HỒ SƠ MẬT 1963 Từ Các Nguồn Tài Liệu Của Chính Phủ Mỹ Nhóm Thiện Phápthực hiện Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications 2013
PHẦN III – VÀI TÀI LIỆU TỔNG HỢP
TIẾT LỘ TỪ “BẢN GHI NHỚ CHO ÔNG MOYERS”: MỸ KHÔNG CẢN NỔI CUỘC ĐẢO CHÁNH VỐN ĐÃ MANH NHA TỪ TRƯỚC NGÀY ÔNG NHU TỔNG TẤN CỐNG CHÙA CHIỀN 20-8-1963
Chính quyền Johnson nhìn lại Biến cố 1-11-1963. Bản Ghi Nhớ viết ngày 30 tháng 7-1966 của Bộ Ngoại Giao/CIA gửi Tòa Bạch Ốc (Giải mật ngày 20-4-1998 - Bản lưu cho Thư Viện Tổng Thống Lyndon B. Johnson)
(LỜI NGƯỜI DỊCH:
Lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm là cuộc cách mạng chung của quân và
dân Miền Nam, từ nhận thứcchân thực rằng nhà Ngô cần bị lật đổ vì họ vừa không
xứng đáng vừa không đủ khả nănglãnh đạo miền Nam nữa, do đó không khởi nguồn
từ xúi giục của bất kỳ ngoại nhân nào, kể cả từ Hoa Kỳ.
Trước ngày 11 tháng 6-1963, ngày Bồ Tát Thích Quảng Đức vị pháp
thiêu thân, từ năm 1960, đã có những cuộc chống đối, thậm chí đảo chánh bằng võ lực, thất bại. Và ngay trong
buổi chiều 11/6 đó, sau khi có tin Ngài Quảng Đứctự thiêu, Trung Tá Đỗ Khắc Mai,
Tham Mưu Trưởng Không Lực VNCH, đã bày tỏ ý định vận động một cuộc lật đổ nhà Ngô;ý định này được
ghi lại trong Điện văn 165, đề ngày 11-6-1963, do Tòa Đại Sứ Mỹ gửi về Bộ Ngoại
Giao Mỹ ghi theo tiết lộ của một mật báo viên.
Từ ngày 11-6-1963 trở đi, cho tới khi nhà Ngô sụp đổ, đã có thêm một số âm mưu đảo
chánh khác, vận động từ phía các sĩ quan
cấp tá và nhiều lãnh tụ đảng phái, kể cả những cọng sự viên thân tín
của ông Diệm. Trong những người tham dựâm mưu lật đổ nhà Ngô có cựu Đại sứ
Trần Văn Chương, thân phụ của bà Ngô Đình Nhu, theo Bản Ghi Nhớ số 118 đề ngày
16-9-1963, viết bởi Paul M. Kattenburg, Phó Giám Đốc Đông Nam Á Sự Vụ tại Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ.
Hồ sơ mật được dịch sau đây cho thấy một điều minh bạch nữa,
rằng ngay sau khi ông Nhu ra lệnh Lực Lượng Đặc Biệt tấn công các chùa cuối
tháng 8-1963, Tướng Lê Văn
Kim đã nói với một viên chức Mỹ rằng ông và một số tướng lãnh đang có ý muốn đảo chánh nhà
Ngô, nhưng tới nhiều tuần lễ sau, chính phủ Mỹ vẫn còn do
dự; Cần ghi nhận về một điện văn ngày 24-8, còn gọi là Cable 243 hay
DEPTEL 243 hay Telegram 243, chỉ thị Đại
sứ Lodge phải áp lực ông Diệm gạt bỏ ông
bà Nhu ra khỏi chính phủ, nghĩa là vẫn sẽ duy trì Đệ Nhất Cọng hòa và riêng ông Diệm vẫn làm
Tổng Thống, và nếu điều kiện nầy không thỏa đáng thì được hiểu là Mỹ đồng
ý một “sự thay thế” lãnh đạo tại miền Nam.
