Thư Viện Hoa Sen

Tiểu Sử Khenpo Tsultrim Gyamtso Rinpoche (1935-2024)

10/07/20241:19 SA(Xem: 1268)
Tiểu Sử Khenpo Tsultrim Gyamtso Rinpoche (1935-2024)
VŨ ĐIỆU ĐẠI LẠC
Tiểu Sử Khenpo Tsultrim Gyamtso Rinpoche (1935-2024)
Dzogchen Ponlop Rinpoche soạn | Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ
 

blankNgài đại diện hoạt động của chư Thắng giả ba thời,

Là lực lượng và đồng minh cắt đứt lưới tồn tại luân hồi.

Tràng chư vị Karmapa xuất hiện khắp thời kỳ,

Đấng bảo hộ chúng sinh, bạn duy nhất cho những kẻ mong cầu giải thoát,

Con đặt Ngài trên đỉnh đầu và dâng cúng dường!

 

Múa vũ điệu kim cương của hình tướngtính Không,

Ngài lướt trên bầu trời tự tại bản tính chân thật của sự thực.

Hát bài ca kim cương của âm thanhtính Không,

Ngài xua tan bóng tối khỏi tâm của những kẻ may mắn.

Ý Ngài, lạc kim cươngtính Không,

Khơi dậy năng lượng của trí tuệ vĩ đại –

Yogi vô úy mà mọi ý nghĩ giải thoát ngay tại chỗ,

Dechen Rangdrol, xin hãy khởi lên từ giữa tim con.

 

Khenchen Tsultrim Gyamtso, vị cũng được biết đến là Dechen Rangdrol, uyên bác về Kinh, Mật cũng như mọi lĩnh vực kiến thức chính và phụ. Sự hiển bày thành tựu của Ngài về kinh nghiệmchứng ngộhoàn toàn viên mãn. Ngài nổi tiếng khắp thế giới, cả ở phương Đông cũng như phương Tây. Chúng sinh ngu dốt, bình phàm như tôi chẳng thể nào viết một tiểu sử đúng đắn, miêu tả những hoạt động đầy đủ của vị đạo sư này, Kim Cương Trì, ở cấp độ bên ngoài, bên trong và bí mật của chúng. Tuy nhiên, tôi không dám từ chối mệnh lệnh từ chúa tể của chư Thắng giả, Đức Karmapa vinh quang, Ngài Orgyen Drodul Trinle Dorje, vị đã yêu cầu tôi kết tập quyển này. Hơn thế nữa, năm 1993, tôi có phước báu được viết lại hầu hết bản tự truyện của đạo sư Kim Cương Trì, điều mà Ngài trực tiếp kể cho tôi. Vì thế, sau đây sẽ là một miêu tả về tiểu sử của đạo sư ở cấp độ bên ngoài của những hình tướng thông thường.

Câu chuyện sẽ được kể thành bảy phần; mỗi phần xuất hiện tương ứng như trong tự truyện tuyệt vời của Ngài:

  1. Sinh Ra Trên Thế Gian Này
  2. Vô Thường Và Thay Đổi
  3. Hành Hương Đến Những Địa Điểm Nhập Thất Linh Thiêng
  4. Nghịch Duyên Làm Hỗ Trợ, Tinh Tấn Trong Thực Hành
  5. Lang Thang Ở Những Chốn Hẻo Lánh Và Nghĩa Địa
  6. Trở Về Với Tri Kiến, Cắt Đứt Tạo Tác
  7. Tinh Tấn Làm Lợi Lạc Giáo – Chúng Theo Lệnh Của Đấng Rangjung Rigpe Dorje

 

1. Sinh Ra Trên Thế Gian Này

Rinpoche sinh năm 1935 (năm Mộc Hợi cái Tây Tạng của chu kỳ thứ mười sáu) ở vùng Tây Tạng nổi tiếng là Gomde Nangchen[1]. Vùng này được gọi như vậy là bởi vào thời Tishri Repa Karpo[2] và những vị khác, giáo lý của truyền thừa thực hành đã phát triển mạnh mẽ; những vị chủ hộ nam và nữ cũng chuyên tâm thiền định và thọ nhận chỉ dẫn thiền định sâu sắc. Địa điểm cụ thể nơi Ngài chào đời là vùng trung tâm của Nangchen được gọi là Traripu[3]. Cha của Rinpoche là ông Namgyal Phuntsok, hậu duệ của tộc Gabu Drachung[4]; mẹ của Ngài là bà Mani Wangmo. Lúc chào đời, Ngài được đặt tên là Sherab Lodro[5].

Ở đây, tự truyện vĩ đại nói rằng:

Khi sinh ra, tôi sinh ra một mình.

Khi qua đời, chắc chắn tôi ra đi một mình.

Biết vậy, tôi hoan hỷ, giữa hai giai đoạn này,

Ở những chốn cô tịch, nơi tôi lang thang một mình,

Tìm kiếm con đường giải thoát.

 

2. Vô Thường Và Thay Đổi

Cha mẹ Rinpoche sinh ra bảy người con – năm trai và hai gái – nhưng hai người con đã chết trẻ. Khi Ngài lên hai, cha Ngài qua đời trong lúc đi buôn bán. Trước mất mát này, mẹ Ngài trở nên vô cùng đau buồn; từ quan điểm bên ngoài, bà cùng với tất cả những người con khác xuất hiệnvô cùng đau khổ trong khoảng một tháng. Thế nhưng Rinpoche thì khác: Ngài có thể đáp lại bi kịch này bằng cách sử dụng nó như là cơ hội để đưa mọi kinh nghiệm dễ chịu và khó chịu vào thực hành con đường. Trong tự truyện, Ngài nhớ lại rằng:

Kể từ khi còn rất nhỏ khi ấy, tôi đã không có bất kỳ định kiến rắn chắc nào về điều đã xảy ra. Bởi vậy, tôi nhớ lại rằng, tôi đã không trải qua bất kỳ khổ đau nào. Sự chắc chắn vững chắc sinh khởi trong tôi rằng khổ đau khởi lên chỉ từ những ý nghĩ.

Khoảng một năm sau, mẹ Ngài đến một ẩn thất rất hẻo lánh và đẹp đẽ tại nơi được gọi là Động Thác Nước[6]; tại đó, bà bắt đầu thực hành Nyungne Nghìn Phần, một khóa nhập thất nhịn ăn. Rinpoche đi cùng mẹ khi ấy. Đêm nọ trong khóa nhập thất, Rinpoche thốt lên tên của một trong những anh trai của Ngài, nói thêm rằng, “Anh đã mất!”. Về sau, [mọi người phát hiện ra rằng,] thực sự anh trai Ngài đã qua đời vào thời điểm ấy, sau khi du hành đến Tu viện Ngor để thọ giới Tỳ Kheo. Đây là ví dụ về cách mà Rinpoche sở hữu nhận thức cao hơn theo cách thức vô ngại ngay từ khi còn rất nhỏ.

Một phẩm tính tuyệt diệu khác mà Rinpoche sở hữu từ khi còn nhỏ là khả năng nhớ về các đời quá khứ, điều mà Ngài nhắc đến trong tự truyện:

Người ta thường nói rằng một số đứa trẻ nhớ được đời quá khứ, bên cạnh việc sở hữu những sức mạnh nhận thức khác; nhưng chúng dần dần bị lãng quên. Tôi đã có được sự chắc chắn về điều này nhờ trải nghiệm của bản thân. […] Hơn thế nữa, đôi lúc tôi thấy những vách đá hay hang động và tự nhủ, “Tôi phải thực hành ở đây trong tương lai”. Lúc khác, nếu tôi nhận thấy một mảnh đất trông ưa nhìn trên một vách đá, tôi thường nghĩ, “Sau này, tôi phải xây một tịnh thất ở đây”. Tôi thường xuyên có những kiểu suy nghĩ như vậy. Dường như chúng khởi lên bởi những tập khí từ việc thiền định trong hang động trong quá khứ hoặc bởi chúng là dấu hiệu rằng tôi sẽ nỗ lực nhập thất trong tương lai.

Như thế, rõ ràng là từ thời thơ ấu, Rinpoche, một bậc chứng ngộ cao, đã đánh thức tiềm năng giác ngộ lớn lao. Dẫu vậy, Ngài hành xử theo nhiều cách thức từ quan điểm của thế giới bình phàm: Lúc ở cùng những người bạn thích Giáo Pháp, Ngài thường chơi trò chơi như bắt chước trì tụng nghi thức. Khi ở cùng những người bạn nghịch ngợm, Ngài thường chơi cùng, ném đá vào chim và v.v. Ngày nọ, Ngài ném trúng một con chim nhỏ và gây ra vết thương chí tử. Ngài giữ con chim trong tay cho đến khi hơi ấm hoàn toàn biến mất. Thấy điều mà Ngài vừa làm với sinh vật này và ngập tràn lòng bi mẫn, Ngài òa khóc. Trong tự truyện, Ngài kể lại cách mà nhờ sự kiện này, những người bạn sai lầm của Ngài đánh thức tập khí đại bi trong Ngài và thúc đẩy sự tận tụy với thiện hạnh của Ngài:

Tôi nghĩ rằng khi ấy, những tập khí sinh ra từ việc trưởng dưỡng lòng bi mẫn trong các đời quá khứ đã được đánh thức trong tôi.

 

3. Hành Hương Đến Những Địa Điểm Nhập Thất Linh Thiêng

Tự truyện nói rằng:

Nhìn chung, dân chúng xứ Kham thích hành hương đến các thánh địa. Tôi vẫn thường đi hành hương từ thuở ấu thơ.

Như vậy, Rinpoche đã trải qua nhiều gian khổ trong hai chuyến hành hương, vào hai giai đoạn khác nhau trong đời, đến những thánh địa vĩ đại của Tây Tạng. Trong chuyến hành hương đầu tiên, Ngài và em gái Bukyi được mẹ dẫn đi hành hương khắp Tây Tạng. Theo truyền thống của những người hành hương ở Đông Tây Tạng, gia đình tự mình chất những gánh đồ lớn gồm nhu yếu, chăn nệm và v.v. rồi khởi hành về miền Trung Tây Tạng từ Nangchen. Ngày nọ, khi gia đình đang vượt qua một ngọn đèo đặc biệt cao, Rinpoche trở nên mệt mỏi và tức giận; vì thế, Ngài bỏ đi một mình, leo núi theo hướng khác, cho đến khi Ngài đi khá xa với mẹ và em gái.

