LẠI DỤ SỐ 10
Trần Gia Phụng
Trong bài “LHQ và vụ khủng hoảng
Phật giáo 1963 (VI)”, đăng trên DCVOnline.net ngày 26-10-2010, ông Nguyễn Văn Lục, có đoạn đề cập đến bài viết của tôi nhan đề là “Lý do cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963” đăng trên các báo vào tháng 11-2009, chứ không phải trong sách
Việt sử đại cương tập 6 như ông Nguyễn Văn Lục viết,
đơn giản chỉ vì sách nầy chưa xuất bản.
Sau khi trích dẫn ba người viết khác nhau, trong đó có một đoạn trong bài viết của tôi, ông Nguyễn Văn Lục viết:
“Cả
ba đoạn trả lời trích dẫn trên đều có chung đặc điểm là mơ hồ, có chỗ lạc đề, có chỗ như xuyên tạc như nhận xét của ông Trần Gia Phụng. Trong một đoạn văn ngắn ở trên, ông Trần Gia Phụng đã mắc nhiều sai lầm và xuyên tạc vô bằng. Ông cho người ta có cảm tưởng ông chưa hề đọc bản văn về Dụ số 10.”
Tôi
không dám nói là ông Lục chưa đọc Dụ số 10, nhưng riêng phần tôi, tôi xin gởi tặng ông Lục nguyên bản photocopy chương thứ nhất Dụ số 10 đăng trên
Công báo Việt Nam ngày 19-8-1950, nhằm
trả lời cảm tưởng của ông Lục rằng tôi
“chưa hề đọc bản văn về Dụ số 10” để
dư luận rộng rãi theo dõi. Xin ông Nguyễn Văn Lục
vui lòng đừng
chủ quan phán đoán.
Trở lại Dụ số 10. Dụ số 10 ngày 6-8-1950 gồm 45 điều. Chương thứ nhất (nguyên tắc), điều thứ nhất ghi rằng:
“Hội
là hiệp ước của hai hay nhiều người thỏa thuận góp kiến thức hay hành lực một cách liên tiếp để theo đuổi mục đích không phải là phân chia lợi
tức, như là mục đích thuộc về tế tự, tôn giáo, chính trị, từ thiện, khoa học, văn học, mỹ nghệ, tiêu khiển, thanh niên, thể thao và đồng nghiệp ái hữu. Muốn có hiệu lực thị hội nào cũng phải hợp với nguyên tắc chung của pháp luật về khế ước và nghĩa vụ.”
Sau
điều thứ nhất, Dụ số 10
triển khai chi tiết điều kiện,
mục đích,
điều lệ,
quy chế tổ chức
hiệp hội,… Đến chương thứ năm, điều thứ 44, ghi rằng,
“Chế độ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô và các Hoa kiều lý sự hội sẽ ấn định sau.”
Như thế, theo Dụ số 10, các hội
truyền giáo các
tôn giáo như
Phật giáo,
Cao Đài giáo,
Phật giáo Hòa Hảo đều nằm
ngang hàng với các hội
“chính trị, từ thiện, khoa học, văn học, mỹ nghệ, tiêu khiển, thanh niên, thể thao và đồng nghiệp ái hữu”, trong khi theo điều thứ 44 của Dụ nầy, các hội
truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô và các Hoa kiều
lý sự hội sẽ được
ấn định sau.
“Sẽ
ấn định sau”, theo ông Nguyễn Văn Lục
“có nghĩa là 13 năm sau vẫn
chưa ấn định, có nghĩa Hội truyền giáo Ki tô và Hội Hoa Kiều Lý sự vẫn chưa có được quy chế đặc biệt. Vậy thì căn cứ vào đâu để nói rằng hội truyền giáo ki tô giáo được hưởng quy chế ưu đãi dựa trên pháp quy?”
Ông Lục
nói đúng là
cho đến khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ ngày 1-11-1963, vẫn chưa có
quy chế cho các hội
truyền giáo Thiên Chúa và Gia
Tô.
Tuy nhiên, chẳng
cần căn cứ vào đâu, người ta cũng hiểu rằng các hội
truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô không nằm trong các điều khoản do Dụ số 10
quy định thì không bị
ràng buộc bởi Dụ số 10, và
hoàn toàn tự do hoạt động mà không bị
hạn chế bởi bất cứ
quy định nào, đứng biệt lập ngoài vòng cương tỏa của
luật pháp. Như thế Dụ số 10 có
phân biệt đối xử giữa các
tôn giáo hay không? Xin để cho người đọc
trả lời.
