PHÁP MÔN ĐẠI LẠC (Mahāsukha)
Vũ Thế Ngọc
(TRÍCH SÁCH TRIÊT HỌC PHẬT GIÁO: THẬP ĐẠI TÔNG MÔN)
Nhìn kỹ nhục kế (uṣṇīṣa) trên đầu bức tượng
Pháp điển Đại Lạc (Mahāsukha) là một thí dụ cho thấy ảnh hưởng to lớn có dấu ấn quyết định của Bà La Môn giáo trong việc hành trì Mật giáo. Đại Lạc là một pháp môn Mật giáo nằm trong bộ Tantra Thứ Tư “Vô Thượng Du Già” (anuttara-yoga-tantra) chưa được truyền đến Trung Hoa hay Nhật bản mà chỉ thấy trong Kim Cương Thừa của Mật giáo Tây Tạng. Pháp môn Đại Lạc là một đề tài tế nhị và thường gây nhiều ngộ nhận, cho nên tôi thấy cần phải giải thích khá dài dòng ở đây. Chủ đề tính dục của Mahāsukha có vị trí khác với bất cứ triết thuyết và tôn giáo khác đã được nói đến trong Sahajayāna (Hán dịch là Câu Sinh Khởi Thừa 俱生起) là giai đoạn cuối cùng của Mật tông Ấn Độ đưa tư tưởng Mật giáo đến sự thực hành tính giao (sex-yogic practice) mà học giới gọi là Yab-Yum yoga (mà một số học giới Tây phương sai lầm khi gọi là Yab-Yum Buddhism). Ngày nay Yab-Yum Yoga được phổ biến rất rộng. Tại các thành phố lớn ở Âu Mỹ hầu như đều có các câu lạc bộ Yab-Yum Yoga hoạt động song song với các câu lạc bộ Hatha Yoga.
Đầu tiên phép tập Yoga của Bà La Môn Ấn Độ có Yab-Yum Yoga mang tên này với nghĩa “Yab/father-Yum/mother” y hệt hình ảnh “âm dương” ở Trung Hoa. Chỉ có khác là thay vì hình ảnh Âm Dương thì bây giờ là ảnh tượng nam nữ trần truồng ôm nhau trong tư thế giao hoan. Đây là hình tượng thường thường thấy khắp nơi có Mật giáo Ấn Độ hay Kim Cương Thừa ở
Đầu tiên trên lý thuyết, Yab-Yum Yoga cũng không liên hệ với sinh hoạt tính dục và mục đích khoái cảm nhục dục cũng không liên quan nhiều đến Mật giáo thời nguyên thủy. Hiểu một cách đơn giản, trong Yab-Yum Yoga năng lực nữ giới và nam giới chỉ được thực hành của một người mà thôi (trong mỗi người đều mang một phần nam và một phần nữ) trong sức quán tưởng như một sức mạnh tinh thần hợp nhất siêu việt.[1] Yab-Yum chỉ tiến tới hình tướng giao cấu giữa hai người nam nữ trong một số truyền thống riêng của giáo phái Shakti. Còn trong Mật giáo Ấn Độ thì điều kiện tiên quyết vẫn là đòi hỏi tín tâm hành trì giáo lý vô ngã, đi liền với mức độ thấu suốt tinh thần vô ái (atanhā).
Cho nên trong lý thuyết này nếu chúng ta có ý tưởng “thiền hai người” hay cái nhìn thấy “hai thân thể thể nam nữ” qua hình tượng tranh vẽ hay hình tượng hai thân hình nam nữ giao hoan thì đã dễ đi đến cái sai lầm là chỉ thấy giáo lý Yab-Yum chỉ là giao cảm nhục dục. Tôi thấy tất cả các tác giả viết sách về Yab-Yum Yoga cũng không hề hiểu biết tại sao hình ảnh “nam nhân” trong bức tượng này đều được vẽ khắc theo hình tướng là một vị Phật hay với biểu trưng bằng hình ảnh nhục kế “uṣṇīṣa” trên đầu (chỉ có Phật mới được vẽ tạc với nhục kế (trừ hình tượng ngài Long Thọ (Nagajurna) – Chúng ta nên biết khi dùng hình tướng Phật hay Đại Bồ Tác ở đây là đều nhằm chỉ ý vô ngã, vô ái, vô dục, vô trụ - Cho nên việc dùng hình tượng nam nhân dưới hình ảnh Phật với nhục kế (uṣṇīṣa) trên đỉnh đầu biểu tượng cho trí tuệ viên mãn mà chúng ta chỉ thấy trong ảnh tượng Đức Phật. Vì vậy trong chính hình tượng này cho thấy bọn phàm nhân muốn “hành trì nam nữ tính dục” chính những người mà ngày trước tổ Long Thọ đã nói là “bọn bắt rắn độc bằng tay không”. Rất tiếc là phong trào Yab-Yum Yoga tiếp tục được phổ biến vì cả từ hai phía, các “thiền sư đạo sư” thời thượng và phía “tín đồ thuần thành”
Tại các quốc gia có hành trì pháp môn Đại Lạc như Tây Tạng,
Xin nhắc lại lý do thứ hai quan trọng hơn, hình tướng nam nhân trong hình tượng Yab-Yum sở dĩ lấy hình ảnh vị Phật (với rõ ràng nhục kế uṣṇīṣa) có nghĩa là chỉ có các bậc “đại tăng” đầy đủ giới định huệ mới có thể hành thực hành môn này mà thôi. Pháp môn Đại Lạc không thể để cho thành phần “tiểu tăng thành phố” thiếu giới định huệ mà thực hành. Rất tiếc ý nghĩa quan trọng này không được đại đa số hành giả thực hành pháp môn Đại Lạc biết. Cho nên từ ý nghĩa “một người” xuống cấp thành “hai người nam nữ” đã gây ra hậu quả là đại đa số các Lạt Ma Tây Tạng lạm dụng pháp môn Đại Lạc đều đọa lạc.[4] Cũng nên nhắc lại ở đây tôi chỉ nói về những người hành trì nhưng hành trì sai lầm, mà không thảo luận về loại người bại hoại giả mạo danh xưng “thiền sư và đạo sư” lợi dụng tôn giáo.
Trong tư tưởng Ba La Môn, Mahāsukha dùng tính dục vốn là một sức lực mạnh nhất trong sinh hoạt của con người, lột trần con người như một thực tại trần trụi vốn là hình tướng cụ thể nhất. Để từ đó phát huy tư tưởng khả năng chuyển hóa ái dục để thăng hoa đến một sự hiệp nhất giữa cái linh hồn bản ngã nhỏ bé của con người (ātman) với Đại Ngã (Brahma) – Con người hợp nhất với thực tại vũ trụ của Bà La Môn trong giáo pháp “Phạm ngã nhất như” (brahma-ātma-aikyam) – Nên Mahāsukha có nghĩa là “lạc thú vĩ đại” (mahā - sukha) khi hành giả thống hợp được sinh thực nam (linga) nữ (yoni) thì ví như trong Đạo học Trung Hoa gọi là “âm dương hợp thái, thiên nhân hợp nhất”.