Sau đó, Ngài nghe thấy mẹ và em gái hét lên, “Một con gấu nâu đang đến gần! Mau mau quay về đây!”. Sức mạnh đơn thuần của nỗi sợ hãi khởi lên trong Rinpoche khi ấy khiến cơn giận dữ trước đó hoàn toàn tan biến. Ngài nhanh chóng chạy về với gia đình. Thực sự, bởi những cảm giác sợ hãi sống động, Ngài thậm chí quên cả gánh nặng đang mang. Tự truyện nói rằng:

Khi tôi trở về với mẹ và em gái, cả cơn giận và nỗi sợ đều biến mất và tôi vui vẻ trở lại. Mặc dù khi ấy tôi không biết, bây giờ, sau khi quán chiếu cẩn thận, tôi thấy rằng sân hận, sợ hãi và ngay cả sự hân hoan, đều đơn giản phụ thuộc vào những ý nghĩ của tôi.

Từ điều này, chúng ta có thể thấy cách mà Rinpoche học cách tận dụng hoàn cảnh, đưa cảm xúc vào con đường và biến chúng thành hoàn cảnh tích cực.

Chuyến hành hương bắt đầu ở Kham và hướng về phía Bắc đến Tu viện Jang Tana[7], trụ xứ của đấng bảo hộ chúng sinh – Sangye Yelpa[8]. Ở đó, Ngài chiêm bái những tôn tượng vô cùng đẹp đẽ của Đức Gesar Xứ Ling cùng vị phối ngẫu Drukmo và ba mươi hiệp sĩ. Ngài phát nguyện trước những tôn tượng này cũng như nhiều vật và cội nguồn linh thiêng hiếm có khác, chẳng hạn giáo mác, cung và kiếm của những chiến binh xứ Ling.

Đi qua các vùng thuộc Nam Tây Tạng như Chudo ở Powo, Rinpoche viếng thăm Kongpo Bonri, núi thiêng nổi tiếng với truyền thống Bon. Sau đấy, Ngài đến Taklha Gampo, trụ xứ của Pháp chủ Gampopa. Ngài cũng viếng thăm các thánh địa được chư vị Karmapa gia trì. Ngài viếng thăm tất cả những nơi này bằng cách đi nhiễu vòng lớn theo chiều kim đồng hồ.

Ngài cũng viếng thăm mọi thánh địa trong vùng Yarlung, bao gồm Yumbu Lakhar, cung điện đầu tiên của Đức Nyatri Tsenpa, vị vua đầu tiên của Tây Tạng; Yarlung Sheldrak, động thực hành của Đạo Sư Liên Hoa Sinh; và Sảnh Đường Độ Mẫu Tara tại Chùa Tradruk[9]. Sau đó, Ngài viếng thăm Tu viện Samye ‘Chùa Bất Biến Tự Sinh’, được xây dựng bởi Đức Liên Hoa Sinhđạo sư xứ Uddiyana, vị vua Giáo Pháp Trisong Detsen và Đại Phương Trượng Tịch Hộ. Rinpoche dâng cúng dường đến chùa chính cùng với các tòa nhà, đại diện cho bốn lục địa và tiểu lục địa.

Từ Samye, Rinpoche đi qua đèo Gokar và tiến về Lhasa. Trong chuyến đi đó, Rinpoche và gia đình hết sạch lương thực mà họ mang theo; vì thế, họ đã đi xin ăn. Họ nhận được Tsampa chỉ đủ cho bữa sáng và mẹ của Ngài giữ phần Tsampa này trong túi. Bỗng nhiên xuất hiện một con chó nhỏ cắn chiếc túi, khiến cho Tsampa rơi vãi trên mặt đất. Rinpoche kể lại điều này trong tự truyện:

Tôi không biết mẹ và em gái đã cảm thấy thế nào, nhưng về phần mình, tôi thấy đói và điều này xảy ra ngay khi chúng tôi sắp được ăn. Tôi vô cùng buồn bã. Bây giờ khi nghĩ về điều đó, cảm giác đã khởi lên trong tôi khi đó chẳng khác với cảm giác của một người giàu có bị mất hết tài sản.

Ngài cũng trao những chỉ dẫn Giáo Pháp liên quan đến sự kiện này dưới dạng đoạn kệ:

Nếu bạn bám chấp vào những lạc thú của sự tồn tại bình phàm,

Dù bạn là vua mất đi vương quốc,

Hay gã ăn xin mất đi đồ ăn, về điều này, tôi chắc chắn:

Khổ đau mà tâm bạn chịu đựng cũng giống nhau.

[…]

Khi quán chiếu về cách mà khổ đau bởi bám chấp

Không thay đổi mà duy trì trong thời gian dài, dù có nhiều lạc thú,

Bạn sẽ hiểu rằng khổ đau của người nghèo là tạm thời,

Và lòng bi dành cho người giàu có, kẻ bám chấp vào sự tồn tại thực sự, sẽ tăng.

Rinpoche hoàn thành chuyến đi đến Lhasa, viếng thăm những địa điểm linh thiêng nhất ở thành phố. Sau khi rời Lhasa, Ngài trở về Kham bằng cách đi từ Bắc xuống Nam. Theo cách này, tất cả những thánh địa được đi vòng quanh theo một tuyến đường đi nhiễu lớn theo chiều kim đồng hồ. Trên đường xuôi về từ phía Bắc, Ngài có trải nghiệm lạ thường, điều mà Ngài miêu tả trong tự truyện:

Như thể tôi đang nằm mơ nhưng cùng lúc, tôi thực sự nghe thấy âm thanh của một con gấu và như thể tôi thực sự cảm thấy sự hiện diện của nó. Vô cùng đáng sợ. Bây giờ khi xem xét trải nghiệm này, tôi có thể thấy rằng đây chỉ là trò ma quỷ rõ ràng của khía cạnh tâm, thứ đã quen với sợ hãi. Tôi có thể thấy chắc chắn rằng nguyên tắc tương tự áp dụng với những thiền định về vô ngã, tính Khôngchư Tôn cùng đàn tràng của Kim Cương thừa: bằng cách vun bồi sự quen thuộc với chúng, những hình tướng rõ ràng liên quan đến những sự thực này sẽ tăng.

Rinpoche trao những đoạn kệ chỉ dẫn sau đây:

Bằng cách trở nên quen thuộc với sợ hãisân hận,

Những hình tướng rõ ràng của chúng sẽ thực sự tăng thêm.

Thấy vậy, bạn có thể tận dụng hoàn cảnh:

Nhờ làm quen, bạn dứt khoát có thể phát triển những hình tướng rõ ràng

Về tính Không, chư Tôn, đàn tràng và v.v.

[…]

Người ta nói rằng thật khó để đền đáp lòng từ của cha mẹ,

Nhưng đền đáp lòng từ của cha mẹ, khi mà họ

Là người giới thiệu bạn với Giáo Pháp còn khó hơn.

Biết vậy, tôi cầu nguyện rằng tất cả chúng sinh như mẹ đều đạt giác ngộ.

Cuối cùng, Rinpoche an toàn trở về quê hương.

Đấng đạo sư mười bảy tuổi khi tiến hành chuyến hành hương thứ hai ở Tây Tạng và lần này, Ngài du hành cùng với một anh trai và một chị gái. Họ đi tuyến “giữa” hướng về phía Bắc, cuối cùng đến Lhasa. Tự truyện kể rằng:

Khi mới khởi hành, chúng tôi phải mang theo nhiều thứ, bao gồm đồ ăn như thịt, bơ và Tsampa, cùng với chăn nệm. Điều này khiến cho hành lý rất nặng. Vì thế, chúng tôi trải qua ba giai đoạn khổ đau: ban đầu, có khổ đau bởi phải mang nhu yếu nặng. Ở giữa, có khổ đau bởi biết rằng nhu yếu đang cạn dần. Và cuối cùng, có khổ đau bởi chẳng còn nhu yếu. Trong ba điều này, khổ đau của việc có đầy đồ đạc thiết yếu là tồi tệ nhất, bởi nó gồm hai: đồ đạc thì nặng mà khó mang và người ta liên tục lo lắng việc bị trộm – cướp lấy mất hoặc nếu không thì là việc mất chúng.

Ngài đã trao đoạn kệ chỉ dẫn sau đây:

Kyema! Khi xoay vòng trong sự tồn tại của chấp ngã,

Chẳng có lựa chọn nào ngoài nương tựa đồ ăn và tài sản.

Nhưng thấy được khổ đau của tích lũy và mất mát,

Lòng hăng hái lớn sinh khởi về cách thức

Của Yogi thoát khỏi hành động, thoát khỏi bám chấp.

Rinpoche tiếp tục hành hương đến Lhasa, viếng thăm các thánh địa như Samye, dâng cúng dườngphát nguyện như trước. Để viếng thăm địa điểm nơi những người Tạng đầu tiên từng sống, Rinpoche khởi hành đến chiêm bái thánh địa Yarlung. Để đến đó, Ngài phải vượt qua một nhánh nhỏ của Sông Brahmaputra tại Tsethang. Khi đến giữa dòng, nước bỗng nhiên dâng lên. Bất ngờ, Rinpoche thấy mình sắp bị dòng nước nhấn chìm. Khi ấy, Ngài trực tiếp được Bổn tôn Thánh Cứu Độ Mẫu bảo vệ. Tự truyện của Ngài chia sẻ rằng:

Tôi đã có niềm tin lớn lao với Độ Mẫu Tara tôn quý từ khi còn rất nhỏ và đã tham gia vào thực hành Độ Mẫu trong thời gian dài. Ở đó, trên dòng nước, tất cả ý nghĩ trong tâm tôi về ba thời ngừng lại và tôi thiết tha cầu nguyện đến Độ Mẫu Tara. Mặc dù tôi không biết bơi, điều tiếp theo mà tôi biết là tôi đã đi thẳng vào bờ.

Ngài hát lên đoạn kệ chỉ dẫn sau đây:

Sau một trải nghiệm khổ đau thật khó chịu đựng,

Tôi trở nên hạnh phúcrạng rỡ hơn trước.

Hạnh phúc và khổ đau đều thay đổi; chúng vô thường.

Đừng để bám chấp vào sự vĩnh cửu lừa dối tâm.

Hôm sau, ba anh em đến được một Tu viện ở Tsethang và từ đó, viếng thăm mọi thánh địa của Yarlung. Một lần nữa, vượt qua đèo Khyak và Gokar và v.v. sử dụng tuyến đường phía Bắc, họ trở về nhà bình an.