Ở một đoạn sau, ông Nguyễn Văn Lục còn viết tiếp:
“Có
hai điều đặc biệt là Bảo Đại đã ký Dụ số 10 tại Vichy, bên Pháp. Đến 19
tháng 11, năm 1952, có sửa đổi một hai điều lệ liên quan đến Bộ thể thao và thanh niên với chữ ký của Vũ Hồng Khanh, bộ trưởng thanh niên và
thể thao cùng với chử ký của bộ trưởng Ngô Thúc Định và chữ ký của Bảo Đại năm 1952. Lần này Bảo Đại ký ở Sài Gòn. Đến ngày 3 tháng tư, 1954 một lần nữa lại có sự sửa đổi và lần này có chữ ký của thủ tướng Bửu Lộc
và vua Bảo Đại tại Đà Lạt.”
Đúng
là Dụ số 24 ngày 19-11-1952
sửa đổi Dụ số 10
liên hệ đến
quy chế các
hiệp hội thanh niên và thể thao, nhưng Dụ số 6 ngày 3-4-1954 bổ túc Dụ số 10 mới đáng
quan tâm, theo đó điều thứ nhất của Dụ nầy ghi rằng:
Điều
thứ 11 của Dụ số 10 ngày mồng 6 tháng tám dương lịch năm 1950 ấn định quy chế các hiệp hội được bổ túc như sau đây: “Các giới thẩm quyền đã ban phép thành lập cho một hiệp hội có thể ra lệnh khai trừ một hay nhiều nhân viên trong ban quản trị hiệp hội ấy mà không cần phải cho biết vì lẽ gì. Hiệp hội nào bất tuân lệnh ấy phải bị giải tán do quyết định của giới thẩm quyền vừa kể ở khoản trên.”
Như
thế,
tu sĩ các hội
Phật giáo,
Cao Đài giáo,
Phật giáo Hòa Hảo nằm trong
quy chế nầy, có thể bị chính quyền khai trừ mà không cần
cho biết lý do, trong khi
tu sĩ các hội
Truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô không nằm trong
quy chế Dụ số 10,
thảnh thơi hoạt động và đương
nhiên không khi nào bị chính quyền có thể khai trừ gì cả. Như vậy, Dụ số 10 và Dụ số 24 bổ túc cho Dụ số 10, có
phân biệt đối xử giữa các
tôn giáo hay không? Cũng xin để cho người đọc
trả lời.
Dụ số 10 được
ban hành ngày 6-8-1950 và Dụ số 6 được
ban hành ngày 3-4-1954 dưới chế độ
Quốc Gia Việt Nam, do Bảo Đại làm quốc trưởng. Qua
thời chính phủ Ngô Đình Diệm, từ năm 1954 đến năm 1963, các dụ nầy không bị
bãi bỏ,
tiêu hủy. Điều đó có nghĩa là các dụ nầy đương nhiên vẫn còn
giá trị pháp lý. Vì vẫn còn
giá trị pháp lý nên Dụ số 10 và Dụ số 6 vẫn
ràng buộc các tổ chức
Phật giáo, Cào
Đài giáo và
Phật giáo Hòa Hảo theo các
quy định trong hai dụ nầy.
Sau
biến cố ngày 8-5-1963 tại Huế và nhất là sau khi
Thượng tọa Thích
Quảng Đức tự thiêu ngày 11-6-1963 tại Sài Gòn, mới diễn ra cuộc họp từ 14 đến 16-6-1963 giữa Uỷ ban Liên bộ của chính phủ Ngô Đình Diệm và Uỷ ban Liên phái
Phật giáo. Cuộc họp nầy đi đến bản thông
cáo chung được tổng thống Diệm duyệt ký và
công bố ngày 16-6-1963. Thông
cáo chung gồm
có 4 mục lớn là: 1) Quốc kỳ - đạo kỳ. 2) Dụ số 10. 3)
Vấn đề bắt bớ và
giam giữ
Phật giáo đồ. 4)
Tự do truyền giáo và
hành đạo.
Mục 2 của bản Thông
cáo chung,
liên hệ đến Dụ số 10, nguyên văn như sau:
“Tách
Hiệp hội có tính cách tôn giáo ra khỏi Dụ số 10 và lập một quy chế hợp với tính cách đặc biệt về nhu cầu sinh hoạt của những Hiệp hội tôn giáo ấy. Quy chế đó sẽ là một đạo luật do Quốc hội soạn thảo với sự tham khảo trực tiếp ý kiến của tôn giáo liên hệ. Quốc hội sẽ biểu quyết đạo luật nầy, chậm là cuối năm 1963 hoặc đầu năm 1964. Trong khi chờ đợi ban hành đạo luật mới, Uỷ ban Liên bộ đồng ý sẽ có những chỉ thị cần thiết để Dụ số 10 không áp dụng quá khắt khe đối với các Hội Phật giáo, Phật học. Phái đoàn Phật giáo cam kết chỉ thị cho các tăng ni chấp hành
nghiêm chỉnh luật pháp Quốc gia và thi hành mọi biện pháp kỷ luật nội bộ đối với những hành động lệch lạc.”
