PHỤ LỤC
NHỮNG NGUỒN KINH ĐIỂN CHO CUỐN SÁCH NÀYNhững
vấn đề chúng ta đối diện là bây giờ và ở đây, nhưng rất thường
lời khuyên tốt nhất cho những khó khăn được truyền lại cho
chúng ta từ
quá khứ. Một trong những
ý định của tôi trong việc trích dẫn
rộng rãi những
vị thầy tâm linh vĩ đại
gần đây hay
thời xưa là hãy để những lời minh triết này nói một cách trực tiếp trong những
ngôn từ đẹp đẽ và truyền cảm của chúng.
Một
lý do khác là
xác nhận sự tiếp cận nền tảng của quyển sách này.
Kinh điển tràn ngập với những lời giảng về cách làm thế nào
tâm thức chúng ta có thể chữa lành
đau khổ. Tuy vậy, chỉ có
một phần nhỏ của những
kinh điển này có thể
thích hợp với những chương của một cuốn sách giống như sách này. Tôi nghĩ
độc giả có thể tò mò muốn thấy một số những bài tập chữa lành như khi chúng
xuất hiện trong
kinh điển. Phần
phụ lục này cũng trình bày những nguồn
kinh điển khác về tâm và những
cảm xúc.
CHỮA LÀNH QUA QUÁN TƯỞNGKinh điển hướng dẫn
chúng ta chữa lành tâm và thân bằng
niềm tin mạnh mẽ,
cầu nguyện nhiệt thành, và gợi lên những
hình ảnh tâm thức.
Bước đầu tiên là
nhận dạng được bệnh tật
tinh thần hay thể xác – cái mà những bản văn
Phật giáo ám chỉ như “đối tượng để phủ định.” Những
cảm xúc tiêu cực và bệnh mọc rễ trong sự
chấp ngã, nhưng trước khi
chúng ta làm bình lặng chúng,
cần thiết phải thấy chúng
rõ ràng. Như Ngài Shantideva nói :
Không có sự
nhận biết thực thể được
gán cho,
Bạn sẽ không
nhận ra sự không
hiện hữu của nó
(không có
tự tánh).
Vậy, trước khi
quán tưởng một
hình ảnh tích cực,
chúng ta cần phải hiểu được tâm và nguồn gốc của
phiền não. Như Ngài Zhabkarpa nói :
Nếu bạn không xác minh những
đặc tính thực tế của
tâm là gì,
Bất cứ việc
tu hành đức hạnh nào bạn
theo đuổi, sẽ không đụng đến điểm cốt yếu.
Cũng giống như có
mục tiêu ở gần bên
Nhưng lại bắn mũi tên đi xa mất.
Giống như có một tên trộm trong nhà bạn
Mà lại
nỗ lực tìm kiếm ở bên ngoài.
Nhiều bản văn khuyên
quán tưởng bệnh tật trong một dạng
dơ bẩn. Một khi
hình ảnh tiêu cực được gợi lên, nó có thể được tịnh hóa với những
năng lực chữa lành như
cam lồ và ánh sáng. Ngài Dri-me OŠzer
mô tả sự quán tưởng sau đây trong đó nguồn
sức mạnh là
đức Phật Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasattva)
hiện thân của
chân lý và
sức mạnh vô tận :
Hãy nghĩ rằng từ thân Phật những
tia sáng và những dòng
cam lồ xuống trong bạn. Những ngăn che
tối tăm của thân bạn được tịnh hóa... Thân bạn được
ban phước như thân
kim cương, thân của Phật. Với những
tia sáng và dòng
cam lồ từ ngữ Phật, những
nhiễm ô của
lời nói bạn được tịnh hóa... Ngữ của bạn được
ban phước như ngữ kim cương. Với những ánh sáng và
cam lồ từ tâm Phật, những ngăn che của tâm bạn được tịnh hóa... Tâm bạn được
ban phước thành tâm kim cương. Với ánh sáng và
cam lồ chảy xuống từ mọi phần của
đức Phật, những
nhiễm ô do bám chấp vào thân, ngữ, tâm như một
thực thể cá biệt (
bản ngã) được tịnh hóa... Bạn đã
tiếp nhận sự
ban phước trí huệ kim cương.
Trong một
nghi thức về chữa lành, Ngài Do Khyentse
giới thiệu một
quán tưởng chữa lành dùng khói, lửa, không khí, nước và
cam lồ :
Tay của vị bổn tôn (nguồn
sức mạnh) cầm một bình kho tàng
như ý,
Tỏa ra những
đám mây khói thơm ngát.