Tóm lại, Rinpoche khi ấy không áp dụng lối tiếp cận hành hương như một kiểu kỳ nghỉ thoải mái như nhiều đạo sư lớn hay người quan trọng ngày nay. Thay vào đó, Ngài thực hành theo bước chân của những vị có phước báu và niềm tin, trải qua gian khổ lớn lao để thực hành Giáo Pháp chân chính. Ngài tiến hành hành hương theo kiểu của một người bình thường, khiêm nhường và nhờ những trải nghiệm đặc biệt trên đường, Ngài thu thập những tích lũy về công đứctrí tuệ, tịnh hóa những che chướng. Theo cách này, Ngài phát triển kinh nghiệmchứng ngộ độc đáo. Sau này, Rinpoche vẫn luôn hỗ trợ những người hành hương bình phàm ở Ấn Độ và Nepal để họ có thể thực hành Giáo Pháp chân chính. Ngài biết rõ vui – buồn của họ và đặc biệt hoan hỷ trước nỗ lực của họ.

 

4. Nghịch Duyên Làm Hỗ Trợ, Tinh Tấn Trong Thực Hành

Từ năm lên tám đến khi mười chín tuổi, Rinpoche nương tựa Độ Mẫu Tara tôn quý là Bổn tôn và tham gia vào thực hành Tara. Nhiều dấu hiệu tuyệt vời về những thành tựu trong thực hành đã khởi lên, chẳng hạn giấc mơ mà trong đó một người phụ nữ xinh đẹp, hấp dẫn bảo vệ Ngài khỏi sợ hãi. Từ đó trở về sau, đấng đạo sư xem Độ Mẫu Tara tôn quý là Bổn tôn chính cho sự hành trì liên tục. Ngài đã khám phá một lời cầu khẩn đến Độ Mẫu Tara như là kho tàng tâm và Ngài cũng biên soạn một bài ca cầu khẩn khác đến Độ Mẫu Tara, cùng với bài ca tán thán miêu tả cách mà Bà bảo vệ khỏi tám và mười sáu kiểu sợ hãi. Ngài phát triển một vũ điệu kim cương kèm theo những lời cầu nguyện sau và đệ tử của Ngài cho đến hiện nay vẫn tiếp tục thực hành những bài ca và điệu múa này.

Mười chín tuổi, Rinpoche bị ốm nặng. Trong tự truyện, Ngài chia sẻ rằng đây là lần đầu tiên Ngài cảm nhận nỗi sợ hãi cái chết và nhớ về cách mà Ngài xem hoàn cảnh tiêu cực, sự bất hòa của các đại mà bệnh tật đem đến, như là một thiện tri thức tâm linh:

Nỗi sợ này, thứ gây ra bởi sự vô thường, khiến tôi quán chiếu sâu sắc hơn về chính lẽ vô thường. Nó giúp tôi hiểu rằng những nỗ lực xoay quanh đời này chẳng có ý nghĩa thực sự. Lặp đi lặp lại, những ý nghĩ này khởi lên trong tôi, “Nếu tôi không chết vì căn bệnh này, tôi sẽ thành tựu Giáo Pháp chân chính”. Tôi nhiều lần phát nguyện như vậy. Căn bệnh khiến cổ sưng lên. Cuối cùng, mủ bắt đầu chảy ra từ cổ và tôi nhanh chóng bình phục. Tôi trở về trạng thái mạnh khỏe trước kia; sự xác quyết đối với thực hành Pháp của tôi trở nên kiên cố.

Ngài cung cấp những đoạn kệ sau đây như là bài ca chỉ dẫn:

Kyema! Lặp đi lặp lại, tôi đã thiền định về khổ đau

Của tam giới luân hồi và về vô thường cũng như sự thay đổi.

Trải nghiệm cá nhân về khổ đau bởi thay đổi này

Là vị thầy đầu tiên khuyến khích tôi hướng về Pháp.

[…]

Bị nghịch cảnh bệnh tật giày vò,

Khổ đau cận kề cái chết, tôi thấy rằng

Chỉ Giáo Pháp chân chính mới cung cấp nương tựa,

phát nguyện giác ngộ vì lợi của chúng sinh khác.

Để thực hành Giáo Pháp chân chính một cách chuẩn xác, Rinpoche biết rằng Ngài cần nương tựa đạo sư, một thiện tri thức tâm linh. Ngài bắt đầu hành trình bằng cách du hành đến Dzongsar ở Dege, nơi Ngài hạnh ngộ Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro[10]. Từ vị này, Ngài thọ nhận toàn bộ đại quán đỉnh về Hevajra vinh quang, Bổn tôn chính yếu của truyền thống Sakya tôn quý. Từ hai trao truyền của truyền thống Lamdre (Đạo – Quả) – Giải Thích Cho Đại ChúngGiải Thích Cho Đệ Tử, Rinpoche thọ nhận trao truyền Giải Thích Cho Đệ Tử, cùng với trao truyền riêng về những biểu tượng sâu xa. Ngài cũng thọ nhận thực hành bên ngoài và bên trong của Virupa, thực hành bên ngoài và bên trong về Con Đường Sâu Xa, thực hành Kim Cương Du Già Nữ Naro Khechari, Trích Yếu Nghi Quỹ (Drubtab Kuntu) và nhiều trao truyền khác.

Khi ấy, Dezhung Rinpoche[11], một đạo sư uyên bácthành tựu, vị đã thọ Giải Thích Cho Đệ Tử năm lần, đóng vai trò là Kyorpon (vị thầy trợ giảng) cho Chokyi Lodro Rinpoche. Từ vị này, Rinpoche học toàn bộ những bài tập du già về kinh mạch và khí (Tsalung); Ngài cũng thọ khẩu truyền cho toàn bộ trước tác của Năm Tổ Sakya[12]. Tự truyện kể rằng:

Trong lúc là Kyorpon, Ngài dạy tôi về kinh mạch và khí như trong truyền thừa Kagyu. Ngài cũng kể về tiểu sử của nhiều thành tựu giả Kagyu. Như thế, trong lúc thọ nhận giáo lý từ truyền thừa Sakya, niềm tin của tôi với Giáo Pháp Kagyu cũng tăng trưởng.

Như thế, Rinpoche hoàn hảo thọ nhận quán đỉnh chín muồichỉ dẫn giải thoát; sau đó, Ngài trở về quê hương.

Vị đạotiếp theo mà Ngài nương tựa là Lama Zopa Tharchin[13] đáng kính. Khi Rinpoche lần đầu tiên nghe được danh hiệu của vị này và về việc vị này nổi tiếng vì sống chủ yếu trong hang động và là một Yogi thoát khỏi hành động giống như Tổ Milarepa, thoát khỏi mọi bám chấp về đồ ăn, của cảitài sản, niềm tin khởi lên và Rinpoche khởi hành đến Khampe Dorje Drak[14]. Tự truyện kể rằng:

Khi tôi lần đầu tiên gặp đạo sư, Ngài đang đọc từ tiểu sử của Đức Bà Machik Labdron[15]. Đặc biệt, Ngài đã đến phần kể về cách mà khi chào đời, Đức Bà Machik có thể bay lên cách mặt đất khoảng nửa mét và duy trì ở đó trong tư thế nhảy múa, ba mắt nhìn chằm chằm hư không. Khi ấy, đôi mắt của đạo sư nhìn thẳng vào tôi. Ngài bảo tôi rằng đây là duyên khởi cát tường.

Như thế, theo cách thức tương tự như khi Milarepa lần đầu hạnh ngộ Tôn giả Marpa, những hoàn cảnh cát tường cho lần đầu tiên gặp gỡ giữa đạo sưđệ tử đã hội tụ xuất sắc.

Lama Zopa Tharchin đáng kính đã bước vào đời sống tu sĩ tại Tu viện Dilyak vinh quang[16]. Về sau, Ngài hoàn thành khóa nhập thất ba năm truyền thống. Ngài cũng tiến hành “hành hương lễ lạy[17]” từ Kham đến Lhasa, một chuyến hành hương mà trong đó, kinh nghiệmchứng ngộ đặc biệt đã bám rễ trong tâm Ngài. Tự truyện kể rằng:

Tôi từng hỏi đạo sư về trải nghiệm tiến hành hành hương lễ lạy của Ngài. Ngài kể rằng ban đầu rất khó, bởi va chạm với đất – đá gập ghềnh là chuyện khá khó chịu. Tuy nhiên, khi đã trở nên quen, Ngài nói, chẳng còn khó khăn mấy. Và khi đã hoàn toàn thích nghi, mọi chuyện như thể là thân thể đạt được tiềm năng thích ứng trọn vẹn: thân cảm thấy thoải mái và nhẹ nhàng; tâm, trong trạng thái thích ứng mới được tạo ra, thoát khỏi sự uể oải và khích động và sở hữu sự sáng tỏ lớn lao, Ngài đã nói như thế. Sự sáng tỏ được tăng cường này của tâm đôi lúc chạm đến điểm mà đạo sư cảm thấy Ngài sắp đạt được sức mạnh nhận thức cao hơn. Tuy nhiên, Ngài nhớ về những chỉ dẫn sâu xa của đạo sư lặp đi lặp lại và nhờ đó, Ngài tiếp tục tiến lên, thoát khỏi mọi bám chấp hay cảm giác đam mê việc đạt được kết quả như vậy.

Sau đó, Lama Zopa Tharchin (Zothar) đóng vai tròđạo sư nghi lễ (Dorje Lopon/Kim Cương Thượng Sư) trong ba năm. Khi hoàn thành những nhiệm vụ này, Ngài phát nguyện thực hành nhất tâm trong một hang động trong thung lũng mà không có người nào khác. Thoát khỏi những thoải mái của chỗ ở quen thuộc, Ngài du hành đến Khampe Dorje Drak, một động thực hành cách Tu viện Dilyak nửa ngày đường. Tại địa điểm này, Lama Zothar trải qua vô vàn khó khăn để thực hành Pháp, buông bỏ mọi bận tâm với lạc thú của đời này.

Chính từ vị đạo sư này, tại nơi này, Rinpoche thọ những chỉ dẫn về Mahamudra – Đại Ấn. Sau khi hoàn thành tốt những thực hành sơ khởi bên ngoài, phổ thông của Đại Ấn, thực hành sơ khởi bên trong, phi phàm và bốn thực hành sơ khởi đặc biệt, Rinpoche thọ nhận những giải thích về con đường Đại Ấn sâu xa, thứ cắt đứt mọi tạo tác quan niệm. Đó không đơn giản là những bài giảng dựa trên kinh văn; chúng là trao truyền sâu xa, một – một, được ban theo lối chỉ dẫn truyền miệng trực tiếp rõ ràng (Martri).