Hai ngày sau trận tổng tấn công vào các chùa do ông Ngô Đình Nhu
thực hiện, và TRƯỚC KHI chính phủ Mỹ có
những buổi họp cấp cao có tính chính sách tại Washington hay tại Sài Gòn nhằm
đối phó với cuộc khủng hoảng tại Nam Việt Nam, Tướng Lê Văn Kim ngày 23-8-1963, đã gặp
Rufus Phillips, Giám đốc USOM Rural Affairs, và nói rằng quân đội VNCH đã sẵn sàng đảo chánh để lật đổ chế độ nhà Ngô
vì đó là cách duy nhất để giữ lòng dân – vì quân đội và dân chúng đều bất mãn tột độ khi Phật Giáo bị
đàn áp.
Tuy nhiên, cho
tới giữa tháng 9-1963, chính phủ
Mỹ còn do dự không biết nên ủng hộ hay không đối với các tướng lãnh VNCH đang
muốn lật đổ nhà Ngô.
- Ngày 14-9-1963, Bộ Ngoại Giao Mỹ tin là nhà Ngô phải bị lật đổ,
trong khi Bộ Quốc Phòng Mỹ và CIA tin là không nên lật đổ nhà Ngô. (Xem đoạn ghi
số 6)
- Ngày 16-9-1963, Tổng Thống Kennedy chủ tọa một buổi họp ở Bạch
Ốc, do dự trước nhiều luận cứ về nên hay không nên lật đổ nhà Ngô, nên chỉ thị đưa
một pháí đoàn sang VN để khảo
sát tình hìnhcụ thể. (Xem đoạn ghi số 7)
- Ngày 23-9-1963, phái đoàn gồm Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara, Tướng
Taylor và một số ít viên chức cao cấp bay từ Mỹ sang VN để khảo sát mọi phương
diện, xem có thể chiến thắng CS nếu giữ nhà Ngô hay không. (Xem đoạn ghi số 7
và 8)
- Ngày 2-10-193, phái đoàntrở về Mỹ, báo cáo tức khắc với TT
Kennedy rằng phái đoàn đồng thuận là Mỹ phảỉ áp lực ông Diệm cải tổ triệt để,
trong đó có việc loại trừ ông bà Nhu. (Xem đoạn 8)
- Đầu tháng 10-1963, có khoảng 2 hay 3 âm mưu đảo chánh đang chuẩn
bị tiến hành.(Xem đoạn 11)
- Vài ngày trước cuộc đảo chánh 1-11-1963, Mỹ lo ngại cuộc đảo
chánh do các Tướng Dương Văn Minh và Tướng
Trần Văn Đôn có thể thất bại vì thiếu quân, muốn ngăn cản nhưng
thấy không cản nổi. (Xem đoạn 12)
Bản Ghi Nhớ này viết ngày 30-6-1966, bởi William P. Bundy (viên chức CIA, Phụ Tá
Ngoại Trưởng về Viễn Đông Á Vụ, cũng là cố vấn đối ngoại cho các Tổng Thống
Kennedy và Johnson) theo yêu cầu của Bill Moyers (Trưởng Phòng Thông Tin của Tổng Thống Johnson) để
giải thích về diễn tiến những quyết định
của chính phủ Kennedy 3 năm trước đóđối với chế độ ông Diệm.
Bản gốc hồ sơ lưu ở Thư Viện Tổng Thống Lyndon B. Johnson, hồ sơ
về Việt Nam, hộp 263, trong xấp hồ sơ Roger Hilsman (người tiền nhiệm của William P.
Bundy trong chức vụ Phụ Tá Ngoại Trưởng về Viễn Đông Á Vụ). Dưới đây sẽ dịch
theo bản lấy từ Thư Viện Đại Học George Washington University:
Ghi nhận, bản văn chỉ còn 4 trang, có thể trang sau vẫn chưa
giảỉ mật hay đã bị thất lạc. Bản văn gốc sẽ kèm dưới đây. Toàn văn dịch bởi Cư sĩ Nguyên Giác.)