Nó thiêu cháy mọi
bất tịnh, khuyết điểm và
nhiễm ô của
chúng ta.
Từ lỗ mũi của vị bổn tôn phát ra không khí-trí huệ,
Thổi tung mọi
nhiễm ô, chán nản và
vẩn đục.
Từ miệng của bổn tôn, những
đám mây, sương
ban phướcVà một cơn mưa
cam lồ trí huệ đến
Rửa sạch mọi bệnh tật,
hậu quả độc hại,
nhiễm ô, mất hài hòa và không
toại ý của
chúng ta.
Cầu cho mọi
bất tịnh bị thiêu cháy bởi lửa
trí huệ.
Mong sao chúng bị thổi tiêu mất bởi lực mạnh mẽ của
không khí
Mong cho chúng được tịnh hóa bởi
cam lồ.
Ngài Tsewang Chokdrub, một
tác giả vĩ đại của kỹ thuật
thiền định ở thế kỷ mười tám, viết về sự
cần thiết chuẩn bị
tâm thức cho việc chữa lành –
đặc biệt qua sự tập trung khiến dẫn đến
tỉnh giác tĩnh lặng và
trong sáng.
Vậy, để
loại bỏ hôn trầm, bạn nên giữ và
hoàn toàn tập
trung tâm thức mạnh mẽ,
hoàn toàn và
nhất tâm tại trái tim. Để
loại bỏ sự lỏng lẻo, khích động hay sự
rối loạn của
tâm trí, bạn nên giữ và
hoàn toàn tập
trung tâm trí một cách mạnh mẽ,
hoàn toàn và
nhất tâm ở dưới rốn (
đan điền). Khi sự tập trung của bạn
trở thành nhất tâm và mạnh, sẽ không có sự
hôn trầm hay khích động trong
tâm thức.
Một trong những bài tập chữa lành
thực tế được do Ngài Tsewang Chokdrub đề nghị
liên quan đến việc
chúng ta tự quán tưởng mình như một vị Phật và tưởng tượng trong trái tim
chúng ta chủng tự HUNG,
đại diện cho
tâm giác ngộ của
đức Phật :
Để chữa lành những bệnh tật thân xác,
trước tiên quán tưởng và tự thấy bạn như vị bổn tôn.
Quán tưởng chữ HUNG màu xanh dương đậm có cỡ như hạt đậu tại luân xa tim. Nếu
tính chất bệnh tật của bạn là nóng,
quán tưởng chữ HUNG màu trắng có kích thước như một hạt đậu được phóng ra từ chữ HUNG màu xanh dương đậm, và bao bọc mọi phần của phần trên thân bạn, cuốn hút tất cả bệnh tật, giống như nam châm hút sắt, thoát ra khỏi đỉnh đầu và biến mất vào
không gian. Sau đó
thở ra. Nếu
tính chất bệnh tật của bạn là lạnh,
quán tưởng chữ HUNG
màu đỏ phóng ra từ chữ HUNG màu xanh dương đậm và bao bọc mọi phần dưới cơ thể bạn, thu hút tất cả bệnh tật
liên hệ đến lạnh và thoát ra từ “những cửa dưới” sau đó tan biến xuống sâu trong lòng đất. Nếu bạn bị đau ở một chỗ riêng biệt như cánh tay,
quán tưởng chữ HUNG màu đen tại chỗ đau. Nó thu hút mọi
đau đớn và thoát ra từ đầu những ngón tay hoặc từ đôi mắt của bạn và biến mất vào
không gian. Hình bên là Chữ HUNG
Tây Tạng)
Ngài Tsewang Chokdrub cũng
mô tả phương pháp hòa lẫn
tỉnh giác của
chúng ta thành một với
đau khổ. Ngài nói về sự hòa nhập vào Đại Ấn, một
thuật ngữ của
đạo Phật chỉ sự rộng mở, rỗng rang (
tánh không) :
Bất cứ bệnh tật nào bạn đang
kinh nghiệm hay từ bất cứ
nguyên nhân và
điều kiện nào bệnh tật khởi lên, tất cả những
đau khổ như bệnh tật và
đau đớn xảy đến với thân
huyễn hóa của bạn xảy ra vì chuỗi
vọng tưởng được tạo tác do không
nhận ra chân lý, rằng những
đau khổ được khởi lên chỉ vì
hành vi chấp ngã, rồi
theo sau là những lực lượng của
phiền não, tham và sân. Bấy giờ bạn cần phân tích
xa hơn. Nếu bạn nói : “Gốc rễ của tất cả
đau đớn và khổ sở này do sự
chấp ngã, và tôi sẽ
từ bỏ nó”, bấy giờ (cái gọi là) tự thân người
từ bỏ sẽ khởi lên như một sự
chấp ngã. Cách
đúng đắn của việc tự nguyện
từ bỏ sự
chấp ngã là như sau : Không có bất kỳ tạo
tác giả tạo nào, đối với bất cứ
đau đớn hay bệnh tật nào bạn đang
kinh nghiệm, hãy
tham thiền về sự hợp nhất hay
nhất thể của (người đang
kinh nghiệm)
mùi vị đau khổ và tự chính sự
đau khổ mà không có sự
chấp nhận (chính mình, người đang
kinh nghiệm nó) và không có sự khước từ (
đau khổ). Tập
trung tâm trí bạn một cách mạnh mẽ và
nhất tâm vào sự hợp nhất đó, nó là cái
nhất thể và rỗng rang
vô ngại, cả hai tự thân
đau khổ và
ý niệm về chính mình, người đang
kinh nghiệm đau khổ, đều tan biến
vào khoảng không của Đại Ấn mà không có bất kỳ sự
phân biệt nào của sự
chấp nhận bản ngã và khước từ
đau khổ. Điều này sẽ cắt đứt những
trói buộc vào
chấp ngã.
