Lời khai thị cho Trisong Deutsen
Emaho !
Đạo sư Padmasambhava được vua Trisong Deutsen mời để
thuần hóa địa điểm và
xây dựng chùa Samye, có tên là Sự
Thành Tựu Toàn Thiện Tự Nhiên Rạng Rỡ của Những Nguyện Vọng
Vô Biên. Về sau, khi xong lễ tôn phong, vua mời
đạo sư, người mặc một
áo choàng thêu màu nâu đậm, ngồi trên một ngai trải đệm lụa trong một căn phòng
trung tâm trên lầu. Vua dâng cho
đạo sư rượu vang làm từ gạo, và đặt những cốc đầy vàng và bạc ở hai bên tay ngài. Nhà vua dâng cúng một số đồ vật và đặt trên một dĩa
mạn đà la bằng vàng một số hoa bằng
bảy báu. Vua cởi ra từ cổ mình một món đồ trang sức lam ngọc tên là Maru
Rực Rỡ và đặt lên như là
tượng trưng cho
mặt trời, và một món đồ khác có tên là Kenru Kongchok như là
tượng trưng của
mặt trăng. Vua gom các thứ
quý báu khác thêm vào trên dĩa vàng để
tượng trưng cho
núi Tu Di và bốn châu lục, và dâng cho bậc
đạo sư với lời
tán thán :
Không
dựa vào cha mẹ,
hóa thân của ngài
xuất hiện trong một
hoa sen,
Nó
hiện hữu để
ảnh hưởng lên
chúng sanh như là
thân Kim Cang cắt đứt dòng
sanh tử.
Từ sự vô hạn của
chứng ngộ, ngài
phát lộ Tâm Phật cho người xứng đáng.
Thiện xảo hóa độ với nhiều
phương tiện, ngài
trói buộc các vị thần
kiêu căng và quỷ dữ dưới lời
tuyên thệ.
Với
hoạt động toàn hảo của
ba thân,
hóa thân ngài
vượt quá hóa thân của tất cả Phật.
Tôi xin
đảnh lễ hình tướng hoa sen của
Kim Cương Toštreng và ngợi ca ngài với lòng sùng mộ.
Dù ngài không đắm trước khi hưởng thọ
năm dụcNgài
từ bi chấp nhận chúng để cho mọi
chúng sanh có thể tạo ra
phước đức.
Xin hãy
đoái tưởng đến con khi con
cầu xin ngài
ban cho ý nghĩa sâu xa tối thượng !
Đạo sư trả lời : “Thưa ngài, ngài yêu thích
hình tướng hiện thời của tôi ?” Nhà vua
trả lời : “Vâng, thưa thầy.” Và
tiếp tục :
Giải thoát khỏi
bệnh hoạn của
bốn đại,
siêu việt cả sanh và tử
Ngài
sở hữu đại bi siêu xuất để làm việc vì
lợi lạc của
chúng sanhTâm ngài
thường trụ như tự tánh của
pháp giới tánh ;
Vâng, tôi yêu thích
hình tướng của ngài, bậc
bảo hộ cho
chúng sanh !
Thế rồi
đạo sư nói :
Ngài hãy biết rằng vị Thầy thì quan trọng hơn
Cả ngàn vị Phật của kiếp này.
Tại sao thế ? Bởi vì tất cả Phật của kiếp này
Đều
xuất hiện sau khi đã theo một vị Thầy.
Trước khi có một vị Thầy
Thì danh từ “chư Phật” chưa
hiện hữu.
Cũng có nói rằng :
Vị Thầy là Phật, vị Thầy là Pháp
Cũng thế vị Thầy là Tăng ;
Như thế vị Thầy là gốc của
Tam Bảo.
Hãy bỏ qua một bên mọi
phụng thờ khác,
Mà
chuyên cần phụng sự Thầy của ngài.
Tùy hỷ Người, ngài sẽ nhận được mọi
chứng đắc ngài mong muốn.