Khoảng một lần mỗi tuần, sau khi hoàn thành một giai đoạn thực hành miên mật, Rinpoche cúng dường sự chứng ngộ (Tokbul) lên đạo sư, thọ nhận chỉ dẫn trực chỉ tiếp theophương pháp để xua tan chướng cản và tăng cường thiền định. Theo cách này, Ngài thọ nhận toàn bộ mọi phương phápchỉ dẫn truyền thống của truyền thừa Kagyu.

Lama Zothar thường nhắc danh hiệu của Drupon Tenzin Rinpoche[18] với Rinpoche, vị mà Ngài nói rằng nắm giữ trao truyền Sáu Pháp của Naropa, con đường của phương tiện[19]. Như thế, Rinpoche phát triển mong muốn được hạnh ngộ Drupon Tenzin Rinpoche và thọ nhận giáo lý về Sáu Pháp từ Ngài.

Nhưng trước khi hoàn thành giai đoạn rèn luyện này với Lama Zothar, Rinpoche thọ nhận quán đỉnh cho thực hành Chod (cắt đứt) sâu xa từ Ngài, cũng như chỉ dẫn cho các quán tưởng của thực hành Chod và v.v. theo lối chỉ dẫn trực tiếp, cá nhân, mà không nương tựa những bản văn. Sau đó, Rinpoche thực hành Chod mỗi tối không gián đoạn.

Theo lệnh của đạo sư, Rinpoche sau đấy khởi hành về Tu viện Dilyak để hạnh ngộ đạo sư nhập thất Lama Sangye Phuntsok. Khi ấy, Ngài cũng gặp Khenpo Tsegyam, người sống cùng Lama Sangye Phuntsok tại trung tâm nhập thất và Karma Trinley Rinpoche, vị mà cùng với đoàn tùy tùng, đã đến thăm. Lama Sangye Rinpoche bảo Rinpoche và những vị khác rằng mặc dù hành giả Kagyu có truyền thống thực hành mạnh mẽ, có rất ít đạo sư Kagyu uyên bác về nhận thức xác thực (nhận thức luận và lô-gic Phật giáo). Ngài nói trong tương lai, sẽ rất lợi lạc với truyền thống Kagyu nếu giáo lý này được học hỏi tỉ mỉ hơn.

Lama Sangye Rinpoche sau đó hướng dẫn Rinpoche học hỏi giáo lý nhận thức xác thực từ Khenpo Tsegyam; Ngài cũng ban quán đỉnh Văn Thù Sư Tử Ngữ và bắt đầu truyền thống nghiên cứu nhận thức xác thực tại các trung tâm nhập thất khi ấy.

Rinpoche về sau thường nói về tác động mà sự nghiên cứu lô-gic và nhận thức luận Phật giáo đem đến cho thực hành thiền định của Ngài. Ngài nói về cách mà con đường của lập luận lô-gic hỗ trợ thực hành thiền định mà trước kia Ngài thọ nhận dựa trên chỉ dẫn cốt tủy, về cách mà nó tăng trưởng sự tin tưởng của Ngài với con đường, điều mà trước kia chủ yếu dựa trên niềm tin. Hơn thế nữa, nhờ những chỉ dẫn truyền miệng của đạo sư, Ngài trước kia thiền định về vô ngã và sự không tồn tại thực sự; sau này, nhờ nghiên cứu về nhận thức xác thực, sự xác quyết của Ngài về vô ngãtính Không ngày càng tăng; và những kinh nghiệm xuất sắc khác khởi lên trong dòng tâm Ngài. Như vậy, Ngài không chỉ trở nên yêu thích nhận thức xác thực mà cảm hứng đối với sự hành trì cũng được tăng cường.

Tuân theo chỉ dẫn từ đạo sư nhập thất Lama Sangye, Rinpoche nghiên cứu nhận thức xác thực trong khuôn khổ một khóa nhập thất thực hành. Rinpoche về sau nói rằng điều này hóa ra là một duyên khởi cát tường đối với những giáo lý của truyền thừa thực hành.

Một lần nữa, Rinpoche trở về sống cùng Lama Zothar đáng kính trong vài tháng. Lần này, đạo sư kiểm tra sự chứng ngộ của Ngài về bản tính chân thật, chẳng thể diễn tả của tâm và xua tan những nghi ngờ còn lại. Rinpoche phát triển quyết tâm vững chắc về việc lang thang từ động nhập thất này đến động khác, không bám chấp vào sở thích cá nhân, và nhiều lần phát nguyện điều này trở thành hiện thực.

 

5. Lang Thang Ở Những Chốn Hẻo Lánh Và Nghĩa Địa

Theo lệnh của Lama Zopa Tharchin đáng kính, Rinpoche đến Lawa Drub Puk[20], một động thực hành không quá xa nơi Rinpoche chào đời. Động này được biết là động thực hành của thành tựu giả Lawapa, vị được cho là đã bay diệu kỳ từ Ấn Độ đến đó và thiền định. Trong động rất hẻo lánh và dễ chịu này, Rinpoche chủ yếu thực hành Đạo Sư Du Già về Đức Liên Hoa Sinhtiểu sử Tổ Milarepa vào ban ngày, trong khi tinh tấn thực hành Chod vào ban đêm. Tự truyện kể rằng:

Khi thực hành một mình trong những hang động, điều quan trọng là đọc tiểu sử

Của Đức Milarepa và những bài ca chứng ngộ của Ngài nhiều lần …

Như thế, tôi đã thực hành, theo lệnh của đạo sư,

Trong hang động trống không, hẻo lánh

Được gia trì bởi đại thành tựu giả Lawapa.

Bây giờ, mặc dù tuổi trẻ đã qua, sự hài lòng của tôi lại tăng trưởng.

Đây là trải nghiệm đầu tiên của đạo sư của tôi về việc thực hành trong hang động một mình.

Đêm nọ trong khóa nhập thất, Rinpoche nằm mơ rằng tim Ngài bị một con quạ vồ lấy; nó bay đi dọc theo một dòng sông lớn chảy từ Tây sang Đông. Gần hang động mà Rinpoche đang thực hành, có một đạo sư tên là Lama Rabjor[21], nổi tiếngsở hữu sức mạnh nhận thức cao hơn một cách vô ngại. Rinpoche đến gặp Lama Rabjor, kể về giấc mơ và mong muốn chung về việc du hành đến Tsurphu. Đáp lại, Lama trao cho Rinpoche quán đỉnh Phổ Ba Kim Cương từ pho Sangtik[22], cùng với tiên đoán rằng Rinpoche cần đến miền Trung Tây Tạng.

Do đó, Rinpoche đã thực hành Phổ Ba Kim Cương trong động nhập thất Lawa và cũng cúng dường tiệc và phát nhiều lời nguyện. Sau đấy, Ngài khởi hành về miền Trung Tây Tạng. Tự truyện kể rằng:

Mong mỏi được diện kiến Đức Karmapa vinh quang, hiện thân hoạt động giác ngộ của tất cả Thắng giả và khát khao thọ nhận từ Drupon Tenzin Rinpoche những chỉ dẫn truyền miệng sâu xa về Sáu Pháp, tôi đã lên đường một mình, như kẻ khát đi tìm nước.

Trên đường đến miền Trung Tây Tạng, Rinpoche ngừng chân tại nhiều địa điểm hành hươngphát nguyện rằng giáo lý của Đức Phật phát triển và lan tỏa; tất cả vô lượng hữu tình chúng sinh sẽ được hạnh phúchoan hỷ. Cuối cùng, Ngài bình an đến được Tolung Tsurphu vinh quang[23], địa điểm được gia trì bởi mười sáu vị Karmapa vinh quang, bắt đầu từ Tổ Dusum Khyenpa. Tsurphu được xem là một thánh địa thù thắng về ý của Thắng Lạc Luân (Chakrasamvara). Tán thán địa điểm này, Ngài hát lên bài ca kim cương:

NAMO
Tam Bảo, Tam Cănvô lượng chư Tôn,

Con xem là quy y thù thắng từ nay đến giác ngộ.

Con sẽ tán thán chỉ một phần những phẩm tính

Của địa điểm Cứu Cánh này, một thánh địa về ý.

 

Từ Tôn giả Dusum Khyenpa cho đến

Ngài Rigpe Dorje, quy y không lừa dối,

Địa điểm thù thắng, vinh quang của ý giác ngộ này,

Cứu Cánh, được gia trì bởi mười sáu Karmapa tuần tự.

 

Núi đá ở đây có thể xuất hiện là rắn đặc,

Nhưng đấy chỉ là bịa đặt của ý nghĩ nhị nguyên:

Thực sự, chúng là hình tướng-tính Không, đàn tràng của chư Tôn.

Khi sự xác quyết về điều này trở nên ổn định,

 

Tất cả những vị thực hành ở đây

Sẽ tự nhiên hoàn thiện không nỗ lực

Những phẩm tính xuất sắc của các đạo và địa

Của đại mật Kim Cương thừa

Về điều này, tôi chắc chắn!

 

Tất cả chư vị Karmapa tương lai

Cũng chắc chắn sẽ chuyển Pháp luân ở nơi này.

Vì thế, nguyện những khe núi giữa các núi đá

Ngập tràn đệ tử của giáo lý Karmapa!

 

Như đàn ong với một vườn hoa,

Nguyện nam – nữ chí thành của thế giới

Lang thang tại những ẩn thất hẻo lánh này.

Nguyện danh tiếng của họ tràn khắp thế gian

Và nguyện những trái tim chí thành tỏa sáng rực rỡ!

Rinpoche bổ sung rằng:

Quán chiếu về những phẩm tính xuất sắc của cõi Cứu Cánh này, một thánh địa thù thắng của ý giác ngộ, tôi đã viết những lời này thành giai điệu và tinh tấn thực hành Đạo Sư Du Già về Đức Karmapa vinh quang.