TỈNH GIÁC VỀ THÂN, TÂM VÀ HIỆN TƯỢNGTỉnh giác về những phẩm tính và
tính chất của
thân thể bạn, những cảm nhận, những
tư tưởng, và những
hiện tượng là
chủ đề trung tâm của những
thiền định Phật giáo phổ thông, như “Bốn Niệm Xứ” và “chỉ, quán”. Nó
duy trì tỉnh giác về mọi
tư tưởng và cảm nhận của
tâm thức, và mỗi sự
hiện diện thân xác và mỗi khoảnh khắc, một cách rộng mở, không có bất cứ khái niệm bám chấp hay
cảm xúc xung đột nào.
Tỉnh giác về những phẩm tính
tích cực và
hoan hỷ, và
bản tính rộng mở của thân, tâm và
vũ trụ là
con đường và
mục đích của “hai giai đoạn” (tức
giai đoạn phát triển và giai đoạn
thành tựu)
tu tập của
Phật giáo mật truyền.
THẤU HIỂU MỖI TẾ BÀO HAY NGUYÊN TỬ CỦA THÂN THỂ VÀ CỦA THẾ GIỚI LÀ NHỮNG PHẨM TÍNH CỦA PHẬTTrong
giáo lý mật truyền của
đạo Phật, bạn
tu tập sự thấu hiểu mọi khía cạnh của thân và tâm bạn và
vũ trụ như những phẩm tính và
trí huệ khác nhau của Phật. Ngay trong những
giáo lý phổ thông, chúng thấu hiểu mỗi nguyên tử như sự
biểu lộ vô tận và vô hạn của những
cõi Phật tịnh độ. Bhadracharya-pranidhana nói :
Mong sao tôi
chứng ngộ trong mỗi
vi trần (nguyên tử)
Sự phô bày
hoàn thiện của tất cả
cõi tịnh độ trong ba thời.
Cầu mong tôi được
đi vào cõi tịnh độ của chư Phật
(Của mỗi nguyên tử) của tất cả
mười phương.
HIỂU TÂMNgài Chandrakirti, một
triết gia Trung Quán vĩ đại của
đạo Phật ở thế kỷ thứ bảy viết :
Chúng sanh,
thoạt tiên chấp vào “ngã” như là “tôi” và
Rồi vào “các pháp” như là “của tôi”,
Quay tròn trong chu kỳ của cuộc sống
thế gian giống như một bánh xe dẫn nước.
Nhưng làm sao những
chúng sanh đau khổ là
chúng ta có thể tháo mở sự
chấp ngã ? Mặc dù
chúng ta có khuynh hướng nghĩ về những
kinh nghiệm là
tích cực hay
tiêu cực,
đặc tính tốt hay xấu của những
hoàn cảnh không thành
vấn đề hơn là
chúng ta thấy và
sử dụng chúng một cách khéo léo như thế nào. Trích dẫn Ngài Longchen Rabjam, Ngài Paltrušl Rinpoche hướng dẫn
chúng ta trong việc
sử dụng những
phương tiện thiện xảo để
chuyển hóa cuộc sống
chúng ta.
Đôi khi hãy nhìn vào
tính chất xuất hiện của những
hoàn cảnh hài hòa.
Bằng sự thấu hiểu chúng
như tự biểu hiện, chúng khởi lên như sự hỗ trợ cho những
kinh nghiệm tâm linh.