Rồi nhà vua thưa hỏi Padmasambhava : Thưa
đại sư, khi
cố gắng thành tựu quả là
Phật tánh, từ nhân là một
chúng sanh hữu tình, trước hết cái thấy của sự
chứng ngộ là cực kỳ quan trọng. Có được “cái thấy của sự chứng ngộ” có nghĩa là gì ?
Đức thầy
trả lời : Tột đỉnh của mọi cái thấy (kiến) là
tinh túy Bồ đề tâm của
tâm giác ngộ. Tất cả hàng tỷ
vũ trụ, tất cả
Như Lai mười phương, và mọi
chúng sanh trong
ba cõi đều cùng một
bản tính, bao hàm trong
tinh túy Bồ đề tâm giác ngộ này. ‘Tâm’ ở đây nghĩa là sự đa dạng khởi từ cái
vô sanh,
vô tác.
Vâng, ngài có thể hỏi rằng ‘Đâu là sự khác biệt giữa chư Phật và các
chúng sanh ?’ Đó không gì khác hơn là
tâm giác ngộ hay không
giác ngộ.
Bản chất của
trạng thái giác ngộ của một vị Phật
thường hằng hiện diện trong ngài, nhưng ngài lại không
nhận ra nó. Không
nhận biết tự tâm, các
chúng sanh luân lạc vào
sáu đường sanh tử. Rồi ngài có thể hỏi : “Thế nào là
con đường chứng ngộ tự tâm ?” Điều ấy đã được dạy rằng, ngài cần lời dạy miệng của một vị thầy.
Về mặt này, ‘tâm’ là cái
suy nghĩ và
nhận biết ; thật vậy, có cái gì đó đang
kinh nghiệm. Chớ tìm tâm này ở bên ngoài, hãy nhìn vào trong ! Hãy để cho tâm
tìm kiếm chính nó ! Hãy xác chứng
bản tính của tâm là thế nào !
Trước tiên, từ đâu tâm
sanh khởi ? Ngay giờ đây, nó dừng ở đâu ?
Cuối cùng, hãy nhìn nó đi đâu ? Khi tâm ngài nhìn vào chính nó, nó thấy rằng không có chỗ nào từ đó nó khởi sanh, dừng trụ hay đi mất. Không có sự
giải thích nào về ‘nó là như thế nào’. Tâm được
khám phá là chẳng phải cái gì ở ngoài hay ở trong. Nó không có ai đang nhìn ; nó không phải là hành động nhìn. Nó được
chứng nghiệm như là một
trạng thái tỉnh giác bổn
nguyên không có
trung tâm cũng không có chu vi, một sự biến mãn
bao la trống không và
tự do một cách
nguyên thủy. Sự
tỉnh giác bổn nguyên này là vốn sẵn và tự hữu. Nó không phải được tạo ra lúc bây giờ, mà vốn sẵn
hiện diện trong chính ngài từ
vô thủy. Hãy xác quyết rằng cái thấy chính là
nhận ra xác thực Cái Ấy ! ‘Có được niềm tin’ vào điều này có nghĩa là
nhận biết rằng cũng giống như
hư không, tâm vốn
hiện hữu sẵn đủ từ
vô thủy. Như
mặt trời, nó
giải thoát khỏi bất kỳ
căn bản vô minh tối ám nào. Như
hoa sen, nó chẳng
nhiễm ô bởi nghiệp tội. Như
vàng ròng, nó không
biến hoại bản chất. Như
đại dương, nó
bất động. Như một dòng sông, nó không ngừng dứt. Như
núi Tu Di, nó không đổi thay. Một khi ngài
nhận biết (
chứng ngộ)
bản tánh chân thực của nó (và làm
vững vàng nó), điều ấy gọi là ‘có được cái thấy của sự chứng ngộ’.
Nhà vua hỏi : ‘Có được
kinh nghiệm về thiền định’ là thế nào ?