BẮT ĐẦU BẢN VĂN
TỐI
MẬT Ngày
30 tháng 7-1966
BẢN
GHI NHỚ CHO ÔNG MOYERS -- CHỈ ĐỂ ĐỌC
THÔI
ĐỀ
TÀI: Cuộc thảo luận về chế độ Ngô Đình
Diệm trong tháng 8 tới tháng 10-1963.
Câu
hỏi cụ thể của ông giành cho tôi về bức điện văn đề ngày 24-8-1963 mà nhiều người
biết, trong đó đã chỉ thị cho Đại sứ Lodge và Phái bộ [Ngoại Giao Mỹ] khởi sự thăm dò để
tìm người lãnh đạo thay thế ông Diệm. Điện
văn đó thực sự phức tạp hơn và có lẽ ít minh bạch hơn bản tóm lược một câu đó.
Bản này kèm theo đây, gọi là TAB A.
Theo
lời Michael Forrestal
(LND: Phụ tá của cố vấnan ninhquốc gia của TT Johnson) nói với tôi hồi giữa
tháng 9-1966 (tôi không có mặt ở văn phòng từ giữa tháng 8 tới giữa tháng 9-1963),
tin nhắn đó được chấp thuận qua điện thoại bởi Tổng Thống Kennedy từ Hyannisport, lúc đó là một đêm Thứ Bảy. Có
một dị biệt lớn về trí nhớ giữa ông Forrestal và Tướng Krulak (lúc đó là đại diện
ở VN của Phòng Tổng Tham Mưu Quân Lực Hoa Kỳ) về tình hình có phải Tướng Taylor (LND: lúc đó,
năm 1963, Tướng Taylor là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Hoa Kỳ) đã có chấp nhận
tin nhắn này chưa. Tôi tin mọi người đều nhớ rằng ông Gilpatric (LND: Thứ Trưởng
Quốc Phòng năm 1963) nói qua điện thoại từ trang trại của ông ở Bờ Biển Eastern
Shore, trên nền tảng rằng vấn đề này chủ yếu là chính trị. Bộ Trưởng Ngoại Giao
Rusk và Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara đều đi xa ngoaì thủ đô và không liên lạc được
cho tới đầu tuần lễkế tiếp.
Trong
khi Điện văn ngày 24-8-1963 là một phần chủ yếu của câu chuyện và thực sự phản ảnh
một “điểm chuyển biến” chân thực trong suy nghĩ của chính phủ Mỹ, có rất nhiều điêù
liên hệ mà tôi nghĩ sẽ là sai lầm khi đơn giản chỉ nhìn vào điện văn đó. Các sự
kiện trước đó và sau đó sơ lược như sau:
Lodge được bổ nhiệm tới Sài
Gòn trong tháng 6-1963, và nơi đó bắt đầu tức khắc có tin đồn trong giới báo
chí rằng Lodge sẽ làm sáng tỏtình hình và làm gì đó về ông Diệm. Tôi không
thể nói ai có trách nhiệm về mấy chuyện [tin đồn] đó, nhưng người tiền nhiệm
của tôi, ông Hilsman, cứ mãi gặp xui xẻo kiểu đó. Tất nhiên, ông Diệm xem
việc Lodge tới [nhậm chức Đại sứ] như một thách thức có tính toán với ông
ta.
Vào ngày 18-8-1963, trong
khi Lodge trên đường tới Sài Gòn, Diệm và Nhu ra lệnh quân đội xông vào các
chùa ở Sài Gòn, đẩy tới bước chuyển biến cho cuộc khủng hoảng Phật Giáo
vốn đang âm ỉ từ tháng 5-1963. Tính toán thời điểm [tấn công chùa] này hẳn
là nhắm việc Lodge tới VN.
Sau vài ngày tìm hiểu xem có
phải quân đội VNCH tham dự trận tổng tấn công các chùa hay không, bức điện
văn ngày 24-8 mới gửi đi.
