Phần 1: Về tu viện Sera Mey
1. Cảm nghĩ trước khi đi
Thực tình mà nói, tôi đã
cố tình đi tìm về chuyến đi
học đạo này. Bởi vì tôi đã
cảm thấy một sự
chín muồi trong
tâm thức nhàm chán đời sống thế gian,
nhàm chán những chuyện
thế sự thăng trầm.
Tôi vẫn thường
đọc thầm trong đầu bài thơ Ngán đời của Cao Bá Quát, và trong lòng chỉ muốn rút lui ra khỏi chuyện
thế sự ta bà.
Ngán đời
Thế sự thăng trầm quân mạc vấn
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu
[1]
Vắt tay nằm nghĩ chuyện
đâu đâu
Đem mộng sự đọ với
chân thân thì cũng hệt
Duy giang thượng chi thanh phong,
Dữ sơn gian chi
minh nguyệt[2]
Kho trời chung, mà
vô tận của mình riêng
Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng
Kẻ thành thị kẻ vui miền lâm tẩu
[3]
Gõ nhịp lấy, đọc câu “Tương Tiến Tửu”
[4]
“Quân bất kiến
Hoàng Hà chi thủy
thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi”
[5]
Làm chi cho mệt một đời!
Cao Bá Quát
Đã từ mấy năm nay, tôi chủ trương sống
cuộc đời ẩn dật, rút lui khỏi chuyện
thế sự. Đối với bao nhiêu bạn bè, tôi đều từ chối
tham gia những
buổi họp mặt
vui chơi. Chỉ trừ khi bạn bè
yêu cầu tham dự các buổi
trình diễn giúp vui cho
cộng đồng, hoặc những
hoạt động từ thiện tôi mới
tham dự.
Một lần, một ông bạn già trong nhóm tam ca mà tôi là thành viên tha thiết mời tôi
tham dự đám cưới con trai ông ta, tôi từ chối không đi. Ông bạn nói: “Để mai mốt con gái anh làm đám cưới
chúng tôi còn đi chung vui với anh.” Tôi cười nói: “Nếu cháu có làm đám cưới thì tôi cũng chẳng biết là sẽ có được phép mời các bạn bè không. Hay là
chúng nó chỉ ra Tòa thị sảnh ký tên và đi hưởng tuần trăng mật riêng của hai đứa là xong, chẳng chắc là chính tôi có sẽ được mời đi
ăn cưới hay không nữa. Cho nên xin anh đừng buồn và chấp làm gì.” Ông bạn tôi không còn
ý kiến gì nổi!
Một lần, một người bạn khác bảo tôi: “Tôi
thành thật khuyên anh đừng sống quá lập dị và không giống ai.” Tôi chỉ cười.
Trong
thâm tâm, tôi
chán ngán những buổi
xã giao và tiệc tùng, nhất là đám cưới, đôi khi ngồi tại một bàn ăn chẳng
quen thân gì những người cùng bàn, phải cười nói vỗ tay, tôi
cảm thấy quá
mất thì giờ và ngán ngẩm. Tôi thích
trầm lặng ngồi viết vài ba câu thơ hay là một đoản văn, hoặc vào phòng thờ
tụng kinh,
tọa thiền hơn rất nhiều những
xã giao bon chen trong sự giao tiếp của
đời sống. Phải ngồi chịu trận nghe những lời khoe khoang kín đáo về
gia đình con cái hay
thương mại thành đạt....
Ngày xưa, khi tôi còn
tham dự những buổi tiệc ấy, thường là
chấm dứt rất khuya, mỗi lần đi là mỗi lần tôi về nhà dằn vặt mình với câu hỏi: “Ta đã làm gì cho đời ta, đánh mất chính mình trong những
ta bà thị phi của thế sự?”
Cho đến khi tôi phải
nói một lời xin lỗi với các bạn bè, xin đừng mời tôi
tham dự vì không thấy
thích hợp.
Lâu dần bạn bè không còn thấy lạ và để tôi yên trong những trầm tư riêng của mình về
cuộc đời. Từ đó, tôi xa lánh dần chuyện
thế sự.