Đức thầy
trả lời : Nghe đây, thưa Bệ hạ ! ‘Có được
kinh nghiệm về thiền định’ nghĩa là buông thả cho tâm ngài không thi thiết, không suy bại và tươi mới. Hãy
để tâm ngài an nghỉ trong
trạng thái tự nhiên, không
câu thúc và
tự do. Bằng cách không
trụ tâm vào cái gì bên ngoài cũng không tập trung bên trong, ngài ở nơi
sự giải thoát khỏi mọi tiêu điểm. Trong
trạng thái an định vĩ đại này của
tự tánh, hãy để cho tâm ngài dừng nghỉ không động lay, cũng như ngọn lửa của một
ngọn đèn sáp không chao động bởi gió.
Trong
trạng thái này, các
kinh nghiệm có thể xảy ra :
tâm thức ngài có thể trở nên
tràn trề,
sáng tỏ hay dừng lại ; lạc phúc, sáng rỡ hay
thoát khỏi tư tưởng ; nó có thể
cảm thấy mờ tối, không có điểm quy chiếu, và không
hòa hợp với các cách thế của
thế giới này. Nếu các
kinh nghiệm này xảy ra, chớ cho chúng một mối quan trọng
đặc biệt nào, vì chúng chỉ là những
kinh nghiệm thoáng qua,
nhất thời. Chớ
trụ trước gì vào chúng ! Đó gọi là ‘có được
kinh nghiệm về thiền định’.
Nhà vua hỏi : Có được hạnh ‘vị bình đẳng’ là nghĩa thế nào ?
Đức thầy
trả lời : ‘Hạnh’ ở đây nghĩa là không
gián đoạn trong
thiền định ; không tán thất tâm, dầu cho là không có cái gì để
thiền định về cả. Như dòng chảy không ngừng của một con sông, ngài nhớ (niệm) luôn luôn qua mọi tình huống, đi, đứng, nằm, ngồi. ‘Vị bình đẳng’ nghĩa là ôm trùm lấy cái gì ngài thấy, hay cái gì
cảm thọ của năm
giác quan xảy đến, với sự
nhận biết rõ ràng về
tự tánh ngài, vốn
giải thoát mọi kết dính hay bám níu. Chớ nhận hay bỏ bất cứ điều gì, giống như đến một hòn đảo toàn vàng quý. Đây gọi là “có được hạnh ‘vị bình đẳng’.”
Nhà vua lại hỏi : “Cái gì làm cho người ta
vượt qua hẻm núi nguy hiểm của động niệm ?”
Đức thầy
trả lời : Khi
tư tưởng ý niệm xảy ra
đang lúc thiền định, bất kỳ cái gì
sanh khởi đều là
từ tâm của chính mình. Bởi vì
tâm không có
tự tánh, nên
tư tưởng chính nó cũng trống rỗng mọi
thực thể. Giống như một
đám mây nảy sanh giữa
không gian và biến mất
trở lại trong
không gian, niệm khởi trong tâm và lại tan biến trong tâm. Trong
bản chất,
tư tưởng ý niệm là
pháp tánh xưa nay.
‘Vượt qua hẻm núi nguy hiểm’ nghĩa là khi tâm động thành đủ thứ
tư tưởng, ngài nên hướng sự chú ý vào
chính tâm này. Như một tên trộm
đi vào một căn nhà trống, những
tư tưởng rỗng
không không chướng ngại gì cho một tâm trống rỗng. Đó gọi là ‘vượt qua hẻm núi hiểm nguy của động niệm’.
Nhà vua
hỏi đạo sư : Như thế nào người ta ‘có được sự
tin chắc không đổi của Quả ?’
Đức thầy
trả lời : Hãy nghe điều này, thưa Bệ hạ !
Tâm giác của
Bồ đề tâm không sanh ra từ
nguyên nhân nào cũng không
tiêu diệt bởi
hoàn cảnh nào. Nó không được tạo ra bởi chư
Phật trí huệ cũng không được sản xuất ra bởi các
chúng sanh thông thái. Nó vốn sẵn đủ,
hiện diện nơi ngài như là
sở hữu tự nhiên của ngài. Khi qua lời chỉ dạy của Thầy, ngài
nhận ra nó, từ đó tâm là
tổ tiên của chư Phật, cũng như sự
nhận ra một người mà ngài đã từng biết.