Đến đây chúng ta cần phải hiểu việc thờ phụng “sinh thực khí” (phallic worship)[5] chỉ là một hình thức tín ngưỡng tối cổ không riêng ở Ấn Độ mà từng xuất hiện trong tất cả các nền văn hóa đông tây. Con người sơ khai khi có bắt đầu ý thức về nguồn gốc của vũ trụ là suy từ sự sinh sản của người ta. Vì vậy khi con người bắt đầu có ý thức tìm hiểu nguồn gốc vũ trụ và vạn vật thì họ thấy đó giống như sự sinh sản do hai giống đực cái hợp lại mà thành. Đó là ý thức đầu tiên của con người suy đoán về nguồn gốc vũ trụ và nguyên lý sinh thành của vạn vật. Trong cái nhìn đơn sơ và thuần khiết của con người thời thái cổ thì nguồn gốc thiên nhiên vũ trụ cũng giống như sự phối hợp nam nữ sinh con đẻ cái. Và cuối cùng là tiến đến hình tượng về sinh thực nam (linga) và nữ (yoni) tượng trưng cho sinh lực của trời đất. Tục thờ sinh thực thành hình từ đây và có mặt trong các nền văn hóa lớn như Ấn Độ, Trung Hoa hay La Hy mà chúng ta thấy chúng hiện diện trong hầu hết xã hội đông tây.[6]
Lịch sử đông tây cổ đều có lý thuyết về nguồn cội nhân loại và vũ trụ như thế. Khảo cổ học đã khai quật nhiều ảnh tượng thờ sinh thực khí tại nhiều di chỉ khảo cổ khắp thế giới. Nhờ thần thoại Hy Lạp nên chúng ta tìm được nhiều tượng cổ về thần Priapus, thần của sinh thực mùa màng cũng là hình tượng “phallus” (linga). Ngày nay trong lễ hội hàng năm ở Tyrnavos của Hy Lạp cũng là lễ hội “Phallus festival”. Việt
Ngay xã hội Trung Hoa, một xã hội sớm đi vào đạo đức và nghi lễ cứng rắn từ thời Khổng Tử (551-479 trước Dương lịch) thì tiềm ẩn làm cơ bản của văn hóa Trung Hoa cũng vẫn là thuyết Âm Dương. Âm Dương là hai nguyên tố cơ bản của Kinh Dịch vốn là một đại tác phẩm của các vị tiên hiền Trung Hoa khảo sát về vũ trụ và nhân sinh (một dạng bản thể học ontology cổ điển). Trí thức Trung Hoa từ các nhà Nho học như Khổng Tử cho đến các phương sĩ đạo học đều coi kinh Dịch là căn bản cho vũ trụ nhân sinh quan của họ. Hình ảnh căn bản của thuyết Âm Dương trong kinh Dịch thì cũng chính là con rồng đực tượng hình của Càn (乾 trời, nam tính, hào dương -) và con ngựa cái hình tượng của Khôn (坤 đất, nữ tính, hào âm --) trong tư tưởng căn bản Càn Khôn là thiên địa giao nhau mà tạo thành “âm dương” phối hợp nhau mà sinh trời đất (nhất âm nhất dương chi vị đạo). Trung Hoa có thuyết Âm Dương qua hai quẻ Càn Khôn nguyên thủy cũng là tượng trưng của sinh thực khí nam nữ, mà Hệ Từ Hạ Truyện[7] giải thích rõ “Càn là dương vật; khôn là âm vật. Sự hợp nhau của âm dương thì sinh ra thể cương nhu, là sự lựa chọn của đất trời, lấy đức mà thông thần minh”.[8]
Trở lại Ấn Độ, chúng ta cần biết là từ xưa đến nay quan điểm âm dương nam nữ không phải chỉ là trong lãnh vực tư tưởng mà truyền thống văn hóa của đất nước này còn quen biểu lộ bằng hình tướng cụ thể. Trong đền điện Ấn Độ giáo hay trong bảo tàng viện, nếu có người ngạc nhiên khi thấy các hình tượng thần linh luyến ái hoặc thấy các hình tượng Linga hay Yoni là “tục tĩu” thì quả là họ chưa hiểu về văn hóa Ấn Độ.
Chúng ta cần biết trong tư tưởng cơ bản của tôn giáo và triết học Ấn Độ mọi nhân cách đều gồm cả hai phần đối nghịch nam – nữ, âm - dương, thiện –ác, hung dữ - hòa ái v.v.[9] Tất cả đều dựa trên triết lý quan niệm rằng mỗi người chúng ta cũng như thần thánh đều có hai tính nam và tính nữ trong cùng một nội thân. Cái tinh thần nhìn vạn vật “ôm âm cõng dương” như thế không chỉ gói trong tư tưởng hay ngôn ngữ thường biểu hiện trong tư tưởng các vị thần thánh với hai mặt nam nữ, mà còn biệu lộ trong thế giới tạo hình, trong nghệ thuật hội họa kiến trúc. Cuối cùng pháp tu tập của Bà La Môn cũng như sau này trong Mật giáo là giúp cho hành giả chấp nhận cả hai mặt để có thể đạt được một tuệ giác viên mãn hài hòa và vô ngại.
Cho nên hành giả khi thấy hình tượng sinh thực khí thì phải hiểu đó là biểu tượng của nguồn tinh lực vũ trụ, là hình tượng nguồn sống siêu việt, vô tướng vô hình của Thượng Đế uyên nguyên. Thấy các thần nam nữ quấn quít với nhau trong tư thế giao hợp, thì đó không phải là hình tượng “làm tình” trong ý nghĩa dung tục, mà phải hiểu đó là hình tượng “ôm âm cõng dương” như trong Kinh Dịch. Ý tưởng này hầu như biến thành một công thức nên chúng ta thấy nam thần nào của Ấn giáo hay Mật giáo Ấn Độ cũng thường có người phối ngẫu.[10] Trong các thánh đường miếu mạo Ấn Độ người ta đã dùng linga để hình hóa tượng trưng cho linh thể thần Śiva (Thấp Bà) một linh thần được coi là nguyên nhân của dòng sinh lực vũ trụ. Cho nên nếu ta thấy hình tượng Śiva trần truồng thì phải hiểu đó là biểu tượng hình ảnh chân lý không che đậy, hình tượng Śiva giao hợp với Śakti thì đó chỉ muốn nói đến hai mặt của chân lý vì Śakti có hình tượng nữ nhân thì cũng chính là Śiva (Śakti là phần nữ tính của chính Śiva). Tư tưởng “hai mà một, một mà hai” khiến cho các linh thần Bà La Môn thường có hai thân tướng là nam thân và nữ thân. Thay vì cần giải thích nên cụ thể chúng ta sẽ thấy các linh thần Ấn Độ giáo hay Mật giáo đều có phối ngẫu, và hình tượng các thần giao hợp với người phối ngẫu thực ra cũng từ ý nghĩa với biểu trưng sinh hóa của cuộc sống. Cũng nên biết Ấn Độ giáo (Bà La Môn) là một tôn giáo duy nhất đồng hóa Thượng Đế nhân hình với hình tướng nữ nhân.
Ý nghĩa tư tưởng này không những chỉ được biểu tượng hóa bằng hình tượng nam nữ “hợp nhất” mà đến Mật giáo Kim Cương Thừa bị còn bị ảnh hưởng từ tín ngưỡng Śākta (Tính lực phái)[11] của giáo phái Śhaiva trong Advaita Vedānta Bà La Môn giáo vốn đã có một pháp môn tu luyện bí mật. Tín ngưỡng Śākta phát triển từ phong tục thờ phụng Śākti được coi là năng lực sáng tạo nữ tính của vũ trụ. Theo Dvaita Vedānta thì Śākti được biểu trưng và nhân hóa thành ra “Mẫu Thân của mọi sinh linh”. Śākti có thể xem là phần nữ thân của Śiva vốn là vị thiên vương cao quí và quan trong nhất của “tam vị thiên vương” (Trimurti): Phạm Thiên (Brahma) là thần sáng tạo, Tỳ Thấp Nô (Vishnu) là thần bảo vệ và Thấp Bà (Śiva) là thần hủy diệt. Nhưng vượt lên hiện thân của hủy diệt, Śiva cùng lúc còn là hiện thân của tái tạo, là biểu tượng của của dòng sinh lực vũ trụ[12] cho nên Śiva thường được thờ phụng dưới biểu tượng là hình tướng Linga. Trong các ảnh tượng khác thì Śiva được thể hiện trong trạng thái thiền định hoặc đang múa điệu Tandava hoặc cưỡi bò mộng Nandi.
Phái Śhaiva là một phái có ảnh hưởng lớn ở Ấn Độ xem Śiva là Thượng Đế tối cao (Còn các phái khác xem Śiva là một trong năm hình thức nguyên sơ của Thượng Đế [13]). Cho nên Śiva cũng được gọi bằng nhiều tên và danh hiệu. Trong ý nghĩa sâu nhất Śiva được xem như một nguồn sống siêu việt, bất biến và vô tướng vô hình.[14] Cũng vì ý nghĩa này chúng ta sẽ thấy tại sao Śiva cũng thường không chỉ là hình tượng nhân hình mà còn được trình bầy bằng hình tướng Linga biểu tượng cho ý nghĩa là năng lực tiềm tàng thường được nói trong học thuyết kuṇḍalinī “hỏa xà” hay “luồng gió sinh mạng”.[15] Trong truyền thống đó, Śakti cũng được nhân hóa trở thành Thiên Mẫu Durgā và cả là Không Hành Nữ (Dākinī) của Kim Cương thừa (Vajrayāna).