Trong tuần lễkế tiếp, như các
điện văn gửi đi ở cấp cao kèm trong hồ sơ TAB B nơi đây cho thấy, chúng ta
[chính phủ Mỹ] lại tới lui lần nữa về khả thể của việc quân đội VNCH đảo
chánh ông Diệm. Đây chủ yếu là hoạt động của CIA, và tôi đã lục xem từ các
hồ sơ của tôi một thứ tự ngày tháng về những liên lạc chủ yếu của CAS
(LND: văn phòng CIA ở Sài Gòn) trong trọn thời kỳ từ tháng 8 tới hết tháng
10-1963. Hồ sơ này đính kèm, ghi tên là TAB C. Chủ yếu, chúng talặng lẽ tiếp cận với các sĩ quan quân đội chính yếu, những người đó
nói với chúng ta rằng họ không thể đảo chánh vào lúc đó được. Tuy
nhiên, không ngờ vựcgì nữa, ý nghĩ rằng họ có thể hành động, và nếu họ đảo chánh, chúng ta sẽ ủng hộ
họ, đã được đưa ra lúc đó.
Vào ngày, hay vào khoảng
ngày, 7 tháng 9-1963, Tổng Thống Kennedy -- dựa vào những cuộc thảo luận
mà tôi không có hồ sơ hay không biết, đã tổ chức một cuộc họp báo chỉ
trích ông Diệm nặng nề. Thời gian ngắn sau đó, chúng ta ngưng các giao dịch
trong Chương Trình Commodity Import Program (LND: chương trình này là hình
thức viện trợ tiền mặt Mỹ Kim cho chính phủ ông Diệm, chiếm 80% tổng số
viện trợ từ Mỹ cho VNCH -- xem giải thích từ sách A History of the Vietnamese của K. W. Taylor, trang 565), một
chương trìnhcăn bản cho việc hỗ trợ nỗ lực chiến tranh của chính phủ
VNCH. Việc ngưng như thế không có nghĩa thực tế là viện trợ ngưng, vì có một
khoản viện trợ ít nhất 2 tới 3 tháng đã gửi sang rồi.
Vào giữa tháng 9-1963, có một
cuộc tranh cãi gay gắt trong chính phủ Mỹ, và một loạt lộ tin trên báo chí
rất đáng tiếc trong đó nêu rõ hai phía tranh cãi – Hilsman và những viên
chức khác trong Bộ Ngoại Giao tin là phải lật đổ ông Diệm, trong khi Bộ Quốc
Phòng, Văn PhòngTổng Tham Mưu, và CIA (cả ở Washington và cả ở Việt Nam) đều
chống lại bất kỳ thay đổi nào. Bản thân tôi trở về từ Châu Âu ngày
14-9-1963, và còn nhớ sinh động rằng
Mike Forrestal tức khắc gặp tôi để nói rằng những người như tôi, những người
không chọn lập trườngdựa trêncảm xúc nào hết, bây giờ nên tham dự trọn vào
tình hình này và xem chúng ta có thể làm vấn đềrõ ràng hơn không.
Vào giữa tuần lễ của ngày
16-9-1963, TT Kennedy chủ toạ một buổi họp nhỏ trong Bạch Ốc, quyết định rằng
cách duy nhất để chọn một lập trườngchắc chắn cho chính phủ là để cho Bộ
Trưởng Quốc Phòng McNamara và Tướng Taylor dẫn một nhóm ít người tức khắc
tới Sài Gòn khảo sát kỹ. Tôi làm việc với Bộ Trưởng McNamara trong việc chọn
người vào phái đoàn này, trong đó có Bill Sullivan từ Bộ Ngoại Giao, Mike
Forrestal từ Bạch Ốc, và Bill Colby từ CIA. Nhóm này lên đường ngày
23-9-1963.