Đôi khi hãy nhìn vào những
xuất hiện của những
hoàn cảnh xấu.
Nó rất
hiệu quả để xua tan sự bám luyến vào những
vọng tưởng.
Đôi khi hãy nhìn vào bạn bè và những vị thầy ;
Nó cho bạn
cảm hứng để
rèn luyện bằng việc học được những tính tốt và xấu của họ.
Đôi khi hãy nhìn vào sự phô bày của những
điều kỳ diệu của bốn
nguyên tố trong
không gian.
Nó đem lại việc thấu hiểu sự tan biến của những
nỗ lực tâm thức vào trong
thật tánh của tâm.
Đôi lúc hãy nhìn vào
đặc tính của xứ sở, nơi ở và những
sở hữu của bạn ;
Thấy chúng
như ảo ảnh xua tan sự bám luyến của bạn vào những
hình tướng như huyễn ấy...
Tóm lại, hãy
đánh giá bản chất hoặc
tính cách của những
hiện tượng xuất hiện trong nhiều khả năng khác nhau ;
Nó hủy diệt sự bám luyến bị lừa dối của bạn với chúng như là có thật.
Phần lớn
chúng ta thấy sự
cô đơn như một
cảm xúc tiêu cực, nhưng những thiền giả có
kinh nghiệm đã biết rằng cảm nhận đó, trong một
tâm thức buông lỏng, có thể giúp
chúng ta giải quyết những
ý niệm khô cứng và đưa sâu vào
thiền định. Ngài Paltrušl Rinpoche viết :
Nếu bạn ở một nơi mà
cảm giác cô đơn (hoặc buồn bã,
thờ ơ hay trống không) xảy đến,
sự thể nhập
thiền định khởi lên trong
chúng ta. Như vị thánh Milarepa nói :
Trong những hang động của những thung lũng trống,
nơi không có người,
Không có
thời gian cho
cảm giác cô đơn ngưng dứt,
Không có
thời gian để tách rời khỏi
tâm thức sùng mộ
Với
Đạo sư (Guru) và chư Phật của ba thời.
Khi
chúng ta bắt đầu hiểu được tâm,
chúng ta thấy rằng nó không cần bám vào
hạnh phúc,
buồn phiền, hay bất cứ
hiện tượng nào khác thuộc
tâm thức hay bên ngoài. Trong
quan điểm đạo Phật, tất cả
hiện tượng chỉ là những
phản ảnh và
định danh của tâm. Ngài Mipham Rinpoche viết :
Vậy, tất cả đều là những trò phô bày huyễn thuật của tâm.
Nếu
giải thoát, đó là
sự giải thoát của tâm, và nếu bị
trói buộc, đó là sự
trói buộc của tâm.
Lìa khỏi
tâm không có
giải thoát cũng không có
trói buộc,
Không có
hạnh phúc cũng không
đau khổ và không có Phật cũng chẳng có
chúng sanh.
Ở mức độ cao nhất của
hiểu biết,
chúng ta tìm thấy an lạc trong
sự giải thoát khỏi bám chấp, và những
phiền não của
chúng ta rơi rụng. Bấy giờ máy quay đèn chiếu của những khát khao
thế gian sẽ dừng lại. Shantideva viết :
Khi bạn đã thấu hiểu
Rằng không có người
kinh nghiệm những cảm nhận và
Không có cảm nhận,
Làm sao sự khát khao của bạn (là kết quả của cảm nhận) không quay lưng bỏ đi ?
NHỮNG PHIỀN NÃOChính
thái độ nắm giữ của
chúng ta gây ra những
phiền não của
chúng ta. Theo
kinh điển sáu
phiền não gây
rắc rối đau đớn nhất là :
vô minh (si), sân, tham,
keo kiệt,
ganh tỵ và
kiêu mạn.
Sự
nhẫn nhục được lựa ra như một
đức hạnh hùng mạnh
đặc biệt. Nó là một
thái độ của việc hãy để như vậy, không khước từ hoặc bám chấp vào
hoàn cảnh hay
cảm xúc, mà để cho những
xuất hiện khởi lên rồi tan biến. Ngài Shantideva viết :
Không có gì xấu như thù hận
Và không có gì
công đức như
nhẫn nhục.
Bởi thế, bằng những
phương tiện khác nhau
Hãy dâng hiến đời bạn cho sự
thực hành nhẫn nhục.
Những bài giảng của
kinh điển về
thái độ đúng
nhận ra sự khó khăn của phần đông
chúng ta có là những
phiền não.
