình Ấn Quang,

Đem sở học phục vụ Viện Đại Học Vạn Hạnh.

 

Và kiên cường thay:

Sau tháng Tư, Một Chín Bảy Lăm,

Chế độ Tự Do Miền Nam sụp đổ,

Chế độ Độc Tài Miền Bắc cầm quyền,

GHPGVNTN trở thành cái gai của ác đảng,

Vậy mà Hòa Thượng một dạ can trường,

Vẫn vững chân trong Viện Hóa Đạo,

Thụ nhiệm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp;

Để rồi nửa năm sau,

Trong một đêm tăm tối,

Cùng với Chư Tôn Giáo Phẩm,

Ngài bị Nhà Nước Mới bắt giam tù!

Thế là, vì vận nước đổi thay,

Mà Ngài trở thành tội nhân thời cuộc!

Tội gì? – Tội trung trinh kiên trì lập trường Giáo Hội!

Lỗi gì? – Lỗi không a tòng xu phụ thế quyền!

Âu cũng là thế sự đảo điên,

Ác đảng hoành hành, bày lắm trò thương luân bại lí.

Mãn hạn tù với bao lời hù dọa,

Ngài về chùa vẫn bền giữ lập trường,

Ma đạo, Ngài không qui hàng,

Tiếp tục trung thành GHPGVNTN.

 

Lành thay:

Bỉ vận cũng đến hồi thay đổi,

Đầu thập niên chín mươi,

Gặp cơ duyên, Hoà Thượng nhập cảnh Hoa-kỳ.

Từ đây, như cánh buồm thuận gió,

Nhịp nhàng cùng chư Tôn Đức Tăng Ni,

Lèo lái con thuyền Giáo Hội.

Không quản ngại tuổi già sức yếu,

Hòa Thượng luôn đứng cạnh đệ huynh,

Nào trong Hội Đồng Chứng Minh của GHPGVNTNHN Hoa-Kỳ,

Nào trong Hội Đồng Trưởng Lão Viện Tăng Thống GHPGVNTN,

Nào giai vị Chứng Minh cho GHPGVNTNHK.

 

Thế rồi hôm nay:

 

Kính bạch Giác Linh Hòa Thượng,

 

Tuy tinh thần Ngài vẫn cứng cỏi,

Vẫn bền chí vì Đạo dấn thân,

Nhưng thân xác đã đến lúc hao mòn,

Tứ đại đã đến hồi “vi bội”.

Bởi thế mà

“Vô thường lão bệnh bất dữ nhân kì.”,

Ngài cũng thuận lẽ tử sinh,

Xả bỏ nhục thân uế giả,

Về với chân thân tịnh thường.

 

Giữa thời Mạt Pháp nhiễu nhương,

Rừng Thiền thưa dần long tượng,

Hòa Thượng lại ra đi,

Làm cho Giáo Hội mất đi một bậc Giáo Phẩm trung kiên!

Tăng Đoàn mất đi một cây đại thọ!

Tăng Ni và tín chúng mất đi một vị đạo sư quí kính!

 

Hôm nay:

Hòa Thượng hóa duyên cõi Ta-bà đã mãn,

Tự tại vân du trong pháp giới vô biên,

Nhưng xin nhớ tới thề nguyện xưa,

“Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập,

Như nhất chúng sinh vị thành Phật,

Chung bất ư thử thủ nê hoàn.”

Để vẹn toàn “tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn”.

 

Giờ đây:

Trước Giác Linh Hòa Thượng,

Toàn thể Tăng tín đồ Phật giáo Việt nam tại Hoa-kỳ và khắp hải ngoại, đồng thành tâm cúi đầu đảnh lễ, cung tiễn Giác Linh Hòa Thượng về cõi Thường Tịch.

 

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông tứ thập nhất thế,

húy Nhật Liên, tự Thiện Giải, hiệu Thuyền Ấn

Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh

Liên Tòa chứng giám.