Dĩ nhiên là tôi
cảm thấy sung sướng trong cuộc sống rút lui ấy.
Thì giờ, tôi để hết vào việc
hành trì và viết sách Phật hoặc
dịch kinh Phật, cũng như làm thơ đạo. Tôi chủ trương
thuần túy là “văn dĩ tải đạo”. Và nếu tôi không được
học đạo thì có lẽ tôi chẳng
sáng tác được gì. Vì tất cả các nguồn
cảm hứng của tôi đều đến từ những suy tư và
thiền quán về đạo.
Vào
cuối năm 2007, chùa nơi tôi đến
hành trì tổ chức một chuyến đi
hành hương các
thánh tích của
Phật giáo. Tôi chưa được đi đến những nơi đó bao giờ và đương nhiên là tôi rất thích đi. Nhưng khi
chương trình đi
hành hương được in ra thì tôi hỡi ôi,
cảm thấy thất vọng: vì
lý do là giá của chuyến đi
hành hương quá cao với tôi.
Ước lượng sơ khởi của chuyến đi là 5.000$ (đô-la) chưa kể vé máy bay từ Bắc Mỹ về
Ấn Độ. Ngày đó, khi đọc tờ
chương trình và
ước định giá, tôi thầm nghĩ, giá như số tiền này dành để
cúng dường Đức
Đạt Lai Lạt Ma, để ngài dùng trong việc
đào tạo chư tăng, hoặc là
cúng dường chư tăng để dùng trong việc
Đại lễ Cầu nguyện an cư kiết hạ[6] mỗi năm tại
Bồ Đề Đạo Tràng.
Rồi sau mấy ngày suy tư mà không
quyết định được gì cả, tôi bèn
liên lạc với
vị bổn sư và thưa với ngài về nỗi băn khoăn của tôi. Ngài cười ha hả trong điện thoại vào bảo tôi rằng: “Được, con hãy theo ta về
cúng dường chư tăng tại Dharamsala trong kỳ
thuyết pháp của Đức
Đạt Lai Lạt Ma và nhân tiện ở lại Dharamsala
học đạo luôn trong một tháng.” Và nhất là khi ngài nói thêm: “Kỳ này ta sẽ dẫn con về Dharamsala như là một tăng sĩ.” Bởi vì tôi mang trong người một chứng bệnh trầm kha là bệnh vảy nến,
[7] bệnh
di truyền từ cha tôi, người cũng đã từng mắc bệnh này khi còn trẻ. Bệnh của tôi nặng lắm và không có thuốc gì chữa được. Bệnh viện phải gửi tôi vào một
trung tâm Nghiên cứu chữa bệnh bằng tia cực tím,
[8] cho nên tôi đã phải cạo đầu từ 4 tháng nay để chiếu tia cực tím trên toàn châu thân chữa bệnh, và
vì vậy, thầy bổn sư đã thấy tôi giống như là một tăng sĩ.
Trời đất, tôi thầm nghĩ, được theo
vị bổn sư đi về nơi đất thánh Dharamsala, nơi trú ngụ của đức đương kim
Đạt Lai Lạt Ma và được
học đạo, và nhất là sẽ theo thầy về như là một tăng sĩ, còn
ước nguyện nào bằng! Tôi
hoan hỷ đi mua vé máy bay sửa soạn theo ngài về vùng đất thánh Dharamsala.
Ngày lên máy bay, tôi
cảm thấy nao nao trong dạ. Tôi ôm ấp trong tâm cái
cảm giác của một
thiếu nữ từ giã
gia đình, “xuất giá tòng phu” lên xe hoa về nhà chồng, hay đúng hơn tôi mang cái
cảm giác của một người sắp sửa
xuất gia, xuống tóc để vào trong chùa làm
tỳ kheo. Cái
cảm giác nao nao trong dạ, mà
cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rất rõ.