(
Minh Không Vũ Văn Mẫu,
Sáu tháng pháp nạn 1963, Paris:
Giao Điểm, 2003, tr. 282.) (Cuốn sách nầy cũng có đăng nguyên văn Dụ số 10.)
Nếu Uỷ ban Liên bộ chính phủ Ngô Đình Diệm không
nhận thấy sự bất công của Dụ số 10, sao Uỷ ban Liên bộ lại chịu:
“Tách
Hiệp hội có tính cách tôn giáo ra khỏi Dụ số 10 và lập một quy chế hợp với tính cách đặc biệt về nhu cầu sinh hoạt của những Hiệp hội tôn giáo ấy. Quy chế đó sẽ là một đạo luật do Quốc hội soạn thảo với sự tham khảo trực tiếp ý kiến của tôn giáo lien hệ. Quốc hội sẽ biểu quyết đạo luật nầy, chậm là cuối năm 1963 hoặc đầu năm 1964. Trong khi chờ đợi ban hành đạo luật mới, Uỷ ban Liên bộ đồng ý sẽ có những chỉ thị cần thiết để Dụ số 10 không áp dụng quá khắt khe đối với các Hội Phật giáo, Phật học.” Cần chú ý thêm là thông
cáo chung nầy đã được chính tổng
thống Ngô Đình Diệm duyệt ký, nghĩa là tổng thống Diệm cũng
chấp nhận rằng Dụ số 10 không còn
thích hợp và cần được
sửa đổi. Những người trong cuộc đã
nhận ra sự bất công của Dụ số 10 và chịu
sửa đổi Dụ số 10,
mà ông Nguyễn Văn Lục cứ
nhất định cho là chuyện đó không có. Thật là ‘bảo hoàng hơn vua’.
Ông Nguyễn Văn Lục còn đi
xa hơn khi ông viết:
“Đồng
hóa hội truyền giáo Thừa sai Ba Lê và giáo hội Việt Nam là một điều thiếu lẽ phải và ác ý. Và nếu có ai lưu tâm một chút là kể từ năm 1951 (chưa có Hội đồng giám mục VN) thì đã có một Thư chung, ký tên rõ ràng như sau: Hàng giáo phẩm công giáo Việt Nam. Việt Nam lấy lại quyền tự chủ và khai sinh nền đệ nhất cộng hòa, điều ấy một cách thầm lặng và tự nhiên đưa tới sự thay thế các thừa sai ngoại quốc trong vai trò lãnh đạo. Và vì thế, cũng sau 1954 thì các vị thừa sai Ba Lê tự rút lui và nhường chỗ cho hàng giáp phẩmViệt Nam cai quản các giáo phận, liên lạc trực tiếp với khâm sứ hay với Vatican…”
Sau đó, không hiểu vì
lý do gì, ông Nguyễn Văn Lục viết tiếp trong bài của ông một cách
chủ quan rằng:
“Đấy
là cái ẩn ý gán ghép của ông Trần Gia Phụng. Đồng hóa tất cả các Hội Truyền giáo Ki tô giáo đồng thời nói được hưởng quy chế đặc biệt mà thực
sự không có một văn bản pháp lý nào chứng tỏ có hưởng quy chế đặc biệt.”
Thưa
ông Nguyễn Văn Lục, ai
đồng hóa Hội Thừa Sai Ba Lê và
Giáo hội Việt Nam
thì tôi không cần biết, nhưng trong bài viết của tôi, tôi chỉ trình bày
sự bất công của Dụ số 10 và
tình hình giữa
Phật giáo và chính phủ Ngô Đình Diệm, chứ tôi
hoàn toàn không
đả động gì đến Ky-Tô giáo La Mã. Tôi
đã tách bạch
rõ ràng vấn đề tôn giáo trong phần “Sơ kết cuối tập 3”, tt. 415-442, sách
Việt sử đại cương tập 3 xuất bản năm 2007.
Vì vậy, tôi thấy không
cần thiết trả lời ông Nguyễn Văn Lục về việc nầy, dầu cách viết của ông Nguyễn Văn Lục chẳng những đầy “ẩn ý gán ghép”, mà còn
đầy
ác ý gán ghép.
Tôi chỉ
trả lời những
vấn đề trong bài viết của ông Nguyễn Văn Lục
liên hệ đến tôi. Còn những
vấn đề khác thì xin để
dư luận chung phê phán. Dầu sao, tôi cũng xin
cảm ơn ông Nguyễn Văn Lục đã chú ý đến bài viết của tôi và
quảng cáo sớm sách
Việt sử đại cương tập 6 của tôi sẽ xuất bản trong năm tới.
(phungtrangia@yahoo.com)(Nguồn: http://www.dcvonline.net/)