 

 

 (Hạnh Cơ sọan,

Calgary, ngày 1.11.2010)

 

 

ĐIẾU VĂN

Kính dâng Giác Linh Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH HẠNH ĐẠO

 

 

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư

A Di Đà Phật.

Nam Mô Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ

Chứng Minh Sư THÍCH HẠNH ĐẠO

Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh.

 

Kính bạch Giác Linh Hòa Thượng,

Vậy là Ngài đã bỏ lại báo thân ở cõi Ta-bà mà thác hóa về Thượng Thượng Phẩm Liên Đài nơi thế giới Cực-lạc.

Trước khi cung tiễn Ngài về cõi Phật, chúng con, toàn thể cựu SQ/TUPG/ QLVNCH, kính trình bạch đôi lời tưởng niệm dâng lên Hòa Thượng:

Kính bạch Giác Linh Hòa Thượng,

“Xuân sương hiểu lộ, thúc hốt tức vô;

Ngạn thọ tỉnh đằng, khởi năng trường cửu.”!

Hòa Thượng đã thuận thế vô thường,

Bỏ nơi huyễn mộng để về miền tịch tĩnh.

Giáo Hội bàng hoàng xúc động, vì mất đi bậc giáo phẩm kiên cường;

Gia đình Tuyên Úy bơ vơ, vì vắng bóng vị trưởng niên trí dũng.

 

Nhớ thuở xưa:

Nơi vùng đất linh kiệt Quảng-nam,

Hòa Thượng đã hiện thân Đại Sĩ.

Nương gió từ vào cửa Phúc-lâm,

Thuở ấu niên đồng chân nhập đạo.

Tuổi trưởng thành, đăng đàn thọ cụ,

Giới thân huệ mạng trang nghiêm,

Kinh Luật Luận tinh tấn nghiên tầm,

Dòng Chúc Thánh thiền lâm hoa nở.

 

Nhưng rồi:

Cuộc thế nhiễu nhương,

Đất Nước chia đôi,

Binh qua tàn khốc.

Giặc Bắc tung hoành giết chóc,

Quân Nam vì nước quên mình.

Thống khổ ngập trời,

Đau thương khắp nẻo!

Vào năm Một Chín Sáu Bốn,

Vừa lúc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

Thành lập ngành Tuyên Úy Phật Giáo,

Hòa thượng ứng thời gia nhập,

Vận dụng từ bi trí dũng

Nâng cao tinh thần các cấp quân nhân,

Chiến sĩ tiền tuyến cùng gia đình hậu phương,

Một lòng giữ gìn Giang Sơn Tổ Quốc.

Trải khắp bước chân thượng hoằng hạ hóa,

Ngài không trụ tích dài lâu một trú xứ nào.

Khi thì thực hiện giáo vụ ở các Quân Đoàn,

Khi thì phục vụ thương binh tại các Quân Y Viện.

Binh sĩ gội nhuần đức hóa,

Sĩ quan tướng lãnh ghi ân.

Pháp cổ ngày càng rền vang để trấn nhiếp ma quân,

Phật sự càng cần nhiều cao tăng ứng phó.

Cho nên Hòa Thượng:

Có lúc phải song hành gánh vác công việc Giáo Hội:

Nào Tổng Thư Kí GHPGVNTN Quảng- Nam,

Nào Phó Đại Diện GHPGVNTN Đà- Nẵng.

Vừa là bậc giảng sư hùng biện,

Vừa là vị giáo thọ tài đức vẹn toàn,

Dạy ngoại điển cho học sinh trung học Bồ Đề,

Lại dạy nội điển cho tăng sinh Phật Học Viện,

Hoàn thành viên mãn

Việc Đạo việc Đời.

 

Ôi kiên cường thay:

Sau tháng Tư, Một Chín Bảy Lăm,

Chế độ Tự Do Miền Nam sụp đổ,

Chế độ Độc Tài Miền Bắc cầm quyền,

Nhân dân Miền Nam trở thành kẻ thù của tân chế độ.