Phái đoàn McNamara/Taylor ở
lại Việt Nam cho hết ngày 1-10-1963, làm nhiều chuyến khảo sát nhưng tập
trung chủ yếu vào các liên lạc rộng r ải nhất có thể được trong mọi nơi để đánh giátình
hình chính trị. Phái đoàntrở về Mỹ ngày 2-10-1963, và tức khắc trình một
bản báo cáo đầy đủ lên TT Kennedy, mà tôi kèm đây bản do tôi hiệu đính ghi
tên là TAB D. Bản báo cáo tự nó nói lên được điều muốn trình bày rồi. Rủi
ro thay, dư luậncông chúngdựa vào bản tin Bạch Ốc phổ biến ngày
2-10-1963 lại nêu lên tiên đoán của phái đoàn McNamara/Taylor rằng sẽ có
thể giảm nỗ lực quân sự Hoa Kỳ từ cuối năm 1965. Tuy nhiên, cốt tủy bản báo
cáo là kết luận của nó rằng ông
Diệm phải cải tổ triệt để rồi chúng ta mới có thể hy vọng chút nào rằng
ông ta có thể là một lãnh tụ hiệu quả. Kết luận đồng thuận tuyệt đối
này của pháí đoàn củng cố cho suy nghĩ của cấp cao Hoa Kỳ rằng chúng ta có
thể buộc phải tìm người khác thay thế ông Diệm. (Theo tôi nhớ, quan điểm của
Phó Tổng Thống lúc đó không nêu lên trong các buổi họp lúc đó, mặc dù là có
thể đã được nói riêng với TT Kennedy, và có thể khôngphù hợp với bản báo
cáo và với sự đồng thuận đưa ra từ bản báo cáo.)
Tuy nhiên, từ một quan điểm
hành động, các quyết định là sẽ tiếp tục ngưng các giao dịch của chương trình
Commodity Import Program, để Lodge chờ liên lạc với ông Diệm để áp lục ông
Diệm phải cải tổ, và rằng – như đối với bất kỳ cuộc đảo chánh nào có thể xảy
ra – chúng tasẽ không thúc đẩy một
cuộc đảo chánh nào như thế, nhưng sẽ liên lạc thân cận với các lãnh đạo
quân sự, những người có thể liên hệ tới các nỗ lực như thế. Điểm cuối
cùng vừa nói là đề tài của một bản phụ đính Tối Mật của Bản Ghi Nhớ Hành Động
NSC (Hội ĐồngAn NinhQuốc Gia), mà tôi không có phóng ảnh chính xác nào,
mặc dù tôi có bản nháp trong đó xác nhận các điểm tôi đã nói ở trên.
Trong tháng 10-1963, ông Diệm
từ chối gặp Đại sứ Lodge cho tới rất trễ cuối tháng đó, gần trước khi xảy
ra cuộc đảo chánh. Tôi nhớ rằng Lodge cuối cùng đã gặp ông Diệm ở Đà Lạt,
khoảng các ngày 27 hay 28 tháng 10-1963, và nói mạnh mẽ đòi cải tổ, với một
số đáp ứng từ Diệm. Tuy nhiên, ông Diệm không có bất kỳ hành động nào trước
ngày đảo chánh, ngày 1 tháng 11-1963.
Về việc liên lạc với quân đội
VNCH, chủ yếu thực hiện bởi một viên chức CIA trực tiếp nhận lệnh từ
Lodge. Các thông tin chuyển cho chúng tacho biết có sự chuyển động, và thông
điệpduy nhất từ phía Mỹ là, nếu
việc thay đổi chính phủ xảy ra bất kỳ lúc nào hay vì bất kỳ lý do nào, Hoa
Kỳ sẽ ủng hộ tân chính phủ nếu nó thực sự hiệu quả và sẵn sàng tiến hành
cuộc chiến. Tuy là tổng quát,
thông điệp này khuyến khích những người âm mưu đảo chánh. Vào đầu tháng
10-1963, họ có vẻ như rời rạc, và hình như cùng lúc là có ít nhất 2 hay 3 âm mưu đảo
chánh cùng tiến hành. Tuy nhiên, vào cuối tháng 10-1963, chúng ta
thấy rõ từ nguồn CIA rằng âm mưu hành động nghiêm túc từ nhóm của Tướng Trần
Văn Đôn có thể thực sự sắp xảy ra.