Thiên Mẫu Durgā và Không Hành Nữ Dākinī
Ảnh hưởng lớn nhất Ấn Độ giáo trên Mật giáo là vai trò của nữ phái trong mọi hình tượng thần thánh. Ấn Độ giáo có lẽ là một tôn giáo duy nhất của nhân loại nhìn “Thượng Đế” qua hình ảnh nữ nhân nên có rất nhiều nữ thần siêu phàm từ Thiên Mẫu (Durgā) cho đến các Không Hành Nữ (Dākinī).[16] Đặc biệt là vai trò Không Hành Nữ (Dākinī) đến Kim Cương Thừa thì càng quan trọng hơn. Kim Cương thừa coi Không Hành Nữ là vị thần bảo hộ quan trọng nhất, giúp năng lực hành giả đạt được các tầng lớp tu tập cao siêu. Trong truyền thuyết hầu như tất cả các đại sư Tây Tạng đều nhờ các Không Hành Nữ mà giải thoát. Phái Śhaiva và Mật giáo Kim Cương Thừa đều tôn thờ Thiên Mẫu Durgā (Đỗ Nhĩ Gia) là nữ thần có hình dung là một nữ thần tám tay cỡi sư tử. Durgā cũng có nhiều tên và nhiều hình tướng. Trong số đó có cả nữ hung thần Kali, một nữ thần có da mầu đen tím thường được vẽ với hình dung tay cầm đầu lâu người còn nhỏ máu vừa bị thần chặt đầu. Durgā là biểu tượng quan trọng được thờ phụng nhiều nhất trong các nhân hình của Śakti. Mật giáo cũng thờ Durgā giống như trong truyền thống Śhavaism từ trước, đi kèm với các ma thuật kể cả việc thực hành tính giao vì quan điểm cho rằng vạn vật đều do tính lực của nữ thần sinh ra. Cho nên từ việc sùng bái nữ thần Durgā cho đến việc hành dâm để mô phỏng cái lý thiêng liêng này chỉ là một “cụ thể hóa” của con người từ thời hồng hoang.
Sự giao tiếp tương tác giữa Kim Cương Thừa với Śākta dần dần sâu đậm, một mặt thì Kim Cương Thừa tiếp nhận sự tướng (các yếu tố nghi lễ hành trì) của Śākta, một mặt thì Śākta gián tiếp nhận lý tướng (phần tư tưởng triết lý) của Kim Cương thừa, cho nên hai giáo lý trở thành một trạng thái hỗn hợp khó phân biệt được rõ ràng. Đặc biệt là khi Kim Cương Thừa tiếp nhận Tantra “Hô Kim Cương” với chủ trương “Kẻ biết được bản chất của chất độc thì có thể chiến thắng chất độc bằng chính chất độc” (nói đơn giản là lý thuyết “dĩ độc trị độc” như của văn hóa Trung Hoa). Hô Kim Cương đã đến đúng lúc cung cấp một lý luận siêu thoát cho việc hành trì pháp môn Đại Lạc (mahāsukha).
Hô Kim Cương (Hevajra-tantra)[17] là một Tantra lớn thuộc bộ Tantra Vô Thượng Du Già (anuttara-yoga-tantra)[18] có ảnh hưởng rất quan trọng vào thời gian Mật giáo Kim Cương Thừa còn sống sót ở Ấn Độ và sau này tiếp tục ảnh hưởng và phát triển khi đến Tây Tạng. Từ khi bộ Vô Thượng Du Già Tantra xuất hiện và dưới ảnh hưởng của nó mà Mật giáo Kim Cương Thừa bị gọi là “Tả Đạo Mật giáo” (Vāmācāra nghĩa là Tả Thủ, hoặc Vāmamārga nghĩa là Tả Đạo).
Hô Kim Cương còn độc đáo và khác với nhiều Tantra trước kia. Hô Kim-Cương ngày nay hiện còn đầy đủ các văn bản Sanskrit, Phạn văn và Hán văn và đều đã được dịch ra Anh ngữ và phổ biến. Hô Kim Cương là một tổng hợp nhiều tín điều vừa cao siêu vừa huyền hoặc và mê tín. Trong một nội dung Tantra Hô Kim Cương còn khuyến cáo mạnh hơn “Hãy giết người, hãy nói láo, hãy lấy cắp, hãy hành dâm với vợ con mình và vợ con người khác”.[19] Khuyến cáo này có lẽ không nên hiểu theo “nghĩa đen” mà nên hiểu theo “nghĩa bóng” giống như Thiền tông nói là “phùng tổ sát tổ, phùng Phật sát Phật” (gặp tổ giết tổ, gặp Phật giết Phật) ý nói về giáo pháp vô ngại, bất nhị, buông bỏ mọi phân biệt mà đi đến tận cùng tính Không.
Tuy nhiên các thực hành giao cấu giữa Du Già nam và Du Già nữ thì được Tantra này bầy tỏ một cách rất cụ thể và dung tục khác thường, khác kiểu nói tượng trưng của “phùng tổ sát tổ” trong Thiền Tông. Dù rằng sự thờ phụng các “Du Hành Nữ” (Dākina) cũng được nói đến mà các hành giả Mật giáo từng có giải thích một cách triết lý, cho rằng trong danh xưng Hô Kim-cương (Hevajra) thì He đại diện cho “Bi” và Vajra là “Trí” và phương pháp thực hành việc nam nữ giao cấu chính là sự hiệp nhất của Trí tuệ (prajñā) và Phương tiện (upāya) là hai yếu tố chính để đạt Niết Bàn giải thoát trong chính đời sống này.
Thông thường các tôn giáo đều khuyến khích đời sống độc thân là căn bản của cuộc sống tu hành điển hình như Ngũ Giới (pañcaśīla) của Phật giáo cũng lấy giới dâm làm đầu. Nhưng tại sao Mật giáo lại phát triển pháp môn Đại Lạc (mahāsukha) với hình ảnh hai người luyến ái ?
Đương nhiên Mật giáo cũng hiểu rằng ái dục là một loại độc tối nguy hiểm của tu đạo. Khởi từ nhận thức phổ thông tin rằng việc dùng ái dục làm pháp tu tập được ví với loài côn trùng sinh ra trong gỗ nhưng chúng cũng ăn chính gỗ đã sinh ra chúng. Giống như vậy, Mật giáo tin rằng ái dục có thể được dùng để làm phát sinh khả năng tiêu diệt chính ái dục. Mật giáo tin vào lý thuyết “dĩ độc trị độc” là pháp môn tối thắng và duy nhất có thể trị được cái tối độc đó. Khi Mật giáo Kim Cương Thừa tin rằng nếu ái dục được dùng đúng cách thì cũng có thể phát sinh những khả năng tiêu diệt chính ái dục, cho nên Mật giáo Kim Cương thừa không ngần ngại thực hành pháp môn Đại Lạc. Mật giáo lại thường tự tin vào giáo pháp “chuyển hóa”[20] của mình trên nguyên tắc vẫn được nhắc nhở “sen trong bùn hôi mà vẫn có thể nở hoa tinh khiết thơm ngát” như trong các nghi lễ Mật giáo vẫn dạy “ngũ độc chuyển thành ngũ trí”, hình tướng Bồ Tát Quán Thế Âm từ bi mà cũng có một pháp thân khác là hung thần Đại Hắc (Mahākāra) v.v. Cho nên tình dục nam nữ vốn là hố chôn người tu hành nhưng đối với Mật giáo cũng có thể trở thành một phương tiện thiện xảo đưa đến giác ngộ nếu có sự trợ giúp của các phương tiện gia trì thân khẩu ý.
Trong khi tư tưởng giáo lý Long Thọ hằng giải thích trong Tính Không bất nhị thì không còn đối đãi mâu thuẫn của thế giới nhị nguyên.[21] Giáo lý “Bốn pháp giới” của Hoa Nghiêm cũng nói không có mâu thuẫn trong sự sự vô ngại pháp giới.[22] Theo đó, sự phân biệt đúng-sai, chân-tục, phàm-thánh chỉ là do tâm thức phân biệt trong thế giới tương đối thường nghiệm (tục đế) mà có. Các phát biểu “vô phân biệt” như thế được tìm thấy trong nhiều kinh điển Đại thừa, nhưng điểm khác biệt của Mật giáo là thực hành cho việc sống với tính chất phi nhị nguyên, ngay chính trong thân xác của hành giả, tức thời và tại chỗ.
Cho nên trên nguyên lý pháp môn Vô thượng Du-già nhấn mạnh rằng hành trì pháp môn Đại Lạc không phải là thuật tình dục bình thường mà cũng là phông pháp môn thiền định tố thượng dùng chính thân thể và tình dục vốn là sinh hoạt quan trọng nhất của con người để chuyển hóa thành phương tiện tối ưu khởi động cho động cơ giác ngộ.[23] Tantra Hô Kim-cương cũng nói rõ “phương thức này không có mục đích cho khoái lạc tình dục, mà là để khảo nghiệm lối tập luyện tâm thức của hành giả, xem rằng tâm mình xao động hay tĩnh lặng”.[24] Cho nên “Tử Thư Tây Tạng” Bardo Thödol cũng xác tín rằng cuối cùng khi thần thức con người thật sự đi vào cõi chết để tái sinh (sidpa bardo) là cảnh giới mà Mật giáo thường miêu tả là người chết có cảm giác về các ảo ảnh hình tượng trai gái đàn bà đàn ông trong các cảnh giao hợp trai gái (yab-yum) biểu lộ hình ảnh tái sinh của chính mình trong tử cung.