Cùng số phận với hàng trăm ngàn quân cán chính,

Hòa Thượngtoàn thể Tuyên Úy Phật Giáo,

Bị Nhà Nước Mới bắt cầm tù,

Đày đi khổ sai ở các trại tập trung

Tận các miền sơn cước xa xôi đầy sơn lam chướng khí!

Thế là, vì vận nước đổi thay,

Hòa Thượng cùng với anh em Tuyên Úy,

Đã trở thành tội nhân thời cuộc!

Âu cũng là thế sự đảo điên,

Ác đảng hoành hành, bày lắm trò bạo tàn thảm khốc!

Một chín tám lăm Ngài được thả về,

Ra khỏi trại tù với bao lời hù dọa.

Mười năm tẩy não thần sầu độc ác,

Hòa Thượng về chùa vẫn bền giữ lập trường,

Ma đạo, Ngài không qui hàng,

Tiếp tục trung thành với lí tưởng Đạo Pháp – Dân Tộc!

 

lành thay:

Bỉ vận cũng đến hồi thay đổi,

Năm Một Chín Chín Ba,

Gặp cơ duyên thích hợp, Hoà Thượng nhập cảnh Hoa-kì.

Từ đây, như cánh buồm thuận gió,

Nhịp nhàng cùng chư Tôn Đức Tăng Ni,

Lèo lái con thuyền Giáo Hội.

Không quản ngại tuổi cao bệnh yếu,

Hòa Thượng luôn đứng cạnh đệ huynh,

Nào làm giảng sư và là thành viên Hội Đồng Chứng Minh của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa-kì;

Nào khai sơntrú trì chùa Phổ-đà ở thành phố Santa Ana, hướng dẫn tu học và chăm sóc đời sống tâm linh cho Phật tử;

Nào sát cánh với Chư Tôn Đức miền Nam Ca-li trong mọi Phật sự quan trọng của cộng đồng Phật Giáo Việt Nam Miền Nam Ca-li;

Nào làm thành viên Hội Đồng Chứng Minh của GHPGVNTN Hoa-kì;

.......

 

Thế rồi hôm nay:

Kính bạch Giác Linh Hòa Thượng,

Tuy tinh thần Ngài vẫn cứng cỏi,

Vẫn bền chí vì Đạo dấn thân,

Nhưng với tám mươi năm thế thọ,

Thân xác đã đến lúc hao mòn,

Tứ đại đã đến hồi “vi bội”.

Bởi thế mà

“Vô thường lão bệnh bất dữ nhân kì.”,

Ngài cũng thuận lẽ tử sinh,

Xả bỏ nhục thân uế giả,

Về với chân thân tịnh thường.

Giữa thời Mạt Pháp nhiễu nhương,

Rừng Thiền thưa dần long tượng,

Hòa Thượng lại ra đi,

Làm cho Giáo Hội mất đi một bậc Giáo Phẩm tài đức kiêm toàn!

Tăng Đoàn mất đi một cây đại thọ!

Tăng Ni và tín chúng mất đi một vị đạo sư quí kính!

Anh em TUPG mất đi bậc trưởng huynh kiên cường!

 

Hôm nay:

Hòa Thượng hóa duyên cõi Ta-bà đã mãn,

Tự tại vân du trong pháp giới vô biên,

Nhưng xin nhớ tới thề nguyện xưa,

“Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập,

Như nhất chúng sinh vị thành Phật,

Chung bất ư thử thủ nê hoàn.”

Để vẹn toàn “tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn”.

 

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông tứ thập nhị thế,

húy Thị Uẩn, tự Hạnh Đạo, hiệu Thuần Phong,

Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh,

Liên Tòa chứng giám.

 

 

(Hạnh Cơ sọan,

Calgary, ngày 30.7.2011)

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
20/10/2018(Xem: 6719)
23/09/2020(Xem: 3748)
18/09/2016(Xem: 11687)
14/08/2017(Xem: 6949)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.