Kinh điển nói rằng, phải bắt đầu bằng cái gì dễ dàng. Vậy nếu có ai chui rúc trong bụi gai của sự
ganh tỵ, bước nhỏ
nhất trước tiên là nghĩ về một người nào đó kém
may mắn hơn
chúng ta và cầu mong
trước tiên cho họ được
thịnh vượng. Điều này có thể làm mềm đi
thói quen cứng như đá chỉ mong muốn
hạnh phúc cho mình và gieo trồng khả năng
cảm thấy hạnh phúc vì
vận may của những người khác.
Sự khuyên răn thường
hoàn toàn thực tiễn đời thường. Để nới lỏng sự
trói buộc của tính
ích kỷ, tự thân
đức Phật đã khuyên rằng người ta
trước tiên nên cho người khác một cái gì nhỏ, như rau chẳng hạn. Ngài Shantideva viết :
Đạo sư (
đức Phật) hướng dẫn người ta,
Vào lúc bắt đầu, nên cho những vật như rau.
Đã
rèn luyện dần dần, về sau,
Họ sẽ có thể cho ngay cả chính thịt của họ.
Đạo Phật tin vào sự
tái sanh, và thấy sự hào phóng tạo được nghiệp tốt có thể mang vào đời tương lai. Ngài
Long Thọ nói với
chúng ta rằng
tài sản mà
chúng ta không thể
cho hay hưởng thụ chỉ là nguồn gốc của
đau khổ :
Hưởng thụ
tài sản sẽ đem lại
hạnh phúc trong đời này.
Bố thí tài sản đem lại
hạnh phúc trong đời tương lai.
Tài sản bị hao phí do không được hưởng thụ hay không được
bố thíChỉ đem lại
đau khổ và không có
hạnh phúc.
Ngài Sakya Pandita, nhà
học giả vĩ đại nhất của
học phái Sakya của
đạo Phật Tây Tạng,
tuyên bố :
Sự
giàu có tốt nhất là sự
bố thí,
Hạnh phúc tốt nhất là
hạnh phúc của tâm.
Những
phiền não mạnh mẽ như
tham dục làm
chúng ta mắc bẫy trong
đau khổ.
Thèm khát và bám chấp dẫn
chúng ta ra xa khỏi
an bình thực sự của tâm. Để tháo mở những bám vướng của
chúng ta, là minh triết khi
tư duy một cách sâu sắc về
tính chất thoáng qua của mọi
xuất hiện. Ngài Ngagi Wangpo nói :
Sự
giàu có của cuộc sống này giống như mật của những
con ong.
Dù chúng gom góp mật, mật lại được hưởng thụ bởi các
loài khác.
Sự
tụ họp của
họ hàng và bạn bè giống như sự gặp gỡ của những khách trọ,
Dù có ở cùng nhau, họ sẽ ra đi trên những
con đường riêng lẻ.
Đời sống là
vô thường giống như
hạt sương trên đầu ngọn cỏ.
Dù
chúng ta ở đây, sự biến mất của
chúng ta sẽ sớm đến.
Thần chết như những mật thám,
Ngày đêm chờ trông cơ hội để bắt
chúng ta.
Những
hiện tượng của cuộc sống này cũng như người sắp tỉnh khỏi một
giấc mộng :
Chúng là tạm thời và thoáng qua, rồi
chúng ta sẽ ra đi,
rời bỏ tất cả chúng.
Những nghiệp của
luật nhân quả, giống như cái bóng của
chúng ta,
Sẽ luôn luôn
theo sau chúng ta không bao giờ cách hở.
Thế nên, người có
tâm trí sáng suốtĐi theo con đường giải thoát ngay từ ngày hôm nay.
Udanavarga nói :
Nếu bạn muốn có tất cả
hạnh phúc,
Hãy
từ bỏ tất cả những
tham dục.
Bằng sự
từ bỏ tất cả những
tham dục,
Bạn sẽ hưởng thụ
hạnh phúc tối thượng.
Chừng nào bạn còn
bám víu vào những đối tượng
tham muốn,
Sẽ không có sự
thỏa mãn nào đến với bạn.
Vậy, bất cứ ai, nhờ
trí huệ, nhịn được
tham dục,
Sẽ hưởng thụ được sự
hài lòng.
Về tất cả những
cảm xúc đau khổ,
vô minh (si) là cái độc chủ yếu. Say mê với những đấu tranh của mình,
chúng ta khó nhìn thấy
thế gian vô thường và khổ đau này là cái gì, khó
chứng ngộ thật tánh của
chúng ta và sự rỗng rang vĩ đại của mọi
hình tướng.