Tóm lại quán tưởng về tính dục để tự chủ chuyển hóa năng lượng tính dục thành năng lượng giải thoát từ bi, ít nhất trên lý luận không có gì sai trái với điều kiện người thực hành phải là người thực sự siêu xuất đầy đủ Giới Định Tuệ. Từ thế kỷ thứ sáu Đại sư Trí Khải (538-597) tổ thứ tư của Thiên Thai Tông Trung Hoa cũng từng viết trong Duy Ma Kinh Huyền Sớ [25] là “Với hạng người tăng thượng mạn Phật nói diệt trừ dâm si nộ là giải thoát. Nhưng với những người không tăng thượng mạn, Phật nói thể tính của dâm si si nộ chính là giải thoát”.[26]
Cho nên việc thực hành dùng tính dục để chuyển hóa thành sức mạnh giải thoát lại là một thực tế vô cùng khó thực hành, nhưng cuối cùng thì thuật “hành dâm luyện đạo” cũng trở nên một nghi quĩ bí mật gọi là pháp môn “Đại Lạc” (mahāsukha) của bộ Tantra Vô Thượng Du Già (anuttara-yoga-tantra) mở cửa cho các tà sư và đệ tử. Không chỉ “hành trì bí mật riêng tư” mà pháp môn Đại Lạc còn phát triển có thể là một nghi quĩ (sādhana) tập thể. Trong nghi quĩ này thì lấy một thiếu nữ làm Bổn Tôn. Mọi người hành lễ “ngũ ma tự chân ngôn” đi vòng quanh cô gái lõa thể, rồi thực hành “ngũ ma” là năm pháp “ma” là uống rượu (madirā), ăn thịt (māmsa), ăn cá (matsya), nhẩy múa (mudrā) và quan hệ tính dục (maithuna), và cuối cùng là nam nữ tự do giao hoan (gricakra)…
Thuật Đại Lạc không chỉ có dạy trong Tantra Hô Kim Cương mà còn thấy ở nhiều Tantra khác. Trong sách Indian Budddhism của Nakamura ông còn cho biết lối thực hành này còn nói rõ trong Sricakrasambhara-tantra và một số kinh văn khác tìm được ở Java cũng dạy pháp “Đại Lạc” như Dakarnava (-mahayogini-tantraraja) ngày nay vẫn còn văn bản Sanskrit. Đặc biệt Sarvarahasya-tantraja hay “Nhất Thiết Bí Mật Tối Thượng Danh Nghĩa Đại Giáo Vương Nghi Quĩ” (一切秘密最上名義大教王儀軌) là một Tantra có những đoạn tả rõ các cảnh giao cấu với khác người phối ngẫu rất thô bạo và cho phép thực hành ngay cả các hành vi loạn luân phi đạo đức khác (“đạo đức” theo Mật giáo Kim Cương Thừa tả phái thì cũng chỉ là sự phán xét của vọng tưởng của tư tưởng nhị nguyên khi vẫn còn phân biệt đạo đức và phi đạo đức, mà người hành trì Mật giáo tin rằng phải vượt qua để tiến tới cảnh giới Bất Nhị vô phân biệt). Tuy nhiên những lý do “vượt qua đạo đức phân biệt” như thế của các pháp môn như Đại Lạc cũng chính là lý do khiến Mật giáo bị rất nhiều phê phán từ các học giả Phật giáo Trung Hoa (cũng vốn là các học giả trưởng thành trong khuôn mẫu đạo đức cứng rắn Khổng giáo). Điển hình là hai học giả Trung Hoa nổi tiếng hiện nay như học giả Lữ Trừng và Pháp sư Thánh Nghiêm cũng lên án Mật giáo Kim Cương Thừa bằng những lời lên án rất nặng nề.[27]
Tóm lại pháp môn Đại Lạc là một trong nhiều giáo pháp kỳ đặc của các Tantra như Hô Kim Cương (hevajra-tantra) hay Bí Mật Tập Hội (guhyasamāja-tantra) của Bộ Tantra Vô Thượng Du Già. Thực hành theo giáo pháp này quả có đi ngược lại với truyền thống thông tục, cho nên Phật giáo truyền thống Á Đông gọi giai đoạn cuối cùng của Mật giáo gọi là Kim Cương Thừa bằng danh từ “Tả Đạo” (vāmamārga). Sự phê phán đánh giá này có phần đúng với phần sự tướng. Vì thật khó có thể chấp nhận được khi hai người nam nữ trần truồng giao hoan hưởng lạc để gọi là tự dụng với ý chí “chuyển hóa” (Phowa) và thăng hoa thành kinh nghiệm siêu việt gọi là Đại Lạc (mahāsukha) sau khi đã say sưa ăn uống nhiều thứ rượu thịt quái đản kể cả tinh huyết.[28]
Nhưng thật sự đó chỉ mới là phần sự tướng bình thường đều là những ma mị bị kẻ xấu lợi dụng[29] bằng các loại ngôn ngữ triết lý mơ hồ như một bài viết tà mị phổ biến trên internet “giao hoan nam nữ là sự thống nhất hòa hợp âm dương, là thống hợp trí tuệ bát nhã và phương tiện thiện xảo, giao hoan là một thực thể không gì thực tế hơn, để vượt qua thế giới phân biệt nhị nguyên, vượt qua phân biệt tịnh cấu chánh tà, tiến vào cảnh giới Bất Nhị của niết bàn tuyệt đối, chuyển hóa năng lượng tính dục thành năng lượng từ bi, thể nhập vào nguyên lý tối thượng, nhập ngã ngã nhập, tức thân thành Phật…”
Đọc lại các câu “vè” rẻ tiền vay mượn các danh từ triết học như thế của các sách tuyên truyền pháp môn Đại Lạc hiện nay thì ngoài không khí hoang mị với các thuật ngữ quen thuộc vui tai, nào là bất nhị pháp môn advaya, nào là trí lực bát nhã prajñā, từ bi maitrī-karuṇā, phương tiện thiện xảo upāya, niết bàn tuyệt đối nirvāna v.v. nghe thật huyền bí nhưng thật ra chỉ là một thủ thuật ngôn ngữ, hoàn toàn không phải là tinh thần pháp môn bất nhị (advaya) lý bình đẳng trong tư tưởng Long Thọ.[30] Ở đây Hô Kim Cương (Hevaja Tantra) thực ra chỉ muốn nhấn mạnh rằng mọi thành tố tiêu cực trong đời thường đều có thể biến chuyển “chuyển hóa” (Phowa) thành các thành tố tích cực, vì tất cả xấu tốt, phải trái chỉ phát triển khi tâm còn phân biệt nên còn bị trói buộc trong sinh tử luân hồi. Cho nên giáo pháp vô thượng tin Mật giáo rằng có thể sử dụng mọi hình tướng sân hận ái dục trong đời thường để phục vụ cho con đường giác ngộ theo đúng lời dạy “kẻ trí hiểu được thực tính của ngũ độc có thể dùng độc để diệt độc” (one knowing the nature of poison may dispel poison with poison).[31]
Hoạt động tính dục vốn là một hoạt động quan trọng nhất và là bản năng cơ bản nhất của mọi sinh vật. Tâm lý học Tây Phương đến thế kỷ hai mươi mới thấy sức mạnh của libido (dục tính) là một sức mạnh khủng khiếp và coi như một nguồn sống cơ bản nhất của con người. Ngoài cảm giác khoái lạc libido còn là một sức mạnh tâm sinh lý căn bản để duy trì dòng giống - không phải chỉ của loài người mà còn là của mọi sinh vật (con vật hạ đẳng nhất như con ong con nhện cũng sẵng sàng chết vì thích thú giao cấu). Hai mươi lăm thế kỷ trước Khổng Tử ở Á Đông cũng phải công nhận sinh hoạt sinh lý là cơ bản của đời sống con người như ăn uống. Cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy các tôn giáo cổ nhất của nhân loại đều nhìn thấy sức mạnh tình dục không chỉ là một hình thức thỏa mãn tính dục nam-nữ mà còn tiềm tàng một sức mạnh khác, như Mật giáo Bà La Môn đã thấy trong pháp môn Đại Lạc, như Đạo gia Trung Hoa đã thấy qua pháp môn Phòng Trung. Họ đều tin tưởng rằng nếu có thể chuyển biến tính dục vào con đường tâm linh, thì lúc đó cũng giống như là chuyển được dòng cuồng lũ dũng mạnh nhất thay vì phá hoại mà còn có thể để xoay chuyển bộ máy “phát điện tâm linh”.