Để tránh
phiền nhiễu ở nơi đất lạ,
chương trình của tôi là
đi theo phái đoàn hành hương về
tu viện Sera Mey, nơi
vị bổn sư của tôi làm viện trưởng và từ đó sẽ theo ngài để đi về Dharamsala
học đạo, chứ không
đi theo phái đoàn đi
hành hương. Tiền
tiết kiệm được nhờ không đi
hành hương, tôi sẽ nhờ
vị bổn sư mang về
cúng dường Đức
Đạt Lai Lạt Ma, hoặc là
cúng dường chư tăng an cư kiết hạ tại Dharamsala.
Máy bay
hạ cánh tại phi trường Bangalore lúc 1 giờ 50 phút rạng ngày 12 tháng 2, 2008. Khi lấy được
hành lý và chờ tất cả
mọi người đến đầy đủ thì đã gần 3 giờ sáng và
phái đoàn đi về khách sạn nghỉ ngơi tại Bangalore để đến chiều hôm đó, thuê xe buýt đi về
tu viện Sera Mey.
Tại Bangalore, hai thầy Geshe Chopel và Phuntsok dẫn
chúng tôi đi đổi tiền. Khi đi ngang các đường phố chính của Bangalore, cũng như đi ngang khách sạn và quán ăn
quen thuộc trong lần ghé về
tu viện Sera Mey năm 2002 để dự lễ khánh thành
Đại Hùng Bảo Điện mới, và được thầy đương kim viện trưởng
[9] Lobsang Jamyang dẫn đi chơi tại Bangalore, tôi
cảm thấy thật là
bồi hồi và nghe tim thắt lại.
Mới đây mà đã 6 năm qua đi. Tôi bây giờ đã thay đổi hình dạng rất nhiều so với 6 năm trước vì mắc bệnh “tự thể miễn dịch tính” (auto-immune disease). Nhưng đường sá và khách sạn tôi đến ở lần trước chung với thầy viện trưởng còn
y nguyên, lòng cảm khái dâng trào trong tâm vì cảm nhận sự chóng vánh
vô thường của
đời người.
Điều thật lạ lùng là lần năm 2002 đó, tôi đã mắc bệnh nan y này rất nặng mà không biết, nhưng
trong suốt thời gian đi thăm
tu viện Sera Mey,
tu viện Ganden va Dreypung, bệnh
hoàn toàn không hề phát tác.
Cho đến ngày tôi bước chân xuống máy bay về đến nhà, và hôm sau thì bệnh phát tác
ngay lập tức, làm tôi ngã quỵ trên chuyến xe buýt trên đường đi làm và phải đưa
cấp tốc vào bệnh viện chữa trị. Thế mới biết là
thần lực hộ trì của
Tam Bảo không phải là chuyện nhỏ!
Chuyến xe buýt
khởi hành sau
bữa ăn trưa và mãi đến 7 giờ tối mới đến thành phố gần
tu viện Sera gọi là Kushinagar. Vì luật của
tu viện không
cho phép phụ nữ trú ngụ lại ban đêm cho nên
phái đoàn thuê khách sạn cho các vị
phụ nữ tại Kushinagar, và sau đó cùng nhau vào
tu viện thăm thầy viện trưởng. Ba người đàn ông trong
phái đoàn, trong đó có tôi, sẽ được phép ngủ lại
tu viện trong các phòng của khu nhà Chungpa.
Thầy viện trưởng
tiếp đãi chúng tôi thật là nồng hậu. Sau phần trao khăn trắng (khata) ban phép lành,
chúng tôi được dùng bữa cơm tối thật ngon miệng với ngài. Thầy dặn dò
chúng tôi đủ mọi điều, và sau đó phái nam được cho phòng nghỉ ngơi, còn các
phụ nữ thì phải
quay trở lại khách sạn tại Kushinagar để ngủ qua đêm.
2. Ngày 13 tháng 2, 2008
Sau một đêm ngủ và nghỉ ngơi thật
thoải mái, hôm sau tôi
thiền tọa vào sáng sớm và cảm nhận thật
rõ ràng sự
gia hộ của dòng chư tổ
truyền thống Giới đức.