Trí huệ nằm trong bất cứ những bước nhỏ nào mà
chúng ta có thể làm trong việc
thoát khỏi sự
chấp ngã. Ngài Shantideva nói :
Vậy, bất cứ ai muốn làm bình lặng những khổ đau
Nên phát triển
trí huệ.
Kinh Dharmapada (
Pháp cú) nói :
Khi bạn
chứng ngộ với
trí huệ của bạn
Rằng mọi
hiện tượng hiện hữu đều
vô ngã (
vô tự tánh),
Bạn sẽ không
bị thương tổn bởi
đau khổ.
Đây là
con đường hoàn thiện.
THUẬT NGỮAH : Theo
kinh điển Đại thừa AH là nguồn gốc của mọi
âm thanh,
diễn tả và
chữ viết ; nó không sanh, không tạo, không do
cấu tạo, là sự rộng mở rỗng rang,
thanh tịnh và
tự nhiên. Nó không
truyền đạt bất cứ những
diễn tả ý niệm nào, nhưng nó
biểu lộ bản tánh bổn nguyên của
nhất thể,
tánh không.
ánh sáng : Những ánh sáng thông thường như
ánh sáng ban ngày được đặc trưng như là khía cạnh
thanh tịnh của những
nguyên tố thô. Ngài Natsok Rangtrol viết : “Khía cạnh
thanh tịnh của những
nguyên tố thô như ánh sáng và
tia sáng mặt trời, và
tia sáng của
pha lê.”
ánh sáng
tuyệt đối : Theo Ngài Longchenpa
năm uẩn của
thân tâm của
quan niệm thế gian chính là năm thân Phật trong
Phật tánh. Năm
cảm xúc phiền não là
năm trí huệ bổn nguyên, và năm
nguyên tố vật chất (năm đại) là năm ánh sáng
thanh tịnh... Trong
Phật tánh chúng hiện diện trong
bản tánh của
nhất thể hay sự hợp nhất,
an bình và
hoan hỷ, nhưng trong
tâm thức trần tục, tâm và những đối tượng của nó được
tri giác, chấp giữ và
kinh nghiệm như là
năm uẩn thân tâm, năm
cảm xúc phiền não, năm
nguyên tố vật chất... theo một kiểu
nhị nguyên cảm xúc và
đau khổ.
bardo : Theo
đạo Phật, sau khi bạn chết sẽ là giai đoạn bardo, là một giai đoạn chuyển tiếp ; sau đó bạn sẽ
tái sanh vào một cuộc sống khác. Trong bardo nếu được trang bị, bạn có thể
chứng ngộ bản tánh tối hậu và tất cả những
hình tướng xuất hiện có thể khởi lên như là
nhất thể.
bản tánh chân thật (
Thật tánh) : Còn được gọi là
Phật tánh,
bản tánh tối hậu,
chân lý tuyệt đối, tánh
giác ngộ hay
Tâm Phật.
Chân ngôn của Đức
Liên Hoa SanhOM :
Chủng tử tự của Thân Phật
AH :
Chủng tử tự của Khẩu Phật
HUM :
Chủng tử tự của
Tâm PhậtVAJRA :
Kim cương (cứng chắc),
Pháp Thân (
Bản tánh tuyệt đối của Phật)
GURU :
Đạo sư (sự
phong phú),
Báo Thân (Tướng
thanh tịnh của Phật)
PADMA :
Hoa sen (sự
thanh tịnh),
Hóa Thân (thân Phật người
bình thường thấy được)
SIDDHI :
Thành tựu,
đạt được những kết quả chung và không chung
HUM : Xin
ban cho ; Mong rằng
Chân ngôn của
Đức Phật Đại Bi : Trong những kinh văn
Phật giáo,
chân ngôn chỉ có sáu chữ, nhưng trong phần lớn những kinh văn được phát hiện (Terma) lại có bảy chữ, thêm HRI là
chủng tự tâm của đức
Quán Thế Âm. Trong
chân ngôn này HRI là
chủng tự tâm của Phật được
cầu khẩn và sáu
chủng tự khác là
phương tiện để
cầu khẩn nó.
OM : A + O + M = OM ;
biểu tượng thân, ngữ và tâm của chư Phật, do đức
Quán Thế Âm hiện thân.
MANI : Ngọc quý ;
biểu tượng cho sự
thỏa mãn những
ước nguyện, những
phương tiện thiện xảo.
PADME :
Hoa sen ;
biểu tượng cho sự
thanh tịnh không
nhiễm ô, cho
trí huệ.