Tóm lại Mật giáo cho rằng Đại Lạc là một phương thức tốt trong các loại tu luyện tâm linh là một lý luận rất phổ biến - it nhất là trên lý thuyết của rất nhiều truyền thống tâm linh cổ xưa. Tuy nhiên một khi thầy trò hành trì pháp môn này chỉ thực hành phần hình tướng thì trở nên xa đọa là việc rất dễ hiểu. Cũng nên biết ngoài pháp môn Đại Lạc nổi tiếng, Mật giáo còn có nguyên cả một “thừa” (yāna) chuyên dạy về bí thuật “phòng trung” có tên là Sahajayāna (Hán dịch là Câu Sinh Khởi Thừa 俱生起乘), thường được học giả Tây phương biết đến qua thuật ngữ gọi là “yab-yum Buddhism”.
Từ xưa đã có nhiều lý thuyết đưa ra để mong cầu chuyển hóa thăng hoa sức mạnh tính dục thành sức mạnh tâm linh. Như thuật Phòng Trung của Đạo gia Trung Hoa, tuyên xưng “chuyển tinh hóa khí, chuyển khí hóa thần, bách hoa tụ điển” đề bổi bổ chân dương cho phép trường thọ. Như Bà La Môn kêu gọi dùng tính dục thành một sức mạnh của sinh hoạt đời thường để tiến vào sự hiệp nhất “Phạm ngã nhất thể” giữa con người (ātman) và thực tại vũ trụ (brahman).
Giáo pháp Đại Lạc phải nhìn từ căn bản tư tưởng của tư tưởng triết lý cho rằng tuệ giác ngay trong đời thường, chuyển dòng thác loạn tính dục thành nguồn sống tinh thần theo giáo pháp hành trì “tức sự nhi chân” (dùng sự lý tầm thường mà thăng hoa làm chân lý giải thoát) được khai thác từ giáo thuyết sự sự vô ngại của kinh Hoa Nghiêm. Mật giáo cho rằng đó cũng là bước tiến vào thực tướng Tính Không “không có mẩy may khác biệt giữa sinh tử luân hồi với niết bàn tịch diệt” mà Long Thọ đã lấy làm luận cương cho Trung Luận mà sau đó Mật giáo đã thâu nhiếp và trình bầy lại trong kinh Đại Nhật và Kim Cượng Đỉnh bằng một ngôn ngữ khác. Thành ra có lẽ chúng ta không cần phải nhắc lại phần nguyên lý tư tưởng giáo pháp Đại Lạc mà cần nhớ tới lời răn của tổ Long Thọ về loại người không đủ giới định huệ trong việc hành trì Đại Lạc chỉ là bọn người đòi “bắt rắn độc bằng tay không”.
Thịnh Xuy Của Pháp Môn Đại Lạc
Tóm lại Đại Lạc là một pháp môn phổ biến và đã được sùng mộ ở Tây Tạng từ lâu. Khi Mật tông Tây Tạng đến Tây phương thì đây là một pháp môn được cả giới học giả lẫn quần chúng tò mò và ái mộ. Chỉ trong vòng một thập niên các sách về “Tantric Sex” hay “Sexual Meditation” hoặc “Passionate Enlightenment” được ào ào xuất bản bằng đủ mọi ngôn ngữ Tây phương. Lẽ dĩ nhiên tuyệt đại đa số sách này đều là loại “sách thời trang” được in ấn phát hành cho nhu cầu phong trào và cũng vừa đúng lúc cho làn sóng “Cách Mạng Tình Dục” (Sexual Revolution) đang bộc phát và thịnh hành ở Tây Phương trong thời gian này. Phong trào xuất bản các sách về pháp môn Đại Lạc còn rầm rộ gấp nhiều lần thời trước đây khi Tây phương “khám phá” ra “thánh kinh tình dục” Kāma-Sūtra Ấn Độ. Điểm độc đáo của Đại Lạc vì đây không còn là “sách” như Kāma-Sūtra mà là một pháp môn “thực hành tâm linh”.
Trong lịch sử xuất hiện các tôn giáo thì có lẽ chẳng có cách mạng nào lớn hơn một pháp môn dạy người ta vừa có thể tận hưởng khoái lạc thế gian vừa có thể siêu thoát tâm linh? Vì thế giáo pháp Đại Lạc mau chóng trở nên là một sân khấu cho sự xuất hiện ào ạt của các ông đạo “guru” thời danh luận giảng và truyền bá pháp môn Đại Lạc với lý luận “tính dục là thể hiện sự thân thiết, thực hiện sự quan tâm đến niềm vui thú của bạn tình. Lúc đạt đến dỉnh điểm khoái lạc thể xác người ta sẽ cảm nhận sự thăng hoa của tự ngã vượt thoát của cái tự ngã để tiến đến giác ngộ của ý thức vô ngã. Khi đạt đến cao điểm khoái lạc thì cả hai đều vừa có cảm giác khoái lạc và Tính Không cùng một lúc” (Alexander & Annellen Simpkins. Simple Tibetan Buddhism,
Hiện nay biến thể của pháp môn Đại Lạc được phổ biến trong Yab-Yum Yoga tiếp tục phổ biến tại các trung tâm thành thị Âu Mỹ song hành với các trung tâm Hatha-Yoga thuần túy thể dục thể thao. Nhưng thực chất các người thực hành Yab-Yum Yoga đại đa số chỉ là những người đi tìm khoái cảm nhục dục mà lại có vọng tưởng là đang thực hành một đại pháp tâm linh.
Từ xưa tất cả các tôn giáo và trào lưu tư tưởng triết lý, bất kể là Phật giáo ở phương Đông hay Thiên Chúa Giáo ở phương Tây, đều ca tụng đời sống vô dục thánh thiện. Tôn giáo hầu như đều coi say mê nhục dục là trở ngại lớn nhất của cuộc sống hướng đến giải thoát. Theo Ngũ Giới (pañcaśīla) căn bản của Phật giáo thì dâm giới được coi là cấm giới quan trọng đầu tiên, thế mà nay ngược lại, lại có pháp môn Đại Lạc dạy người ta tiếp tục hành lạc, hưởng thụ ái dục thân xác mà vẫn thăng hoa trí tuệ giải thoát. Có lẽ khó có triết lý tôn giáo nào hấp dẫn hơn. Cho nên các “đạo sư” rao giảng giáo lý “đời trong đạo” hay “đạo chẳng xa đời” hay “cực lạc là đây chín rõ mười” như Chogyam Trumgpa hay Osho (Bhagwan Rajneesh) đều trở nên nổi tiếng. Số người Việt
Điều căn bản khác biệt giữa pháp môn Đại Lạc và các pháp môn Phật giáo truyền thống là Phật giáo đi vào giáo pháp “sự sự vô ngại” bằng Giới Định Huệ. Giới luôn luôn là cơ sở căn bản của Phật giáo, nhưng ở Mật giáo thì giới định huệ đã không được nhấn mạnh bằng các phương tiện như Tam Mật. Kết quả là tuyệt đại đa số những hành giả Mật giáo hành trì pháp môn Đại Lạc vì không đủ căn cơ Giới Định Tuệ đều vấp ngã là những gì có thể biết trước.
Thật ra các đại sư có thực chứng kinh nghiệm Đại Lạc đều có giải thích có bốn loại hành giả của pháp tu Đại Lạc theo Bốn Loại Tantra (Tác tantra, Hành tantra, Du-Già tantra và Vô Thượng Du Già tantra). Tông-Khách-Ba (Tsongkhapa 1357-1419) trong "Đại Diễn Giải Mật giáo"(sNaags-rim chen-mo) từng giải thích bốn thứ lớp của lối tu tập này như sự gần gũi liên hệ giữa hai người nam nữ. Ông nói rõ hành trình Đại Lạc rõ ràng trải qua bốn từng: “Loại hành giả căn cơ thấp (kriyā-tantra) chỉ có thể ngắm nhìn quán tưởng xác thân người song tu phối ngẫu. Những hành giả căn cơ cao hơn (caryā-tantra) có tiềm năng chuyển hóa ái dục thì có thể cười khi quán tưởng xác thân người phối ngẫu. Chỉ có những người lợi căn cao cường (yoga-tantra) mới có khả năng chuyển hóa ái dục khi quán tưởng nắm tay người phối ngẫu. Và cuối cùng chỉ có những người có tu chứng có “lợi căn tuyệt cao” mới có thể luyện Vô thượng du-già anuttara-yoga-tantra (hàm ngụ giới định huệ siêu tuyệt) để có thể “chuyển hóa ái dục bằng sự kết hợp hai bộ phận sinh dục.”