[10] Ngồi thiền tại Sera Mey thật là
an lạc trong sự
hộ trì, được cảm nhận từ tầng lớp sâu thẳm của
tâm thức: niềm
hỷ lạc thật là sâu đậm và nhẹ nhàng,
tâm thức an bình trong
thiền duyệt,
[11] lìa xa
thế sự,
thị phi của
cuộc đời.
Thời tiết thật
dễ chịu, tuy hơi
lành lạnh vào sáng sớm, nhưng vẫn còn khá ấm áp.
Tu viện Sera được chia làm hai phần: Sera Mey khoảng 2.000 vị tăng và Sera Je khoảng 2.500 vị tăng.
Điều kỳ diệu nhất là chu vi
tu viện Sera (Mey và Je)
bao gồm khoảng vài ba cây số vuông. Trong đó có tổng cộng 4.500 nam tăng sĩ ở rải rác trong các căn nhà lớn nhỏ.
[12] Khi ra đường vào những ngày lễ lớn,
chúng ta sẽ thấy 4.500 vị tăng sĩ
tụ họp về
chánh điện để làm lễ. Toàn một màu áo tu đỏ tràn ngập đường sá mà không hề có một
bóng dáng một ông cảnh sát đeo dùi cui, súng ống nào cả!
Cảnh tượng những
con đường tràn ngập áo tu màu đỏ đã để lại một
ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi. Không hề có chuyện
tranh chấp đánh nhau hay
cãi nhau.
Chư tăng sống rất an hòa và
dễ thương, hiếu khách.
Nhưng chưa kịp xả cữ
thiền tọa buổi sáng thì chư vị phái nữ trong
phái đoàn đã
quay trở lại tu viện và cười nói
vui vẻ ồn ào.
Chúng tôi dùng
bữa ăn sáng xong là đi đến
Đại Hùng Bảo Điện ngay vào lúc 8 giờ sáng để dâng lễ
trường thọ cho thầy cựu viện trưởng Ngawang Thetchok. Ngài là thầy của thầy đương kim viện trưởng. Trong
buổi lễ,
chư tăng và
chúng tôi cầu nguyện Lễ
cúng dường đức Bổn sư.
[13] Buổi lễ thật là
cảm động và sau đó
chúng tôi lên dâng khăn và
cúng dường thầy cựu viện trưởng. Ngài
nhận ra phái đoàn chúng tôi và rất là
hoan hỷ.
Thầy cựu viện trưởng Ngawang Thetchok là một vị
cao tăng hiếm có. Ngài là một tăng sĩ nghiêm túc, và với tôi, ngài là một
thần tăng. Người
Đài Loan biết rất nhiều
câu chuyện kể lại về những
thần thông của ngài. Ngài có
ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc đối với người
Đài Loan, trong khi thầy đương kim viện
trưởng lại có
ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ đối với
cộng đồng người Việt tại Bắc Mỹ, kể cả Canada, và nhất là vùng Orange County và San Jose tại California.
Tôi ngồi nhớ lại
câu chuyện kỳ lạ sau: Năm 2003, tôi có qua Wesminter, vùng Orange County
sửa chữa và xây cất cho thầy đương kim viện trưởng ngôi chùa tên là Geden Shoeling.
[14] Chùa
hoàn tất theo ý thầy hai tháng sau đó. Nhờ thế, tôi quen nhiều
bạn đạo ở tại đó và thường
liên lạc với nhau khi có
tin tức gì, hay là giúp họ
dịch kinh sách v.v... Một hôm, tôi nhận được điện thư của một vị
bạn đạo kể chuyện lạ. Chuyện này cũng xảy ra
mới đây vào tháng 11 năm 2007 thôi. Lá thư như sau:
“Sáng nay em đi nghe Khen Rinpoche
[15] thuyết pháp về
Bát Nhã Tâm Kinh. thầy giảng rất hay và rất kỹ. Vẫn theo thường lệ, sau buổi giảng thì
mọi người lên dâng khăn,
cúng dường và thọ phép lành của thầy. Em cũng nối đuôi để lên dâng khăn. Đến lượt một chị
Phật tử kia, (chị này,
thỉnh thoảng em cũng thấy chị
tham dự buổi thính pháp một vài lần, trông cũng khá lớn tuổi, mắt, mũi
sửa chữa tùm lum nên trông không được
tự nhiên cho lắm). Khi chị lên dâng khăn và thầy ôm lấy đầu chị để ban phép lành
hộ trì thì chị bật khóc. Người run lên bần bật, chị
loạng choạng bước né qua một bên để nhường cho người khác lên dâng khăn. Nhưng chị vẫn khóc, gần như là đi không muốn nổi nữa.