Tu tập những
phương tiện thiện xảo và
trí huệ là
con đường tâm linh của
đạo Phật và sự
toàn thiện của chúng là
phương tiện thiện xảo và
trí huệ của
Phật tánh.
HUNG : Sự hợp nhất, sự
cầu khẩn, hay việc hợp nhất. Nó
tượng trưng cho sự hợp nhất giữa
trí huệ và
phương tiện thiện xảo. Nó
cầu khẩn chư Phật
ban cho trí huệ,
phương tiện thiện xảo và tất cả sự
gia hộ ban phước.
Lần lượt HUNG hợp
nhất thân, ngữ và tâm của người ta làm một không thể tách rời với (Thân, Ngữ và Tâm của) Phật.
HRI :
Chủng tự tâm,
đại diện cho
tinh túy tâm của
đức Phật Đại Bi để
cầu khẩn và được hợp nhất.
Nghĩa
đơn giản : “Ôi !
Đức Phật, Ngài nắm giữ ngọc báu và
hoa sen (
đại bi và
trí huệ), mong Ngài
ban phước gia hộ cho con.”
chấp ngã :
Ý niệm nhận thức về chính mình (“tôi” và “của tôi”) hay về người khác hoặc sự vật (“ông ấy”, “bà ấy” hay “này”, “kia”, “đây”, “đó”) như thể chúng thật sự
hiện hữu.
cõi giới tối hậu (
Pháp giới) : Ngài Shakya Chokden viết : “Cõi giới
tối hậu (
không gian tối hậu) là
trí huệ của Phật tỏa khắp, thấm khắp nền tảng,
con đường và quả.” Ngài viết rằng
pháp giới cũng có thể
giải thích theo ba bối cảnh : “Trong bối cảnh của nền tảng, tức là
luân hồi, thì
pháp giới hiện diện như
bản tánh tuyệt đối và
thanh tịnh. Trong bối cảnh
con đường, trong các bậc thánh hay
chứng đắc cao của
Đại thừa, nó
hiện diện như
phương tiện chứng ngộ (hay phát triển) của
Pháp thân với hai sự
thanh tịnh (
thanh tịnh khỏi những
nhiễm ô đột nhiên sanh khởi và
thanh tịnh trong
thật tánh của nó từ
vô thủy). Trong bối cảnh của kết quả,
Địa vị Phật, nó
hiện diện như
ba thân Phật và những
hoạt động Phật tự nhiên
thành tựu.
kim cương (vajra) :
Biểu tượng cho phẩm tính cứng rắn,
kiên cố bất hoại và không thay đổi. Giống như thập tự giá trong
đạo Cơ Đốc,
kim cương là biểu hiện của
đạo Phật mật truyền.
Kim cương cũng giống như một vương trượng, một
pháp khí được bổn tôn cầm hay được
sử dụng trong những
buổi lễ,
tượng trưng cho
sức mạnh nam tính.
mantra (
chân ngôn) : Chữ hay nhóm từ hoặc nhiều nhóm từ
bí mật đầy
năng lực bằng tiếng Phạn,
hiện thân bản tánh tuyệt đối của
âm thanh,
ngôn ngữ,
diễn tả và
sức mạnh. Nó cũng là sự biểu hiện hoặc
diễn tả trí huệ tinh hoa và
năng lực của một bổn tôn, một vị Phật. Với
hành giả, nó có thể được
tụng niệm như một
thiền định,
cầu nguyện hay
phương tiện diễn đạt tâm linh hoặc hành động.
năm màu : Mỗi một màu có
sức mạnh chữa lành riêng. Ngài Kunkhyen Longchenpa viết : “Khi
trí huệ (
thật tánh) biểu hiện sự
bất biến, ánh sáng của nó
xuất hiện như màu xanh lá cây. Khi
trí huệ biểu hiện
thanh tịnh, ánh sáng của nó
xuất hiện là màu trắng. Khi
trí huệ hiện thân những phẩm tánh, ánh sáng của nó
xuất hiện là màu đỏ. Khi
trí huệ thành tựu tất cả bốn hành động, ánh sáng
xuất hiện là màu xanh dương.