Tuy nhiên phần lớn các đạo sư giảng dạy Đại Lạc minh thị rõ ràng “có căn cơ cao hơn” có nghĩa là trình độ giới - định - tuệ cao tuyệt là điều kiện cơ bản mà người luyện pháp Đại Lạc thường không chú tâm. Giới Định Huệ phải là điều kiện tối thiểu và đầu tiên của pháp tu Đại Lạc, chưa nói đến việc cần phải có một đại sư thật sự giao truyền. Cho nên thiếu giới định huệ thì dù có tin vào các “phương tiện thiện xảo” như rải nước quán đỉnh rồi các phương tiện gia trì thần chú ấn quyết ăn thịt uống rượu và hành lạc như thế không chuẩn bị đủ cho hành giả “chuyển hóa” (Phowa) đi vào phần chân nghĩa thâm sâu của giáo pháp Vô Thượng Du Già (anuttara-yoga-tantra). Cuối cùng, tôi thường ví dụ như kẻ học nhẩy dù không đeo dù mà lần lượt trước sau rủ nhau lao mình ra không gian chỉ là để rủ nhau rơi xuống đất chết tốt.
Tóm lại, như tên gọi “vô thượng”(anuttara) bộ Tantra cao sâu này ám chỉ các pháp môn tối thượng thừa như Đại Lạc chỉ được các đại hành gia thật sự giới luật nghiêm ngặt, thật sự thâm tu chứng đắc sử dụng trong một cảnh giới vô cùng đặc biệt. Cho nên trái lại, như một khi con dao sắc rơi vào tay trẻ con thì tai nạn chắc chắn phải xẩy ra, mà Long Thọ từng răn dạy những kẻ “tay không đòi bắt rắn độc”. Thiền tông khi nói “phùng tổ sát tổ, phùng Phật sát Phật” thì đây chỉ là ý nghĩa tư tưởng vô phân biệt của Thiền tông dù rơi vào miệng lưỡi người không thật sự giới luật tu chứng (gọi là khẩu đầu thiền) thì cũng chỉ tạo ra các thi sĩ làm thơ ngông nghênh hay các “thiền sư khéo nói” nên không gây thương tổn lớn như các hành giả Kim Cương Thừa thực hành pháp môn Đại Lạc bằng chính bản thân, mang giáo lý từ nghĩa nam nữ trong một thân xác qua việc thực hành tính giao của hai thân thể nam nữ.
Xin nhắc lại, như đã trình bầy, bộ Tantra Vô Thượng Du Già (anuttara-yoga-tantra) được phát triển khá chậm, cho nên không kịp theo chân ba vị “Khai Nguyên Tam Đại Sĩ” Thiện Vô Úy (637-735), Kim Cương Trí (663-723) và Bất Không Kim Cương (705-774) qua Trung Hoa, cho nên Mật tông Trung Hoa và Mật tông Nhật Bản không có dạy các pháp môn như Đại Lạc. Nhưng bộ Tantra Vô Thượng Du Già kịp đến Tây Tạng và phát triển rất mạnh ở đây. Khi Mật tông Tây Tạng được truyền bá ở Âu Mỹ, thì các pháp môn “siêu việt” như Đại Lạc của Kim Cương thừa rất được chú ý và hâm mộ đặc biệt trong giới trí thức cũng như giới nghệ sĩ thượng đẳng của thời “cách mạng tình dục” (sexual revolution). Tuy nhiên đây cũng là một thảm họa cho nhiều “đại tăng thiền sư” lạc vào pháp môn Đại Lạc.
Trên lý thuyết thì pháp môn dùng tính giao để hành đạo của Mật giáo Ấn Độ hay Mật giáo Tây Tạng cũng không phải hoàn toàn xa lạ. Trước đó Đạo giáo Trung Hoa cũng đã có nói đến phép “phòng trung” hay “phòng trung luyện đơn” mà người ta thường quen gọi là “chuyển tinh hóa khí, chuyển khí hóa thần” rất nổi tiếng của Đạo gia từng quyến rũ giới vua chúa quyền quí Trung Hoa.[32] Nhưng ở Mật giáo thì giáo pháp Đại Lạc còn ngụy trang bằng lý luận siêu việt và bí mật. Theo lý thuyết này Mật giáo cao giọng giảng dạy “giống như Minh Vương (Śiva) hợp nhất với Minh Phi thì có nghĩa là lấy Bi (karuṇā) làm cha và Bát Nhã (prajñā) làm mẹ, người hành trì lấy việc giao hoan là phương tiện (upāya) để luyện đạo. Khi tính giao thì gọi là nhập định, khích động và giải thoát nguồn tinh lực (kuṇḍalinī)”.[33] Tóm lại, trên nguyên tắc lý thuyết, pháp môn Đại Lạc là lấy việc giao hoan nam nữ gọi là “xích bạch bồ đề tâm” kéo dài ân ái không cho xuất tinh để tính giao đạt trạng thái hoan lạc cực điểm dài lâu rồi nhập vào đại định thăng hoa nên gọi là “Đại Lạc thú” (Mahāsukha).
Trên lý thuyết, trạng thái đại lạc thú như vậy người hành trì tính giao có thể đạt đến trạng thái vô ngã, tâm thân chỉ còn là một khối nhất tâm trong trạng thái đại lạc, thể nhập vào Pháp Thân Vô Biên của Đại Nhật Như Lai nên gọi là “tức thời thành Phật”. Nói như Lạt ma Angarika Govinda (1898-1985) một lạt ma người Đức nổi tiếng của thời hiện đại vốn là tu sĩ Theravāda (rất trọng giới luật) nhưng về sau nghiên cứu và hành trì Mật giáo ông đã từng phát biểu: “Trong khoảnh khắc chúng ta thật sự vô ngã bằng cách làm cho bản thân trống rỗng mọi khuynh hướng vị kỷ, khát khao quyền lực, sở hữu và thèm muốn. Cùng lúc đó chúng ta phá vỡ bức vách nhà tù tự tạo và ý thức được mông vô biên của hữu thể chân chính của mình”.[34] Như thế, trên lý luận, phép hành trì Đại Lạc còn xem ra còn sâu sắc hơn trạng thái thiền nhân xuất thần thăng hoa mà nhà thiền gọi là thiền duyệt.
Văn hóa Ấn Độ vẫn xem thần thánh cũng như con người đều có hai phần nam/ nữ, thiện/ ác, sinh-thành/ hủy-diệt, vô-minh/ giác-ngộ đều có trong mọi pháp (tư tưởng này cũng tiềm tàng trong giáo lý Phật giáo). Như đã trình bầy, quân bình và điều hòa âm-dương, nam-nữ vốn là biểu trưng cho mọi hình tướng thần linh trong văn hóa Ấn Độ và là cơ bản trong việc hành trì pháp môn Đại Lạc. Trong khi đó, tại Tây Tạng vai trò người nữ trong một xứ sở băng tuyết này vốn tự thân đã là một nhân tố quan trọng trong sinh hoạt đời thường của một môi trường địa lý hầu như giá lạnh quanh năm. Từ xã hội truyền thống kinh tế du mục đến thời tiết lạnh lẽo khắc nghiệt của mùa đông băng giá đều cần có “nội nhiệt hai thân thể” để sống còn. Trong thực tế kinh tế cũng như thiên nhiên như thế, vai trò người nữ và tính dục man nữ luôn luôn là yếu tố sống chết trong đời sống người dân Tây Tạng, kể cả ngay trong đời sống tu hành. Vì vậy việc cần có người phối ngẫu hoặc phải ăn thịt uống rượu của giới tu sĩ Tây Tạng có lý do của nó, mặc dù các hành vi này có thể là cấm giới trong truyền thống Phật giáo tại các vùng đất khác.
Pháp môn Đại Lạc Vô Thượng Du Già của Kim Cương thừa đến Tây Tạng trong bối cảnh văn hóa và kinh tế như thế, cho nên đã phát triển như một giống cây mới phát triển trên một vùng đất thích hợp.[35] Mật giáo vốn tin rằng mối quan hệ tính dục không những không tổn hại mà còn có thể giúp cho hành giả có thể nhận thức sâu sắc hơn về cuộc đời. Cuối cùng thì Mật giáo Kim Cương thừa chấp nhận Đại Lạc là một phương tiện thiện xảo (upāya) để tu hành. Rồi đến rất nhiều truyền kỳ thêu dệt thêm về pháp môn Đại Lạc như chuyện nổi tiếng kể về thánh giả Napora dù đã tu hành tâm pháp rất cao nhưng vẫn phải nhờ một thánh nữ Vajrayogini hướng đạo về pháp môn Đại Lạc nên mới phát triển được sức mạnh bí pháp Mật giáo. Cuối cùng, theo truyền kỳ Tây Tạng thì các đại thiền giả danh tiếng, từ Liên Hoa Sinh cho đến Naropa, Marpa, Tiloka đều có “bạn nữ song tu” để tu luyện pháp Đại Lạc. Cuối cùng giáo lý còn kết luận rằng các bậc siêu xuất này đã đến được khả năng chuyển hóa ái dục, hòa hợp khoái lạc với Tính Không bất nhị để “chuyển hóa” (Phowa) thành đạt cảnh giới vô phân biệt “bất nhị pháp môn” (advaya).