Mọi người phải dìu chị
đi xuống cuối phòng.
Mọi người cứ nghe chị nói
lảm nhảm cái gì không rõ và cứ khóc mãi. Sau khi người
cuối cùng lên dâng khăn,
cúng dường, thì thầy ra lệnh (trông lúc đó mặt thầy nghiêm làm em sợ lắm). Thầy bảo đem cái chị kia lên đây. Chị đó run tới quỵ cả chân, phải 2 người dìu hai bên chị mới đi nổi, vừa đi, vừa khóc, vừa
lảm nhảm eo éo nói gì đó mà không ai nghe rõ. Lên chỗ thầy, chị không còn quỳ được nữa mà ngồi phệt xuống đất, người cứ run lên bần bật, ré lên khóc rõ to. Thầy Khen Rinpoche và thầy Norbu bắt đầu
tụng kinh gì đó mà em không biết. Tụng rất to, em có
cảm tưởng từng câu tụng là từng cơn bão có lực rất mạnh hất vào người chị... Tụng khoảng 5 phút thì cả hai thầy đều vỗ hai bàn tay vào nhau mấy cái. Chị kia hét lên một tiếng rồi ngã ngửa lên sàn. Hai tay chị dơ lên khỏi đầu. Chị
hổn hển nói “Nam mô
A Di Đà Phật” rồi khóc rức lên. Lần này em nghe tiếng nói của chị khác với cái tiếng
nói trước khi chị bị ngã. Xong thầy Khen Rinpoche tụng thêm một ít nữa rồi đứng lên lấy tấm
áo choàng màu vàng của mình quất lên người chị kia mấy cái và nói lớn “NO TALK!!” “STOP!”.
Tất cả
mọi người trong
chánh điện đều vẫn
tiếp tục niệm câu
Bát nhã tâm kinh: “Tayatha, Gate, Gate...” trong khi Khen Rinpoche
bước ra khỏi
chánh điện.
Đây là lần đầu tiên em thấy thầy trừ ma. Trông thầy nghiêm lắm. Sau đó, em có vào phòng chào thầy, Lisa (là người thông dịch ra tiếng Việt) vào sau, hỏi thầy, chị kia bị sao thế thầy? Chị ấy có OK không? Thầy
bình tĩnh như không có gì, và bảo, bà ta không sao cả, mọi sự xong rồi. Don’t worry. Lisa tò mò hỏi tiếp, có phải bà ta bị ma nhập không? Thầy
trả lời: Thì
đại khái là như vậy, nhưng bây giờ thì không sao cả.
Em nghe xong cũng hú hồn!
(Trước khi viết về
câu chuyện này, tôi cũng khá
đắn đo suy nghĩ nên hay không nên viết ra... Vì
bản thân của tôi vốn không thích
mê tín. Nhưng vì dù tôi có thích hay không, thì đó cũng là một
sự thật đến từ chư vị
cao tăng, và viết ra trong
ý hướng tỏ lòng
kính trọng đến chư vị,
một đời hoằng hóa
cứu độ chúng sinh, và mình không
thể không cảm
nhận thấy chư vị làm mọi thứ giúp đời hoằng
hóa độ sinh mà không hề có
mảy may suy nghĩ, hay cho là mình có gì
đặc biệt hơn người. Chư vị làm những
kỳ tích xong là xả
bỏ ra khỏi tâm, không hề dính mắc).