Tại Tsurphu, cùng với tập hội tín đồ đông đảo, Rinpoche chứng kiến Đức Karmapa cử hành nghi lễ Vương Miện Kim Cương quý báu, giải thoát nhờ nhìn ngắm. Tự truyện kể rằng:

Ngay lúc ấy, tôi đã sở hữu sự xác quyết vững chắc rằng không phải chiếc mũ gia trì cho Đức Karmapa mà chính Đức Karmapa gia trì cho chiếc mũ. Vì thế, bằng tâm, tôi thỉnh cầu các quán đỉnh về thân, khẩu, ý của đạo sư và tưởng tượng, với sự tin tưởng, rằng tôi thọ nhận quán đỉnhgia trì từ thân, khẩu, ý giác ngộ. Nhìn chung, Vương Miện Kim Cương, thứ giải thoát nhờ nhìn ngắm, thật tuyệt diệu; nhưng đó chỉ là một ví dụ về trí tuệ tự sinh của Đức Karmapa. Tôi tin tưởng rằng chiếc ‘mũ’ chân thật của trí tuệ Đức Karmapa vẫn luôn ở bên bất khả phân với những hóa hiện tuần tự của Đức Karmapa và tôi trân trọng phước báu khi có được sự tin tưởng này. Tôi vẫn luôn cảm thấy chiếc mũ mẫu này là thứ gì đó mà Đức Karmapa hiển bày vì những đệ tử không thể thấy được mũ trí tuệ tự sinh của Ngài và rằng chính Đức Karmapa, bất kể hóa hiện nào, cũng đều có thể làm một chiếc mũ với bản tính mẫu mực này.

Sau đó, Rinpoche đến nghĩa địa lớn của Tsurphu, nơi Ngài thực hành, theo trình tự xuôi và ngược, thiền định về thập nhị nhân duyên. Tiếp đó, Ngài viếng thăm và thiền định trong động thiền định của Đức Karmapa thứ 9, Động Kyimo[24], động thực hành của Đấng Repa Chenpo[25] và các địa điểm khác. Ngài thiết tha được thỉnh cầu chỉ dẫn trực chỉ về Đại Ấn từ chúa tể vinh quang của chư Thắng giả, Đức Karmapa Rangjung Rigpe Dorje. Ngài đã thỉnh cầu một buổi diện kiến thông qua thị giả cá nhânlập tức được gặp Đức Karmapa. Tự truyện kể rằng:

Ngài hỏi tôi, “Tinh túy tâm con là gì?”. Lập tức tâm tôi thoát khỏi những ý nghĩ và trong chốc lát, tôi chẳng thể nói gì. Cuối cùng, tôi đáp rằng, “Khi phân tích tâm, con chẳng thể tìm thấy nó; nhưng khi nghỉ ngơi, nó sở hữu sự sáng suốt”. Ngài cười và bảo, “Đúng, chính là nó. Mọi đối tượng là hình tướngtính Không bất khả phân. Mọi trạng thái tinh thầnsáng tỏtính Không bất khả phân. Mọi cảm xúc là lạc – Không bất khả phân. Đấy là cách mà chúng thực sự là; hãy nhận ra chúng như vậy!”. Trong thoáng chốc, nhờ gia trì của đạo sư, tâm tôi lại thoát khỏi những ý nghĩ và tôi ngồi yên lặng. Ngài nhìn tôi rồi bảo, “Hãy thực hành như vậy trong hang động”. Tôi trở về động thực hành một lần nữa, quán chiếu nhiều lần về ý nghĩa của những lời Ngài nói. Tôi đạt được sự xác quyết mạnh mẽ rằng mặc dù từ ngữ của Ngài ngắn gọn, chúng sở hữu ý nghĩa sâu sắc và bao la. Nhờ quán chiếu về những chỉ dẫn truyền miệng sâu xa này, từ khi thọ nhận chúng đến nay, tôi hiểu rằng chúng chứa đựng những điểm sâu sắc, cốt yếu của tri kiến về toàn bộ Kinh điểnMật điển.

Tự truyện của Rinpoche tiếp tục làm sáng tỏ ý định trí tuệ từ ba dòng chỉ dẫn trực chỉ của chúa tể chư Thắng giả dưới dạng một bài ca chứng ngộ mở rộng.

Cũng chính trong giai đoạn này, Rinpoche gặp Drupon Tenzin Rinpoche. Trình bày đôi chút về tiểu sử của Drupon Tenzin, tự truyện tuyên bố rằng:

Ban đầu, Ngài bước vào và hoàn thành khóa nhập thất ba năm tại Tu viện Dilyak. Sau đấy, Ngài thực hành trong những giai đoạn dài trong hang động ở thung lũng không người, chẳng hạn Yopkok. Lama Zothar đáng kính nhiều lần kể cho tôi về những dấu hiệu tuyệt vời và diệu kỳ khởi lên từ sự hành trì của Drupon Tenzin trong giai đoạn này. Một lần nữa, Drupon Tenzin trở về Tu viện Dilyak, nơi Ngài đóng vai tròđạo sư nhập thất (Drupon/ sgrub dpon). Trong nhiều Yogi thoát khỏi hành động mà Ngài dẫn dắt, một trong những vị xuất chúng là Lama Zothar. Sau khi hoàn thành nhiệm vụđạo sư nhập thất, Drupon Tenzin Rinpoche đi hành hương theo phong cách của một Yogi thoát khỏi hành động, viếng thăm mọi thánh địa chính yếu của Tây Tạng, bao gồm cả Núi Kailash. Ngài hoàn thành chuyến hành hương bằng cách đến Tolung Tsurphu vinh quang. Chúa tể của chư Thắng giả, Đức Karmapa, biết rằng Drupon Tenzin sở hữu những trao truyền thù thắng về Đại Ấn và Sáu Pháp, đã thỉnh cầu và thọ nhận từ Ngài chỉ dẫn truyền miệng về Sáu Pháp cùng nhiều giáo lý khác. Sau đó, Đức Karmapa thỉnh cầu Ngài sống cố định tại Tsurphu và Ngài đã làm vậy. […] Mặc dù Ngài thấy bản thânvị trí hiếm có của việc là bậc thầy cúng dường những chỉ dẫn sâu xa của Sáu Pháp lên chúa tể của chư Thắng giả, Đức Karmapa vinh quang, Rangjung Rigpe Dorje, Ngài từ chối bất kỳ dáng vẻ vĩ đại nào và duy trì những cách thức của Yogi thoát khỏi hành động.

Từ Drupon Tenzin Rinpoche, theo lối trao truyền kinh nghiệm, Rinpoche đã thọ nhận, hoàn hảo trọn vẹn, những chỉ dẫn dẫn dắt sâu sắc về con đường phương tiện, Sáu Pháp của Naropa. Sáu Pháp là tinh túy giáo lý của Đức Naropa vinh quang về giai đoạn hoàn thiện sâu sắc từ bộ Mật điển cao nhất của Chân ngôn Bí mật. Chúng cũng là thực hành căn bản của Đức Milarepa. Sau khi thọ nhận trao truyền, Rinpoche hoàn hảo hoàn thiện thực hành Sáu Du Già bằng cách thực hành ngày – đêm không gián đoạn trong động thực hành của Gyalwa Gangpa.

Sau đó, Rinpoche thọ nhận chỉ dẫn sâu xa cho Tách Rút Tinh Túy Của Hư Không[26]thực hành chúng trong động của Đức Repa Chenpo. Khi Rinpoche đang nhập thất, Drupon Tenzin hỗ trợ Ngài với lòng đại từ. Hai em gái của Drupon Tenzin, những vị sống ở Tsurphu, cũng hỗ trợ Ngài và đóng vai tròthị giả hộ thất cho Ngài, cung cấp những nhu yếu cần thiết và v.v.

Sau khi thực hành thêm một thời gian, Ngài cúng dường sự chứng ngộ lên Drupon Tenzin Rinpoche và hai vị đã trao đổi với nhau. Điều này mở rộng tri kiến của Rinpoche và tăng cường niềm tin, lòng kính trọng và yêu kính của Ngài dành cho đạo sư. Ngài đã hát lên bài ca hoan hỷ:

Nhờ chỉ dẫn truyền miệng của đạo sư từ ái,

Vị bất khả phân với Kim Cương Trì,

Tôi ăn đồ ăn của hư không rỗng rang;

Tôi ngồi trên ghế của nền tảng rỗng rang.

                 

Đặt niềm tin vào vách đá và núi non,

Tôi chẳng cần gối hay đồ ngủ:

Nhờ gia trì của chư Tổ thành tựu giả,

Tôi chẳng bị ý nghĩ quá khứ khuấy động;

Tôi không nghĩ về những vấn đề của tương lai.

 

Tôi biết cách nghỉ ngơi trong tâm-hiện-tại chói ngời,

Tự nhiên ổn định và thư giãn.

Chẳng có cách nào để tôi báo đáp lòng từ của đạo sư,

Vì thế, tôi phát lời nguyện:

 

Trong tất cả các đời tái sinh,

Nguyện hoàn hảo hoàn thành mong muốn của đạo sư;

Nguyện làm lợi lạc chúng sinhgiáo lý;

Và nguyện cát tường dồi dào

Để hai lợi đều được viên thành!

Theo lệnh của Drupon Tenzin Rinpoche, Rinpoche dành bảy đêm tại nghĩa địa Tsurphu, nơi được cho là giống với nghĩa địa Sitavana[27]. Ban đêm, Ngài bí mật dấn thân vào thực hành Chod, thiền định phân tích về hai kiểu vô ngã, du già từ và bi, và nhiều thiền định khác. Ban ngày, trong động thực hành, Ngài tham gia vào lắng nghe, quán chiếuthiền định về tiểu sử của Đức Bà Machik Labdron.

Sau khi hoàn thành khóa nhập thất đó, trong vài tuần tiếp theo, vâng lời đạo sư, Ngài ở lại nghĩa địa Tsurphu; nhưng lần này, Ngài ở gần một dốc lớn trong nghĩa địa, nơi Ngài dựng lều bằng cách lấy y phục từ xác chết và dùng nó làm bạt, nối lại bằng thừng vốn dùng để buộc xác chết. Như thế, Rinpoche thực hành Giáo Pháp Chod chân chính, thứ cắt đứt sự lừa gạt của ma, ngày đêm không gián đoạn. Ngài cắt đứt gốc rễ của chấp ngã và những dấu hiệu kinh nghiệm xuất sắc khởi lên trong tâm. Ngài cũng cử hành Ganachakra của hành vi du già sâu xa. Nhờ đó, Ngài tự nhiên được dân chúng địa phương biết đến là “gã nghĩa địa” hay “Lama nghĩa địa”. Theo cách này và nhiều cách khác, di sản của Ngài rất giống với cuộc đời của chư thành tựu giả trong quá khứ.