Ngài viết : Ngài Rang Shar
giải thích : “Ánh sáng màu trắng là (ánh sáng của hành động hay
năng lực) của sự
an bình ; ánh sáng màu vàng là sự phát triển ; ánh sáng đỏ là
sức mạnh (khiến tất cả được
kiểm soát) ; ánh sáng xanh lá cây là lực (
giải thoát khỏi
tiêu cực) và ánh sáng xanh dương là sự
thành tựu của tất cả (bốn) hành động.”
những thân Phật : Những
phương tiện khác nhau của Phật. Phần lớn những
giáo lý giới thiệu ba thân Phật. Thân
tối hậu (
Pháp thân) là
tánh Không toàn thể hay khía cạnh rỗng rang của
Phật tánh. Thân hưởng thụ (
Báo thân) là
hình tướng chân thật hay
thanh tịnh của Phật. Trong đây, tất cả mọi
hình tướng của chư Phật và những
hình tướng hiện tượng của
cõi tịnh độ là
bất biến và không thể tách rời khỏi chính
Phật tánh. Thân
biểu lộ (
Hóa thân) không phải là thân thực sự hay
thanh tịnh của Phật. Nó là một dạng biểu hiện cho
chúng sanh bình thường để
phục vụ cho những nhu cầu và
tri giác của họ.
terma : Những
giáo lý và những đồ vật được
tìm thấy nhờ
năng lực của
giác ngộ.
tịnh độ : Những tướng chư Phật và những biểu hiện của vùng đất mà chư Phật an trụ. Trong
Phật tánh không có những
phân biệt chủ và khách. Tất cả đều
hiện diện trong
trạng thái nhất thể, như
trí huệ và
sức mạnh của
trí huệ với
an bình, niềm vui và
đẹp đẽ. Từ này có thể dịch là
cõi Phật hoặc đất Phật.
thân ánh sáng : Nhiều
Đạo sư Thành tựu của
Đại Toàn Thiện (Dzogchen)
Tây Tạng vào lúc chết
đạt được “Thân ánh sáng” hay “Thân cầu vồng” (jalu), họ
chuyển hóa thân
sanh tử thành thân ánh sáng
thanh tịnh, và chỉ để lại tóc và móng chân, tay. Một số
đạt được “thân ánh sáng
thanh tịnh của đại chuyển di” (jalu phowa chenpo), trong đó họ
chuyển hóa thân thể thô nặng
thành thân thể ánh sáng
thanh tịnh, không để lại dấu vết
vật chất gì.
thở theo OM AH HUNG : OM là
sức mạnh bất biến và vẻ đẹp của
thật tánh mà
chúng ta đều
sở hữu, thân Phật. AH là sự
diễn tả bất tận và là
năng lực thịnh hành của
thực tại, ngữ Phật. HUNG là sự
toàn thiện bất động của sự rỗng rang bổn nguyên của
thực tại,
tâm Phật. Cũng có những
thực hành như
thở ra chữ OM và
hít vào chữ HUNG và giữ
hơi thở lại với chữ AH hay
thở ra với OM,
thở vào với AH và giữ hơi với HUNG.
thực hành phương pháp thở
bí truyền : Trong
Phật giáo Tây Tạng có nhiều cách
rèn luyện bí truyền về
năng lực hay khí như sự
rèn luyện Lung (rlung) hay Tsalung (rtsa rlung). Chúng
sử dụng năng lực của cơ thể như một
phương tiện đầy
sức mạnh để phát sinh
năng lực, nó lại đem đến sự
chứng ngộ về sự hợp nhất của
đại lạc và rỗng rang (
tánh Không),
chân lý tối hậu. Kết quả,
hành giả mật truyền sống với
nội nhiệt mà không cần quần áo để giữ ấm, bay trong bầu trời như chim muông ; tự nuôi sống bằng
năng lực thay vì phải dùng
thực phẩm thô và hưởng thụ sự tươi trẻ và
trường thọ.
Ngoài ra, một trong những cách tốt nhất để neo buộc lại những
năng lực và tâm bạn là
chú tâm vào điểm ở dưới rốn (
đan điền). Những
giải thích về cách
rèn luyện này nên đọc ở những sách khác.
tư thế
hoa sen : Đây là một tư thế
thiền định phổ thông nhất ở phương Đông : (1) ngồi theo thế
kiết già (
hoa sen), (2) đặt tay trong lòng theo tư thế
thiền định, (3) giữ xương sống thẳng, (4) hơi cúi đầu xuống, (5) cánh tay hơi đưa ra giống hai cái cánh hay cái ách, (6) hạ thấp tầm mắt tập trung
trước mặt khoảng một đến hai thước ngang tầm đầu mũi, và (7) đặt đầu lưỡi đụng vòm họng.
tsa ba và grang ba : Theo y học
Tây Tạng, mọi bệnh tật của
thân thể đều
liên hệ đến tsa ba (nóng) hay grang ba (lạnh). Phần trên cơ thể là
trung tâm của tsa ba và phần dưới là
trung tâm grang ba.