Lẽ dĩ nhiên đó là mặt thuyết lý trên mặt giáo lý và trong các truyền kỳ dân gian, người thực hành tin rằng trong hình huống tính giao kéo dài họ có thể thăng hoa bản ngã trong trạng thái cực kỳ khoái lạc vô ngã để có thể là một phương pháp hành trì chuyển hóa “tức sự nhi chân” (dùng sự tướng bình thường để thăng hoa làm chân đạo) lý thuyết quen thuộc của Mật giáo vốn phát triển từ tư tưởng sự sự vô ngại (事事無礙) của tư tưởng Hoa Nghiêm. Nhưng trên thực tế pháp môn Đại Lạc đã đốn ngã biết bao đạo sư chưa đủ giới định huệ để tham dự vào trò hí luận mà tổ Long Thọ đã cảnh cáo “chưa học đủ bùa chú mà đòi bắt rắn độc bẳng tay không”.
Để có thí dụ cụ thể là tôi bắt buộc phải dẫn chứng tên tuổi hai vị vốn được coi là hai đại thiền sư danh tiếng lẫy lừng quốc tế. Vị thứ nhất là một Đại Lạt ma Kim Cương Thừa danh tiếng bậc nhất của Tây Tạng có tên là Chogyam Trumgpa, vị thứ hai là một đại thiền sư khác có tên là Sogyal Rinpoche bản thân là Tông chủ Kim Cương Thừa Rigpa quốc tế.[36] Cả hai đại thiền sư này cuối cùng cũng đều đọa lạc vì thực hành pháp Đại Lạc.[37] Độc giả có thể xem buổi họp báo của đức Đạt Lai Lạt Ma XIV về các nạn nhân tình dục của các lạt ma Tây Tạng vào tháng 9 năm 2018 ở Hà Lan.
Người thứ nhất Chogyam Trungpa (1939-1987) là vị người phát triển Kim Cương Thừa đầu tiên ở Hoa Kỳ, thành lập Naropa University, Shambhala Buddhism v.v. Chogyam Trumgpa là người có đầy đủ các tước danh lớn nhất, từng được chính Đạt lai Lạt ma XIV và đại sư Dilgo Khuentse Rinpoche (Tông chủ Nyingma) khen tặng bằng tất cả các danh tự hoa mỹ nhất của Phật giáo Tây Tạng như Trungpa Tulku đời thứ XI, mahāsiddha, teron, satguru, supreme teacher v.v. Người thứ hai là Sogyal Rimpoche (1947-2019) tông chủ Rigpa quốc tế có hơn 100 tự viện ở 23 quốc gia. Soyyal Rimpoche có rất nhiều đệ tử hiện là các thiền sư nổi tiếng đang dạy Thiền pháp khắp thế giới. Chogyam và Sogyal là hai thiền sư lạt ma danh tiếng lẫy lừng quốc tế chứ không phải như các vị “đại tăng” hay “thiền sư” ở các vùng đất chậm tiến chỉ âm thầm hoạt động trong bóng tối. Nhưng cuối cùng cả hai đại thiền sư này cũng không thoát được hố sâu xa đọa tình dục trong phép tu Đại Lạc.[38] Cuối cùng tôi chỉ muốn nhắc nhở ở đây tôi chỉ muốn nói đến các “đại tăng thiền sư” Phật giáo tu lạc lối mà không nói đến loại tu sĩ giả dối dâm đãng như các “mục sư” mang danh Thiên Chúa của Hàn Quốc như giáo chủ giáo hội quốc tế JMS có gia tài hằng tỷ mỹ kim thu góp từ giáo đồ trung kiên.
Hiện nay mặc dù pháp môn “Đại Lạc” giới hạn và ngăn cấm phổ biến nhưng vẫn không ngăn cản được được một số “hành giả” Kim Cương Thừa tu tập - Trước 1975 ở Việt
Tóm lại Mật giáo ở Á Đông đều không từng biết đến bộ Tantra thứ tư Vô Thượng Du Già (anuttara-yoga-tantra) của Kim Cương Thừa, vì vậy cũng không có ai truyền dạy về giáo pháp như Đại Lạc, cho nên các hình tượng “Yab-Yum Buddhism” (loại hình tượng tranh ảnh các tượng Phật ôm nữ nhân lõa thể trong tư thế giao phối) chỉ thấy được phổ biến một cách tự nhiên như ở khu vực quanh Tây Tạng. Cho nên có một hòa thượng ở Việt Nam thắc mắc và chuyển cho tôi một bài báo Việt Nam trên internet cách đây khá lâu về một “tượng Phật ôm thiếu nữ trần truồng” đã làm xôn xao dư luận Việt Nam mà không có người giải thích thỏa đáng. Tin này đã khiến nhật báo Thanh Niên ở Việt Nam chỉ biết phỏng vấn một học giả về Phật giáo Ấn Tạng là giáo sư Adnlheid Herrman-Pflandt của Đại học Marburg (Đức quốc) thì vị này cho biết trước đó chính ông đã có dịp hỏi Đạt lai Lạt ma XIV rằng “Liệu có đại sư Tây Tạng nào đủ tiêu chuẩn để giảng dạy về cách tu tập “Kim Cang Thừa hai người” hay không? Ngài Đạt Lai Lạt ma XIV đã trả lời đơn giản ‘Không!’ - Trích báo Thanh Niên Online (Việt
[1] Trong ngôn ngữ kinh điển cổ thường ví như một hành giả đội một thau nước đầy đi trong lễ hội đầy những thiếu nữ đẹp và trần truồng nhẩy múa mà chỉ cần thoáng có tình ý là thau nước trên đầu sẽ đổ tung và anh ta sẽ bị giết chết.
[2] Đến Mật tông Phật giáo thì hành giả thực hành giáo pháp này phải được trui rèn bằng Giới Định Huệ Chúng ta sẽ nói trong phần cuối về những kẻ thiếu căn bản Giới Định Huệ tu tập pháp môn Đại Lạc trước sau đều thất bại.
[3] Cho nên chúng ta nên biết phần lớn các “đại sư” có tiếng của Mật giáo (cũng như của các tông môn Phật giáo khác) dù có thể có danh có tiếng nhưng không phải luôn luôn là những đại sư thật tu thật chứng. Lẽ dĩ nhiên luôn luôn có những vị thực tu thực chứng quanh chúng ta, nhưng tuyệt đại đa số là những vị ẩn tu chứ không phải là các quan chức ta bà tăng.
[4] Một điểm chúng ta cần ghi nhận là không phải tất cả các Tantra trong bộ Tantra thứ tư đều có các hành vi bất thường ăn thịt uống rượu hay hành lạc. Điển hình là Tantra Thời Luân (Kalacakra) cũng như giáo pháp Đại Cứu Cánh (Dzogchen) của Ninh Mã (Nyingma) luôn luôn nhắc nhở người thực hành phải từ căn bản Giới cấm cổ truyền.
[5] Nói về “phallic worship” thì có lẽ không đâu bằng
[6] Trong những năm vừa qua tôi thấy ở Việt Nam có làm sống lại lễ hội “ông Đùng bà Đà” hay “Nõ Nường” trai gái trong làng đi diễu hành có mang theo các hình tượng linga và yoni.
[7] Hệ Từ của Khổng Từ dùng để giải thích các hào quái trong kinh Địch.
[8] Hệ Từ Hạ truyện, chương thứ năm.
[9] Người Việt có câu tục ngữ “Có âm dương có vợ chồng, Chẳng qua thiên địa cũng vòng phu thê”.
[10] Cho nên Mật tông Tây Tạng từ Liên Hoa Sinh (padmasambhava) người được coi là truyền Mật giáo đến Tây tạng cho đến nhiều vị tông chủ các tông môn lớn của Phật giáo Tây Tạng đều có phối ngẫu. Theo truyền thuyết Liên Hoa Sinh có đến 8 người vừa là đệ tử vừa là người phổi ngẫu.