Khi ấy, một nhóm chư Ni từ Tu viện Jindo ở Nyemo và Drolma Puk[28] đã đến Tsurphu và lần đầu tiên gặp gỡ Rinpoche. Mặc dù họ thỉnh Rinpoche đến Nyemo, Ngài đã không chấp nhận thỉnh cầu của họ. Một thời gian sau, với sự cho phép của Drupon Tenzin Rinpoche, Ngài quyết định đi hành hương đến Đất Thánh Ấn Độ. Nơi đầu tiên mà Ngài viếng thăm sau khi rời Tsurphu là Nyemo, chính là nơi Tu viện Jindo tọa lạc. Tuy nhiên, Ngài không vào Tu viện; thay vào đó, Ngài dành ba ngày ở nghĩa địa gần đó.

Cuối cùng, sau khi chư Ni bền bỉ khẩn cầu Ngài chấp nhận họ làm đệ tử, Ngài chấp thuận và đến Tu viện, ban cho chư Ni giáo lý về thực hành sơ khởi của Đại Ấn, nghi quỹ Thành Tựu Cõi Đại Lạc[29] và nhiều Pháp khác.

Sau đấy, Rinpoche du hành đến động thiền định của Đức Berotsana, vua của các dịch giả, và Kugon Chokyi Senge[30], tâm tử của Đức Bà Machik Labdron. Niềm tin mãnh liệt khởi lên trong tâm Rinpoche và Ngài hát lên những bài ca cầu khẩn, chẳng hạn:

Con cầu khẩn chư đạo sư truyền thừa Chod;

Con cầu khẩn Đức Bà Machik Labkyi Dron;

Con cầu khẩn Kugon Chokyi Senge:

Gia trì để bám chấp với hành động của đời này,

Hình tướng sai lầm của tập khí,

Bị đảo ngược từ đáy sâu.

Tiếp theo, Ngài đi qua cây cầu sắt do thành tựu giả Thangtong Gyalpo[31] làm. Ngài thực hành trong căn nhà hoang lớn ở Jako, cũng như tại ba nghĩa địa: nghĩa địa Nyangpo, nghĩa địa Khashor Shawari Gong và nghĩa địa Kargung. Tại những nơi này, Rinpoche tìm ra thành trì của thực hành Chod. Nhiều kinh nghiệm diệu kỳ và đau đớn xuất hiện. Rinpoche chuyển hóa tất cả thành sự hỗ trợ tăng cường thực hành và khiến trí tuệ chứng ngộ vô ngã, bản tính chân thật của sự thực, hiển bày thêm. Mức độ chứng ngộ của Ngài tăng thêm; Ngài chiến thắng những hình tướng mê lầm. Sau đấy, Rinpoche thực hành tại hai thánh địa vĩ đại của Đức Bà Yeshe Tsogyal: động thực hành Jomo Kharak và Joma Drosa.

Một lần nữa, Ngài trở về Tu viện Jindo ở Nyemo và tiến hành những chuẩn bị cuối cùng để đến Ấn Độ. Chư Ni nhiều lần thỉnh cầu được đi cùng Ngài trong hành trình này và cuối cùng, Ngài cho phép họ làm vậy. Như thế, vào năm kỷ niệm 2500 năm Đức Phật nhập diệt theo trường phái Phật giáo Nguyên Thủy, Rinpoche và đoàn tùy tùng du hành đến bốn thánh địa lớn[32] và những điểm hành hương khác.

Chư Ni (những vị bây giờ khá lớn tuổi), những vị đi cùng Rinpoche khi ấy, đã kể lại nhiều chiến công diệu kỳ mà Ngài hiển bày trong chuyến hành hương. Để không khiến bản văn trở nên quá dài, tôi sẽ không viết về chúng ở đây.

Rinpoche và đoàn cuối cùng bình an trở về Nyemo; sau đó, Ngài lại lên đường một mình, tiến hành một khóa nhập thất cô tịch, nghiêm ngặt trong động Drolma Puk, thánh địa được thành tựu giả Nyemowa[33] gia trì.

Năm 1959, một thay đổi lớn lao xảy đến với Tây Tạng. Trong năm đó, Rinpoche rời khỏi khóa thất và với sự hỗ trợ của chư Ni đệ tử, Ngài du hành qua Bhutan để đến Ấn Độ, đến đó như một người tị nạn.

 

6. Trở Về Với Tri Kiến, Cắt Đứt Tạo Tác

Trong chín năm tiếp theo, ở Buxa Duar, Ấn Độ, Rinpoche một lần nữa tham gia vào những nghiên cứu về tri kiến, tiếp tục lắng nghe, quán chiếuthiền định mà Ngài từng làm trước kia. Ngài nghiên cứu các bản văn truyền thống của truyền thừa Kagyu, điều bao gồm ba chủ đề Mật thừa, tức Luận Phật Tính, Mật điển Hevajra và Nội Nghĩa Sâu Xa, và năm chủ đề Kinh điển[34]. Ngài cũng nghiên cứu mở rộng các bản văn về Kinh, Mật và lô-gic của truyền thống Sakya, Geluk và Nyingma. Theo cách này, Ngài hoàn toàn cắt đứt mọi nghi ngờ và tạo tác quan niệm.

Khi hoàn thành các nghiên cứu, Ngài trải qua kỳ thi tranh luận bằng miệng trước đại chúng hàng nghìn vị trụ trì, Tulku, Lama và chư Tăng từ bốn trường phái chính của Phật giáo Tây Tạng; đại chúng dưới sự chủ trì của Đức Dalai Lama. Sau kỳ thi, Ngài được trao danh hiệu Geshe Lharampa. Rinpoche trở thành đối tượng tán thántôn kính vì tài tranh luận lô-gic và về kiến thứctrí tuệ sắc bén. Danh tiếng của Ngài thực sự lan khắp mọi phương.

Rinpoche sau đó trở về bên Thắng giả thù thắng thứ 16 và Drupon Tenzin Rinpoche, thọ nhận thêm những chỉ dẫn kinh nghiệmcúng dường sự chứng ngộ. Ngài cũng thọ quán đỉnh, chỉ dẫnkhẩu truyền cho Rinchen Terdzod (Kho Tàng Terma Quý Báu) vĩ đại từ đấng quy y Dilgo Khyentse Rinpoche. Đặc biệt, Ngài thọ toàn bộ chỉ dẫn cho Lamrim Yeshe Nyingpo (Các Giai Đoạn Của Con Đường Tinh Túy Trí Tuệ) và nhiều bản văn then chốt khác.

Nói ngắn gọn, trong giai đoạn này, Rinpoche hoàn toàn cắt đứt mọi tạo tác quan niệm nhờ lắng nghe, quán chiếuthiền định về tri kiến, thiền địnhhành vi sâu xa trong mọi giai đoạn của chúng.

Năm 31 tuổi, đấng đạo sư được Thắng giả thù thắng thứ 16 – Đức Rangjung Rigpe Dorje tôn vinh và công nhận là một Khenpo của truyền thừa Kagyu vinh quang, vô song.

 

7. Tinh Tấn Làm Lợi Lạc Giáo – Chúng Theo Lệnh Của Đấng Rangjung Rigpe Dorje

Tuân theo những chỉ dẫn của Đức Karmapa thứ 16 cũng như mong ước sâu xa của Thái Hậu Bhutan – Phuntsok Chodron, Rinpoche đến Bhutan, sống vài năm ở Kunga Rabten và Bumthang. Tại những nơi này, Ngài đem lợi lạc lớn lao đến cho nhiều đệ tử chí thành. Năm 1968, trên một ngọn núi ở Kunga Rabten Dzong, Rinpoche thành lập Ni viện Karma Drubde Gon, đầy đủ những đại diện của Tam Bảo, ở một nơi rất hẻo lánh và đẹp đẽ. Ngài thiết lập chư Ni đã đi cùng Ngài từ Nyemo, khoảng mười ba vị, trong khóa nhập thất ba năm tại một nơi nhập thất ở đó và cẩn thận dẫn dắt họ qua các thực hành.

Tuân theo mệnh lệnh từ Thắng giả thù thắng thứ 16 vĩ đại, vị đã chỉ dạy Ngài đến phương Tây và tiến hành hoạt động giác ngộgiáo lýchúng sinh, năm 1977, Rinpoche đã du hành đến châu Âu, bắt đầu ở Pháp, tại trụ xứ Kagyu – Dakpo Kagyu Ling. Khi ấy, Nyoshul Khen Rinpoche[35] cũng ở vùng đó. Hai đạo sư đã thảo luận về kinh nghiệmchứng ngộ về Trung Đạo, Đại Ấn và Đại Viên Mãn và thấy rằng kinh nghiệm của hai vị khá hòa hợp.

Sau đấy, Rinpoche du hành đến Vương Quốc Anh, Đức, Bỉ, Hy Lạp và nhiều nước khác ở châu Âu, giảng dạy ngôn ngữ Tây Tạngchuyển Pháp luân Kinh – Mật bao la. Nhiều đệ tử châu Âu, những người sau này trở thành dịch giả và tham gia vào nghiên cứu Kinh – Mật mở rộng dưới sự dìu dắt của Ngài, là những đệ tử phương Tây đầu tiên của Ngài.

Trong lúc ở châu Âu, đấng đạo sư dâng một câu hỏi lên Đức Karmapa thứ 16: “Trường phái Cựu Dịch Nyingma sở hữu ‘mười ba bản văn vĩ đại’, trường phái Sakya vinh quang có ‘mười tám bản văn rất nổi tiếng’ còn Riwo Gadenpa, trường phái Geluk, có ‘năm tập kinh văn’ và v.v. Những bản văn nào là vô cùng quan trọng với truyền thống Kagyu?”. Câu trả lời của Đức Karmapa đến trong một bức thư; trong đó, Đức Karmapa viết rằng, “Với Kagyu, có tám bản văn lớn của Kinh và Mật[36]”.

Như thể bức thư rơi thẳng xuống đỉnh đầu, Rinpoche hết sức để tâm đến lời khuyên từ Đức Karmapa và bắt đầu nhấn mạnh vào những bản văn Kinh và Mật này trong giảng dạy. Ngài hỗ trợ điều này bằng những lời nguyện rằng hoạt động giác ngộ của Giáo Pháp kinh văn và chứng ngộ nói chung, và đặc biệt là Dakpo Kagyu vô song, sẽ lan tỏa khắp hư không. Năm 1978, Rinpoche thiết lập Kagyu Thekchen Shedra ở châu Âu và sau đấy, Ngài thành lập Tổ Chức Marpa Châu Âu.