Do vậy, trong vòng 2 hay 3
ngày trước ngày 1-11-1963, có một loạt buổi họpcuối cùng để chúng ta xem
rằng chúng ta có nên làm gì để ngăn cản hay gián đoạn một cuộc đảo chánh nếu
nó xảy ra. Chúng taquan ngại sâu sắc về tình thế cân bằng lực lượng ở Sài
Gòn, và đã nghĩ rằng hoàn toàn có thể xảy ra một trận tắm máu ở Sài Gòn từ
cuộc đảo chánh với kết quả không dứt
điểm nổi, và sẽ gây ra hỗn loạn công quyền. Tuy nhiên, chúng tacuối cùngkết luận rằng chúng ta đã không có sức áp
lực hay có các mối liên lạc để ngăn cản cuộc đảo chánh – mà chúng
ta cũng không thể, một cách tự tin, chọn lập trường ngược lại để tiết lộ cho ông Diệm những gì chúng ta biết có thể đang sôi sục.
Do vậy, cuối cùng, chúng ta không
theo phe nào, và nhóm các Tướng Trần Văn Đôn và Tướng Dương Văn Minh đã tiến hành
cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 với thành công lớn.
Trong cuộc đảo chánh này, điều chúng
ta rất tiếc nhất là việc giết anh em Diệm và Nhu. Trong khi chúng ta trước đó đã
lập lại nhiều lần với các lãnh tụ quân sự rằng chúng ta...
HẾT BẢN DỊCH
Bản gốc Anh Văn của Bộ Ngoại Giao/CIA gửi cho Tòa Bạch Ốc ngày
30-7-1966
[Phóng ảnh cho Thư
viện Lyndon Baines Johnson – Copy LBJ Library]
MEMORANDUM FOR MR. MOYERS, July 30, 1966 DECLASSIFIED – Authority JFK#577-10001-10455, Date 4-20-98 (pages 1 and 2)
BẢN GHI NHỚ CHO ÔNG MOYERS, 30 tháng 7 năm 1966 GIẢI MẬT – Cơ quanThẩm quyền JFK#577-10001-10455, ngày 20-4-98 (trang 3 và 4)
Bài này là cuộc phỏng vấn qua email trong tháng 1/2023 với nhà sư Kunchok Woser (Don Phạm), người xuất gia theo truyền thừa Phật Giáo Tây Tạng, sau nhiều năm tu học ở Ấn Độ đã tốt nghiệp văn bằng Lharampa, học vị cao nhất của dòng mũ vàng Gelug, và bây giờ chuẩn bị học trình Mật tông.
Nhân dịp Tết cổ truyền dân tộc - Xuân Quý Mão, thay mặt Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi có lời chúc mừng năm mới, lời thăm hỏi ân cần tới tất cả các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tới chư tôn đức Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư, Đại đức Tăng Ni, cư sĩ Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; kính chúc quý vị một năm mới nhiều an lạc, thành tựu mọi Phật sự trên bước đường phụng sự Đạo pháp và Dân tộc!
Trong ngày hội truyền thống dân tộc, toàn thể đại khối dân tộc đang đón chào một
mùa Xuân Quý mão sắp đến, trước nguồn hy vọng mới trong vận hội mới của đất nước,
vừa trải qua những ngày tháng điêu linh thống khổ bị vây khốn trong bóng tối hãi hùng
của một trận đại dịch toàn cầu chưa từng có trong lịch sử nhân loại, cùng lúc gánh chịu
những bất công áp bức từ những huynh đệ cùng chung huyết thống Tổ Tiên; trong nỗi
kinh hoàng của toàn dân bị đẩy đến bên bờ vực thẳm họa phúc tồn vong,
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.