[11] Śakta là truyền thống tôn giáo (thuộc tín ngưỡng Ấn Độ là Śaivism) sùng tín nữ thần Śakti như Thánh Mẫu. Śakti nguyên có nghĩa là năng lực tiềm tàng thường được nói trong học thuyết Kudalini với Śakti được nhân hóa trở thành người phối ngẫu của thần Śiva (Thượng Đế /Thấp Bà)
[12] Ở đây chúng ta thấy hủy diệt và tái tạo cũng chỉ là một.
[13] Flood, Gavin. An Introduction to Hinduism. Cambridge University Press (1996)
[14] Kramrisch, Stella. The Presence of Śiva.
[15] Lý thuyết kuṇḍalinī (Hỏa Xà) coi rằng con người có 7 trung tâm khí lực gọi là “Bẩy Luân Xa”. Nguồn khí lực giống như một con rắn lửa nằm ở Luân Xa thứ nhất. Sự luyện tập của hành giả là khích động cho nguồn khí lực này phát triển và luân lưu từ luân xa thứ nhất đến luân xa thứ bẩy. 1- Luân xa thứ nhất nằm ở đốt dưới cùng của cột sống, là cơ quan chỉ huy sinh dục tượng trưng bằng bông sen đỏ 4 cánh. 2- Luân xa thứ hai nằm ngang bụng dưới, là cơ quan chỉ huy các cơ quan nội tiết, tượng trưng bằng bông sen đỏ như son 6 cánh. 3- Luân xa thứ ba nằm ngang rốn, là cơ quan chỉ huy hệ dinh dưỡng và tiêu hoá, tượng trưng bằng bông sen xanh 10 cánh. 4- Luân xa thứ tư nằm ngang vùng tim, là cơ quan chỉ huy hệ huyết quản, tượng trưng bằng bông sen đỏ chói 12 cánh. 5- Luân xa thứ năm ở cuống họng, là cơ quan chỉ huy hệ hô hấp, tượng trưng bằng bông sen đỏ tía 16 cánh. 6- Luân xa thứ sáu ở giữa hai lông mày, là cơ quan chỉ huy hệ thần kinh phản xạ, tượng trưng bằng bông sen màu trắng 2 cánh. 7- Luân xa thứ bảy nằm ở đỉnh đầu (huyệt bách hội) là cơ quan chỉ huy bộ não, tượng trưng bằng bông sen ngàn cánh màu trắng sáng rực sáng, chỉ sự giác ngộ. Giác ngộ có nghĩa là thời điểm hoả hầu được giải toả trọn vẹn, tiểu vũ trụ con người hoà nhập với đại vũ trụ. Hành giả sẽ cảm nhận sự hoan hỉ tuyệt đỉnh, nhận thức tuyệt đối và là trí giả toàn vẹn. Tóm lại, sự giải toả hoả hầu kuṇḍalinī trở thành cứu cánh toàn bộ lý thuyết của yoga Mật giáo.
[16] Dākinī (Không Hành Nữ) là nữ thần trong thiên giới trong truyền thuyết dân gian phổ thông ở Ấn Độ.
[17] Hevajra-tantra được Pháp Hộ 法護 dịch ra Hán văn vào năm 1004 có tên đầy đủ là 大悲空智金剛大教王儀經 (Đại Bi Không Trí Kim Cương Đại Giáo Vương Nghi Kinh). Xem Đại Chính Tạng N.892, vol 18 trang 590’s. Hevajra tantra được dịch giảng đầy đủ ra Anh ngữ từ năm 1959 bởi David Snellgrove, là tác giả quan trọng viết về Tantrra tôi đã giới thiệu ở phần viết về Tantra và Tantric Buddhism.
[18] Tantra Vô Thượng Du Già là bộ Tantra cuối cùng theo thời gian phát triển của 4 bộ Tantra.
[19] Williams, Paul and Tribe, Anthony. Buddhist Thought: A complete introduction to the Indian tradition, Routledge, 2000, trang 202
[20] Xem tiểu đoạn “Triết Lý về Chuyển Hóa” (Phowa) của Mật giáo trong Chương 8 của luận này.
[21] Như tôi đã kết luận “không có Long Thọ thì các giáo pháp của Phật giáo Đại thừa chỉ là các tin ngưỡng xây trên cát” để giải thích tại sao tư tưởng Long Thọ trở nên lập cước cơ bản của các tông môn Đại thừa. Người học Phật không thể hiểu giáo lý Phật giáo Đại thừa nếu không học Long Thọ. Xem Tùng Thư Long Thọ và Tính Không, đặc biệt là luận Triết Học Long Thọ, nxb Thế Giới, 2016
[22] Sự Sự Vô Ngại là cảnh giới cao nhất của Tứ Chứng Pháp Giới (lý, sự, lý sự vô ngại, sự sự vô ngại) đã nói trong phần “Kinh Hoa Nghiêm ảnh hưởng trong Mật giáo” Chương 3. Cảnh giới sự sự vô ngại là cảnh giới giải thoát, nơi tất cả các sự việc có giới hạn, có lớn nhỏ, có mâu thuẫn đều không còn là chướng ngại (vô ngại).
[23]
[24] Huang, Zhengliang; Zhang, Xilu. "Research Review of Bai Esoteric Buddhist Azhali Religion since the 20th Century". Journal of
[25] Đại Chính T. 1780, tr. 853a
[26] Ở Việt
[27] Tôi chỉ nhắc đến Lữ Trừng và Thánh Nghiêm vì hai vị này có nhiều sách dịch ở Việt
[28] Nakamura trong Indian Buddhism (xem chương 2)
[29] Theo Geshe L.L. Lai thì kẻ tham dự Đại Lạc coi như bị người thầy nắm “cả hồn lẫn xác” cho nên pháp môn Đại Lạc rất dễ bị người thầy lợi dụng.
[30] Rất ít người đọc được Lý Bất Nhị bình đẳng vô phân biệt nói rất rõ trong kinh Duy Ma Cật (Vimalakīrtinirdeśa) nhưng nhiều người biết hơn là do loại tiểu thuyết kiếm hiệp bình dân.
[31] Williams, Paul. Buddhist Thought: A complete introduction to the Indian tradition, Routledge 2000, trang 202. Theo Snellgrove (sđd) chú thích đây cũng chỉ là tư tưởng đã dẫn trong Mahayana-sutra-alamkara-karika của Vô Trước (Asanga).
[32] Hầu như các hoàng đế Trung Hoa đều có mời các Đạo gia chỉ dẫn cho bí pháp “phòng trung” trường thọ, nhưng thực tế thì đại đa số các vua Trung Hoa đều chết trẻ mặc dù có rất nhiều linh thảo thuốc báu của các ngự y hỗ trợ. Cách đây 40 năm tôi có dịch một thủ thư về phép đạo dẫn này, nhưng theo lời khuyên của một đại sư Đạo giáo nên không xuất bản.
[33] Kuṇḍalinī nghĩa đen là con rắn hay hỏa xà, hình dung về năng lượng tâm linh, giống như con rắn cuộn mình ngủ ở đốt cuối cùng của cột sống. Nếu được đánh thức bằng tập trung quán tưởng nó sẽ đi ngược trở lên từ trung khu (cakra) này tới sáu trung khu khác, đánh dấu sáu giai đoạn phát triển đi lên của sức mạnh tâm linh.
[34] Độc giả nên đọc danh tác Creative Meditation and Multi-Dimensional Consciousness (
[35] Chúng ta cần nhắc lại sự quan trọng của việc đồn thổi từ văn hóa truyền thống bản địa càng khiến cho các tập tục “truyền thống” như Đại Lạc thêm sức mạnh. Tỷ như thói quen ăn thịt chó ở Việt
[36] Sogyal Rinpoche tác giả sách The Tibetan Book of Living and Dying ‘Tử Thư Tây Tạng’ được dịch ra 30 ngôn ngữ bán nhiều triệu quyển khắp 56 quốc gia, hiện đã có 2 bản dịch Việt văn. Sogyal Rimpoche là tông chủ Rigpa quốc tế có hơn 100 tự viện ở 23 quốc gia.
[37] Khi tính giao rất khó thoát được tư tưởng tình dục. Tình dục là điều cản trở sống chết của người hành trì pháp môn Đại Lạc chưa kể nói về việc thưa kiện về các tội tình dục. Một chìa khóa cho việc thực chứng của người thực sự hành trì thành công pháp môn Đại Lạc là không để sinh sản. Cho nên trong quá khứ những hành giả tu tập Đại Lạc thì có thể rất bình thường, nhưng nếu “dại sư” đã có con cháu thì ta biết rằng họ không đắc được pháp này.
[38] Độc giả muốn biết về mặt trái của hai đại thiền sư quốc tế này có thể tìm kiếm trong internet dưới hai từ khóa Chogyam Trumgpa, Sogyal Rimpoche.
- Từ khóa :
- Pháp Môn Đại Lạc