Bắt đầu từ năm 1982 và theo lệnh của Đức Karmapa thứ 16, Rinpoche là trụ trì của Học Viện Nghiên Cứu Phật Giáo Cao Cấp Karma Shri Nalanda tại trụ xứ của Đức Karmapa – Tu viện Rumtek. Ngài trao cho nhiều Khenpo, Tulku và tu sĩ giáo lý về những bản văn lớn và dẫn dắt họ qua các giai đoạn của thiền chỉ, thiền quán và v.v. trong bối cảnh dấn thân tuần tự vào các thừa của Phật Pháp. Ngài cũng soạn các bản văn về cách tiếp cận độc đáo của truyền thừa Kagyu với những chủ đề Shedra cốt yếu: giới thiệu về các thuật ngữ của lô-gic, phân loại tâm, và phân loại lập luận, cùng với phân tích bình giảng về hai điều sau. Những bản văn này là trước tác của chính Ngài, nhưng tóm lược chuẩn xác ý nghĩa dự định của Đại Dương Bản Văn Về Lập Luận của Đức Karmapa thứ 7 – Chodrak Gyatso và Kho Tàng Kiến Thức (Sheja Dzod) của Tôn giả Jamgon Kongtrul Lodro Thaye. Chúng trở thành nguồn tài liệu độc đáo trong các Phật học viện Kagyu và tại các học viện và tổ chức Phật giáo quốc tế.

Rinpoche cuối cùng du hành đến Hoa Kỳ, Canada và nhiều quốc gia khác ở Bắc và Nam Mỹ. Không thành kiến, Ngài giảng dạy Giáo Pháp Kinh – Mật cho đệ tử sùng kính tại trụ xứ Kagyu được biết đến là Karma Triyana Dharmachakra, Vajradhatu, các trung tâm của Kalu Rinpoche đáng kính và cho nhiều nhóm và tổ chức khác. Đặc biệt, với lòng từ lớn lao, Ngài ban chỉ dẫn cốt tủy của Đại Ấn và Đại Viên Mãn, dẫn dắt đệ tử trong những thiền định này; Ngài tiếp tục dẫn dắt nhiều đệ tử cho đến ngày nay.

Trong lúc ở Bắc Mỹ, Rinpoche hạnh ngộ Chogyam Trungpa Rinpoche và thảo luận về việc truyền bá và hoằng dương giáo lý của Đức Phật ở phương Tây. Nhóm đệ tử Bắc Mỹ của Ngài đã trở nên đông đảo, bao gồm nhiều dịch giả thành thạo. Năm 1994, Ngài thành lập chi nhánh Hoa Kỳ của Tổ Chức Marpa.

Rinpoche cũng du hành đến các nước châu Á, như Đài Loan, nơi Ngài giảng dạy về ba thừa. Đặc biệt, Ngài trút cơn mưa cam lồ Giáo Pháp chân chính của Kim Cương thừa Chân ngôn Bí mật, nhờ đó, hoàn toàn chín muồi những đệ tử may mắn. Ở Đài Loan, Ngài thành lập một trung tâm Giáo Pháp tên là Zabsang Shedrub và một chi nhánh của Tổ Chức Marpa. Ngài cũng thành lập các trung tâm thực hành Zabsang Shedrub ở Malaysia và Singapore. Nhờ tất cả những hoạt động này, Ngài truyền bá giáo lý của truyền thừa thực hành khắp mọi phương.

Suốt giai đoạn này, Rinpoche tiếp tục chuyển Pháp luânẤn Độ, Bhutan và Nepal. Ở Bhutan, Ngài thiết lập ba trung tâm nhập thất trong vùng thuộc nơi cư ngụ hoàng gia tại Kunga Rabten: Drolma Choling vào năm 1988, Ngon-ga Choling vào năm 1998 và Kunzang Ngayab Choling vào năm 2001. Sau khi thành lập những trung tâm này, đầy đủ đại diện của Tam Bảo, Ngài dẫn dắt chư Ni, những vị đã thực hành ở đó và vẫn tiếp tục thực hành, thọ nhận sự dẫn dắt của Ngài cho đến ngày nay, về thực hành sơ khởi, thiền định và trì tụng Thành Tựu Cõi Đại Lạc, cùng với thực hành Phowa liên quan, Tâm Kinh, Chod, Konchok Chidu và nhiều phương pháp thực hành Đại Ấn và Đại Viên Mãn khác. Chư Ni vẫn tiếp tục những thực hành này không gián đoạn.

Năm 1983, gần Bảo tháp Jarung Khashor ở Boudha, Nepal, Rinpoche bắt đầu những thời khóa giảng dạy cho đệ tử quốc tế, tập trung vào Tạng ngữ và các bản văn của Kinh, Mật và lô-gic. Năm 1986, Ngài thành lập Viện Dịch Thuật Marpa và Ban Dịch Thuật Marpa. Bên cạnh đó, tại trường dịch thuật, Ngài cũng trao nhiều giáo lý hiếm và sâu xa cho những nhóm đệ tử cao cấp và thân cận nhất, đứng đầu là một vài Tulku tài năng nhất. Ngài dạy cho họ theo phong cách trao truyền kinh nghiệm Đại Ấn – Đại Dương Ý Nghĩa Rốt Ráo, Nội Nghĩa Sâu Xa, sáu nhánh du già của Mật điển Thời Luân, Sáu Pháp của Naropa và những chỉ dẫn truyền miệng khác của con đường giải thoátphương tiện. Ngài đã ban những giáo lý này một cách đầy đủ, kèm theo những buổi phỏng vấn mà trong đó, đệ tử cúng dường sự chứng ngộ của họ, được trao chỉ dẫn cho các giai đoạn tăng cường và v.v.

Năm 2000, Rinpoche thiết lập một trung tâm nhập thất ở Yolmo Gangra, Nepal, tại Tak Puk Senge Dzong, ‘động hổ, pháo đài sư tử’, địa điểm thực hành của Đức Milarepa. Kể từ đó, chư Ni và đệ tử quốc tế của Rinpoche vẫn tham gia vào thực hành Đại Ấn và v.v tại đó. Năm 2006, gần Bảo tháp Jarung Khashor ở Boudha, Rinpoche thành lập Ni viện Tekchok Ling, đầy đủ đại diện của Tam Bảo, nơi chư Ni tinh tấn lắng nghe, quán chiếuthiền định về Giáo Pháp theo đúng cách mà đấng đạo sư đã chỉ dạy.

Tóm lại, đấng đạo sư là vị trì giữ giáo lý mẫu mực của Thắng giả bằng cách đại diện cho sự hợp nhất của thực hànhnghiên cứu. Ngài đã tham gia vào giải thích, tranh luậnbiên soạn mở rộng dựa trên truyền thống kinh văn của Kinh và Mật nói chung và nắm giữ truyền thống hướng dẫn trực tiếp, mang tính kinh nghiệm về thực hành, ban vô vàn chỉ dẫn truyền miệng cho chúng sinh khác. Theo cách này, Ngài thiết lập vô số đệ tử may mắn trên con đường chín muồigiải thoát. Nói thêm về hoạt động tôn quý của Ngài, Rinpoche vẫn luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của những bài ca chứng ngộ của Đức Milarepa, chẳng hạn Trăm Nghìn Bài Ca, cũng như những bài ca chứng ngộ của tất cả chư Tổ thành tựu giả từ các trường phái trước và sau. Theo đó, Ngài cũng cất lên nhiều bài ca kim cương làm sáng tỏ ý định của chư vị. Ngài cũng tự mình biên soạn nhiều bài ca kim cương cung cấp chỉ dẫn truyền miệng.

Ngài phục hồi truyền thống thực hành liên quan đến Karma Nyingtik [Tâm Yếu Của Đức Karmapa] của Đức Karmapa thứ 3 – Rangjung Dorje và trao truyền những chỉ dẫn cốt tủy kinh nghiệm tương ứng.

Cho đến nay, những đệ tử may mắn từ phương Đông cũng như phương Tây vẫn tiếp tục thực hành và tận hưởng kết quả từ hai trong những đóng góp độc đáo nhất của Ngài: những lời cầu khẩn, bài ca và vũ điệu kim cương về Thánh Cứu Độ Mẫu, điều kể về nguồn gốc của Bà và hệ thống bài tập du già Lujong “rèn luyện và tịnh hóa thân”, hệ thống đặc biệt kết hợp con đường giải thoátphương tiện, một hệ thống khởi lên từ cõi tâm trí tuệ của chính đạo sư. Ngài soạn Nghi Quỹ Đại Ấn – Vũ Điệu Hoan Hỷ Cam Lồ Đại Lạc, một bộ chỉ dẫn được tự nhiên tuyên thuyết, vô cùng sâu xaquý báu về Đại Ấn tịnh quang, cùng với tự luận giải của chính Ngài.

Ngài giúp đệ tử trên khắp thế giới có thể hát những bài ca chứng ngộ trên với giai điệu được điều chỉnh bằng ngôn ngữ của chính họ: tiếng Tạng, Anh, Trung và v.v. Ngài tăng cường kinh nghiệm lắng nghe, quán chiếuthiền định của họ bằng cách khuyến khích họ kết hợp những bài ca này với vũ điệu kim cương. Theo những cách này, với lòng từ lớn lao, Rinpoche noi theo và tiếp tục hoàn hảo noi theo tấm gương cuộc đời chư Tổ vĩ đại của truyền thừa thực hành.

 

Tiểu sử bên ngoài này, được kể từ quan điểm của hình tướng phổ thông, của đạo sư vinh quang của tôi, Khenchen Kim Cương Trì Dechen Rangdrol, chủ yếu dựa trên tiểu sử vĩ đại của Ngài và được bổ sung thêm bằng những thảo luận với một số vị Ni lớn tuổi, những đệ tử ban đầu của đạo sư và với một số đệ tử lớn từ phương Tây của Ngài. Nó được viết lại ở đây theo lệnh của chúa tể của chư Thắng giả.

Nhờ sức mạnh của điều này, nguyện tôi và chúng sinh khác, tất cả những đệ tử của đấng đạo sư, thấy hạt giống sùng mộ và ba kiểu niềm tin ngày càng phát triển cho đến khi bản thân chúng ta có được khả năng nắm giữ di sản kinh nghiệmchứng ngộ của đấng đạo sư. Đặc biệt, cầu mong nỗ lực này trở thành nhân thúc đẩy cuộc đời trường thọ của Đức Karmapa Orgyen Drodul Trinle Dorje – chúa tể vinh quang của chư Thắng giả, và đạo sư thù thắng Khenchen Kim Cương Trì: cầu mong hoạt động giác ngộ của chư vị lan tỏa khắp hư không!