Đời sống chư tăng trong
tu viện khá nghiêm ngặt và chặt chẽ. Trừ những ngày lễ
chư tăng được nghỉ ngơi như là Tết
Tây Tạng (Losar),
chư tăng được theo học một
chương trình huấn luyện kỹ lưỡng. Sáng thường
thức dậy vào lúc 5 giờ và làm vệ sinh
cá nhân xong là nghe tiếng kèn lớn, tiếng rất trầm, (Tạng ngữ gọi là Radong)
báo hiệu là lúc phải
vân tập tại
Chánh điện để
hành lễ và
cầu nguyện (kinh nào thì
tùy theo hôm). Sau đó 7 giờ sáng thì dùng
điểm tâm cho đến 9 giờ thì
chư tăng sẽ
tụ họp để luận đạo (debate), đây là lúc mỗi vị sẽ phải mang hết
sở trường học đạo của mình ra để
tranh luận và
đào sâu đề tài đã học. Cách luận đạo như vậy giúp cho
chư tăng nhuần nhuyễn sở học của mình. Sau đó là ăn trưa và nghỉ ngơi đến 2 giờ chiều. Sau đó,
chư tăng theo học các lớp học chung hoặc là theo học lớp riêng với
vị bổn sư của mình. Sau đó là bữa cơm tối, và từ 9 giờ tối trở đi,
chư tăng sẽ
tiếp tục họp nhau luận đạo đến 11 giờ tối mới đi ngủ, để sáng hôm sau
thức dậy từ 5 giờ sáng
tiếp tục một ngày mới trong
tu viện.
Ngày tôi đến
tu viện thì
chư tăng vẫn còn trong dịp nghỉ Tết
Tây Tạng. Nhưng tôi vẫn
cố gắng theo thời khóa biểu mà
chư tăng thường theo, mong là mình gieo duyên để
đời sau được
tu học trong
dòng truyền thừa. Các bộ môn nằm trong
chương trình tu học là luận đạo
bao gồm Ngũ Đại Luận:
[16]
1.
Lượng học:
môn học về
Biện chứng pháp của
Phật giáo và
Nhận thức luận,
bao gồm cả các
luận thuyết ngoại đạo.
2.
Bát nhã ba la mật:
bao gồm các bộ Đại
Bát Nhã Luận và các
hành trì của
Bồ tát đạo (như
Lục độ ba la mật).
3.
Trung quán luận và
Tánh không.
4.
A tỳ đàm Câu xá luận: là bộ luận lớn
bao gồm vũ trụ quan,
siêu hình học và
hiện tượng luận.
5. Luật: là những
giới luật và kỷ luật trong
tu viện.
Trong lần này,
phái đoàn người
Đài Loan về
tham dự khá đông. Trong
bữa ăn trưa chung, tôi
nhận thấy mỗi người nâng niu cầm trên tay một cuốn sách, họ có vẻ rất là quý cuốn sách. Tôi bập bẹ vài câu tiếng
phổ thông và hỏi họ về cuốn sách mới biết ra là họ vừa xuất bản cuốn này, viết
tiểu sử và
cuộc đời của thầy cựu viện trưởng Ngawang Thetchok. Tôi cũng xin họ một cuốn, mặc dù sách viết bằng Tạng ngữ và tôi không hiểu, nhưng vì lòng
kính trọng thầy cựu viện trưởng, tôi vẫn xin một cuốn mang về để trên
bàn thờ.
Buổi tối, sau thời cơm chung,
chúng tôi lại chia tay giã từ các vị
phụ nữ đi về khách sạn. Còn tôi
quay về phòng
hành trì thời
công phu Tối thượng Du già
thiền quán và sau đó
đi vào trong giấc ngủ
an bình trong sự
gia hộ của
chư thiên nữ.
[17]
3. Ngày 14 tháng 2, 2008
Sáng sớm hôm sau, tôi vẫn theo thường lệ
thức dậy từ 6 giờ sáng và
hành trì. Trong kỳ
thiền tọa này, tôi cảm nhận
rõ ràng hơn sự
gia hộ của dòng
Giới đức,
đặc biệt là cảm nhận sự
gia hộ của chư bổn sư trong
tu viện Sera. Tôi
thiền quán trong niềm
an lạc và ấm áp gần gũi với chư
vị bổn sư của
tu viện, cảm nhận sự
che chở độ trì đến từ chư vị thẳng vào tim mình, làm cho tôi
sung sướng trong sự
hành trì,
yên lòng tinh tấn thiền định và biết
chắc chắn là tôi sẽ đi về đâu trong sự
hành trì ấy.