Tất cả chư Phật
ba đời đạt đến giác ngộ trong sự
tương tục thể hiện Cái Này sau khi
đạt đến sự
vững chắc an định, giống như một hoàng tử
lên ngôi vua.
Tỉnh giác với cái vốn
hiện diện từ
vô thủy,
thoát khỏi mọi
sợ hãi và
đe dọa, gọi là ‘có được sự
tin chắc bất biến của Quả’.
Nhà vua
hỏi đạo sư : Cái gì làm ngài ‘cắt đứt những
giới hạn của
lầm lạc và
lỗi lầm ?’
Đức Thầy
trả lời : Thưa ngài, có
hy vọng hay lo sợ là do lỗi không thấu hiểu,
hiện thực được cái thấy. Tâm
Bồ đề tánh Giác không
hy vọng có được
giác ngộ cũng không lo sợ rơi vào
trạng thái chúng sanh.
Bám nắm
ý niệm có người
tham thiền và có đối tượng
tham thiền là do lỗi không cắt đứt các phóng tưởng của tâm
nhân ngã.
Tự tánh pháp tánh của ngài,
tự do khỏi mọi tạo tác, không có đối tượng nào để
thiền định về, không có một ai đang
thiền định, hay bất kỳ loại
thiền định nào để trau dồi.
Nhận lấy hay chối bỏ là do lỗi không cắt đứt sự dính gắn và
trụ trước.
Bản tánh trống không và
tự do của
tâm không có cái gì để
thành tựu cho ngài bám nắm, cũng không có cái gì phải chối bỏ cho ngài có thể hiềm ghét. Nó không có tốt
cần phải nhận lấy cũng không có xấu để phải khước từ.
Bị bám dính vào các
sở hữu là do lỗi không hiểu
thực hành là thế nào.
Thực hành đối với mọi sự vật là
tự do khỏi mọi tiêu điểm và
trụ định, và hiểu rằng sự bám níu và
chấp trước đều không có nền tảng và gốc rễ.
Cô đọng mọi điều trên vào trong một câu : cái thấy là
thoát khỏi quan niệm phân biệt,(2)
thiền định là không trụ vào cái gì cả,
kinh nghiệm là
giải thoát khỏi sự hưởng nếm
mùi vị, và quả là vượt ngoài
chứng đắc. Chư Phật
ba đời đã không dạy, đang không dạy và sẽ không dạy điều gì khác hơn cái này. Đó gọi là ‘cắt đứt những
giới hạn của
lầm lạc và lỗi lầm’.
Nhà vua
hỏi đạo sư : ‘Xóa đi
lỗi lầm của tà kiến’ nghĩa là thế nào ?
Đức thầy
trả lời : Dầu cho ngài đã rõ biết tâm mình là Phật, chớ có
từ bỏ thầy mình ! Dầu cho ngài đã
chứng ngộ các
hình tướng đều là tâm, chớ ngưng nghỉ
công đức dầu hữu hạn và bị
lệ thuộc nhân duyên ! Dầu cho ngài không mong cầu
Phật tánh, hãy tôn vinh
Tam Bảo cao cả ! Dầu cho ngài không sợ
sanh tử, hãy không có ngay cả một hạnh xấu nhỏ nhất ! Dầu cho ngài
đạt được niềm tin bất biến vào
tự tánh mình, chớ xem nhẹ bất kỳ lời dạy
tâm linh nào ! Dầu cho ngài
kinh nghiệm những
tính chất của
đại định, những
tri giác cấp cao các thứ, hãy vất bỏ
kiêu căng và tự phụ. Dầu cho ngài đã
chứng nghiệm thấu suốt rằng
sanh tử và
Niết bàn là
bất nhị, chớ ngừng hưng vận
từ bi đối với mọi
chúng sanh !
Rồi nhà vua lại hỏi : ‘Đạt được sự xác tín’ có nghĩa là gì ?
Đức thầy
trả lời :
Đạt được xác tín rằng từ
vô thủy tự tâm ngài chính là tánh giác của
Phật tánh.