 

Đây là câu chuyện về sự giải thoát, chỉ ra chính xác

Cách thức mà xả ly chân chính của thừa căn bản,

Lòng bi và Bồ đề tâm của Đại thừa

tri kiến linh thiêng, không thành kiến của Kim Cương thừa

Có thể được áp dụng cho tâm.

 

Tịnh quang của thân giác ngộ,

Với những tướng tốt và vẻ đẹp trang nghiêm,

Giai điệu của khẩu giác ngộ,

Với sự dội vang tự nhiên, như tiếng đàn luýt của Pháp tính,

phạm vi của ý giác ngộ,

Được chứng ngộ chính nhờ con đường niềm tin và sùng mộ –

Làm sao chúng có thể được biết đến theo bất kỳ cách nào khác?

 

Vượt xa khỏi hy vọngsợ hãi, những âm mưu của khái niệm,

Trong mọi đời, nguyện được đạo sư vô song dẫn dắt,

Nhờ đó, nhanh chóng đạt trạng thái thù thắng của Kim Cương Trì.

 

Điều này được viết bởi một trong những kẻ tôi tớ của Ngài, người được lòng từ ái ba phần của đạo sư trưởng dưỡng, vị được gọi là Dzogchen Ponlop, thường được biết đến là Karma Sungrab Ngedon Tenpay Gyaltsen. Nó được hoàn thành tại Nalanda West (Seattle, Washington) vào năm 2553 Phật lịch. Nguyện thiện lành! Sarva Mangalam!

Dịch [sang Anh ngữ] dưới sự hướng dẫn của Dzogchen Ponlop Rinpoche và sự hỗ trợ từ Acharya Tashi Wangchuk bởi Tyler Dewar từ Mạng Lưới Dịch Thuật Nitartha, ngày 27/10/2010, Seattle, Washington, Hoa Kỳ.

 

Nguồn Anh ngữ: https://www.ktgrinpoche.org/about/biography-dzogchen-ponlop-rinpoche.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Gomde (sgom sde) nghĩa là ‘cộng đồng thiền định’; Nangchen (nang chen) là tên gọi đúng của địa điểm. Nangchen ở Kham, Tây Tạng ngày nay là Ngọc Thụ, Khu Tự Trị Tây Tạng thuộc tỉnh Thanh Hải, Trung Quốc.

[2] ti shri’i ras pa dkar po.

[3] khra ris phu.

[4] ga bu sbra chung.

[5] shes rab blo gros.

[6] chu ‘bab phug.

[7] byang rta rna mgon, một Tu viện của truyền thừa Yelpa Kagyu, cũng có liên hệ với Tu viện Tsurphu, trụ xứ chính của truyền thừa Karma Kagyu.

[8] sangs rgyas yel pa (1134-1194), cũng được biết đến là Yelpa Yeshe Tsek, vị đã biên soạn nhiều tác phẩm, chủ yếu là những bài ca chứng ngộcầu khẩn.

[9] Chùa Tradruk là địa điểm lịch sử quan trọng ở Nam Tây Tạng. Chùa được vua Tây Tạng Songtsen Gampo vào thế kỷ 7 xây dựng như là một trong bốn ‘chùa biên giới’ (mtha’ ‘dul bzhi) để điều phục thế lực xấu xaTây Tạng khi ấy.

[10] Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro (1893-1959), cũng được biết đến là Dzongsar Khyentse Chokyi Lodro, là đạo sư vĩ đại nổi tiếng của truyền thống Rime ở Tây Tạng.

[11] sde gzhung rin po che (1906-1987).

[12] Năm Tổ Sakya là Sachen Kunga Nyingpo (1092-1158), Sonam Tsemo (1142-1182), Drakpa Gyaltsen (1147-1216), Sakya Pandita (1182-1251) và Chogyal Pakpa (1235-1280).

[13] bzod pa mthar phyin.

[14] khams pad rdo rje brag.

[15] ma gcig lab sgron (1055-1149), vị Tổ vĩ đại của truyền thống Chod.

[16] Một Tu viện liên hệ với Tsurphu, tọa lạc ở Nangchen, Kham.

[17] Cách thức sùng mộ của người hành hương Tây Tạng. Người hành hương sẽ lễ lạy suốt quãng đường dài đến địa điểm đích.

[18] sgrub dpon bstan ‘dzin rin po che.

[19] Đại Ấn, mặt khác, bao gồm ‘con đường giải thoát’.

[20] lva ba sgrub phug.

[21] bla ma rab ‘byor.

[22] gsang thig snying po, một pho Terma của Terchen Chokgyur Lingpa (1829-1870).

[23] Tolung (stod lung, nghĩa đen là ‘thung lũng thượng’) ám chỉ nơi Tu viện Tsurphu tọa lạc – Tolung Dechen Dzong (stod lung bde chen rdzong), ‘pháo đài đại lạc ở thung lũng thượng’.

[24] skyid mo phug.

[25] Repa Chenpo ám chỉ Ngài Tashi Paljor (1457-1525), vị Sangye Nyenpa đầu tiên và là Bổn Sư của Đức Karmapa thứ 8 – Mikyo Dorje.

[26] nam mkha’i bcud len.

[27] bsil ba tshal, một nghĩa địa nổi tiếng thuộc bang Bihar ngày nay của Ấn Độ.

[28] sbyin mdo mgonsnye mosgrol ma phug.

[29] bde chen zhing sgrub.

[30] khu sgom chos kyi seng ge.

[31] thang stong rgyal po (1361-1485), một thành tựu giả nổi tiếng, kỹ sư và họa sĩ.

[32] Tức tứ thánh địa kỷ niệm sự đản sinh, giác ngộ, chuyển Pháp luânnhập Niết Bàn của Đức Phật; lần lượtLâm Tỳ Ni, Bồ Đề Đạo Tràng, Varanasi và Kushinagar.

[33] snye mo ba, cũng được biết đến là Nyemowa Samten Phuntsok, một đạo sư của truyền thống Drikung Kagyu.

[34] Năm chủ đề của Kinh điển là Luật, Luận, Nhận Thức Xác Thực, Bát NhãTrung Đạo.

[35] smyo shul mkhan rin po che (1931-1999), một trong những đạo sư Dzogchen vĩ đại nhất của thế kỷ 20.

[36] Tám bản văn lớn về Kinh và Mật thực sự là tám bộ bản văn gốc và luận giải. Có năm chủ đề về Kinh và ba chủ đề về Mật.

Về năm chủ đề Kinh điển, bản văn gốc cho Luật là Giới Luật Kinh (Vinayasutra/ ‘dul ba mdo) của Ngài Gunaprabha; luận giải chính yếu được dùng là Đàn Tràng Mặt Trời (nyi ma’i dkyil ‘khor) của Đức Karmapa thứ 8 – Mikyo Dorje. Bản văn gốc cho Luận là A Tỳ Đạt Ma Câu Xá (Abhidharmakosha/ chos mngon pa mdzod) của Ngài Thế Thân; luận giải chính yếu được dùng là Tách Rút Sự Hài Lòng Của Thành Tựu Và Lạc (grub bde dpyid ‘jo) của Đức Karmapa thứ 8. Bản văn gốc cho Bát NhãHiện Quán Trang Nghiêm (Abhisamayālaṃkāra/ mngon rtogs rgyan) của Đức Di Lặc và Ngài Vô Trước; luận giải chính yếu được dùng là Sự An Trú Của Chư Tôn Quý (rje btsun ngal gso) của Đức Karmapa thứ 8. Bản văn gốc cho Trung Đạo là Nhập Trung Đạo (Madhyamakāvatāra/ dbu ma la ‘jug pa) của Ngài Nguyệt Xứng; luận giải chính yếu được dùng là Cỗ Xe Chư Thành Tựu Giả Dakpo Kagyu (dvags brgyud grub pa’i shing rta) của Đức Karmapa thứ 8. Bản văn gốc cho Nhận Thức Xác Thực là Bảy Bộ Luận Về Nhận Thức Xác Thực (tshad ma sde bdun) của Ngài Pháp Xứng (bản văn chính yếu trong bảy là Luận Giải Về Nhận Thức Xác Thực) và Trích Yếu Nhận Thức Xác Thực (Pramāṇasamuccaya/ tshad ma kun btus) của Ngài Dignana; luận giải chính yếu được dùng là Đại Dương Bản Văn Về Lập Luận (rigs gzhung rgya mtsho), một tác phẩm bình giảng về cả tám bản văn này của Đức Karmapa thứ 7 – Chodrak Gyatso.

Về ba chủ đề Mật điển, có Luận Phật Tính (Uttaratantra/ rgyud bla ma) của Đức Di Lặc và Ngài Vô Trước cùng với luận giải chính yếu Tiếng Sư Tử Hống Chẳng Thể Đảo Ngược (mi blzog seng ge’i nga ro) của Tôn giả Jamgon Kongtrul Lodro Thaye; Mật điển Hevajra (brtag gnyis) của Phật Thích Ca Mâu Niluận giải chính yếu – Làm Sáng Tỏ Bí Mật Kim Cương Chẳng Thể Phá Hủy (gzhom med rdo rje’i gsang ba ‘byed pa) của Tôn giả Jamgon Kongtrul; và Nội Nghĩa Sâu Xa (zab mo nang don) của Đức Karmapa thứ 3 – Rangjung Dorje cùng với tự luận giải của tác giả, cũng như luận giải chính yếu của Tôn giả Jamgon Kongtrul với tựa đề Làm Sáng Tỏ Ý Nghĩa Sâu Xa (zab don snang byed).

 

Tạo bài viết
Tết cổ truyền của dân tộc lại về trên đất nước thân yêu. Trong không khí hân hoan đón chào Xuân Ất Tỵ - 2025, thay mặt Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi gởi lời chúc mừng năm mới đến tất cả các cấp Giáo hội, tới chư Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư, Đại đức Tăng Ni, cư sĩ Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; thân chúc quý vị một năm mới thân khỏe tâm an, cát tường như ý.
QUẬN CAM (VB/PTH) --- Có gì dị biệt giữa Tết Quận Cam và Tết Sài Gòn? Dĩ nhiên là nhiều dị biệt. Và cũng dĩ nhiên là rất nhiều tương đồng. Bởi vì rất nhiều truyền thống đón Tết vẫn còn lưu truyền nơi thủ đô người Việt Hải ngoại.