Xả thiền xong, tôi đi kiếm ly cà phê ngồi nhâm nhi trong buổi sáng tinh sương, chờ các vị trong
phái đoàn trở lại ăn sáng. Nhưng ngay trong lúc sáng sớm ấy, tôi nhìn thấy thầy
phụ tá viện trưởng Geshe Rabga đi ra ngoài phòng, ngang chỗ tôi ngồi. Tôi
vội vàng quỳ xuống
đảnh lễ ngài. Ở
tu viện Sera, ngài
nổi tiếng là vị tăng sĩ
hiền từ nhân hậu, quỳ bên ngài, tôi cảm nhận sự
từ bi toát ra từ ngài. Ngài không biết tiếng Anh nên không nói gì, chỉ vỗ vỗ vào đầu và vuốt má tôi. Và sau đó khi ngài quay
trở về phòng, tôi vội vã chạy về phòng mình lấy tiền bỏ vào phong bì để
cúng dường ngài.
Khi
bước ra ngoài thì các vị trong
phái đoàn đã đến,
chúng tôi sửa soạn ăn sáng. Thầy Geshe trưởng
phái đoàn thông báo là hôm nay
phái đoàn sẽ đi tham quan hai
tu viện Sera Mey và Je. Vì tôi đã đi thăm cả hai
tu viện rất kỹ năm 2002, nên tôi thưa với thầy xin được nghỉ ngơi một hôm, nhưng cốt là để có
thì giờ đến phòng thầy
phụ tá viện trưởng
cúng dường và sau đó đến vấn an thầy viện trưởng.
Trong chuyến đi này, tôi có
mang theo một bức họa thangka vẽ hình Phật
Dược Sư mà một anh trong
phái đoàn khi còn ở Montreal đã tặng cho tôi
năm ngoái. Anh kể lại là trong chuyến đi chơi Thượng Hải, anh đã gặp một người Trung Hoa ở tại đó, bám lấy anh và dụ anh mua bức họa này. Anh không
cầm lòng được và đã mua mang về tặng cho tôi bởi vì anh nói là tôi xứng đáng giữ bức đó.
Lý do, anh nói, là vì tôi đã bỏ một năm trời ra dịch cuốn kinh Lễ
cúng dường Phật Dược Sư trong
Mật tông. Hồi đó, khi tôi cầm bức họa ấy mang về nhà xem thì tôi bỗng giật mình: bức họa trông rất
cổ kính và còn mang các vết khâu kim vì người bán đã cắt ra khỏi bức thangka bằng gấm chung quanh. Đằng sau bức họa bằng vải ấy còn mang dấu son đỏ chói của một bàn tay, có lẽ là bàn tay của vị nghệ sĩ đã họa bức ấy và đóng dấu của mình lên trên. Tôi hơi ngại, bèn mang về
tu viện Sera nhờ thầy viện trưởng
thẩm định giá trị của bức họa. Nếu là bức họa cổ thực sự, có lẽ sẽ phải nhờ thầy dâng cho đức Dalai Lama để trao trả lại cho dân tộc
Tây Tạng. Còn không thì cũng nhờ thầy cho khâu lại các bờ chung quanh bằng gấm, làm thành một bức thangka
nguyên thủy để treo trên chùa.
Sáng hôm đó tôi trình bức họa lên ngài viện trưởng và thầy bảo với tôi đó chỉ là một bức vẽ nhái lại, tuy cổ, nhưng không phải là bức
nguyên thủy, cho nên ngài sẽ nhờ
chư tăng khâu lại bằng gấm chung quanh để mang về Montreal. Tôi cũng mừng là không phải đồ
ăn cắp của
Tam Bảo.