Đạt được xác tín rằng mọi
hiện tượng đều là trò tự bày hiện
huyễn hóa của tâm ngài.
Đạt được xác tín rằng Quả là đang
hiện diện trong ngài và không phải tìm ở đâu khác.
Đạt được xác tín rằng Thầy ngài là vị Phật trong
hình tướng con người.
Đạt được xác tín rằng
bản tánh của cái thấy (kiến) và
thiền định (thiền) là sự
chứng ngộ của chư Phật. Để
đạt được niềm tin như thế ngài phải
thực hành !(3)
Nhà vua lại hỏi : ‘Có được sự truyền dạy bằng miệng’ là như thế nào ?
Đức thầy
trả lời : Nhờ sự
ban ơn,
Phổ Hiền bày tỏ các lời
bí mật này vào tai của Vajrasattva. Vajrasattva rót chúng vào tai của Garab Dorje. Garab Dorje
giao phó chúng vào trong tâm của Shri Singha. Shri Singha ban chúng cho tôi, Padma-sambhava. Trisong Deutsen, hãy giữ chúng trong lõi của tâm ngài !(4)
Đạo sư dạy cho nhà vua : Thưa bệ hạ,
trừ phi ngài
chứng ngộ bản tánh vô sanh của
Pháp tánh, dù cho ngài được sanh ra trong
thân thể của một quân vương, thì
cuộc đời cũng qua đi như một cái bọt trong nước.
Trừ phi ngài
kinh nghiệm tự tánh bẩm sinh của
Pháp tánh vốn
siêu việt khỏi
tư tưởng, động niệm, ngài sẽ khổ đau khi vương quốc và
quyền lực thế gian của ngài, chúng cũng vô chất,
vô tự tánh như một cái cầu vồng, nhạt nhòa và tan biến.
Trừ phi ngài
kết bạn với người ấy, tánh Giác
tự tại, khi ngài bỏ đời này ngài sẽ không thể cắt đứt sự bám níu vào các hoàng hậu, người hầu và tôi tớ của mình, họ chỉ là những mối
quen biết phải bỏ lại trên cuộc
hành trình.
Trừ phi ngài quen dần với
trạng thái bản nhiên của cái thấy và
thiền định, ngài sẽ chạy vòng từ đời này sang đời khác, như trên vành của một bánh xe quay nước,
đi vào khi sanh và rời bỏ khi chết.
Trừ phi ngài
điều hành vương quốc ngài với
chân lý của hòa bình, các
luật lệ chặt chẽ cũng giống như một cây có nhựa độc sẽ hủy hoại chính nó.
Đại vương, tôi xin ngài hãy cai trị
tùy thuận với
chánh pháp !
Đạo sư lại dạy cho nhà vua : Thưa Bệ hạ, vào lúc
chấm dứt của
thời kỳ này,
con người khao khát các
giáo huấn tuyệt diệu, nhưng sẽ không
thực hiện chúng. Không theo lời dạy của Pháp, nhiều người sẽ
truyền bá rằng họ là những
hành giả. Vào thời ấy có nhiều kẻ khoe khoang mà ít người
thành tựu. Khi
Phật pháp ngừng dứt ở Trung Hoa,
Tây Tạng và
Mông Cổ, giống như một áo giáp ghép bằng các mảnh kim loại bị vỡ ra,
con người rất khó thuần phục. Vào thời ấy, các lời dạy này phải
giữ gìn cho
Phật pháp, nên ngài hãy niêm cất chúng như là một kho tàng Terma.
Thưa Bệ hạ,
trong đời chót của ngài, ngài sẽ gặp các lời dạy này và những người
bảo vệ Phật pháp. Rồi ngài sẽ ngưng dòng
tái sanh và đi đến cấp bậc của một vị vidyadhara, thế nên chớ
phổ biến chúng trong lúc này.
Hoan hỷ vô cùng, vua
thiết lập một lễ dâng cúng
mạn đà la bằng vàng và
lễ lạy đi nhiễu quanh vô số lần.
Dấu ấn niêm kho tàng.
Dấu ấn niêm
che dấu.
Dấu ấn niêm
giao phó.